Nắm giữ nhiều kỹ năng khó trong nghề chạm bạc, nghệ nhân Lư Dào Luồng, người xă Thái Học (huyện Nguyên B́nh, Cao Bằng) được những người Dao nơi đây ví như một “viên ngọc quư” c̣n sót lại. Suốt bao năm tháng âm thầm níu nghề, lăo nghệ nhân dù tuổi nay đă ngoại bát tuần nhưng vẫn đau đáu nỗi lo nghiệp chạm bạc sẽ thất truyền.
|
Thợ bạc Lư Ḱm Ơn |
Mê chạm bạc từ hồi niên thiếu
Dù nhận được sự chỉ dẫn tận t́nh của những người dân xă Thái Học nhưng phải sau nhiều giờ vất vả băng núi, vượt qua những con đường dốc lởm nhởm đá tai mèo chúng tôi mới t́m đến được nhà lăo nghệ nhân này.
Dù có tuổi đời đă ngoại bát tuần nhưng trông lăo nghệ nhân này vẫn rắn rỏi, quắc thước. Điều tôi đặc biệt ấn tượng chính là đôi mắt thăm thẳm sâu của ông. Nó như có sức cuốn hút lạ kỳ khiến người đối diện nổi tính ṭ ṃ, muốn khám phá.
Bên ấm trà nóng đượm cùng chén rượu ngô thơm nồng, ông Luồng bắt đầu kể cho chúng tôi nghe cơ duyên gắn ông với nghề chạm bạc. Dào Luồng mê nghề chạm bạc từ nhỏ. Những đường nét họa tiết trên các dây xà tích, ṿng cổ, lắc bạc luôn có một sức hấp dẫn kỳ lạ với ông. Những đồ trang sức lóng lánh ánh trắng đó luôn thôi thúc suy nghĩ sẽ tự tay làm ra chúng của Dào Luồng. Chính những ḍng suy nghĩ ngày ấy đă giúp ông đến gần hơn với nghề chạm khắc bạc.
Đi nhiều thành quen, làm nhiều thành thạo, nghe nhiều nên tinh, vậy mà quăng thời gian Lư Dào Luồng bươn trải để “học mót” nghề cũng kéo dài ṛng ră non 5 năm trời. Tham khảo nhiều thợ khắc bạc giỏi khắp vùng Cao Bằng, Lư Dào Luồng đă âm thầm tự tích lũy cho riêng ḿnh được nhiều bí quyết độc đáo về nghề. Nheo đôi mắt thẳm sâu như hồi tưởng lại ông nói: “học nghề này rất khó, mỗi thầy đều giỏi trong từng khâu đoạn riêng. Ḿnh học các cái giỏi của thầy để tự làm giỏi cho ḿnh…”.
Đối với các dân tộc vùng cao th́ bạc như một món đồ trang sức không thể thiếu đối với họ. Kiểu dáng, họa tiết trang trí trên đồ trang sức của các dân tộc như là Tày, Nùng, Dao, Mông, Sán Chỉ, Lô Lô…trên vùng đất Cao Bằng này lại có một nét khác biệt.
Thể hiện sự am hiểu của ḿnh Lư Dào Luồng chia sẻ: bạc được coi là vật làm đẹp cho phụ nữ, được dùng làm của hồi môn cho con gái khi theo về nhà chồng. Trong ngày cưới, riêng đối với con gái người Dao ít nhất sẽ phải có đủ một bộ trang sức bằng bạc, như: ṿng cổ, ṿng tay, xà tích, nhẫn...
Để làm xong trọn bộ trang sức này cực kỳ khó có khi mất hàng tháng trời miệt mài. Cũng bởi một phần họa tiết, kiểu dáng đồ trang sức rất cầu kỳ hơn nữa yêu cầu của người đặt hàng cũng rất cao. Chất bạc cấu thành sản phẩm phải thuần nhất. Bạc nguyên chất và không được lẫn tạp, h́nh khối, đường nét họa tiết rơ ràng.
Quy tŕnh chế tác công phu
Khác hẳn và có phần nổi trội hơn so với thủ pháp chế tác bạc của vùng miền khác ông Luồng cho biết: kỹ nghệ chạm bạc của người Dao luôn phải tuân thủ theo một quy tŕnh nghiêm ngặt, bắt đầu từ khâu chọn nguyên liệu, nhiên liệu cho đến khi ra sản phẩm. Mỗi sản phẩm làm ra phải thể hiện tay nghề, tính cách của người thợ. Riêng cá nhân ông Luồng cũng như những người ông truyền nghề đều phải nhất nhất tuân thủ theo một nguyên tắc bất thành văn là không chấp nhận những sản phẩm thiếu tính hoàn mỹ.
Kể thêm về các khâu đoạn chế tác bạc người con trai ông Luồng là Lư Ḱm Ơn, tuổi gần trọn 50, nay cũng đă thành danh trong nghề chạm khắc bạc góp lời: Nguyên liệu sử dụng để tạo thành phẩm thô chủ yếu từ bạc vụn (bạc trắng), bạc thỏi được mua về từ nhiều vùng miền của Cao Bằng như Thông Nông, Hà Quảng, Thạch An... với giá thị trường là trên 1 triệu đồng/lượng.
Có một “bí kíp” đặc biệt là tất cả các dụng cụ chạm bạc như bễ thổi, kéo cắt, ḱm vặn, búa đập, đục, bàn kéo sợi, đế gỗ, đe sắt, nồi đun... sẽ được chính tay người thợ chế tạo ra. Bởi thế sản phẩm làm ra từ mỗi thợ bạc sẽ có nét riêng đặc trưng, qua đó giúp phân biệt được tay nghề cao hay thấp.
Theo kinh nghiệm, để tránh cho bạc khỏi lẫn tạp chất và ít bị hao, ông Luồng luôn dùng nồi đun bạc bằng đất tự nặn. Nhiệt độ trong ḷ cũng đóng vai tṛ hết sức quan trọng nên bắt buộc người thợ bạc phải có kinh nghiệm “nh́n lửa” để điều chỉnh. Sau khi quan sát chất bạc đă đủ “chín”, người thợ sẽ đổ bạc vào những khuôn mẫu chuẩn bị sẵn.
Bất cứ một sản phẩm nào khi hoàn thành quy tŕnh chế tác cũng cần phải trải qua khâu đánh bóng cho đến khi bạc nổi màu trắng đặc trưng, tạo vẻ đẹp và sự hấp dẫn cho sản phẩm bạc. Riêng khâu đoạn này Lư Dào Luồng bật mí, để bạc trắng sáng ông luôn sử dụng một hỗn hợp chất của phèn chua. Hợp chất này được chính ông Luồng qua bao năm chế tác bạc đúc kết mà chế thành.
Thợ bạc Lư Ḱm Ơn chia sẻ “Tuỳ theo từng loại sản phẩm mà dùng các kỹ thuật khác nhau để chạm, như chạm ṿng cổ, chạm ṿng tay, hoa tai, chạm hoa bạc, cúc bạc. Đối với các sản phẩm có kích thước nhỏ, nhiều hoạ tiết hoa văn h́nh ch́m, h́nh nổi tinh xảo th́ càng đ̣i hỏi sự sáng tạo khéo léo và nhẫn nại của nguời thợ”,
Đau đáu nỗi lo thất truyền
Tuy là một nghề có truyền thống lâu đời nhưng hiện nay số người biết sử dụng thành thạo kỹ thuật chế tác trang sức bạc trong cộng đồng dân tộc Dao ở Cao bằng chỉ c̣n đếm trên đầu ngón tay. Có tuổi nghề gần trọn tuổi đời, Lư Dào Luồng đánh giá cái nghề ông đang cố giữ là một công việc rất kén người.
Đồng quan điểm này người “kế nghiệp” ông Luồng, Lư Ḱm Ơn bộc bạch: “Học nghề này rất khó, nếu nhanh trí cũng phải mất thời gian hơn 3 năm, b́nh thường là 5 năm mới xong. Gọi là học xong nhưng thực tế đấy mới chỉ là nắm được những kỹ thuật hết sức sơ đẳng. Bởi ngoài khả năng, kỹ năng cần thiết người thợ c̣n cần phải có tố chất của người nghệ sĩ, thể hiện sức sáng tạo của ḿnh trên các sản phẩm chế tác. Điều này sẽ dần tự hoàn thiện theo tuổi đời, tuổi nghề không thể thành công trong một sớm một chiều. Học nghề cần sự kiên tŕ nên hiện nay chẳng mấy người ham thích chạm bạc...”.
Mỗi một sản phẩm là cả sự đầu tư lớn về vốn cũng như công sức, v́ vậy mà dù thu nhập cao ngất (khoảng 3 triệu đồng/người/tháng) nhưng hiện tại theo t́m hiểu của chúng tôi, ngoài lăo nghệ nhân Lư Dào Luồng, người con trai Lư Ḱm Ơn và hai người cháu Dào Luồng đang túc trực học nghệ từ cha và ông ra th́ Thái Học không c̣n ai cố gắng “bám” theo nghề này nữa.
Nh́n người cha già trong ánh mắt tŕu mến, Lư Ḱm Ơn nói: “Cha tôi giờ tuổi đă cao, mắt cũng bắt đầu kém nh́n nên ko làm nghề này nữa. Chỉ khi nào nhớ nghề quá hoặc có đơn đặt hàng quan trọng th́ ông cụ mới ra làm để chỉ bảo thêm cho con cháu. Kiến thức về nghề của ông tôi đă học hàng chục năm mà vẫn chưa hết…”
Trong tâm thức của những người dân xă Thái Học, nghề chạm khắc bạc luôn có một vị trí nhất định trong đời sống tín ngưỡng của họ. Bởi những người chạm bạc không chỉ đơn thuần là làm nghề mà họ c̣n làm công việc lưu trữ nét đặc trưng văn hóa. Chẳng thế mà những nghệ nhân chạm khắc bạc như Lư Dào Luồng, Lư Ḱm Ơn khi tiếp xúc với họ chúng tôi đều thấy từ phía họ một sự am hiểu sâu sắc về các dân tộc, từ hoa văn trên ṿng bạc đến dáng điệu, cách ứng xử của mỗi dân tộc.
Hướng đôi mắt nh́n những rặng núi lẩn khuất ẩn hiện trong mây, Lư Dào Luồng thở dài. Ông cho biết, ông đă làm nghề này đến khi gần trọn tuổi về với đất, ông vui v́ ḿnh đang làm một công việc ư nghĩa nhưng cũng thật buồn khi thấy c̣n quá ít người đam mê chạm bạc.
“Mỗi khi thấy bà con không quản ngại đường xa, băng đèo, lội suối đến nhờ ḿnh làm. Dù cho đó chỉ là một chiếc ṿng tay hay cái lục lạc nhỏ đính trên đỉnh mũ, cái bụng khi ấy rất mừng v́ cái nghề được trân trọng…”, Lư Dào Luồng nói.
Giang Nam
.