Lâu nay một bộ phận trong dư luận hải ngoại thường cho rằng Đảng, Nhà nước, Chính phủ, những người lănh đạo CHXHCN Việt Nam, hoặc những bộ phận của Đảng và Nhà nước cộng sản là “hèn nhát” trước Trung Quốc mỗi khi Việt Nam làm cái này hoặc không làm cái kia, đặt nặng vấn đề này hoặc không đặt nặng vấn đề kia.
Tôi th́ chỉ nh́n vào vấn đề chính, cái cốt lơi nhất, đó là khi có xâm lược th́ Việt Nam sẵn sàng đánh xâm lược và khi giặc chưa xâm lược th́ Việt Nam đang tích cực bảo vệ chủ quyền bằng cách: Liên tục và thường xuyên tuyên bố khẳng định chủ quyền, phản đối Trung Quốc, và hiện đại hóa quân đội, nâng cao hệ thống pḥng thủ và tăng cường năng lực tác chiến pḥng thủ. Nghĩa là tất cả những ǵ liên quan đến chủ quyền th́ chúng ta đều đă và đang làm, bất kể điều này đối nghịch với lợi ích và những tuyên bố của phía Trung Quốc, bất kể những điều này có làm Trung Quốc phật ḷng hay không.
Từ thực tế khách quan trên, tôi cho rằng tất cả những hành động chính trị, quyết định chính trị của hệ thống chính trị Việt Nam đều có nguyên nhân của nó, và chắc chắn không thể xuất phát từ tinh thần hèn nhát. Cách đây không lâu, Việt Nam ngay cả cầm súng bắn Trung Quốc cũng đă làm th́ không phải là hèn, và ngày nay, Việt Nam đang làm tất cả v́ chủ quyền của ḿnh bất kể nó mâu thuẫn với lợi ích Trung Quốc, như vậy không phải là hèn. Một người th́ không thể vừa “hèn” vừa “không hèn”, cho nên khi đă xác định Việt Nam không hèn th́ nên có một niềm tin nhất định, đó là niềm tin thực tế, có căn cứ, chứ không phải niềm tin mù quáng, phi thực tế, vô căn cứ.
Từ sự hiểu rơ bản chất và niềm tin trên, mỗi khi tôi thấy Việt Nam nhường Trung Quốc điều ǵ, hay tỏ thái độ mềm dẻo ǵ th́ tôi hiểu rằng đó là những sách lược chính trị tạm thời và đều có nguyên nhân sâu xa của nó, thậm chí có những vấn đề chính trị bên trong mà chúng ta chưa biết hết. Những hành động đó có thể đúng, có thể sai, có thể chúng ta đồng ư với nó, có thể chúng ta không đồng ư với nó, nhưng chắc chắn nó không phải xuất phát từ tâm lư hèn hạ, hèn nhát.
Có rất nhiều nguyên nhân khiến quan hệ Việt – Trung là mối quan hệ nhạy cảm và Trung Quốc luôn là bóng ma ám ảnh cho chủ quyền Việt Nam và là mối đe dọa lớn nhất cho chủ quyền lănh thổ Việt Nam.
Có rất nhiều nguyên nhân v́ sao các lănh đạo Việt Nam coi đây là vấn đề nhạy cảm, và trong đó đều là những nguyên nhân khách quan với mong muốn trước hết là bảo vệ chủ quyền lănh thổ, sau là bảo vệ ḥa b́nh, tránh chiến tranh tàn phá đất nước, chiến sĩ hy sinh, đồng bào đổ máu, bao nhiều thành tựu từ Đổi mới, bao nhiêu nỗ lực xây dựng đất nước và hồi phục suy thoái kinh tế toàn cầu trở thành công cốc. Chứ trong đó không có cái ǵ là từ sự nhát, sợ Trung Quốc, hay hèn như một số người đă lầm tưởng.
Hiện Trung Quốc là quốc gia duy nhất trên thế giới có nguy cơ xảy ra chiến tranh với Việt Nam nhất. Do địa lư gần gũi thuận lợi, do có mâu thuẫn trực tiếp chủ quyền lănh thổ và những nguồn lợi kinh tế biển, trong đó có những nguồn dầu ở Biển Đông.
Trung Quốc chưa gây chiến, chưa xâm lược là v́ họ vẫn c̣n đang muốn giữ ḥa b́nh để tập trung phát triển kinh tế và đang chưa có cái cớ nào khả dĩ để mà có thể dùng làm chiêu bài chính trị. Khi phe hiếu chiến lên nắm quyền, th́ bất kỳ 1 chuyện nhỏ nào cũng có thể được dùng để khai thác, đào bới, khoét sâu, thổi phồng lên để h́nh thành 1 chiêu bài chính trị gây chiến.
Đừng tưởng sự dung dưỡng, thả lỏng đối với những chuyện nhỏ không thể tích tụ thành một chuyện lớn, tạo điều kiện cho Trung Quốc tuyên truyền thổi phồng, nâng cao quan điểm, leo thang mâu thuẫn, leo thang xung đột, từ khẩu chiến đến chiến tranh lạnh rồi tới xung đột quân sự, rồi tới chiến tranh toàn diện chỉ trong tích tắc (xem cuộc chiến 1979).
Đối với Trung Quốc là sự chưa muốn gây chiến. C̣n đối với Việt Nam là sự hoàn toàn không muốn có chiến tranh lúc này. Việt Nam đang “sợ” chiến tranh hơn Trung Quốc là v́ Việt Nam có nhiều thứ để mất hơn Trung Quốc, thế yếu hơn Trung Quốc, và tiềm lực quân sự, nhất là không quân và hải quân có thể tác chiến trên biển kém xa Trung Quốc. Thực lực đôi bên một trời một vực. Thực lực tổng thể đă một trời một vực, thực lực quân sự trên biển và trên không cũng c̣n một khoảng cách rất xa.
Nếu chiến tranh trên bộ th́ Trung Quốc chắc chắn sẽ có kết quả tương tự như năm 1979, không có cơ hội nào thôn tính Việt Nam. Nhưng nếu là những trận đánh trên biển trong 1 h́nh thái chiến tranh mới, phụ thuộc nhiều vào sức mạnh vũ khí không quân và hải quân để làm chủ vùng trời và vùng biển th́ hầu như chắc chắn Việt Nam sẽ thua và bị mất thêm chủ quyền, hầu hết các chuyên gia quân sự quốc tế đều đồng thuận với nhau về điểm này. Bởi v́ trên biển và trên không, Việt Nam không thể áp dụng chiến tranh nhân dân và khó thể áp dụng chiến tranh du kích như trên bộ.
Trong cuộc chiến, sự thiệt hại của Trung Quốc nếu có chỉ sẽ là rất nhỏ so với thực lực tổng thể của họ, họ sẽ tốn thật nhiều lính mà họ có thể đang ngầm muốn chết bớt do nạn dân số và trai thừa gái thiếu, họ đang muốn “tống khứ” bao nhiêu đàn ông Trung Quốc đi ra nước ngoài qua nhiều h́nh thức khác nhau c̣n không kịp th́ họ sẽ không tiếc sinh mạng những người lính. Nhưng Việt Nam th́ tiếc mạng sống binh sĩ và đồng bào.
Có thể Trung Quốc sẽ mất vài tỷ đô la, một phần vũ khí sẽ bị hư hại, một số tàu sẽ ch́m, rồi sao? Họ c̣n bao nhiêu tiền với tiềm lực kinh tế đó và c̣n bao nhiêu vũ khí khác chưa dùng và họ rất sẵn sàng mua lại hoặc chế mới để bổ sung, hiện họ vẫn đang mua sắm và sản xuất đều đặn.
Dù Việt Nam có thể tiếp nối truyền thống lấy ít địch nhiều, nhưng trong 1 cuộc chiến tranh trên biển, dù 1 tàu Việt Nam, 1 máy bay Việt Nam thiện chiến nhất thế giới th́ cao lắm có thể chọi 3 tàu địch, máy bay địch, Việt Nam sẽ gây thiệt hại nặng cho địch về vũ khí, mạng đổi mạng với địch, nhưng sau khi ta hết vốn, địch cho bổ sung th́ ta sẽ đưa lưng ra chịu đ̣n. Rồi sẽ có bao nhiêu Gạc Ma khác, có bao nhiêu Ṿng tṛn bất tử khác, bao nhiêu Quảng Trị khác (Năm 1972, Quân Giải phóng miền Nam không có không quân và hải quân nên trơ trọi chịu trận trước không quân Mỹ và Hạm đội 7 của Mỹ dội bom và pháo kích vào, quân đội ban đầu có cả ngàn người nhưng không c̣n bao nhiêu người sống sót, nhưng quyết bám đất đến cùng, không bỏ chạy, đó cũng là 1 Ṿng tṛn bất tử trong thời chống Mỹ.). Rồi ta sẽ mất bao nhiêu băi Gạc Ma nữa, bao nhiêu người sẽ hy sinh nữa?
Và đáng lo nhất là sau 1 cuộc chiến hết vốn, địch vẫn c̣n vốn và tiếp tục mua mới, sản xuất với tiềm lực kinh tế đó, c̣n ta th́ biết bao giờ mới xây dựng lại được 1 lực lượng hải quân tạm có tính răn đe như hiện nay? Bao giờ mới có lại những vũ khí hiện đại đó? Những anh bạn “không hèn” có sẵn sàng thắt lưng buộc bụng để cho Việt Nam có thể áp dụng chính sách Tiên quân (quân đội trước) như Triều Tiên hay không?
Khi nói, phán, chửi, chê th́ rất dễ, không có ǵ dễ hơn, nhưng khi bắt tay trực tiếp vào làm mới thấy bao nhiêu chuyện. Đứng ngoài phê phán th́ bao giờ cũng là dễ nhất.
Lực lượng hải quân và không quân Việt Nam hiện nay tuy đang được hiện đại hóa, nhưng nó vẫn chỉ có tính răn đe, làm cho Trung Quốc chùn bước phần nào v́ sợ tổn thất vũ khí và tiền bạc, chứ nó chưa đủ sức bảo vệ chủ quyền lănh thổ nếu có 1 cuộc chiến tranh toàn diện tại đây. Hải quân Trung Quốc năm 2012 ngày nay không phải là hải quân lạc hậu năm 1988.
V́ những lẽ đó, mới có xu hướng nhường nhịn, lấy đại cuộc làm đầu, 1 câu nhịn 9 câu lành để bảo vệ chủ quyền biển đảo và giữ ǵn ḥa b́nh và sự ổn định trong khu vực. V́ khi có chiến tranh, Việt Nam ít nhiều ǵ cũng sẽ mất thêm chủ quyền, mất đi năng lực pḥng thủ cho sau này, tạo ra thêm nguy cơ mất chủ quyền, bao nhiêu người hy sinh, và sẽ c̣n nhiều mất mát khác, kinh tế bị ảnh hưởng xấu, đời sống người dân nhất là ngư dân sẽ bị ảnh hưởng to lớn. Chính những lợi ích dân tộc đó, những lợi ích quốc gia đó của đất nước, mà chúng ta cố gắng không để bất kỳ cái ǵ biến thành (hoặc có thể để cho Trung Quốc sử dụng) một cuộc leo thang mâu thuẫn, xung đột từng bước.
Năm 1992 Việt Nam khó khăn lắm mới đấu tranh thuyết phục Trung Quốc kư vào hiệp nghị gác lại quá khứ và không tuyên truyền chống nhau, để hoàn toàn b́nh thường hóa quan hệ với Trung Quốc, xây dựng không khí ḥa b́nh, xua tan không khí chiến tranh lạnh có thể bùng nổ thành chiến tranh nóng bất cứ lúc nào giữa 2 nước. Và lâu nay Trung Quốc về cơ bản vẫn ngăn chặn những thông tin về cuộc chiến năm 1979 và hải chiến TS. Bây giờ khi xảy ra cái ǵ, dù là chuyện nhỏ thôi, chúng nó vin vào đó bảo Việt Nam vi phạm hiệp định rồi bật đèn xanh thả lỏng cho giới trẻ, blogger Trung Quốc, hoặc chủ động cho truyền thông chính thống tuyên truyền bôi nhọ Việt Nam, xúc phạm những anh hùng liệt sĩ Việt Nam, xuyên tạc cuộc chiến 1979 và Hải chiến TS, Ṿng tṛn bất tử, Gạc Ma … th́ có phải là sẽ leo thang xung đột, và xung đột kéo theo xung đột, xung đột này mở ra xung đột kia hay không?
Và Việt Nam có thắng nổi một cuộc chiến tranh thông tin với Trung Quốc hay không? Thông tấn xă Việt Nam là ǵ so với Tân Hoa xă, CCTV có chi nhánh khắp thế giới? Cộng đồng mạng Việt Nam tỷ lệ so sánh với cộng đồng mạng Trung Quốc thế nào, rồi sự khổng lồ áp đảo này sẽ tác động tới quốc tế thế nào?
Trung Quốc không sợ chiến tranh, càng không sợ 1 cuộc chiến trên biển với Việt Nam v́ họ biết ưu thế của họ và khuyết điểm quân sự của Việt Nam chưa đủ thời gian để lấp lại. Và 1 bộ phận bá quyền, bành trướng, phản động trong giới cầm quyền Bắc Kinh vẫn c̣n đó, chúng nó đang chực chờ 1 cái cớ để kiến nghị gây chiến. Loại chống Việt, muốn liên Tây đả Việt, sống kư sinh trên chiến tranh, theo chủ nghĩa sô-vanh đại dân tộc th́ Trung Quốc lâu nay luôn có, chỉ cần chúng có cái cớ ǵ đó và chúng lên cầm quyền là xong. Đại hội Đảng Trung Quốc sắp đến và chúng ta chưa biết phe nào sẽ lên nắm quyền.
Ông Bạc Hy Lai thuộc phe tả khuynh, chống Tây bị phe hữu khuynh, thân Tây Ôn Gia Bảo, Tập Cận B́nh dùng con bài Vương Lập Quân để làm cái cớ cách chức chính là 1 dấu hiệu không hay cho Việt Nam. V́ lâu nay phe đậm chất ư thức hệ như Bạc Hy Lai ở Trùng Khánh luôn có những xu hướng thân Việt Nam và chống Tây, chống tư bản hơn, v́ lư do ư thức hệ.
Phe thân Tây th́ chủ trương “viễn giao cận công” (ḥa xa, chống gần). Đó là v́ sao ông tổ của Cải cách Trung Quốc và thân Mỹ là Đặng Tiểu B́nh cũng chính là tên đầu sỏ xâm lược Việt Nam trong năm 1979 trong khi phe trung thành với truyền thống, đậm chất ư thức hệ như Diệp Kiếm Anh, Hoa Quốc Phong đều phản đối.
Và c̣n bao nhiêu thế lực Mỹ – Tây, phản động đang ŕnh rập t́m cách kích động chiến tranh giữa 2 nước từ nhiều động cơ, động lực khác nhau. Đục nước béo c̣. Thừa nước đục thả câu.
Không nên thấy biển lặng sóng yên rồi mơ mộng t́nh h́nh vẫn đang ổn lắm, tốt lắm, thật ra chiến sự có thể bùng nổ bất cứ lúc nào. Mà một khi xảy ra th́ Việt Nam chắc chắn sẽ mất thêm chủ quyền và nhiều mất mát khác về vũ khí, năng lực pḥng thủ, thực lực tổng thể, kinh tế, sinh mạng con người v.v.
Cách đây 1 tuần NXB Tri Thức ở Việt Nam vừa xuất bản cuốn “Xung đột trên biển Đông không c̣n là nguy cơ tiềm ẩn” của tác giả Lê Hồng Thọ (Mỹ) và nhiều đồng tác giả trong và ngoài nước đă cho thấy chiến tranh đang ch́nh ́nh trước mắt, bất kỳ một leo thang nào, một hành động nào dẫn tới leo thang, đều có thể dẫn tới xung đột quân sự và đưa tới chiến tranh quy mô. Đồng nghĩa với việc Việt Nam sẽ mất thêm chủ quyền và thêm hàng ngàn người Việt Nam sẽ thiệt mạng, đời sống người dân đang khó khăn sẽ c̣n khó hơn, và bao công lao xây dựng hệ thống quốc pḥng trên biển và phục hồi khủng hoảng sẽ trôi sông trôi biển.
Do địa lư gần gũi thuận tiện, Trung Quốc có quan hệ ràng buộc kinh tế rất lớn với Việt Nam, là 1 thị trường xuất khẩu khổng lồ của Việt Nam, nhất là lương thực, hiện Trung Quốc đang là thị trường rộng lớn nhất và thuận tiện nhất cho người Việt Nam trong khu vực. Trong đó, Trung Quốc hiện đang nổi lên là một thị trường nhập khẩu gạo ngày càng quan trọng của Việt Nam.
Trong vòng hơn hai tháng qua chỉ riêng Trung Quốc đã nhập khẩu từ Việt Nam 500.000 tấn gạo. Dự báo trong năm nay, Trung Quốc có thể nhập khẩu từ Việt Nam ít nhất là 1 triệu tấn gạo. Nếu xảy ra chiến tranh, Trung Quốc sẽ học Mỹ ban lệnh cấm vận như thời gian 1979-1992, bao nhiêu nông dân Việt Nam sẽ phải chật vật. Năm 1992, Việt Nam đă rất khó khăn để phá thế cấm vận của Mỹ – Trung.
Tức là bên cạnh việc mất thêm chủ quyền, lănh thổ, lănh hải, máu đổ, chết chóc, đời sống dân chúng cũng sẽ bị ảnh hưởng nặng nề, khó khăn chồng chất thêm khó khăn, khủng hoảng tài chính quốc tế vừa đẩy đi phần nào sẽ trở lại. Chứ không phải chỉ có đánh nhau đổ máu trên đất liền, trong thành phố th́ mới đưa đến đổ vỡ kinh tế.
Việt Nam có hèn không? Muốn biết có hèn không th́ cứ nh́n thẳng vào thực tế về những vấn đề chính: Từ khi Việt Nam giành lại được độc lập từ năm 1945 tới nay, bất kỳ bọn giặc nào, từ đâu, kéo tới xâm lược là ta đếu đánh chúng ra ngoài, hết giặc này đến giặc khác, trong đó có cả Trung Quốc. C̣n khi chúng chưa kéo tới đánh th́ ta luôn tuyên bố khẳng định chủ quyền và tuyên bố công khai, chính thức phản đối những hành động xâm phạm chủ quyền hoặc hành xử chủ quyền trên những vùng tạm chiếm. Và liên tục tăng cường hiện đại hóa quốc pḥng, chú trọng vào hải quân, không quân, mua sắm mới, sản xuất mới.
Chúng ta đánh Trung Quốc khi chúng xâm lược, cầm súng bắn vào Trung Quốc th́ sao gọi là hèn nhát? Có hành động nào dũng cảm hơn thế?
Chúng ta liên tục và thường xuyên hành xử chủ quyền, tổ chức bầu cử, khai thác tài nguyên trên những vùng Trung Quốc tuyên bố th́ sao gọi là sợ Trung Quốc?
Chúng ta liên tục và thường xuyên phản đối cấp quốc gia và quốc tế đối với những tuyên bố của Trung Quốc và những hành động hành xử chủ quyền và hợp tác khai thác tài nguyên trong vùng tranh chấp, th́ sao gọi là hèn nhát?
Chúng ta liên tục, thường xuyên công khai và chính thức khẳng định chủ quyền lănh thổ mà Trung Quốc tuyên bố. Bác bỏ và phủ định những tuyên bố chính thức của Trung Quốc, sao có thể gọi là hèn nhát?
Chúng ta liên tục nâng cấp vũ khí, hiện đại hóa hải quân, không quân, mua sắm mới, sản xuất mới, trong khi đang có tranh chấp biển đảo với Trung Quốc, sao gọi là hèn nhát?
Chúng ta nhiều lần tập trận bắn đạn thật, phóng tên lửa thật ở Trường Sa, trên Biển Đông, ngay trên vùng tranh chấp, sao lại gọi là hèn nhát?
Rơ ràng Việt Nam công khai và chính thức, giữa ban ngày ban mặt quang minh chính đại làm những hành động trực tiếp như trên, trong khi Trung Quốc và cả thế giới biết Việt Nam đang có tranh chấp, bất đồng về biển đảo, lănh hải, lănh thổ với Trung Quốc, làm sao có thể gọi là hèn được?
Việt Nam luôn đặt chủ quyền lên trên hết, lên trên cả mong muốn ḥa b́nh và kinh tế. Nếu Việt Nam đặt ḥa b́nh cao hơn th́ đă không có những hành động trên, mà mỗi hành động đều như tát nước vào các tuyên bố và hành động của Trung Quốc, trái ngược và đối nghịch, đối chọi chan chát với những lập trường, quan điểm, quyền lợi của Trung Quốc, mỗi hành động này đều có thể tạo ra sự leo thang thành xung đột vũ trang và chiến tranh trên biển. Việt Nam ư thức rơ điều đó, nhưng vẫn làm, v́ nó là chủ quyền, Việt Nam đặt chủ quyền lên trên ḥa b́nh.
Nếu Việt Nam đặt kinh tế lên trên chủ quyền th́ cũng như đă nói, đă không tốn hàng tỷ đô la mua nhiều vũ khí tối tân, đă không dám làm những cái ǵ có thể gây ra sự leo thang mâu thuẫn đưa tới xung đột quân sự, gây tác động tiêu cực tới nền kinh tế.
Tất cả những ǵ liên quan tới chủ quyền, lănh thổ th́ Việt Nam đều đă làm những ǵ có thể làm, những ǵ trong khả năng thực tế mà thế và lực Việt Nam hiện nay có thể làm. Bất kể nó trái ngược với lợi ích kinh tế hay nguyện vọng ḥa b́nh ổn định của Việt Nam trong khu vực. Bất kể nó đi ngược lại với những tuyên bố, khẳng định, quan điểm, lập luận, và lợi ích của Trung Quốc.
Nhưng những ǵ không liên quan tới chủ quyền, bất cứ cái ǵ khác mà không liên quan đến chủ quyền th́ chúng ta đều có thể hy sinh, để bảo vệ chủ quyền và bảo vệ ḥa b́nh, tránh chiến tranh, như những lư do đă phân tích ở trên.
Và bảo vệ ḥa b́nh trong trường hợp này cũng chính là bảo vệ chủ quyền, v́ khi có chiến tranh th́ Việt Nam sẽ mất thêm lănh thổ, lănh hải so với tương quan lực lượng quân sự giữa hai bên lúc này. Và sau chiến tranh nguy cơ bị mất thêm, mất tiếp chủ quyền sẽ c̣n dài dài v́ lúc đó Việt Nam phải xây dựng lại hệ thống quốc pḥng gần như từ đầu, đă cạn vốn.
Cho nên, tất cả những cái ǵ mà một số “c̣m sĩ”, “phán sĩ” bảo rằng tại sao không dám cái này, tại sao phải nín cái kia, tại sao phải nhịn cái nọ, tại sao phải bảo mật cái này, phải không công bố cái kia v.v. Tất cả những hành động đó không phải là xuất phát từ một tinh thần hèn nhát, mà là xuất phát từ một nhận thức rơ ràng về lợi ích quốc gia dân tộc, về yếu tố lợi – hại của vấn đề, xuất phát từ nhiều lư do khách quan nằm trong mục đích duy nhất đó là lợi ích dân tộc và sự mong muốn bảo vệ chủ quyền và ḥa b́nh ổn định trong nước và khu vực. Đó là những cái chính, những cái cao nhất và quan trọng nhất.
Người làm chính trị có thực tâm và thực tài là những người biết phân biệt giữa cái lợi của một người, cái lợi của một nhóm, và cái lợi tổng thể của cái chung, của dân tộc, đất nước. Và chủ quyền và sự ḥa b́nh chính là cái lợi lớn đó.
Lănh đạo có tài và có tâm họ đặt nặng và coi trọng vào cái lợi lớn, cái lợi ích chung đó. Họ đặt t́nh cảm vào cái chung, cái lớn, toàn dân, toàn quốc, nặng hơn cái t́nh cảm cá nhân với 1 người hay 1 nhóm, cái riêng tư, cục bộ. Đặt nặng cái lâu dài hơn cái nhất thời. Lư trí làm chủ cảm tính.
Họ cũng căm tức như chúng ta, nhưng họ có trách nhiệm khác chúng ta, họ có trách nhiệm gánh vác to lớn, họ không có quyền bị nô lệ cảm xúc, bị cảm tính điều khiển hành động, hành động cốt miễn sao hả dạ, hả giận, hả hê, thỏa măn, bất chấp tất cả, rồi sau đó thế nào họ mặc kệ, không chịu trách nhiệm. Nếu vậy th́ đó mới là một chính phủ vô trách nhiệm. Chiến tranh đổ máu, mất thêm chủ quyền lănh hải lănh thổ, th́ ai chịu trách nhiệm? Chính họ chứ c̣n ai!
Cứ “ôn cố tri tân” th́ chúng ta sẽ nh́n ra được rất nhiều điều. Lê Lợi sau khi giành được độc lập, lên ngôi vua, không vinh danh tưởng niệm những người lính chém chết Liễu Thăng (tướng Minh chết trận ở Đại Việt) mà lại c̣n đúc tượng vàng Liễu Thăng bằng tiền thuế của dân để cống cho triều Minh mỗi khi đi sứ (lệ cống người vàng này đến năm 1718 mới hết), xưng thần, tiến cống, xin sắc phong, chấp nhận làm 1 An Nam quốc vương, thần tử trên danh nghĩa, không có căn cước quốc gia chính thức, chấp nhận địa vị phiên thuộc đối với nhà Minh.
Nhưng không có sử gia nào sau này gọi Lê Lợi là hèn, bởi v́ sao, bởi v́ đó không phải là xuất phát từ tinh thần hèn nhát, Lê Lợi đă bảo vệ chủ quyền lănh thổ thực tế cho đất nước, xuất phát từ tinh thần thực tế, từ ư tốt muốn củng cố thái b́nh, muốn chấm dứt hẳn binh đao để xây dựng Đại Việt, xuất phát từ ư thức “tránh voi không hổ mặt nào”, “1 câu nhịn 9 câu lành” v.v. Xuất phát từ lợi ích của quốc gia dân tộc, chủ quyền xă tắc và sự thái b́nh an lạc của muôn dân.
Ông hiểu rằng nước nó lớn, người nó đông, kinh tế nó mạnh, nó thua ta vài lần th́ cùng lắm quân nó chết, kinh tế nó tổn hại một chút, c̣n dù ta thắng th́ sao? Nước non tan hoang, kinh tế đổ vỡ, phải xây dựng lại từ đầu, đất nước kiệt quệ, sức dân khốn cùng. Rốt cuộc cũng vẫn phải nhượng bộ nó vấn đề này vấn đề kia để mưu cầu thái b́nh để cho quân dân nghỉ ngơi.
Trong thời kỳ chống Trung Quốc (1979-1992), năm 1979 quân ta đánh nhau ác liệt với quân Trung Quốc tại miền Bắc, gây cho chúng tổn thất nặng nề và đánh lui chúng về nước. Nhưng trong thời gian sau đó tới năm 1992 chúng ta vẫn chống Trung Quốc công khai, coi là “kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất”, nhưng cũng không có những tưởng niệm, vinh danh xứng tầm hay nhắc lại, phổ biến thông tin ǵ nhiều về cuộc chiến này trong thời gian đó. Nhiều thông tin về những trận đánh nhỏ sau đó để giành lại từng tấc đất của Tổ quốc, ví dụ trận đánh Lăo Sơn, đều được bảo mật ngay trong thời kỳ chống Trung Quốc đó.
Năm 1988, sau hải chiến Trường Sa, đài báo Việt Nam năm đó cũng không nhắc nhiều. Như vậy có phải là hèn? Ngay cả đánh mà ta c̣n dám đánh th́ sao có thể gọi là hèn? Đánh c̣n dám đánh, cầm súng bắn thẳng vào lính Tàu mà c̣n dám th́ sao không dám nói, không dám nhắc? Đó, vấn đề là ở chỗ đó, đó không phải là hèn, mà đó là v́ chúng ta không muốn leo thang chiến tranh thành một cuộc chiến quy mô lớn, chúng ta cần ổn định chính trị xă hội để xây dựng và bảo vệ nước nhà.
Trong tất cả những hành động đó, có thể thấy rơ ràng là: Xưa nay Việt Nam luôn đặt chủ quyền lên trên hết, v́ chủ quyền th́ khi cần đánh chúng ta vẫn phải đánh, dù những vùng đất mà Trung Quốc vẫn c̣n cố đóng giữ sau năm 1979 không có bao nhiêu giá trị địa lư, đất đai, kinh tế, quân sự, nhưng v́ nó là đất tổ tiên, nó là chủ quyền, cho nên ta vẫn đánh để giành lại.
Ta không hy sinh chủ quyền chỉ v́ muốn ḥa b́nh. Ta không dùng chủ quyền để đánh đổi ḥa b́nh. Nên ta đă đồng thời vừa đánh để giành lại chủ quyền, vừa bảo mật thông tin để tránh biến nó thành 1 làn sóng phẫn nộ, tạo điều kiện cho Mỹ và phản động khoét sâu và kích động leo thang lên thành 1 cuộc chiến quy mô.
Những năm tháng chống Trung Quốc trong thời gian 1979-1992 đó đă cho chúng ta thấy rất rơ sự nhất quán trước sau như 1 về đường lối chủ trương của Đảng. Đó là 1. Chủ quyền, 2. Ḥa b́nh. Chúng ta vừa đánh để giành chủ quyền vừa t́m cách giữ cho nó trong sự kiểm soát, không để bất kỳ thế lực thứ 3 nào lợi dụng, khoét sâu, kích động để leo thang cuộc chiến, cố gắng văn hồi ḥa b́nh, cố gắng tránh xung đột quy mô lớn.
Trong những ngày cuối tháng 2 trong cuộc chiến chống Trung Quốc năm 1979, Quân đội Nhân dân Việt Nam c̣n dám đánh sâu vào lănh thổ Trung Quốc, đánh thẳng vào hai thị trấn Ninh Minh thuộc tỉnh Quảng Tây và Malipo thuộc tỉnh Vân Nam của Trung Quốc. Đó là lần thứ 2 trong lịch sử Việt Nam mà một quân đội Việt Nam đánh vào lănh thổ Trung Quốc, lần thứ nhất là cuộc “tấn công để pḥng thủ” của Lư Thường Kiệt. Lư Thường Kiệt và Tôn Đản đánh vào Trung Quốc là để tiêu diệt kho hậu cần mà giặc Tống chuẩn bị để tiến đánh Đại Việt. Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh vào Trung Quốc là để trả đũa và răn đe. Sự việc này nhiều tài liệu quốc tế đă ghi nhận, nhưng Việt Nam lại không tuyên truyền nhiều về nó v́ những phức tạp ngoại giao và chính trị, nhưng ngay cả việc đánh vào đất Tàu mà c̣n dám th́ chúng ta nên tự hiểu là Việt Nam có hèn hay không.
Ngay sau năm 1975 th́ QĐNDViệt Nam và Khmer Đỏ đă giao chiến ở biên giới Tây Nam. Quân ta đă từng đánh sâu vào lănh thổ của chúng để răn đe. Nhưng có nhiều thông tin lúc đó ta cũng đă tạm bảo mật. Không lẽ vậy có nghĩa là ta hèn trước Pol Pot? Cái ǵ cũng có lư do của nó. Nhưng sự thật cho thấy là ngay cả việc đánh vào đất địch mà ta c̣n dám, lật đổ kẻ thù ta c̣n dám, th́ chắc chắn không phải là hèn.
Ngày nay cũng vậy, một mặt chúng ta tích cực mua sắm và sản xuất vũ khí, hiện đại hóa hải quân, không quân, liên tục và thường xuyên tuyên bố phản đối những hành động của Trung Quốc và khẳng định chủ quyền của Việt Nam, để giữ cho những vùng tạm chiếm vẫn là “vùng tranh chấp” theo pháp lư quốc tế (V́ chủ quyền). Mặt khác chúng ta cố gắng duy tŕ hiện trạng, giữ ǵn ḥa b́nh, không để bất cứ sự kiện ǵ có thể đưa đến leo thang, có thể liên kết với các sự kiện khác trở thành leo thang xung đột rồi bùng nổ chiến tranh (V́ ḥa b́nh).
Và bảo vệ ḥa b́nh trong thời điểm hiện nay cũng chính là bảo vệ chủ quyền (v́ tương quan hiện nay mà đánh th́ sẽ mất thêm). Cho thấy sự nhất quán của Việt Nam từ trước tới nay.
Đảng và Nhà nước Việt Nam v́ lợi ích đất nước, v́ chủ quyền và ḥa b́nh, quyết tâm nhất quán trước sau như 1, đó là điều chắc chắn. Giặc kéo tới xâm lược th́ ta sẽ giáng trả để trực tiếp bảo vệ chủ quyền đất nước. Giặc chưa kéo tới xâm lược th́ ta mua sắm, sản xuất mới, hiện đại hóa quân đội, tập trận để răn đe giặc và chuẩn bị cho công cuộc bảo vệ chủ quyền đất nước.
Và thường xuyên tuyên bố chủ quyền để địch không thể hợp thức hóa, hợp pháp hóa, chính danh hóa, biến vùng tranh chấp thành vùng sở hữu của chúng. Và đồng thời ngăn ngừa những mầm mống có thể gây leo thang xung đột mà không liên quan đến chủ quyền, nhằm bảo vệ ḥa b́nh. Ví dụ, mọi sự tuyên bố chủ quyền có giá trị với luật pháp quốc tế hay các hành động hành xử chủ quyền, tập trận, nâng cấp, mua sắm, chế tạo vũ khí, hiện đại hóa hải quân và không quân tuy rằng sẽ gây leo thang xung đột nhưng nó vẫn cần làm v́ nó liên quan trực tiếp với chủ quyền, liên quan tới mục tiêu bảo vệ chủ quyền, mà ta đặt chủ quyền ưu tiên lên trên mong muốn ḥa b́nh.
Nhưng đồng thời, những vấn đề không liên quan tới chủ quyền th́ ta có thể hy sinh, tạm gác lại, tạm khép lại v.v. để giữ ǵn mục tiêu thứ hai, đó là ḥa b́nh và ổn định, và cũng là để bảo vệ mục tiêu thứ nhất, đó là chủ quyền và lănh thổ – lănh hải, v́ một khi chiến tranh xảy ra, với tương quan lực lượng hai bên, Việt Nam sẽ mất thêm chủ quyền và sau đó sẽ tiếp tục đối phó với nguy cơ mất thêm chủ quyền, sẽ c̣n mất nhiều thêm và dễ dàng mất thêm chủ quyền dài dài, c̣n phải nhượng bộ nhiều hơn, v́ sau chiến tranh th́ vũ khí của chúng ta sẽ gần như sạch vốn, hay ít nhất là yếu kém đi rất nhiều, và công cuộc hiện đại hóa sẽ phải xây lại từ đầu. Trong quan hệ quốc tế cái tư thế và thực lực yếu – mạnh là yếu tố quyết định, xưa nay đều là vậy, thế yếu với thế mạnh khác nhau xa lắm, không thể duy ư chí cái ǵ cũng coi là như nhau, ngang nhau, cái ǵ cũng có thể làm được trong một thế yếu, lực yếu, không thể ngây thơ coi mạnh – yếu như nhau và bên yếu có thể hành xử như bên mạnh.
Nh́n lại thời kỳ chống Trung Quốc, nhiều người chê trách ông Lê Duẩn quá cứng rắn nên mới để cho chiến tranh xảy ra, chứ nếu là Bác Hồ th́ đă ngoại giao mềm dẻo hơn, kiềm chế hơn, đă giữ được không để leo thang xung đột thành chiến tranh. Ngày nay các lănh đạo đă rút kinh nghiệm thời Lê Duẩn nên đang làm khác đi, th́ cũng lại bị chê trách.
Nếu nh́n lại lịch sử, ôn cố tri tân, th́ chúng ta thấy Việt Nam nhượng bộ Trung Quốc không phải v́ Việt Nam và Trung Quốc cùng ư thức hệ, cùng phe, mà vấn đề này nằm trong một sách lược chung, một chiến lược đối Trung Quốc xuyên suốt từ lịch sử trung đại cho đến nay. Đó là sách lược mềm dẻo, nhẫn nhịn để “cận giao” (ḥa gần), có thể nhượng bộ nhiều thứ, xin sắc phong, chấp nhận làm một “thần tử” trên danh nghĩa, thậm chí dùng cả tiền thuế của dân để triều cống v.v. miễn sao giữ được chủ quyền, độc lập và giữ được thái b́nh, yên ổn. Thời phong kiến nào cũng vậy, kể cả những triều đại, nhà nước anh hùng nhất trong lịch sử Việt Nam.
Việt Nam nhẫn nhịn thận trọng trước Trung Quốc không phải v́ có cùng ư thức hệ chính trị, hệ tư tưởng chính trị, mà là v́ Trung Quốc là một nước mạnh, có sức mạnh kinh tế và quân sự mạnh hơn gấp bội, hiếu chiến, và có vị trí địa lư sát bên, đúng nghĩa “núi liền núi – sông liền sông”, và đă có tiền lệ hung hăng gây chiến, lấn chiếm đất đai, xung đột quân sự đẫm máu với nhiều láng giềng, trong đó có Việt Nam. Nói theo kiểu dân dă th́ Trung Quốc là một “gă hàng xóm khổng lồ” của Việt Nam.
Trong Thời đại Hồ Chí Minh những ngày đầu độc lập, chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa do chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương lănh đạo cũng đă nhượng bộ Tàu Tưởng rất nhiều vấn đề (Tàu Tưởng với ta khác ư thức hệ). Cụ thể:
- Khi “Hoa quân nhập Việt”, đội quân vô kỷ luật của Trung Hoa Quốc dân đảng cướp phá bà con, cướp gà cướp vịt để ăn nhậu, nhũng nhiễu lương dân. Chính phủ ta lúc đó vẫn ra lệnh cho các lực lượng Dân quân – Tự vệ, du kích địa phương phải đề cao cảnh giác, kiểm soát chúng (với danh nghĩa “bảo vệ” cho chúng), nhưng không được nổ súng trước. Phải kỷ luật tối đa.
- Sau khi trên 20 vạn quân Trung Hoa Dân Quốc kéo vào Hà Nội và hoàn thành việc đóng quân ở nhiều vùng trên đất Bắc, th́ chúng càng tăng cường lộng hành, tác quái, vô pháp vô thiên. Quân lính ô hợp của Quốc dân đảng cướp phá khắp nơi, bắt gà bắt vịt của dân đem đi nhậu nhẹt. Bọn tay sai người Việt th́ dẫn quân Tàu đi lùng giết những người mà chúng gọi là “cộng sản”, “theo Việt Minh”.
Được hơn 20 vạn quân Tàu chống lưng, các đảng phái phản động tác oai tác quái, dùng xe của Tàu Tưởng chạy khắp đường phố Hà thành bắc loa chửi bới Việt Minh và kể tội chủ tịch Hồ Chí Minh, hô hào tẩy chay bầu cử Quốc hội khóa 1. Các đảng phái theo Tàu liên tục dùng báo chí tuyên truyền đả kích Việt Minh: “Trúng cử chỉ là Việt Minh cộng sản… Chính quyền trong tay nên Việt Minh muốn ai trúng cũng được, tổ chức các cuộc “tuần hành”, bắc loa hô hào kêu gọi tẩy chay bầu cử.
Chúng tổ chức bắt cóc, ám sát ứng cử viên, đảng viên cộng sản, cán bộ Việt Minh (ví dụ ông Trần Đ́nh Long) hay thủ tiêu những cá nhân, tổ chức có cảm t́nh với chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh lănh đạo. Trong ngày tổng tuyển cử Quốc hội lịch sử năm 1946, bọn tay sai Tàu Tưởng mang súng tiểu liên đến Ngũ Xă ngăn không cho đặt ḥm phiếu, cấm người dân treo cờ đỏ sao vàng. Người dân Ngũ Xă rủ nhau kéo sang nơi khác bỏ phiếu.
Những tên tay sai của Tàu Tưởng dựa hơi chủ hoành hành đến như vậy nhưng Bác Hồ vẫn nhượng bộ Trung Hoa Dân Quốc mà chấp nhận “bố thí” cho Nguyễn Hải Thần (1 người luôn mặc đồ Tàu, nói tiếng Tàu rành hơn tiếng Việt), Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tôn Hoàn, Nguyễn Tường Tam và những kẻ khác 70 ghế trong Quốc hội mà không cần bầu cử, theo thỏa thuận trước đó giữa ta và Tàu Tưởng. Đại tướng Vơ Nguyên Giáp trong hồi kư “Những năm tháng không thể nào quên” đă viết: “Chúng càng biết rơ một cuộc tuyển cử công bằng sẽ không mang lại ǵ cho chúng.”
- Để đối phó với yêu sách và sức ép của Trung Hoa Dân Quốc đ̣i giải tán quân đội chính quy của Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh chấp nhận tạm thời nhượng bộ, tháng 11 năm 1945, Việt Nam Giải phóng quân đổi tên thành Vệ quốc đoàn, một trong những sách lược chính trị tạm thời làm nhẹ đi tính chất quốc gia, tính chất chính thức của quân đội, tạm thỏa măn sự đ̣i hỏi của Tàu Tưởng. Ngày 11-11-1945, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán (thực tế là rút vào hoạt động bí mật). Sau khi Tàu Tưởng về nước th́ Đảng mới xuất hiện trở lại và Vệ quốc đoàn mới đổi tên thành Quân đội Quốc gia Việt Nam, rồi Quân đội Nhân dân Việt Nam, được đặt dưới sự chỉ huy tập trung thống nhất của Bộ Tổng tham mưu.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đi một nước cờ chính trị táo bạo, kư tạm ước và sau đó là hiệp định Sơ Bộ với Pháp, cho phép một bộ phận của quân đội Pháp ra đóng ở miền Bắc để ép Tàu Tưởng rút về nước. Đúng như dự kiến, Tàu Tưởng trước sức ép của quân đội cộng sản Trung Quốc trong nước, không muốn lôi thôi thêm nữa với 2 thế lực mạnh là Pháp và Việt Minh. Đứng trước 2 thế lực mạnh, họ không muốn phiêu lưu thêm nữa ở miền Bắc Việt Nam, đành chấp thuận rút quân. Bác Hồ đă thành công lợi dụng Pháp đẩy Tàu về nước.
Trong lúc quân Tàu rút về, chính phủ Việt Nam đă ra quân lệnh phải “bảo vệ” cho quân Tàu Tưởng đi về an toàn, cấm không được gây hại tới họ, ai vi lệnh sẽ xử theo quân pháp. Trong thời gian đó – trước t́nh trạng thiếu thốn vũ khí – có nhiều chiến sĩ Vệ quốc đoàn v́ tiếc số vũ khí của Nhật bị Tàu đem về gần hết, nên muốn thừa cơ phục kích cướp lấy, trước khi đi nhiều người đă trốn cả cấp chỉ huy, tự ư hành động, có người bị phát hiện và ngăn cấm th́ quyết tâm nói nếu bị lộ th́ sẽ chấp nhận tử h́nh. Kết quả nhiều người giả cướp, giả quân phỉ và cướp vũ khí trót lọt. Nhưng cũng có không ít người thất bại, có những trận thua phải chạy về, những chiến sĩ thương vong bị địch lục áo t́m thấy được giấy tờ tùy thân, chúng kéo quân t́m tới các căn cứ của Vệ quốc đoàn vặn vẹo, hạch sách, đ̣i lại công đạo v.v.
V́ luật pháp, v́ chính trị, v́ ngoại giao, mà Nhà nước non trẻ đă phải “quân pháp bất vị thân”, “đại nghĩa diệt thân”, giam những chiến sĩ đó lại và có nhiều trường hợp đành phải tử h́nh. Nghe th́ thấy ác, thấy vô cảm, nhưng là lănh đạo, là người làm chính trị chân chính, th́ đôi khi phải gạt bỏ t́nh riêng để mà v́ cái lợi chung, đặt đại cuộc lên trên hết, lấy đại cuộc làm đầu.
Nói chung, tất cả những sự nhượng bộ từ lịch sử phong kiến tới nay đều v́ đại cuộc, v́ lợi ích lớn của dân tộc, v́ những sách lược chính trị, chiến lược đối ngoại tạm thời. Thời đó chính phủ Hồ Chí Minh cũng bị những kẻ phản động kích động, nâng quan điểm lên rồi mắng nhiếc, chửi rủa là “hèn nhát”, “nhục quốc thể”, “nhục nhă”, “mất mặt”, “mất danh dự” v.v. Tay sai của Pháp th́ chửi tại sao ta nhường nhịn “kẻ thù truyền kiếp Trung Hoa”. Tay sai của Tàu Tưởng, Nhật th́ lại chửi việc ta kư hiệp định Sơ Bộ, họ xuyên tạc rằng đó là “hiệp ước bán nước”, “Hồ Chí Minh bán nước cho Pháp” v.v. Nhưng những chiến công hiển hách và những kết quả độc lập – thống nhất – ḥa b́nh sau đó đă cho câu trả lời, đă cho thấy những quyết sách đó là đúng.
Ngẫm nghĩ lại những sự việc trên và thời điểm lịch sử lúc đó, nên tự hỏi, v́ sao chủ tịch Hồ Chí Minh không ngại một cuộc chiến với thực dân Pháp bằng e ngại một cuộc chiến với Tàu Tưởng? Trong khi quân Pháp thiện chiến, chuyên nghiệp, vũ khí hiện đại hơn quân ô hợp với những vũ khí lạc hậu của Tàu Tưởng rất nhiều. Đó là v́ Bác Hồ hiểu người phương Tây vốn thực dụng và Pháp là bọn ở xa, đánh xong rồi thôi, thua xong rồi thôi. C̣n một khi có chiến cuộc với người Trung Quốc, gă hàng xóm khổng lồ ở sát bên cạnh, th́ sẽ lắm gay go về lâu dài. Xin lưu ư, năm 1946 Tàu Tưởng vẫn c̣n rất mạnh ở Trung Quốc và lúc đó vẫn chưa thể biết phe Tưởng hay phe Mao sẽ thắng.
Người làm chính trị luôn lo đến cái lợi lớn của đất nước, cái tổng thể, cái chung nhất, cái lâu dài, cái bền vững, không để những tiểu tiết làm hư đại sự, không v́ muốn thỏa măn những cảm tính, tự ái dân tộc mà làm hỏng đại cuộc.
V́ những lẽ lợi – hại đó, vẫn sẽ có những hạn chế phần nào trong báo chí và dư luận để phục vụ cho sách lược đối ngoại chung đối với Trung Quốc, giữ cho tất cả trong ṿng kiểm soát, không leo thang căng thẳng, dần đưa tới mâu thuẫn, từng bước đưa đến xung đột quân sự và chiến tranh quy mô. Đồng thời không để thế lực thứ ba nào lợi dụng t́nh h́nh căng thẳng giữa hai bên để trục lợi.
C̣n đối với những kẻ phản động, chống cộng ở hải ngoại, từng có “thành tích” bán nước, theo giặc 3 đời vẫn luôn miệng tuyên truyền dối trá nâng quan điểm về những cái gọi là “đại họa mất nước” (?), “Việt Cộng bán nước”, “Cộng sản Việt Nam dâng đất bán biển” v.v. th́ họ là những kẻ thù hận điên cuồng, u mê mù quáng, không dám chấp nhận sự thật. Chúng ta không quan tâm và không hy vọng ǵ vào những phần tử này. Khi Việt Nam giữ quan hệ b́nh thường với Trung Quốc th́ họ vẫn sẽ c̣n tiếp tục bám vào đó, sống kư sinh lên trên đó và tiếp tục chửi bới.
Nhưng nếu Việt Nam chuyển sang chống Trung Quốc như trong giai đoạn 1979-1992 th́ cũng không có khả năng nào họ theo Việt Nam chống Trung Quốc, mà trái lại họ sẽ càng lợi dụng phá thêm và mong muốn Trung Quốc chiến thắng, như họ đă từng mong muốn “Trung Cộng đánh thẳng vào Hà Nội giết sạch Việt Cộng” năm 1979. Như họ nhân lúc toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đang chống xâm lược mà kích động, tổ chức phá trại cải tạo, vào rừng lập “chiến khu” chống Việt Cộng, khủng bố đặt bom khắp các đô thị miền Nam, thời ấy họ lợi dụng thời cơ khi giặc Tàu đang xâm lược và đánh nhau với Quân đội Nhân dân Việt Nam ở miền Bắc th́ ở miền Nam thỉnh thoảng vẫn có những tiếng nổ do bọn phản động – khủng bố phá hoại. Bọn Fulro và bọn khủng bố tiền thân của Việt Tân nhân cơ hội chiến tranh đó, đă “đục nước béo c̣”, “thừa nước đục thả câu” mà thừa cơ đánh phá vào trong nước, đem tiền giả, ma túy, súng đạn vào khủng bố trong nước. Những kinh nghiệm từ lịch sử vẫn c̣n rành rành ra đó.
Đây là bọn phản quốc và trên thực tế đă chống dân tộc, chống nhân dân, chống đất nước, chống Tổ quốc nhiều đời, nhiều lần trong lịch sử hiện đại, chứ không chỉ có chống Đảng Cộng sản, chống Hồ Chí Minh, chống CNXH, chống CNCS. V́ vậy chúng ta nên tin vào những người có uy tín chống xâm lược, không nên hùa theo những kẻ từng ô danh theo giặc xâm lược, phản bội Tổ quốc.
Họ trung thành với nước Mỹ chứ không phải trung thành với nước Việt. Họ yêu bản thân chứ không yêu nước. Mục đích tối hậu của họ là lật đổ Nhà nước Việt Nam để phục hận sau khi những lợi ích gắn liền với giặc xâm lược của họ bị mất sạch sau khi Việt Nam thắng Mỹ. Họ muốn trở về rửa hận, lấy lại những ǵ đă mất, để tranh quyền giành ghế, tranh giành quyền lực để được làm ông nọ bà kia. Mối quan hệ phức tạp Việt – Trung chính là một trong những chiêu bài để họ nắm lấy, khai thác, và lợi dụng để thực hiện mục đích tối hậu đó, v́ lợi ích riêng của chính bản thân họ, bất chấp lợi ích chung của đất nước và dân tộc.
Họ hô hào kích động chiến tranh v́ nếu xảy ra chiến tranh th́ chỉ có máu đồng bào trong nước đổ, đất nước Việt Nam điêu tàn, kinh tế Việt Nam thảm hại, cuộc sống người dân điêu đứng, chứ họ ở bên Mỹ, ở hải ngoại, cách Việt Nam nửa ṿng trái đất, họ không chịu trách nhiệm và không bị một sự ảnh hưởng nào. Đôi khi v́ cái Tôi của ḿnh, một số họ cũng tự thôi miên và tưởng rằng ta đây “yêu nước” thật, không dám nh́n thẳng vào sự thật là họ đang đi ngược lại với quyền lợi dân tộc và đất nước, làm trái lại với những nguyện vọng và lợi ích của nhân dân Việt Nam, họ dối ḿnh gạt người và lừa gạt cả con cháu, tuy nhiên nhiều người trẻ thế hệ 3, 4 ở hải ngoại sau khi tiếp cận với những thông tin trong nước và các thông tin khách quan quốc tế, cũng đă dần dà hiểu ra vấn đề.
oOo
Việt Nam là đối tượng dễ xảy ra chiến tranh với Trung Quốc nhất không hẳn v́ Việt Nam không được Mỹ chống lưng, mà chủ yếu là v́ địa lư gần gũi, thuận lợi và tương quan thực lực quốc pḥng giữa hai bên. Lịch sử đă cho thấy dù Trung Quốc đang quan hệ với Mỹ như thế nào th́ khi cần đánh, thấy đánh được th́ họ vẫn đánh, không hề sợ Mỹ. Ví dụ chiến tranh Triều Tiên và những nỗ lực thống nhất Đài Loan trong những năm cuối 1940, đầu 1950. Hay như năm 1974, Mỹ ở ngay trong khu vực, Hạm đội 7 thuộc Hạm đội Thái B́nh Dương của Mỹ đang lù lù ngay đó nhưng họ vẫn thỏa hiệp được với Mỹ rồi tiến vào chiếm đóng Hoàng Sa.
Hiện nay, Trung Quốc chưa đánh Đài Loan không phải v́ Đài có Mỹ, mà là v́ sức mạnh quân sự và khả năng tự vệ của Đài Loan. Họ chưa đánh Philippines không phải v́ Phi có Mỹ, mà v́ Phi ở xa, Malaysia không có ai chống lưng và tiềm lực quốc pḥng không mạnh, nhưng họ cũng chưa đánh v́ ở xa, địa lư không thuận lợi, chưa thích hợp. Trung Quốc phải vượt qua chướng ngại vật Việt Nam rồi mới có thể mở đường ra, dùng các lănh thổ, lănh hải của Việt Nam làm căn cứ, làm cơ sở, làm bàn đạp, bành trướng xuống Đông Nam Á. Chưa vượt qua nổi Việt Nam th́ chưa thể bành trướng xuống phương Nam.
Cũng vậy, Trung Quốc chưa đánh Hàn Quốc, Nhật Bản không phải v́ Hàn – Nhật có chiếc dù Mỹ, mà v́ thực lực quốc pḥng của 2 nước này. Nga, Ấn Độ không có Mỹ chống lưng nhưng chưa bị Trung Quốc đánh là v́ họ cũng có tiềm lực quốc pḥng, năng lực tự vệ mạnh mẽ, sức mạnh răn đe đáng kể.
Tất cả những quốc gia trên đều đang có tranh chấp lănh thổ, lănh hải, biên giới với Trung Quốc nhưng chưa bị tấn công đều không phải nhờ chiếc dù của ngoại bang nào, mà đều v́ chính sức mạnh quốc pḥng của họ hoặc địa lư của họ chưa thích hợp cho Trung Quốc khởi binh. Việc được các ông lớn, nhất là Mỹ chống lưng chỉ làm chùn bước Trung Quốc phần nào, nhưng như lịch sử đă cho thấy, khi cần đánh th́ họ vẫn sẽ đánh, từ năm 1950 một Trung Quốc lạc hậu đă không sợ Mỹ, dám đem 100 vạn quân vào bán đảo Triều Tiêu đánh nhau trực tiếp với Mỹ, th́ một Trung Quốc hiện đại hóa, kỹ thuật cao, công nghệ tối tân ngày nay cũng sẽ không sợ Mỹ.
Theo thạc sĩ Lê Hồng Hiệp, giảng viên của Khoa Quan hệ Quốc tế, Đại học Khoa học Xă hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh th́ Việt Nam nên tránh Mỹ và các đại siêu cường, mà nên thiết lập quan hệ an ninh – quốc pḥng chiến lược với các thế lực bậc trung.
Đây là điều hợp lư, thường trong quan hệ quốc tế và trong quan hệ con người nói chung, trong bất kỳ mối quan hệ nào, thường thế và lực giữa hai bên phải không quá chênh lệch th́ mối quan hệ mới công bằng và dễ có sự chân t́nh với nhau. Một bên quá mạnh và một bên quá yếu th́ khó thể có mối quan hệ công b́nh, b́nh đẳng, đến một lúc nào đó nước nhược tiểu kia sẽ trở thành vật hy sinh của “ông bạn lớn”, bị “đồng minh” bán rẻ, bán đứng, đâm sau lưng, các “ông lớn” sẽ gạt ḿnh qua một bên để thỏa thuận sau lưng, thỏa hiệp trên lưng với nhau rồi sẵn sàng hy sinh lợi ích của ḿnh v́ lợi ích của họ.
Tuy nhiên, cái ǵ cũng có thể có ngoại lệ, căn cứ vào logic thông thường hiện nay, cường quốc quân sự duy nhất trên thế giới ngày nay mà Việt Nam có thể xem xét thiết lập một mối quan hệ đồng minh chiến lược chính là Nga. Hai nước có cái t́nh và có sự ít nhiều tin tưởng nhau (ít nhất là tin rằng 2 bên không làm hại nhau, không có nhu cầu hại nhau) từ thời Liên Xô. Và Việt Nam lâu nay vẫn là bạn hàng, đối tác tin cậy của Liên bang Nga. Không có nhiều quyền lợi, lợi ích mâu thuẫn, trái ngược nhau. Có sự thuận lợi đặc thù về địa lư, Nga – Việt không ở gần nhau và không có mâu thuẫn về lănh thổ, mà lại có một mối quan hệ chiến lược từ vị trí địa lư, khi 2 nước cùng như một gọng ḱm ép Trung Quốc vào giữa. Nếu Việt – Nga kiên quyết giữ mối quan hệ mang tầm chiến lược lâu dài này th́ sẽ có tác dụng ngăn ngừa, kiềm chế và hạn chế phần nào những tham vọng và sự gây hấn của Trung Quốc.
Nga không muốn Trung Quốc vượt lên ḿnh quá xa, làm lu mờ đi vai tṛ của Nga, gạt đi tầm ảnh hưởng và sức mạnh của Nga trong khu vực, thậm chí trở thành mối đe dọa thường trực của Nga ở phía Nam. Hiện Trung Quốc vẫn đang chiếm giữ nhiều lănh thổ của Nga nơi biên giới.
Bài viết của blogger Thiếu Long, một người Việt đang định cư tại bang Texas (Mỹ).
Mẹ mầy... đang làm tai sai tuyên truyền cho mấy thằng chệt T+. Cứ "Liên tục và thường xuyên tuyên bố khẳng định chủ quyền, phản đối Trung Quốc" mầy nghỉ là nó sợ sao.. Mở mắt ra coi bao nhiêu năm nay nó xâm lấn biển VN, bắt ngư dân VN khi hành nghề trong vùng biển của ḿnh và c̣n bắt VN phải chuộc họ về, rồi th́ tàu hộ giám của nó lại đi tới đi lui trong vùng biển VN rồi lại cấm VN dọ dầu khí trong khu vực của ḿnh ..........mầy đả tuyên bố khẳng định chủ quyền mà nó xâm phạm th́ mầy phải đuổi nó ra chứ? Ngược lại, mầy tuyên bố nó cứ xâm lấn và tiếp tục tuyên bố khẳng định rồi nó vẫn tiếp tục xâm lấn, như vậy không phải là hèn sao? Tụi nó đang nhe răng ra cười mầy và nói coi cái đám VN kia không khác con chó chỉ biết sủa mà hổng dám cắn... như vậy chưa đủ nhục sao??????????
Mẹ mầy... đang làm tai sai tuyên truyền cho mấy thằng chệt T+. Cứ "Liên tục và thường xuyên tuyên bố khẳng định chủ quyền, phản đối Trung Quốc" mầy nghỉ là nó sợ sao.. Mở mắt ra coi bao nhiêu năm nay nó xâm lấn biển VN, bắt ngư dân VN khi hành nghề trong vùng biển của ḿnh và c̣n bắt VN phải chuộc họ về, rồi th́ tàu hộ giám của nó lại đi tới đi lui trong vùng biển VN rồi lại cấm VN dọ dầu khí trong khu vực của ḿnh ..........mầy đả tuyên bố khẳng định chủ quyền mà nó xâm phạm th́ mầy phải đuổi nó ra chứ? Ngược lại, mầy tuyên bố nó cứ xâm lấn và tiếp tục tuyên bố khẳng định rồi nó vẫn tiếp tục xâm lấn, như vậy không phải là hèn sao? Tụi nó đang nhe răng ra cười mầy và nói coi cái đám VN kia không khác con chó chỉ biết sủa mà hổng dám cắn... như vậy chưa đủ nhục sao??????????
Tại sao khi bọn quan lớn của tàu cộng thăm Việt Nam , th́ tại sao lá cờ của bọn giặc tàu lại có 1 sao lớn và 5 sao nhỏ ? ................ nếu không hèn nhát và luồn cuối th́ là ǵ ?
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.