Nhớ 'một câu nhịn chín câu lành', người Việt sẽ không hung dữ
Hơn nhau không phải ở nắm đấm mà là ở khả năng học tập, làm việc, chia sẻ, thương yêu, tử tế với ḿnh, với người trong mối quan hệ với cuộc sống xung quanh!
Hạ cẳng tay, thượng cẳng chân sau khi va chạm giao thông - Ảnh do bạn đọc cung cấp
Cách đây mấy bữa, trên đường đi làm về, tôi thấy một đám đông ở Hàng Xanh (Q.B́nh Thạnh, TP.HCM), nghĩ là có kẹt xe. Tới gần mới phát hiện là vừa có vụ va quẹt và hai tài xế đang căi nhau, người đi đường ngang qua ai cũng lắc đầu.
Chuyện va quẹt trên phố đông như Sài G̣n giờ tan tầm là chuyện cơm bữa, nếu cảm thông và chia sẻ được th́ có lẽ người ta sẽ nhẹ nhàng cho qua, tôi nghĩ vậy!
Môi trường nhiều mầm mống bạo lực
Thường người ta sẽ nổi nóng khi gặp một chuyện bất như ư nào đó, như vừa bị sếp la, ra cổng cơ quan bảo vệ đùa một câu, liền sân si. Nỗi buồn, sự bực bội là thứ năng lượng chi phối hành xử khiến người ta không thể kiềm chế được cơn tức dâng lên, lây sang người khác.
V́ vậy, có người dễ nổi nóng đă cảnh báo: "Thấy tôi ‘khó ở’ là tránh xa xa giùm, không ăn mắng ráng chịu". Theo đó, người nóng lâu ngày họ cũng biết tính khí của ḿnh nên có "chống chỉ định" chuyện nói đùa, tiếp xúc lúc họ đang không vui, căng thẳng. Thực ra, khi quá mệt mỏi, phiền muộn trong ḷng, ta không c̣n giữ được ḿnh.
Có người bạn của tôi b́nh thường hiền queo, ai nói ǵ cũng cười. Bỗng một ngày, tôi hỏi "sao buồn dữ rứa?" lại bị bạn nạt cho một câu nghe chưng hửng. Trời, bạn ḿnh đây sao? Mới đầu tôi phản ứng vậy, nhưng chợt dừng lại v́ nhớ ra, đây không phải là bản chất của bạn. Có thể bạn đang có một nỗi niềm, áp lực từ cuộc sống, gia đ́nh, t́nh yêu hoặc bản thân đang trải qua bệnh tật, sự cố…
Ai cũng có lúc nóng giận, nếu ḿnh hiểu th́ sẽ không khiến ngọn lửa trong họ cháy phừng. Tôi im lặng và không bỏ mặc, cuối cùng cũng nghe được thổ lộ từ bạn. Bạn bị nhiều áp lực trong công việc: sếp chèn ép, đồng nghiệp t́m cách chơi khăm, lương không cao, phải chật vật trang trải cuộc sống…
Tất nhiên, nhiều người khó khăn hơn nhưng họ không nổi nóng. Đó là tính cách và sức chịu đựng của từng người. Sự nóng tính là một thói quen được huấn tập hằng ngày theo nguyên lư:
"Thói quen tạo nên tính cách, tính cách tạo nên số phận".
V́ thế, các chuyên gia tâm lư khi chia sẻ với tôi về thói vũ phu của chồng vẫn thường lưu ư, có thể anh ấy từng bị bạo hành lúc nhỏ, từng sống gần những gia đ́nh lớn tiếng, ồn ào đánh căi nhau như cơm bữa.
Sự tác động của cuộc sống xung quanh lên tính cách con người theo hướng đó được ông bà xưa đúc kết rằng "gần mực th́ đen". Cái đen đó cần có thời gian thanh lọc để dần trắng, nhưng nếu vẫn tiếp tục nuôi dưỡng trong môi trường đen hơn th́ sẽ đen đậm hơn.
Ngày nay các văn hóa phẩm mang tính bạo lực vẫn đầy rẫy trên mạng và tồn tại trong cuộc sống, giải trí của nhiều người: từ game online đến phim ảnh. Thường ngày tiếp xúc với sự đánh đấm, máu me trong các "thức ăn tinh thần" đó khiến năo quen với những "mùi vị" của bạo lực, từ đó hành xử theo.
Những kẻ "giang hồ mạng" được ngưỡng mộ và thu tiền trăm triệu cũng chính là một "h́nh tượng" khiến người ta thay đổi suy nghĩ: cần ǵ học hành, tử tế, chỉ cần có "số má" là có thể lên đời.
Môi trường bên ngoài đă vậy, trong nhà trường, gia đ́nh cũng đầy mầm mống bạo lực, tránh sao người trẻ không hoang mang và hành xử theo cách tương tự. Đây mới là điều đáng lo, và người lớn muốn thay đổi không khí bạo lực lan tràn th́ chính bản thân phải nỗ lực để ứng xử nhẹ nhàng với nhau trước.
Nhẫn để yêu thương
Không thể có kết cục tốt với những người nóng nảy. Nhân vật Trương Phi trong Tam Quốc Chí là h́nh mẫu của nóng tính dẫn đến hư sự và mang họa sát thân. Ai cũng nóng nảy trong hành xử th́ chiến tranh sẽ nổ ra, thương vong là tất yếu.
Một câu nói đùa cũng thành chuyện lớn v́ con người ta quá nóng, quá hung dữ; đi nhậu lo hát karaoke cũng bị đánh chết th́… ôi thôi, cuộc sống quá kinh khủng. Pháp luật cần nghiêm minh để trừng trị việc vô cớ đánh, giết người nhưng đó là xử lư phần ngọn, c̣n cái gốc vẫn là giáo dục.
Làm sao để con người có thể chậm lại để phân tích kỹ hơn từng câu nói, từng biểu hiện của người khác, trong đó có thân nhân, bạn bè ḿnh để không chụp mũ rồi hành xử như người điên, người say?
Sống thiền hay b́nh tĩnh sống, sống chậm, sống có chánh niệm… là những cách sống theo tinh thần "nhẫn để yêu thương". Đầu tiên là thương ḿnh. Một người chỉ được người khác tin tưởng, nể trọng và giao việc khi có sự chín chắn, điềm tĩnh trong xử lư. Như vậy, người sống có lư trí, điềm tĩnh chính là cách sống lợi lạc tự thân.
C̣n cái lợi cho người xung quanh, nhất là người thân - thương th́ cũng dễ dàng để thấy. Con cái sẽ học được nhiều điều hay ho từ bố mẹ có cách sống nhẹ nhàng, t́nh cảm. Đó mới là gia tài quư giá để lại cho con.
Hành xử nóng tính dẫn tới hư việc, hại người th́ ṿng lao lư chờ ḿnh là chắc chắn. Một khi đă gây ra sự cố mới hối th́ đâu c̣n kịp. Nhiều người b́nh luận thiếu niên 16 tuổi rút dao đâm chết người nhắc ḿnh chuyện chạy xe chính là "anh hùng rơm", chứng tỏ với bạn gái nhưng rồi được ǵ sau lần ra tay đó? Tù tội và có thể mất luôn bạn gái.
Ai đợi và ai chấp nhận một người giết người làm người yêu, người chồng, người cha tương lai?
Thực ra, sân si - ai cũng có. Cái chính là cách quản lư năng lương tiêu cực đó để những năng lượng tích cực phát triển. Để làm được điều đó, phải xây dựng lối sống nhân văn từ chính mỗi gia đ́nh, người lớn dạy trẻ nhẫn nhịn để an lành như ông bà ḿnh nhắc "một câu nhịn chín câu lành".
Tôi Bắc kỳ xin nói thật cho các bác miền Nam biết là nhờ có giải phóng nên dân Bắc chúng tôi mới biết cái quạt Hitachi của Nhật nó như một nàng tiên đứng cạnh cái quạt Con Cóc ghẻ c̣n gọi là quạt 35 đồng do miền Bắc sản xuất.
Mới biết được có cái đài chạy băng catssete + cái AKai chạy băng cối lại cất giữ được giọng hát chất lượng cao của mấy cô ca sĩ trong sợi băng từ . Mới biết đôi dép ś bô đế cao đi êm và nhẹ . Mới biết được mái tóc phụ nữ có thể làm xoăn kiểu uưt bi cho đẹp hơn buộc kiểu đuôi gà . Mới biết được gói bột gặt VISO ḥa vào nước để ngâm cho dễ giặt chứ không phải luộc quả bồ ḥn để lấy nước giặt hay dùng bánh xà pḥng 72% của Liên Xô thâm th́ cứng ngắc đáp chết chó mèo
Mới biết được dân miền Nam đi xe máy và ô tô nhiều hơn xe đạp . Mới có được những đồ chơi bằng nhựa như búp bê nhắm mở mắt , ô tô , máy bay ,chú ếch xanh chạy cót tinh xảo cho trẻ em.
Và đặc biệt hơn là mới biết được có cái nhà xư rất hay có thể làm chung cùng nhà tắm và chỉ cần xả nước một cái là sạch sẽ không mùi chứ không như cái nhà xư lộ thiên đầy ruồi nhặng mà mỗi lần đí đại tiện xong lại phải ra đầu gió đứng 15 phút để gió thổi bớt mùi đí rồi mới dám vào nhà không th́ mọi người lại tưởng ḿnh vừa đi ăn lẩu thập cẩm đó là chưa nói tới cái khoản phải có kỹ năng ṿ nát tờ giấy vở để nó tơi và mềm ra th́ mới có cái mà chùi các bác ạ ! V́ làm chó ǵ có giấy chuyên dùng cho vấn đề này.
Trước 30/4 /1975 ngồi nhà đèn dầu nghe loa phát thanh tuyên truyền các bác miền Nam khổ lắm bị chính quyền dồn vào ấp chiến lược khống chế quyền tự do đi lại rồi bị áp bức đói khổ mà chúng tôi đau ḷng và cứ thương các bác miền Nam quá !
Té ra chúng tôi ăn khoai sắn nằm ổ rơm hút thuốc lào nghe loa công cộng tối ngủ nóng hết cả bụng lẫn cổ họng lại đi thương các bác ăn cơm thịt ḅ cá kho tộ nằm đệm mút máy lạnh xem ti vi nghe nhạc trữ t́nh.
Thôi th́ hoàn cảnh giờ nó vậy lỗi do CS nó đang trong giai đoạn tiến hóa thành người nên có đối xử với các bác chẳng ra sao cả .
Chứ dân đen ngoài Bắc chúng tôi đâu có sung sướng ǵ , cuộc sống đói khổ mù mịt thông tin , nghèo nàn văn hóa bị CS khống chế sổ mùn sổ gạo ép ra chiến trường rồi sinh Bắc tử Nam đau thương cũng ngút ngàn sống không bằng chết.
Nhưng trong tâm trí rất nhiều người dân Bắc chúng tôi luôn cảm ơn miền Nam đă giải phóng chúng tôi khỏi cái tầm nh́n tăm tối , bớt đi cái khổ phần nào v́ đống tài sản khổng lồ của miền Nam đă được chuyển nhiều ra Bắc cùng lượng hàng hóa phục vụ đời sống nhất là đồ nhựa và linh kiện phụ tùng xe đạp do miền Nam mặc dù bị CS chủ trương tiêu diệt tư bản tư doanh nhưng vẫn cố gồng ḿnh sản xuất để những người làm thương mại mà ngoài Bắc thời đó gọi là con buôn , con phe đưa ra ngoài Bắc góp phần cải thiện hẳn đời sống dân Bắc chúng tôi
Nếu viết tiếp th́ c̣n dài miên man lắm các bác ạ .
Nhưng chỉ cần chừng đó thôi cũng đủ để tôi chẳng biết nói ǵ hơn ngoài hai chữ Cảm Ơn xuất phát từ đáy ḷng !
Chúng Tôi Vẫn Sống - Huỳnh Kỳ Anh Tú (Danlambao)
Tôi là một bác sĩ, sinh ra và lớn lên tại Sài G̣n nhưng sau này tôi đi du học và đă định cư tại nước ngoài từ lâu. Nhân tháng 4 năm nay, tôi muốn viết một thông điệp cho gia đ́nh, bạn bè tôi, cùng tất cả những người từng là công dân Việt Nam Cộng Ḥa, con cháu của họ, nhất là những đứa trẻ cùng thế hệ 8X như tôi.
Cha tôi là một sĩ quan quân lực VNCH, cấp bậc trung úy. Ông có may mắn hơn nhiều bạn bè, khi chỉ phải đi tù cải tạo một thời gian ngắn. Năm 1979 cha tôi ra tù và về sống ở Sài G̣n (xin lỗi v́ tôi không thể viết tên của kẻ tội đồ dân tộc ḿnh), một năm sau tôi sinh ra.
Từ khi tôi biết nhận thức thế giới xung quanh cho tới năm 18 tuổi, cha và mẹ không bao giờ nói với tôi bất cứ điều ǵ có liên quan đến chính trị hay nói xấu chế độ mới. Cha tôi sống hiền lành, nhẫn nhục nuôi con cái, ḥa đồng với tổ dân phố. Cha ghét chiến tranh và không bao giờ nhắc đến thời chiến đấu xa xưa của ḿnh, đến mức không cho tôi chơi những món đồ chơi như súng, máy bay. Mẹ tôi th́ cấm tôi nghe nhạc vàng hay những bài ca về lính, dù vậy sau này tôi vẫn lén nghe. Họ để cho tôi tự do lựa chọn con đường ḿnh đi, ngay cả tôn giáo. V́ thế những ǵ tôi viết cho các bạn xem dưới đây là do chính bản thân tôi nhận thức được từ cuộc sống xung quanh ḿnh.
Với tính cách giang hồ lăng tử của cha tôi, trước 30 tháng 4 ông vốn đă không coi trọng tiền bạc, không nhà cửa, tiền vàng, chỉ có 2 bàn tay, chiếc xe máy cùng người vợ hiền nên sau 30 tháng 4 ông không mất ǵ cả về vật chất. Tuy nhiên, nỗi mất mát về tinh thần ám ảnh ông suốt đời như một vết thương không bao giờ lành được.
Nhà tôi rất nghèo, lại phải chịu bất công từ mọi phía: Mẹ tôi bị ép phải nghỉ sớm do lư lịch của cha, bà phải đi buôn thuốc men, thực phẩm để nuôi tôi lớn. Lúc tôi 3-4 tuổi cha tôi đi làm vắng nhà cả ngày, ông làm đủ thứ nghề, buôn bán hàng phế liệu, đạp xích lô, đến tối mịt mới về nhà. Ngày nghỉ ông chở tôi lang thang trên các con đường ở Sài G̣n bằng chiếc xe đạp. Đường phố Sài G̣n thập niên 80 c̣n hoang vắng, tôi để ư một điều là ông luôn gọi những con đường bằng tên cũ, chỉ cho tôi những ṭa nhà và tên gọi của chúng, nhiều khi tôi thấy ông dừng rất lâu ở một nơi nào đó và khóc.
Lớn lên một chút, ông luôn t́m cách hướng tôi về những điều chân thiện mỹ, thay v́ phó mặc cho sự nhồi sọ của trường lớp, đội nhóm. Tôi c̣n nhớ ông mua sách báo cũ thời VNCH cho tôi đọc, nhất là Thiếu Nhi tuần báo. Ngày tôi được kết nạp đội, cha tôi ôm tôi vào ḷng và ông rất buồn, nhưng ông dắt tôi đi xem phim Batman và đêm đó trước khi ngủ ông đă kể cho tôi nghe rằng ông đă phải đi bộ hơn 5 cây số để mua sữa cho tôi uống như thế nào.
Tôi nh́n ra rất sớm sự giả dối, bất công, ngay trong trường lớp của ḿnh, những bài văn mẫu, những người thầy ép học sinh học thêm tại nhà, những bài học lịch sử dối trá.
Tôi muốn nói một điều với các bạn cùng lứa tuổi rằng thế hệ sinh ra năm 78-80 tại Sài G̣n như chúng tôi PHẢI nhận thức rơ một điều: Dù thể chế Việt Nam Cộng Ḥa đă chết vào ngày 30 tháng 4, 1975, nhưng nó vẫn tiếp tục cưu mang, nuôi dưỡng những đứa trẻ như tôi bằng tất cả máu thịt c̣n sót lại. Bọn cộng sản KHÔNG góp một chút công ơn nào hết trong việc nuôi dưỡng, che chở và giáo dục chúng tôi; thậm chí ngược lại là khác, chính bọn chúng là nguyên nhân gây ra mọi đau khổ, bất công, rủi ro cho số phận những đứa trẻ sinh ra giai đoạn này.
Tôi ra đời trong một nhà bảo sinh của VNCH, khi tôi đau ốm, các bác sĩ và nữ hộ sinh được đào tạo từ ngành y tế VNCH đă chăm sóc cho tôi, dù họ là những người bị ngược đăi, phải sống cực khổ ăn không đủ no v́ chính sách nô dịch của cộng sản nhưng họ vẫn giữ trọn y đức và trách nhiệm. Từ khi cắp sách đến trường tôi may mắn hơn những đứa trẻ miền Bắc v́ được che chở dưới những lớp học, mái trường do cha anh chúng tôi, công dân của VNCH xây nên, chúng tôi may mắn được xem phim trong những rạp ciné hiếm hoi c̣n sót lại ở Sài G̣n của VNCH.
Trong khi đó, bọn cộng sản Bắc Việt đă làm ǵ cho chúng tôi? Từ tuổi sơ sinh, toàn bộ trẻ em như tôi phải chịu cảnh suy dinh dưỡng, ăn không đủ no, không có sữa để uống. Cha mẹ chúng tôi phải chạy ăn từng bữa, hy sinh những ǵ tốt nhất cho chúng tôi trong khi họ phải ăn độn bobo, khoai ḿ. Khi đau ốm bệnh tật không có đủ thuốc men chữa trị, phải đi vay mượn, đi mua kháng sinh ngoài chợ đen. Chúng tôi lớn lên, đứa th́ lùn đứa th́ c̣i xương, tội lỗi đó là do ai gây ra? Khi đi học chúng tôi bị nhồi sọ bằng những chuyện dối trá nhảm nhí, bị những cô giáo xă hội chủ nghĩa đánh đập không thương tiếc, phải đi nhặt lon, nhặt rác,dùng những cuốn sách giáo khoa cũ nát, đen thui, đêm về phải học bài dưới ánh đèn dầu tù mù, chịu nóng, muỗi đốt để mà kiếm cho được tấm giấy khen vô nghĩa. Lớn lên một chút, chúng tôi lại bị những thầy cô giáo bóc lột đến tận cùng bằng những chiêu tṛ dạy thêm tại nhà, ai không đến nhà thầy học thêm th́ bị đ́, bị đối xử bất công trên lớp. Lúc trưởng thành ra đời th́ tương lai u tối v́ 2 chữ lư lịch gia đ́nh, phải hối lộ đút lót khắp mọi nơi mới kiếm được miếng ăn.
Tôi lại muốn nói điều này cho bọn cộng sản và con cháu của chúng hiểu: Việt Nam Cộng Ḥa vẫn sống, và chưa bao giờ chịu khuất phục bởi bạo lực và sự đàn áp của cộng sản. Những người con của thế hệ VNCH vẫn sống, dù nhẫn nhục nhưng không cúi đầu, không bao giờ chấp nhận đi chung đường với điều ác và dối trá. Bọn cộng sản không bao giờ khuất phục được ư chí và tinh thần của những công dân VNCH, chúng không bao giờ hiểu được tại sao cha mẹ chúng tôi đặt tên cho con cái ḿnh là Nguyễn Đ́nh Bảo, Nguyễn Khoa Nam hay Phan Nhật Nam (cha tôi đặt tên cho tôi là Huỳnh Kỳ Anh Tú, và tôi tự hào v́ điều đó!). Tại sao mấy chục năm nay người ta vẫn thích nghe nhạc của Lam Phương, Trần Thiện Thanh, Trúc Phương và ḍng nhạc này đang hồi sinh.
Bọn cộng sản muốn trả thù hèn hạ con cháu của VNCH bằng cách xét lư lịch th́ chúng tôi, những công dân VN CH cũng dùng lư lịch, căn cước của cha anh ḿnh như một dấu hiệu nhận diện nhau, đùm bọc nhau. Cuộc đời tôi đă trải nghiệm không biết bao nhiêu sự ưu đăi, giúp đỡ từ bạn bè của cha tôi, hay thậm chí những người xa lạ, mỗi khi họ t́nh cờ biết cha tôi từng là sĩ quan quân lực VNCH, một người thầy nổi danh đă nhận tôi vào lớp luyện thi đại học và miễn học phí (hơn 2 triệu đồng) v́ tôi là con của lính VNCH, nhiều bác sĩ đă chữa bệnh cho tôi hồi nhỏ không nhận thù lao khi biết cha tôi từng đi lính, một linh mục tại nhà thờ Ḍng Chúa Cứu Thế dạy kèm tiếng Anh và tiếng Pháp cho tôi suốt 3 năm mà không lấy tiền.
Bọn cộng sản cũng không bao giờ hiểu được tại sao bên cạnh chúng không bao giờ có mặt những người trí thức, nhân tài hậu duệ của VNCH, v́ những cá nhân này không bao giờ chấp nhận vào đoàn thanh niên cộng sản, không bao giờ đi làm cho nhà nước, và một khi ra nước ngoài du học không bao giờ quay trở lại để phục vụ cho chúng, chúng có kêu gào 1000 năm nữa và dụ dỗ bằng tiền tài hay danh lợi, những người này cũng sẽ không bao giờ trở về cộng tác với chúng. Chúng chỉ t́m thấy những kẻ cơ hội, bợ đỡ, bất tài và ngu ngốc chấp nhận làm nô lệ cho chúng mà thôi.
Đối với một số người, ngày 30 tháng 4 có thể là ngày đau buồn, họ cho đó là quốc hận; một số những kẻ ăn trên ngồi trước th́ hoan hỉ ăn mừng, mừng cho việc họ đă giết, cướp chính anh chị em một nhà của ḿnh, nhưng tôi nhận rơ một điều là Việt Nam Cộng Ḥa vẫn chưa chết: Sài G̣n có thể bị chiếm đóng, chúng ta có thể bị đô hộ, nhưng công dân và hậu duệ của VNCH vẫn sống,vẫn vươn lên, vẫn đang giúp đỡ nhau. Chúng tôi miễn dịch với mọi sự dối trá và độc ác của cộng sản, nhiều người vẫn đang đi t́m tự do, và sẽ có ngày chân lư sẽ chiến thắng.
Chính Sách Đưa Sĩ Quan An Ninh Vào Vai Trụ Tŕ Chùa - LS Lê Công Định
Hình minh họa
Năm 2007, nhân các anh Lê Quốc Quân và Phạm Hồng Sơn đi tù về, tôi có dịp ra Hà Nội làm việc, tiện thể ghé thăm các anh.
Anh Lê Quốc Quân quen ông Từ gác một ngôi cổ tự bên bờ Hồ Tây, nên rủ chúng tôi đến viếng cảnh chùa đêm trăng rằm. Sân chùa vắng lặng, bốn người ngồi đàm đạo thế sự dưới ánh trăng. Lúc trà dư tửu hậu độ 10 giờ khuya, chú Sư Trụ Tŕ chạy xe Honda Wave về, dựng chân chống giữa sân chùa.
Ông Từ già nh́n ra bảo, "hắn đi chơi gái mới về đấy!" Ba chúng tôi trố mắt nh́n nhau không hiểu. Ông Từ chậm răi giải thích, th́ ra chú sư ấy, khoảng ngoài 30 tuổi, là sĩ quan an ninh được Giáo hội Phật Giáo Việt Nam "thuyên chuyển" về làm trụ tŕ độ hai năm trước.
Thấy chúng tôi vẫn điềm nhiên đàm đạo sau khi chào sư thầy, và không có vẻ muốn về ngay, sư thầy sốt ruột quá nên ra giữa sân đứng chống nạnh câng mặt nh́n lườm lườm. Chúng tôi hiểu ư, vội vă đứng lên dọn dẹp chuẩn bị về.
Song không c̣n kịp, v́ sư thầy đă nổi nóng, chú lớn tiếng văng tục mắng chúng tôi ra rả, tai ai cũng đầy mấy tiếng ĐM mà sư thầy tụng liên hồi như súng đại liên. Ông Từ bực bội v́ khách ḿnh bị mắng vô cớ, nên mắng lại chú sư: "Đồ mất dạy!"
Không ngờ bị mắng lại như thế, chú sư nổi xung thiên, tóm ngay một cây gậy dài dựng trước cửa pḥng, rượt ông Từ già chạy ṿng quanh sân, mồm tụng tiếp: "ĐM, tao đập chết mẹ mày!" Ba chúng tôi lật đật nhảy vào can gián, rồi xin lỗi ra về.
Trên đường về, anh Phạm Hồng Sơn luôn miệng tự trách sự sơ suất của chúng tôi khi không tự canh giờ về sớm hơn để tránh xảy ra sự việc đáng tiếc đó.
Nay trước t́nh cảnh sa đọa ngày càng nghiêm trọng của Phật giáo tại Việt Nam bỗng nhớ đến câu chuyện trên, xin kể lại quư bạn nghe cho vui. Quả thật, chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc, Phật giáo lại biến chất như thời cộng sản quỷ quái ngày nay.
Con ghi lại bài này thay cho nén hương ḷng để thành tâm tưởng nhớ đến Bố Mẹ nhân ngày giỗ Bố lần thứ 8 và giỗ Mẹ lần thứ 7 (Đào Nam Ḥa)
Tôi không biết bắt đầu câu chuyện từ lúc nào, nhưng có lẽ ấn tượng nhất và rơ nét nhất mà hầu hết người dân miền Nam Việt Nam nhớ măi là ngày 30/4/1975.
Khi miền Nam sụp đổ cũng là lúc bất ngờ tất cả nỗi thống khổ đày đọa ập xuống. Nhanh như một cơn cuồng phong thịnh nộ phá nát tan hoang. Mất tất cả!
Ngày 10/06/1975 tôi vẫn c̣n nhớ rất rơ. Trước khi đi cái gọi là “học tập cải tạo” 10 ngày, dù với suy nghĩ chỉ là 10 ngày như lời thông báo, cha tôi cũng không có lấy mấy ngàn dằn túi. Ông bảo tôi (lúc đó 19 tuổi) đem 2 chỉ vàng cuối cùng c̣n lại của gia đ́nh - là đôi bông tai của bà nội tôi để lại - ra tiệm vàng bán. Đó là kỷ vật quư nhất nhưng đành phải bán để mua ít lương thực cho ông mang đi. Hai chỉ vàng lúc ấy bán được 33 ngàn. Ông mua khoảng 2 ngàn đồng lương thực các thứ và dằn túi 1 ngàn. C̣n lại 30 ngàn ông dặn ở nhà cố gắng 13 mẹ con dè xẻn ăn uống đợi Ông về.
Mười ngày trôi qua nhanh chóng - không ai trong số cải tạo trở về. Tôi nghĩ đây là một cú lừa mà đă và sẽ được lịch sử ghi lại kỹ hơn. Giá sinh hoạt tăng từng giờ. Buổi sáng 100 đồng 1 ổ bánh mỳ th́ chiều đă lên 120. Sau 3 tuần th́ 12 anh em tụi tôi và mẹ tôi không c̣n một đồng nào trong nhà. Chị tôi lớn nhất 21 tuổi c̣n đang đi học, và em út mới có 2 tuổi. Mười hai con tàu há mồm tuổi đang lớn nuốt bao nhiêu cho đủ! Cơm và thức ăn mỗi bữa mẹ tôi phải chia cho từng đứa. Vài hột cơm sót nơi đáy nồi cũng không yên. Chúng tôi đổ nước vào và cạo sạch không c̣n một hột. C̣n hơn là gạo châu củi quế.
Mẹ tôi và vài đứa em phải đi xâm canh làm ruộng rau muống, một h́nh thức của kinh tế mới để giăn dân,. Không lên voi nhưng phải xuống chó, mẹ tôi và em tôi ngày ngày vào ruộng hái rau muống xong gánh bộ về tới chợ cách đó 6 cây số để bán. Buổi sáng khoảng 3 giờ khi trời c̣n mờ mịt hơi sương và giá lạnh, mẹ và em tôi thay nhau gánh bộ cho kịp phiên chợ sáng. 70 bó rau oằn trên vai người phụ nữ nhỏ bé cao 1,45 nặng chưa tới 40Kg. 6kg rau mới đổi được 1 kg gạo. Một tuần mới cắt được một lần chờ cho rau mọc. Những ngày c̣n lại là cấy rau, nhổ cỏ, trồng khoai mỳ… Sức ăn trước ngày 30/4/75 của gia đ́nh tôi một bữa là 3 lít gạo, tức 1 tuần 42 lít, khoan nói chuyện thức ăn cá mắm ǵ hết. Nay 1 tuần chỉ c̣n 13 lít!
Bắt đầu tháng 7/1975 lần lượt đồ đạc trong nhà mọc cánh nhẹ nhàng,nhanh chóng, lả lướt, bay đi theo chân những kẻ buôn hàng. Từ cái quạt trần, tôn cống, hàng rào, tủ quần áo, đài radio, giường sắt, đồng hồ treo tường, đồng hồ đeo tay… đều giă từ để về với chủ mới. Hết sạch đồ th́ mấy kẻ đi buôn bảo giở gạch bông, giở bớt tôn ngoài mái hiên, tôn trần nhà.. bán tiếp.
Bán cho đến khi căn nhà nhỏ bỗng trở nên rộng tênh v́ chả c̣n thứ ǵ ngoại trừ vài cái nồi nấu bằng củi đen thui cũng đă sứt quai găy gọng. Buổi tối trải chiếu ngủ dưới đất là xong với cái bụng lép kẹp và cơn đói hành hạ. Không biết bao lần tôi phải ăn tưởng tượng trong đêm khuya bằng cách h́nh dung mấy món ăn tầm thường ngày trước như vài con khô, miếng dừa kho, tô canh bầu.. (Mơ mà cũng hà tiện không dám mơ thịt cá hải sản.)
Bố tôi sau 6 tháng trong trại cải tạo lần đầu được viết thư về, Ông dặn khi lên thăm nuôi, không cần mang theo ǵ cả v́ trong trại có đủ mọi thứ. Hic! Ông hiểu hơn ai hết, c̣n cái ǵ để mà mang cho ông! Tôi nhớ măi ngày lên thăm nuôi ông ở trại Thanh Hoá (Hố Nai), cả nhà chỉ có 1 cái xe đạp, c̣n lại mẹ và các em tôi cuốc bộ 8 cây số mang theo 1 cái giỏ đi chợ lưng lửng với ít thịt kho mắm ruốc, 1 kư đường, 2 hộp sữa và 1 bộ quần áo. Nh́n những người đi thăm nuôi, có người gánh 2 bao đầy mà ḷng tôi trào dâng niềm tủi hổ.
Sau đợt đổi tiền ngày 22/9/1975, Chúng tôi như đàn chim vỡ tổ, tất cả bỏ học ngang, vài đứa em nhỏ tiếp tục theo mẹ làm ruộng rau muống, c̣n lại mỗi đứa một phương trời kiếm sống. Đứa lên Gia Ray vào rừng lấy củi, làm ḷ than, đứa theo xe lửa bán trà đá, hàng rong, đứa bán thuốc lá.
Hơn 3 năm sau Bố tôi được cho về để nh́n xác nhà tan hoang điêu tàn loang lở, nh́n bầy con xanh khướt, gầy rạc, tản mát. Một chị tôi bệnh tâm thần không người chăm sóc phải lang thang ăn xin đầu đường xó chợ, có lần xin không được, quá đói, chị giựt mấy miếng đậu hũ bỏ chạy, chị bị người ta phang đ̣n gánh chảy máu lỗ đầu giữa ngày bố tôi được tha về.
Bố không khóc, cũng không nói ǵ! Qua hàng xóm xin ít bông băng. Ḷng ông như xát muối! Có lẽ ông bấy giờ mới thấm sâu mệnh đề “mất Nước là tất cả mất”. Khóc lóc than van ích lợi ǵ. Giọt nước mắt chỉ làm cho kẻ chiến thắng hả hê say sưa thêm mà thôi. Rồi theo chủ trương, ông không được ở lại thành phố. Họ hàng nhà tôi đa số cũng là thành phần Ngụy quân, Ngụy quyền nên không ai giúp ǵ được cho nhau. Cuối năm 1978 Ông lên rừng Gia Ray ngay chân núi, cất túp lều nhỏ bé xiêu vẹo, ngày ngày ông và 2 em tôi sống nhờ rừng. Ai ở rừng mới biết: ăn của rừng rưng rưng nước mắt! Và từ đó chuỗi ngày lầm than, buồn thảm lại tiếp tục sau hơn 3 năm trong trại cải tạo. Đói nhiều hơn no, buồn nhiều hơn vui. Cực khổ nặng nhọc quần quật suốt cả ngày chỉ đủ kiếm vài lon gạo vài con cá khô.
10 năm sau, tôi đă làm ăn khá hơn, mua được chiếc xe máy Mini Scootter, lần đầu tiên lên thăm Ông, quà cho Ông chỉ là 1 lít rượu đế nấu bằng rỉ mật. Ông mừng lắm v́ tôi đă tương đối ổn định công việc. Trong bữa cơm hôm đó, Ông nói:
- Bố năm nay 63 tuổi rồi, cuộc đời không dành cho Bố con ḿnh được sống sum họp và đầy đủ. Dù sao các con cũng cố gắng vươn lên để thoát khỏi bệnh tật, đói khát và tù đày.
Rồi Ông chỉ tay dưới chân ngọn núi Chứa Chan:
- Nhớ lời Bố dặn, nếu Bố có chết, các con không cần quan tài làm chi cho tốn kém, cứ bó chiếu vùi thây Bố dưới chân núi là Bố mát mẻ rồi.
Thú thật, lúc ấy nếu tất cả 12 anh em tôi gom lại chắc cũng không đủ tiền mua cái quan tài loại chót. Ông biết và không muốn các con gánh nặng thêm!
Năm 1999, sau bao nhiêu là khó khăn v́ không có tiền làm hồ sơ xuất cảnh diện HO, cuối cùng th́ 4 bố con tôi cũng tới được Mỹ. Ngày lên đường mẹ tôi và 9 em phải ở lại v́ hộ khẩu lung tung không đuợc phái đoàn Mỹ chấp thuận. Bốn bố con mà hành trang vỏn vẹn có 5 va ly nhỏ và nhẹ tênh, chưa tới 1/3 tiêu chuẩn trọng lượng.
Đến Mỹ 3 anh em tôi phải đi làm ngay sau tháng đầu tiên để kiếm tiền trả nợ lúc làm hồ sơ. Bố tôi th́ ăn welfare v́ Ông đă 74 tuổi. Ban đầu hội thiện nguyện giúp thuê nhà, 4 bố con phải ở chung trong 1 căn apartment 2 pḥng ngủ cùng với 2 người nữa là 6 người. Quá chật, chúng tôi đành ra ở riêng trong khi Bố tôi được chính phủ Mỹ cho ở nhà Housing. Và từ đó Ông sống cô độc, một thân một ḿnh. Nhưng cũng là lúc Ông làm được một việc lớn nhất, to nhất, ư nghiă nhất kể từ sau ngày 30/4/1975! Hàng tháng Ông trả tiền điện và tiền nhà chưa tới tổng cộng 80$. Thức ăn th́ Ông đi xin các Hội từ thiện miễn phí. Có lần tôi giận Bố kinh khủng. Gia đ́nh tôi cố t́nh chở Ông vào 1 quán kêu cho Ông mấy món ngon, Ông từ chối, chỉ xin cho 1 diă bánh cuốn là đủ. Ông nói: Ở Việt Nam nhà ḿnh c̣n quá khổ, Bố không đành ăn ngon bên này nhưng các con đi làm vất vả cần bồi bổ, cứ ăn đi. Mỗi tháng số tiền dư c̣n lại gần 400$ Bố để dành và cứ 6 tháng Bố gởi về VN cho Mẹ và 9 đứa con c̣n ở lại.
Chị cả tôi viết thư qua có câu: “Bố ơi, nhiều lần con phải đi bán máu với số tiền 200 ngàn một lần để có tiền nuôi con. Để có 200 ngàn đồng tiền Việt, tụi c̣ máu nó đă ăn chặn mấy chặng rồi. Cầm 300$ Bố cho mà con cứ ngỡ trong mơ. Đời con chưa bao giờ cầm số tiền lớn như thế…
Phải bán 10 lần máu chỉ mới được 150$ …” Bố đọc thư không khóc! mặc dù Bố biết chị chỉ cân nặng có… 34 Kg! Hic! Gan góc đến thế là cùng! Rồi việc phải tới! Một ngày mùa đông năm 2006, tức sau gần 8 năm ở Mỹ. Tự dưng Bố kêu và đưa tôi 8.000$ và một tờ di chúc – nét chữ vẫn c̣n rất đẹp dù đă có dấu hiệu nguệch ngoạc biểu hiệu của tuổi già – trong di chúc có nói rơ:
Khi bố chết đi, bố đă hỏi cô Hoa, người của hội thiện nguyện, và biết rằng tiền hỏa thiêu không quan tài chỉ mất có 800$ thôi!. Bố nói bố không cần quan tài, không cần để nhà quàn làm ǵ cho tốn dăm ngàn, cứ để người ta đưa thẳng bố đi thiêu, trừ tiền thiêu ra, c̣n bao nhiêu con cứ làm theo di chúc gởi về cho người bên VietNam..
Sau đó mấy ngày, Bố đột qụy! Người ta đưa Bố vào trại Dưỡng lăo. Rồi Bố hấp hối. Ba anh em tôi họp nhau và quyết định làm theo di chúc của Bố. Và chúng tôi phải kư một hợp đồng với nhà thiêu. Khi Bố tắt thở, sau 1 tiếng người ta đuổi hết anh em tôi ra, trong pḥng người ta bỏ Bố vào 1 cái bao và kéo cái fermeture là xong! Quá đơn giản cho một kiếp người! Khả năng 3 anh em tôi lúc đó mới đi làm ăn lương 1 giờ 8$ (lương tối thiểu) chỉ vừa đủ tiền nhà tiền ăn. Vẫn biết có làm đám tang bỏ Bố vào quan tài bằng vàng với hàng ngàn người tham dự cũng vậy thôi v́ Bố đâu biết ǵ nữa mà sao tôi vẫn cảm thấy xót xa vô bờ. Cuối đời của một sĩ quan, từng chỉ huy hàng mấy trăm lính, từng chỉ huy mấy cung đường sắt, âm thầm, vắng lặng và quạnh hiu. Không ai biết, không ai đưa tiễn! Y như một chiến sĩ vô danh! Người ta bỏ Bố lên chiếc xe kéo, đẩy ngang chỗ chúng tôi đang đứng, tất cả con, dâu và cháu chỉ có 5 người, họ dừng lại và hỏi chúng tôi có muốn nói ǵ không. Tôi có cảm tưởng như một luồng điện lạnh chạy xé dọc sống lưng. Tôi chỉ lắp bắp nói như kẻ không hồn:
- Vĩnh biệt Bố. Từ nay Bố không c̣n phải hy sinh nữa Bố nhé. Công ơn của Bố cao hơn núi Thái Sơn Bố ạ!
Rồi họ lạnh lùng kéo Bố tôi đẩy lên chiếc xe dài, đi chỗ nào thiêu hay làm ǵ, ở đâu, chúng tôi không được biết! Họ làm theo hợp đồng. Tôi không khóc! Không c̣n nước mắt để khóc!
Hai tuần sau tôi lấy tro cốt Bố. Khi cô nhân viên nhà xác đưa hộp tro cốt ở dưới có ghi tên bố tôi, chỉ đến lúc bấy giờ, nước mắt tôi tự dưng tuôn ra đầm đ́a – vô thức!
Các bạn có biết, Việt Nam có bao nhiêu cơ quan báo chí không? Hiện này cả nước có 858 cơ quan báo in, 105 báo điện tử. Toàn bộ 64 tỉnh và thành phố của Việt Nam, mỗi tỉnh đều có ít nhất 1 đài phát thanh và 1 đài truyền h́nh. Vậy tính ra thêm 128 cơ quan phát thành và truyền h́nh địa phương. Trung ương c̣n có VTV. Như vậy tổng số cơ quan báo chí các loại là 1092 với cả triệu nhân viên. Nhưng tất cả những tờ báo này đều quy về một tổng biên tập duy nhất, đó là Vơ Văn Thưởng. Hơn ngàn tờ báo nhà nuớc nhưng không một tờ báo tư nhân nào tồn tại. Như vậy tiếng nói người dân ở đâu? Hoàn toàn không có, thế nhưng trong điều 25 Hiến pháp cho phép tự do báo chí.
Các bạn có biết, Việt Nam có Quốc hội với 487 người, th́ hết 468 người là đảng viên ĐCS, và 19 người là không đảng phái. Tỷ lệ đang viên là 96%, trong 19 người không là đảng viên ấy cũng là loại làm cảnh cho có vẻ "dân chủ" chứ thực chất những kẻ đó nhiệm vụ cũng gật mà thôi, ông Dương Trung Quốc là ví dụ. Vậy trong quốc hội CS gần như 100% là người CS. C̣n chỗ nào cho tiếng nói của dân? Hoàn toàn không có.
Vậy tiếng nói của dân ở đâu? Ở facebook - một công cụ do người Mỹ sáng tạo ra, nơi đó là duy nhất người dân cất lên tiếng nói của ḿnh. Ban đầu, các tờ báo nhà nước đều có fan page bên facebook, v́ nơi đó giúp bạn đọc dễ t́m đến bài đọc bằng một cái chạm thay v́ phải tốn nhiều thao tác hơn để vào website của báo. Chính v́ thế, các tờ báo nước ngoài đều có trang fan page để tiếp cận bạn đọc dễ dàng và cũng để quảng bá tờ báo rộng răi. Điều rất đỗi b́nh thường thế, nhưng với báo chí CS th́ hoàn toàn khác.
Vào năm 2016, Cục Báo Chí Việt Nam ra công văn 779/CBC-TTPC nhằm kiểm duyệt các trang fan page v́ trên đó, khi đọc comment người ta thấy hiện lên sự sai trái của chính sách nhà nuớc và ḷng dân không thuận những ǵ Đảng làm. Thế là hàng loạt trang fan page đóng cửa. Trong đó có trang fan page của Ban Tuyên Giáo v́ bị dân chửi dữ quá. Đặc biệt, Báo Nhân Dân không bao giờ mở fan page. Nhớ mấy năm trước đây, cổng Thông Tin Chính Phủ mở để tương tác với nhân dân, bị nhiều comment chất vấn ad không thể đối đáp được nên đă block hết những người đó.
Fan page trên Facebook là nơi duy nhất dân tương tác với chính quyền. Thế nhưng họ đă cuốn gói tháo chạy né tránh. Điều đó chứng tỏ chính quyền không có thiện chí đối thoại với nhân dân. Mặc dù có đến 1092 cơ quan báo chí nhưng chỉ làm mục đích tuyên truyền một chiều. Báo chí nhà nước né dân, và cả lănh đạọ nhà nước cũng né. Không một quan chức nào công khai nick trên Facebook. Họ không đối thoại với dân, né tránh tương tác, thay vào đó là chính quyền dùng đến công an ch́m nổi để truy lùng bắt bớ những ai dám nói lên những điều khó nghe đối với chính quyền. Đó là cách chính quyền "lắng nghe" dân.
Tiếng nói người dân bị bóp nghẹt như thế. Tiếng nói trên truyền thông không, tiếng nói trong nghị trường cũng không. Vậy làm ǵ để tiếng nói của sự thật lan toả? Chỉ c̣n mỗi người trong chúng ta nỗ lực truyền tải. Sự thật bị chặn đủ đường nên khai dân trí phải chấp nhận sự chuyển biến chậm chạp. Tự do không hề miễn phí, nó đ̣i một cái giá rất đắt. Dân tộc nào không đủ khả năng trả cho tự do một giá đắt đỏ, th́ dân tộc đó chỉ đáng là nô lệ. Muốn sang, không thể mặc măi áo của kẻ hèn được.
Tuổi Trẻ Tàu : Ước Mơ Hay Sống Vội ? - Nguyễn Thị Cỏ May
Ảnh mang tính minh họa. Nguồn Notebookcheck
Người ta thường nói lịch sử một dân tộc thuộc về những người trẻ biết ước mơ. Ước mơ là động lực làm thay đổi đất nước tốt đẹp hơn.
Có quốc gia nào mà không truyền hy vọng và ước mơ cho tuổi trẻ mà tuổi trẻ lại có được sức mạnh để xây dựng và phát triển đất nước hay không? Nước Mỹ chỉ với lịch sử hơn 200 năm đă tạo lập cho mình ngôi vị cường quốc số một thế giới, phải chăng đã nhờ ước mơ vĩ đại của những bậc tiên phong và các thế hệ sau nối tiếp?
Ước mơ thường tạo nên con người. Con người dấn thân, xây dựng. Cuộc đời không có ước mơ giống như con tàu không có bánh lái.
Một người mà ước mơ không vượt qua thỏa măn nhu cầu ở từng sinh lý cá nhơn trong hiện tại thì cũng không khác gì không có ước mơ .
Ngày nay người ta cho rằng có một bộ phận lớn tuổi trẻ không có những ước mơ về tương lai như những lớp đàn anh trước đây v́ chúng cho rằng tương lai còn xa vời lắm mà chúng chỉ muốn hưởng thụ ngay bây giờ. Nếu quả thật như vậy th́ không có ǵ buồn hơn. Không chỉ buồn cho lớp trẻ ngày nay mà còn buồn cho cả dân tộc.
Nhơn đây, qua thông tin báo chí, chúng ta thử lướt qua tuổi trẻ tàu để biết chúng có ước mơ hay không? Nếu có thì chúng ước mơ gì?
Vào trường và vào đời
Thế hệ những năm 1990, tức thế hệ con trai duy nhứt, được cưng chiều, đi học được nhồi nhét chủ nghĩa yêu nước, được tuyên truyền đất nước phát triển mạnh, nay đã trưởng thành. Chúng đang sống tại những thành phố lớn hay vừa, sung sướng, hoàn toàn, không biết những xáo trộn xã hội như những thế hệ trước. Chúng như sống trong một nhà kiếng nên phần lớn không có những giấc mơ, nhưng có quan hệ với thế giới nhờ mạng lưới xã hội.
Cả trong giới sinh viên, những người thuộc gia đình khá giả không chơi với sinh viên gia đình nghèo nên xài «hàng hiệu loại nhái» hay chỉ xài «bao bì hiệu» là để xóa đi sự chênh lệch giai cấp, ít ra ở bề ngoài.
Theo ông Yang Chunxue, nhà nghiên cúu và Phó Giám đốc Viện Khoa học Xã hội Bắc kinh, thì hiện tượng giới trẻ chạy theo thể diện như vậy là do cán bộ cao cấp đảng viên đã làm gương xấu cho xã hội ; họ thích xe xua và tôn thờ bề ngoài.
Nhiều người muốn nói cho mọi người biết họ là người thành công nên họ phải có bề ngoài hào nhoáng, sang trọng . Cách ứng xử này ảnh hưởng mạnh xã hội tàu ngày nay, khoát lên cho xã hội tàu một bộ mặt mới .
Không có tiền túi, nữ sinh trung học bán dâm
Ở Việt nam, đảng và nhà nước cộng sản cho phép nữ sinh viên bán dâm kiếm tiến dưới 4 lần. Ở Tàu, để mua sắm nữ trang, quần áo, đi chơi, nữ sinh trung học Thượng Hải tìm được cách gỉải quyết nhu cầu rất đơn giản: bán thân kiếm tiền.
Việc bán dâm, từ năm 2009, được tổ chức qua internet và điện thoại cầm tay. Hẹn nhau hoặc giới thiệu người mới. Có nhiều cô vừa hành nghề, vừa giới thiệu bạn lấy huê hồng. Qua nhiều cuộc thẩm vấn các cô bé vị thành niên này, Tòa án ngạc nhiên là các cô bé đều trả lời hoàn toàn không cảm thấy xấu hổ, mà còn hỏi lại «tại sao xấu hổ?».
Nhiều cô bé là con em gia đình khá giả, bán dâm chỉ vì thiếu tiền túi để đi chơi, mua sắm. Tất cả các cô bé cần tiền không biết bao nhiêu là đủ nên khi thấy thiếu là tìm khách hẹn nhau.
Trong số bán dâm này, có một cô làm nên sự nghiệp. Cô bé bắt đầu vào nghề năm 17 tuổi, 7 năm sau, cô bé kiếm được 2, 4 triêu yuans bằng 295 000 €.
Cô bé thuộc gia đình khá giả. Cha mẹ cho cô tiền túi hằng tháng nhưng với cô không đủ. Cô bé đang học tại một tường trung học dạy nghề ở thượng Hải. Nhìn về tương lai, cô bé thấy không có gì khả quan cả mà cô không thể chấp nhận cuộc sống vừa đủ. Cô cần có tiền mua sắm nữ trang, y phục, ăn chơi, …nên cô chọn cách kiếm tiền mau, khỏe ru, thì không có cách nào khác hơn bán thân !
Tự dưng nghe nói "nổ dzăng miểng" th́ có lẽ ai cũng hơi giật ḿnh nhưng nghĩ lại, th́ chuyện "nổ" trong nước Mẽo này là chuyện dài "nhân dân tự vệ".
Hôm rồi, "hữu duyên thiên lư năng tương ngộ" nên mới được nh́n thấy một tấm "bi-di-nít cà" (business card) của một vị ở đâu tuốt bên Tếch-xịt (Texas), ghi chép rất lộng lẫy: "Tiến Sĩ Nguyễn Văn Tuyến, chuyên viên Thuế Vụ". Người đọc rất lấy làm khâm phục v́ ít khi có vị tiến sĩ nào chê "dóp" của các cơ quan chính phủ hay tư nhân mà đi làm thuế lui cui một ḿnh. Chừng đến khi đọc kỹ lại mới biết ngài Tiến Sĩ có tới mấy cái bi-di-nít-cà lận! Cái th́ đề "chuyên viên địa ốc", tờ th́ viết "chuyên viên bảo hiểm xe, nhà, động đất..."
Hóa ra lại một ngài Tiến-Sĩ-Nổ nữa, giống như một vị khoe có mấy cái bằng tiến sĩ ở Cali, nhưng nghe người ta đồn th́ ngài nói tiếng Anh như mấy ông phương Bắc mới qua An Nam bán lạc xoong: "Ai... lồ lồng, lồ nhôm, lồ sắc, lồng hồ, dàng dụng, bạc dụng bán hôn?". Cách phát âm y hệt như một chàng sửa xe, lúc nào cũng khoe có bằng Master of Mechanic! Ngay trên tấm thiệp đề tên tiệm sửa xe, chàng đề sau tên chàng một chữ M.Ạ thật lớn, trông oai khiếp! Rồi mấy văn pḥng bảo hiểm xe hơi cũng thấy bằng tiến sĩ, văn pḥng bảo lănh thân nhân đi du lịch cũng do một ông tiến sĩ cai quản. Tạ ơn Trời, người Việt di tản tài năng thiên phú, lấy bằng tiến sĩ dễ như ăn ớt vậy! Nhưng sao lại có người cho rằng mấy ông tiến sĩ đó là "Tiến Sĩ Nổ"?
Vậy th́ bệnh "Nổ" phát sinh ở đâu ra?
H́nh như sau khi sang Mỹ, khí hậu thay đổi, từ miền nhiệt đới qua xứ lạnh, dễ bị lạnh cẳng, nhiều người di tản phải nổ đùng đùng để hâm nóng cơ thể lên hay sao ấy, nên đi đâu cũng nghe tiếng nổ? Vừa mới gặp nhau lần đầu đă vội vă khoe "nhà tôi rộng cả mấy héc-ta..", hoặc "nhà tôi trị giá trên ba bốn trăm, trả off rồi" Con cái th́ ra trường bác sĩ, kỹ sư như kiến.
Cậu nào, cô nào cũng làm cả trăm ngàn một năm. Vài vị ca tụng con ḿnh làm "hai trăm đô một giờ" và thở dài mấy hơi làm như vẫn c̣n ít lương quá. Các cô tiểu thư, theo lời của các vị làm cha mẹ, đều lấy bằng hoa hậu hết. Cô nào cũng cả chục chàng theo. Người nghe, ai cũng khoan khoái v́ dân tộc ḿnh giỏi giang, văn chương chữ nghiă cùng ḿnh, hầu như không có ai làm việc loại lao động mà người Mỹ gọi là "cổ xanh" (blue collar) cả. Lại cũng hân hoan v́ cha mẹ nào cũng bái phục con sát đất, không c̣n cảnh "cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy" nữa.
Đến thăm mấy ông bi-di-nít th́ nghe tán dương" căn pḥng này rộng mười mấy ngàn que-phít(square feet)" (có khi rộng đến vài chục ngàn que-phít) mặc dầu chỉ cần vài người khách hàng là cửa tiệm có ṃi chết đứng v́ không chỗ đặt chân. Hôm nọ, gặp một chàng khoe nhà có nuôi gà ṇi, người nghe mới buột miệng hỏi: "Ủa , ở thành phố mà nuôi gà được sao?".
Chàng bèn hất hơi cao cái cằm lên một tí và nh́n người hỏi với một cái nh́n thương hại: "Nhà tôi tuy ở phố nhưng dư điều kiện nuôi gà." Ngừng một hai giây cho câu nói thấm vào hồn người nghe, chàng mới tiếp:"Nhà tôi những mấy ác cơ (acre) lận! Mà nhà rộng mấy ác cơ là có điều kiện nuôi gà." Một chủ nhân ông ở xứ hoa vàng, có cái biệt thự trên đỉnh đồi, có hai đường đi lên đi xuống khác nhau, muốn hù người bạn Hát Ô mới sang trong một bữa tiệc họp mặt, rút cái rê-đít cà ra dí dí vào mắt chàng Hát Ô:
"Biết cái ǵ đây không? Cái này là cạc vàng, gôn cạc đấy, trị giá hai trăm ngàn trở lên, tiền đấy, muốn xài lúc nào cũng được. Anh phải ở đây hai mươi năm và đi làm lương cao mới được nhà băng nó tặng cái cạc này!"
Vừa mới qua Mỹ, chân ướt chân ráo, đi làm có mấy tít một giờ, chàng Hát Ô nghe nói cả trăm ngàn th́ đớ lưỡi, nể nang quá, v́ chắc mẩm đời ḿnh tàn tạ rồi, làm ǵ có cơ hội có cái thẻ đó. Lại gặp một ông chủ tiệm phở ăn mặc rất sang trọng. Ông chủ ngắm nghía cái cà-là-vạt mác Good-Will của chàng Hát Ô một cách tội nghiệp, rồi tự móc cái ca-la-hoách của ông ra mà dứ dứ vào người đối diện, hỏi:"Anh biết cái tai này của tôi bao nhiêu tiền không? Của Ư đấy! Gioọc Dô Ạc Ma Ni (Giorgio Armani) đấy!" Nghe mấy chữ "Gioọc Dô, Gioọc ra" được phát âm một cách trầm trọng, chàng Hát Ô ú ớ, mặt cứ nghệt ra, vẻ Cả Đẫn rơ rệt. Ông chủ tiệm phở đợi một lúc rồi mới phán:"Trên năm trăm đô đấy, chưa kể thuế!". Những tiếng mấy trăm đô cùng mùi phở ở trên người ông bay ra làm chàng Cả Đẫn lảo đảo. Chưa hết, ông lại nổ thêm một quả cho chàng lăn đùng ra: "Anh biết không, tôi có lệ là cứ mỗi năm, đúng tháng Tết và tháng hè, đến Bun-lóc (Bullocks) để mua một bộ vét, bất kể giá cả, và cũng không cần mặc làm ǵ. Ngoài ra, nếu có họp hội ǵ long trọng, tôi phải c̣m măng một bộ khác. Hăng Bun-Lóc biết thế, nên cứ ra một kiểu mới nào, lại gửi đến nhà tôi. Bây giờ, nhà tôi toàn đồ vét, mang ra bán cũng mất một thời gian!". Lấy ngón tay chỉ vào cái huy hiệu con ngựa đang co cẳng mầu xanh trên ngực áo sơ mi, ông thở dài, nhún vai: "Hồi này thú thật với anh, kinh tế xuống, chỉ dám mua cái áo này có vài trăm thôi".
Hăi hùng quá! Chủ một tiệm phở mà oai như vậy, th́ chủ một khách sạn c̣n kinh khiếp bao nhiêu! Một anh bạn trẻ khác, thấy dân mới qua đi đôi giầy có mười lăm t́ ở Payless Shoe Source, th́ tự tụt giầy ḿnh ra, giơ lên cao, ngắm nghía: "Đôi giầy Bali của Ư này sơ sơ có ba xín thôi, đi vào đă như đi trên mây vậy!". Người tuổi trẻ này lái một chiếc xe Xêlicà (Celica) mới toanh, được năm tháng th́ phải năn nỉ một tên bạn khác xài giùm chiếc xe này cho khỏi bị "tâu", v́ lương tháng không đủ cho chàng uống cà phê, sau khi đóng tiền xe, tiền bảo hiểm, tiền share pḥng… Chàng đành chịu mất toi tiền deposit khi mua xe, c̣n hơn bị tâu (tow) xe và bét rê-đít (bad credit). Bạn chàng, một người thích chơi nổ khác th́ mua cái xe Mẹc Xê Đ́ (Mercedez), nhưng chỉ khi nào đi lấy le th́ mới dám chạy, c̣n thường th́ chàng cho đậu ở gara, v́ không có tiền đổ xăng!
Với các nàng, th́ lại có lối nổ khác. Một bà chủ tiệm "neo" (nail) tre trẻ, vẻ mặt rất căng thẳng, th́ thầm với cô bạn: "Tối nay, em phải "oọc đơ" trước ở tiệm Noọc-xơrom (Nordstrom) ép chàng vào lề. Chàng xuống xe, hỏi chị muốn ǵ, chị liền cười t́nh với chàng rồi rủ chàng vào khách sạn!". Trong một tiệm bán tạp hóa, một nữ sĩ caraokê đứng hát tỉ tê vài lời rất ướt át, mặc cho các khách hàng khác, cả nam cả nữ, đứng ngẩn người ra nh́n. Chừng như hát cũng chưa đủ đô, nữ sĩ nói một hơi với mấy cô bán hàng:
"Em biết không, tuần nào chị cũng được mời đi hát ở mấy tiệc cưới rồi hội đoàn. Mỗi lần chị hát, người ta cứ ngẩn người ra mà vỗ tay." "Mà chị hay hát bài ǵ ?" "Chị ấy à, nhạc tủ của chị là Trịnh công Sơn. Chị hát không thua ǵ Khánh Ly!" Người nghe cứ tưởng tượng rằng giọng Khánh Ly mà xêm-xêm giọng chị, chắc nhạc Trịnh Công Sơn đă yểu tử tự hồi nẫm rồi.
Một vài bà phu nhân, từ xửa xưa vốn học sinh, rồi lên xe hoa về nhà chồng, nay bon chen vào chốn cộng đồng, cũng "nổ" lên bằng bộ đồ nhà binh bóng loáng, đi giầy bốt-đờ-sô cồm cộp, rồi chào tay cũng oanh oanh liệt liệt. Mà chào tay cũng đúng cách lắm, nh́n xa, tưởng ít nhất cũng mang ba hoa bạc… Hỏi ra, mới biết chồng bà cũng chưa có ngày nào biết "khởi đi bằng chân trái" như lời Dương Hùng Cường ta thán trong phim "Người T́nh Không Chân Dung" ngày xưa.
Đi thăm mấy vị cựu quân nhân, công chức th́ thấy cứ tự động thăng quan tiến chức ầm ầm. Trung Sĩ thành trung uư, hạ sĩ thành thiếu úy, nhân viên thường thành giám đốc... Người viết có dịp quen với một ông thiếu tá Cảnh Sát Đặc Biệt một thời gian lâu, măi sau mới biết ngài thiếu tá cũng là Cảnh Sát Đặc Biệt thứ thiệt, nhưng chức vụ cuối của ngài là "Hạ Sĩ Tài Xế!" của một vị thiếu tá khác! Trong nhiều cuộc lễ lạc, mấy ngài vốn chuyên viên "văn pḥng tứ bảo" biến thành Biệt Động Quân họăc Nhẩy Dù hết (h́nh như họ cho là Bộ Binh không đánh giặc hay sao ấy?).
Ai cũng mặc rằn ri cho oai. Nhưng, thật ra, mấy cái nổ trên chỉ là pháo tép thôi, chưa có "dzăng" miểng vào mặt người đối diện bằng khi một người bạn cho biết anh ta là vị tổng tư lệnh có 15000 quân hiện đang đóng tại biên giới Thái Lan, không phải ở biên giới Lào Việt, cách xa biên giới ḿnh cả mấy giờ chim bay! Tưởng tượng chỉ cần tiền nuôi ăn cho 15000 lính đó cũng đủ ná thở, chưa kể quân trang quân dụng, vũ khí, đạn dược... Rồi doanh trại cho 15000 người đó, chắc tiền điện, tiền nước, tiền phôn cũng khùng luôn! Chưa kể tiền làm vệ sinh cho hàng ngàn cái toa lét nữa! Cha chả, 15000 người không phải là con số nhỏ, làm sao chính phủ Thái Lan lại không biết cà ? Rồi tập trận, huấn luyện ở đâu ? Hễ có tập trận phải có tiếng nổ, mà nổ th́ dân chúng quanh vùng phải nghe, Việt Cộng phải thấy, vậy mà không ai lên tiếng phản đối ǵ cả ! Bộ có phép thần thông đi mây về gió, phi thân trên mái nhà, hay phù phép ǵ mà những mấy sư đoàn đó không ai nh́n thấy hết? Trong sinh hoạt chính trị, lại c̣n một lô những bộ trưởng, thủ tướng, (cũng may chưa có tổng thống!), và chủ tịch lia chia.
Những chức vụ vô thưởng vô phạt như Trưởng một hội ái hữu học sinh hay hội đồng hương cũng đều mang danh hiệu "chủ tịch". Có lẽ danh xưng "Hội Trưởng" nghe không nổ bằng danh xưng "chủ tịch" nên ai cũng đua nhau làm "chủ ", hay tại v́ đă ngấm trong tim, câu "Chủ Tịch *** vĩ đại sống măi trong sự nghiệp chúng ta" nên nhiều nguời cũng mong được điền tên ḿnh vào câu đó để thành chủ tịch vĩ đại. Số lượng chủ tịch đông đến nỗi nếu đi chợ th́ sẽ gặp chủ tịch nhiều hơn là hội viên! Và cũng từ đó mà tranh chấp nhau, thanh toán nhau tơi tả. Thông cáo, thông báo được phân phát như bươm bướm. Truyền thông, truyền thanh biến thành dụng cụ nổ tan xác nhau.
T́nh đồng hương, t́nh đồng môn, t́nh di tản, t́nh đồng đội bị nhạt đi, thay vào đó là tiêu diệt lẫn nhau một cách đau đớn. Đủ loại đạn nổ chụp bắn ra kinh hoàng. Cùng chống Cộng nhưng không chung đường lối, không chung chủ tịch là một bên biến thành Cộng Sản trước, rồi bên kia biến thành "ăng ten" sau. Cùng đồng môn một trường có tới nhiều năm học chung, lại chia hai, xé ba, rồi đâm đơn kiện nhau, dành chức chủ tịch, đến nỗi người Mỹ họ nghi ngờ tuốt luốt và cho là cộng đồng Việt phân hóa trầm trọng.
Chính quyền địa phương và các dân cử địa phương có thể v́ đó mà giảm những chương tŕnh phúc lợi cho cộng đồng, bớt "dóp" cho người Việt, không cần lắng nghe tiếng nói trung thực của ngưới Việt, có thể có kỳ thị sắc tộc với người Việt…Những chương tŕnh lớn như kêu gọi Nhân Quyền cho Việt Nam, giải thể chế độ độc tài, bất công, nhũng lạm Cộng Sản tại quê nhà đă bị mất đi một phần hữu hiệu. Các chính khách, chính quyền bản xứ nếu muốn tiếp tay với cộng đồng để chống Cộng cũng ngần ngại không biết liên lạc với bên nào mà không bị nổ chết chùm do đó họ cũng đánh bài "lờ" cho chắc ăn.
Chung quy cũng là tại tính ham "nổ", hám danh! Ô hô! Ai tai! Đau đớn thay và tức tưởi thay! Biết dến bao giờ người ḿnh mới bớt "nổ" và sống hiền ḥa như những ngày giản dị năm xưa, để danh dự của người Việt Nam ḿnh được thật sự tôn trọng, để công cuộc đ̣i Tự Do, Dân Chủ cho dân ḿnh được thành công?
Đức Phật đă chỉ dạy: "Sự sân giận là ngọn lửa thiêu đốt hết cả mọi công đức!". Và "Người nào ngăn được cơn giận dữ nổi lên như dừng được chiếc xe đang chạy mạnh, mới là kẻ chế ngự giỏi; ngoài ra chỉ là kẻ cầm cương hờ"
Có lẽ tất cả mọi người đều đă biết, thuộc ḷng câu tục ngữ rất đơn giản này: "No mất ngon, giận mất khôn".
Bụng đă no ứ rồi, th́ dầu có con tôm xuất khẩu giá trên hai chục ngàn đồng một con ăn vào cũng chẳng thấy ngon lành ǵ!
Cũng vậy, khi cơn giận nổi lên th́ người dầu đă già trên bảy mươi, hay có các bằng cấp đại học, trên đại học, cũng dễ trở nên người... ngu như thường! ("mất khôn" có nghĩa là ngu si, ám muội, vô minh rồi!).
Đức Phật cũng đă chỉ dạy: "Sự sân giận là ngọn lửa thiêu đốt hết cả mọi công đức!". Và "Người nào ngăn được cơn giận dữ nổi lên như dừng được chiếc xe đang chạy mạnh, mới là kẻ chế ngự giỏi; ngoài ra chỉ là kẻ cầm cương hờ" (1).
Tục ngữ phương Tây cũng có câu: "Sự giận dữ là cơn gió lớn làm tắt ngọn đèn thông minh".
Ngày xưa, vợ chồng chủ một hiệu bán bánh bất ḥa, căi nhau - từ nhỏ tiếng đến to tiếng.
Người ta nghe tiếng chị vợ hét lên:
- Anh đ̣i giết tôi hả? Tôi không sợ anh đâu!
Tiếng người chồng:
- Được rồi, tui nhất định sẽ giết bà!
Ông già bên hàng xóm chạy sang khuyên can họ:
- Này hai bác ơi, làm ǵ mà đ̣i giết nhau dữ vậy? Có việc ǵ khhông nên, không phải hai bác hăy b́nh tĩnh mà chỉ bảo nhau, chứ đừng nên làm thế người ta chê cười - làm sao mà dạy bảo con cháu được ?
Họ không thèm nghe lời ông già. Người vợ lại to tiếng hơn:
- Cứ giết tôi đi! Tôi thách anh đó...
Người chồng cũng chẳng nhịn:
- Hôm nay tôi nhất định sẽ giết bà!
Ông già liền đến các sạp bánh của họ, thu hết tất cả các loại bánh,đem phân phát cho những người đang bu lại xem họ căi cọ, đánh nhau.
Hai vợ chồng thấy thế, lập tức không đánh nhau nữa, vội chạy ra hỏi:
- Ô ḱa! Ông làm cái ǵ vậy? Nhà người ta buôn bán sao tự nhiên ông lại đem lấy của chúng tôi cho không mọi người?
Họ trừng mắt nh́n ông già, hấp tấp ngăn cản.
Ông già thản nhiên nói:
- Vừa rồi, bác trai nói nhất định giết bác gái; tôi nghĩ, bác gái mất rồi, th́ bác trai cũng sẽ không sống được, v́ hối hận và buồn. Vậy cả hai người đều chết, và tiệm bánh này cũng sẽ vô dụng, nên tôi đem bố thí để gây chút công đức, tiếng thơm cho hai bác đấy chứ! Làm người khó được, mà chết như thế th́ không biết đến kiếp nào được làm lại người đây?
- Không được, nếu ông đem cho hết th́ ngày mai chúng tôi lấy ǵ mà ăn đây?
Thôi chúng tôi không căi cọ, đánh nhau nữa...(2)
"Cơn gió lớn" thổi tắt đi ngọn đèn thông minh, làm cho tâm địa con người tối tăm, không c̣n trí khôn, sự sáng suốt, để hướng dẫn hành động: dễ xảy ra bao việc đáng buồn, đáng tiếc; đang và sẽ nổi lên trong ḷng mọi người...
Vậy có cách ǵ ngăn trở, dập tắt "Cơn gió lớn" hung ác, gây bất hạnh cho nhiều gia đ́nh, tạo sự bất an, rối loạn trong xă hội hay không?
Có nhiều phương cách để hóa giải, tiêu trừ "Cơn gió lớn" (hay ngọn lửa) nguy hại ấy; nhưng tựu trung cũng bắt nguồn từ bốn tâm lớn : Từ, Bi, Hỷ, Xả. Người đă có bốn tâm vô lượng diệu kỳ ấy rồi, th́ mọi trận cuồng phong cũng sẽ tiêu tan.
Ngày xưa, Thầy tôi có dạy : "Khi cảm nhận có điều bất b́nh, không được như ư, có thể đem lại sự sân giận; con hăy nhớ, đọc ngay câu này : "Nói là ngu, im lặng là khôn"... Đó là đức nhẫn nhục rất cao quư sẽ mang lại cho ta cho người sự an b́nh, hạnh phúc...".
Thầy giảng dạy cho tôi về giá trị to lớn của chữ "Nhẫn nhục": Tục ngữ cũng có câu "Một câu nhịn, chín câu lành". Người có đức tính "nhẫn nhục" là người có tâm hồn rộng lớn, có t́nh thương yêu chân chính, bao la. Đức hạnh "nhẫn nhục" là hạnh thứ 3 trong 6 hạnh mà Chư Bồ Tát luôn hành tŕ để tế độ (lục độ) cho ḿnh cho người.
Và Thầy đă kể cho tôi nghe về sự tích của câu "Bách nhẫn hóa thiên kim" (100 nhẫn hóa ngàn vàng) : Ngày xưa, ở làng nọ, có ông lăo nổi tiếng về đức "nhẫn nhục". Cả huyện ai ai cũng mến phục. Bữa nọ, trong ngày làm lễ thành hôn cho cậu con trai út, có một ông già hành khất, đến ăn xin. Ông không chịu ngồi ăn chung với quan khách, cũng chẳng chịu ngồi ăn riêng một cỗ, mà lại đ̣i ngồi ăn trong bàn họ.
Ông lăo gia chủ cũng vui vẻ chấp thuận sau khi xin phép hai họ. Buổi chiều , tiễn họ về, quan khách đă vắng; ông già khất thực chưa chịu ra đi! Lăo gia chủ vui vẻ dọn cơm. Đến tối, ông già đ̣i ngủ lại. Lăo ta sốt sắn cho người nhà dọn riêng một pḥng tươm tất. Ông già không chịu ngủ ở pḥng ấy, lại đ̣i vào ngủ ở pḥng "tân hôn" được trang hoàng lộng lẫy!
Lăo gia chủ đưa con sang pḥng khác, dành pḥng "tân hôn" cho ông ta theo ư muốn của ông.
Hơn 8 giờ sáng chưa thấy ông già khất thực dậy ăn điểm tâm, lăo gia chủ khẽ đẩy cửa bước vào: không thấy ông già xin ăn đâu cả, mà lại thấy nguyên một pho tượng bằng vàng ṛng óng ánh! (3)
"Cơn gió lớn" sẽ nổi dậy trong ta bất cứ lúc nào, v́ điều bất như ư luôn luôn xảy ra trong đời sống thường nhật. (Mà có cuộc sống nào luôn suôn sẻ, "Vạn sự như ư" đâu?). Sự im lặng trước mọi nghịch cảnh, nghịch lư, là điều vô cùng cần thiết, để ta đủ thông minh, sáng suốt, có thể quyết định chính xác, đúng đắn; tránh được mọi suy nghĩ chủ quan, dẹp được cái "ngă" tự cao mù quáng - sẽ đem lại nhiều an vui, lợi ích thiết thực cho ta và cho người. Chỉ trong phút chốc giận dữ, ngọn lửa hung bạo sẽ thiêu đốt hết mọi công đức tích chứa nhiều tháng năm, thậm chí đến nhiều kiếp.
Vậy luôn tỉnh giác, xin đừng bao giờ để cho "Cơn gió lớn thổi tắt ngọn đèn thông minh" vốn có trong ta nhé!
Trong chuyến viếng thăm tiểu bang Utah, tôi đi thăm hầu hết các thắng cảnh nơi đây.
Thủ phủ của tiểu bang là Salt Lake City. Hồ nước mặn Great Salt Lake rộng mênh mông nằm trong vùng đồi núi Rocky Mountains cao hàng ngàn bộ cách mặt biển. Độ muối trong nước cao gấp năm lần nước biển đại dương. Một kỳ công của Thượng Đế đă ưu đăi cho vùng đất cao nguyên này.
Utah c̣n là Thánh địa của đạo Mormon, đang phát triển rất mạnh. Đến Utah không thể không đến viếng Mormon Temple. Một thắng cảnh, một kỳ quan có chiều dài lịch sử gắn liền với sự khai khẩn, xây dựng và phồn thịnh của Utah. Đạo Mormon (Mạc Môn) c̣n tên gọi khác là Đạo LDS viết tắt của chữ Latter Day Saints, có nghĩa là Giáo Hội Các Thánh Hữu Ngày Sau của Chúa Jesus Christ (The Church of Jesus Christ of Latter Day Saints). Đền thờ trung tâm có sáu ngọn tháp cao chót vót xây dựng suốt bốn mươi năm mới hoàn thành. Trung tâm giáo hội (Temple Square) trải rộng 35 mẫu Anh là một quần thể kiến trúc vĩ đại, tân kỳ, lộng lẫy và trang nghiêm. Trên đỉnh tháp đền thờ (Temple Of The Lord) cao vút là tượng một người đàn ông bằng vàng đứng thổi kèn. Đây là tượng của vị thiên sứ ánh sáng Moroni hiện ra vào ngày 21 tháng 9 năm 1823. Ngài soi dẫn cho tiên tri Joseph Smith đương thời biết nơi chôn giấu biên sử cổ xưa. Sách ấy chứa đựng trọn vẹn Phúc Âm vĩnh cửu do chính Đấng Cứu Rỗi đă ban cho các dân tộc. Từ đó, kinh sách Mormon được dịch và viết ra dựa vào bảng khắc bằng vàng (Gold Plates) chôn cất trên đồi Cumorah gần làng Manchester thuộc tỉnh hạt Ontario, tiểu bang New York từ năm 421 sau Thiên Chúa. Toàn bộ sách Mormon là lời rao giảng của Chúa Jesus Christ giữa người Nephites không lâu sau khi Chúa phục sinh. Ngài tiên tri Joseph Smith c̣n được Chúa khải thị viết nên tập Giáo Lư và Giao Ước.
Luật tiểu bang Utah không cho mở ṣng bài và các h́nh thức đánh bạc công cộng. Các chợ chỉ bán bia với nồng độ 3 phần trăm. Kết hợp với "Lời Thông Sáng" của đạo Mormon, đạo hữu không cờ bạc, không hút thuốc, không uống các loại nước có ga và có màu khiến cho đời sống nơi đây yên b́nh hơn, ít tội phạm hơn so với t́nh trạng chung trên đất Mỹ. Và có thể nói là môi trường thích hợp cho tuổi thơ được nuôi dưỡng và lớn lên trong nếp sống trong lành.
******
Tôi đi theo đ̣an người vào thăm khu Temple Square. Dọc theo lối đi là những luống hoa khoe màu rực rỡ. Mặt nước hồ nhân tạo được xây cao trên mặt đất nằm im phăng phắc như tấm gương vĩ đại phản chiếu lấp lánh ánh mặt trời. Các h́nh tượng điêu khắc đầy nghệ thuật và phong phú được trưng bày trên những bực thềm và dựng rải rác trong khuôn viên rộng lớn. Các chức sắc, những người truyền giáo và tín hữu làm công tác thiện nguyện trang phục vét-tông cà-vạt chỉnh tề. Họ có nhiệm vụ giữ trật tự, hướng dẫn và giải thích những điều mà khách thăm viếng và tín đồ hành hương cần t́m hiểu.
Tôi vừa bước lên khỏi bậc thềm khu nhà thờ Church Office Building, ṭa cao ốc 26 tầng dùng làm trung tâm điều hành của giáo hội, chợt một thanh niên trong bộ vét-tông đen trông chững chạc và đạo mạo đến trước mặt tôi :
- Thưa, bác là người Việt ?
Tôi nhận ra là một thanh niên Việt Nam. Có lẽ đây là thầy Tư tế, một chức phẩm trong ḍng đạo này làm công tác thiện nguyện vào ngày Chúa Nhật. Tôi đứng lặng nh́n người thanh niên đang đứng trước mặt tôi có khuôn mặt giống người bạn của tôi năm xưa khi ở chung trong trại tù sau năm 1975. Sự bàng hoàng trải qua mấy phút đồng hồ, tôi mới thốt nên lời:
- Vâng, tôi là người Việt. Xin lỗi cậu về sự thất thố đă đường đột nh́n cậu trong khung cảnh này. Có điều tôi cũng xin thú thật là cậu có khuôn mặt giống người bạn tôi hồi c̣n ở quê nhà.
Người thanh niên hướng dẫn tôi đi thăm khu Bảo tàng viện và Nghệ thuật gồm tranh ảnh và những bức tượng điêu khắc các vị Lănh đạo (Presidents) và 12 Sứ Đồ từ thời khai sáng đạo Mormon đến bây giờ.
- Này, cậu qua Mỹ năm nào? Tôi gợi chuyện, khi người thanh niên đứng lại đợi đoàn khách thăm viếng c̣n trụt lại sau.
- Thưa bác, cháu qua đây vào giữa năm 1992 theo diện HO cùng với mẹ cháu và một người chị được định cư ở tiểu bang Utah này ngay từ ngày đầu.
- Thế ba cậu đâu ?
- Ba cháu chết trong trại tù An Điềm .
- Ba cậu tên ǵ?
- Tôn Long Mỹ .
Tôi sửng sốt đến lặng người, rồi nhắc lại:
- Tôn Long Mỹ là cha ruột của cậu sao?
- Vâng ạ. Me cháu bảo ba chết lúc cháu mới ba tuổi.
- Cháu ơi, Tôn Long Mỹ là bạn của bác sống gần nhau suốt ba năm trong tù.
Người thanh niên đứng khựng lại nh́n tôi rồi thảng thốt kêu lên:
- Ba cháu là bạn cùng tù với bác? Ôi, quư hóa quá. Điều ước nguyện của me cháu là mong gặp được người nào đă chứng kiến cái chết của ba cháu trong tù. Thượng Đế ơi ! ngài đă chuẩn nhận lời cầu xin của con và ngày hôm nay Cha trên trời đă mang đến cho gia đ́nh con ân sủng của ngài. Con xin tạ ơn Chúa , Amen.
Người thanh niên ngẩng đầu lên:
- Thưa bác, tên cháu là Tôn Thất Trương Thuật. Cháu nghĩ bác không phải là người ngụ cư ở tiểu bang này v́ vậy xin phép bác cho Me cháu được gặp mặt trong ngày mai. Có được không, thưa bác?
Tôi móc bóp lấy tấm danh thiếp của con trai tôi đưa cho Thuật:
- Đây là số phôn và địa chỉ nhà con tôi. Qua đây chỉ để thăm con cháu và viếng cảnh, tôi chẳng có ǵ phải bận bịu. Me cậu muốn gặp tôi giờ nào cũng được, c̣n cả tuần nữa tôi mới quay về Cali.
*********
Cuộc thăm viếng vẫn tiếp tục nhưng h́nh ảnh của Tôn Long Mỹ qua những năm tháng trong tù như một đoạn phim hiện ra trong trí nhớ của tôi:
Mỹ nhỏ hơn tôi 5 tuổi, vóc người tầm thước, khỏe mạnh và xốc vác. Tính t́nh thuần hậu, phóng khoáng. Anh rất sùng đạo Phật. Tuy nội quy cấm mọi h́nh thức có tính cách tôn giáo, nhưng Mỹ vẫn cố lén ăn chay vào ngày mồng Một và ngày Rằm âm lịch..
Ban giám thị trại chỉ định đội 3 phụ trách xây dựng chiếc cầu treo bắc qua ḍng sông Côn để dân chúng làng Thượng và tù nhân có thể qua lại trong mùa nước lũ. Bên kia sông là cánh đồng rộng chạy dài đến tận chân đèo. Mỗi năm, tù phải sản xuất đủ ba mùa lúa. Mùa mưa th́ tháo bớt nước ra, mùa nắng th́ thay nhau đêm ngày tát nước lên đồng.
Hai bên bờ sông toàn là đất núi bị nước xoi ṃn lâu ngày thành sông. Người ta chọn nơi có hai mô đất nhô ra là nơi hẹp nhất của ḍng sông để bắc cây cầu đi qua. Những ngày đầu khởi công, đội làm cầu phải đào đất, đóng kè xây dựng hai môi cầu cho vững chăi để giữ chân bốn thanh đường ray xe lửa làm trụ chịu đựng sức tŕ kéo của cây cầu treo dài 80 mét.
Mùa lũ, nước chảy xiết đă khoét lơm sâu vào chân dọc hai bên bờ. Để nâng giữ khối đất phía trên khỏi bị sụp lở, tù phải xây những lớp đá vào chỗ lơm bên dưới. Đang trong mùa nắng hạn mực nước sông xuống thấp tận cùng nên hai môi cầu là hai khối đất khổng lồ đứng chênh vênh bên bờ vực. Đám tù h́ hục đưa đá tảng lấp đầy khoảng trống dưới chân môi cầu.
Mỹ là tay thợ xây trong toán cất nhà cửa từ ngày vào tù. Cách làm việc của anh là tận lực, yêu nghề và tinh thần trách nhiệm cao mặc dầu anh chỉ là tù nhân. Mỹ có quan niệm : Bất cứ lănh vực nào người sỹ quan Miền Nam phải thể hiện tài năng trước bọn cai tù. Đừng để họ lấy cớ sự sai sót mà mạt sát lăng nhục ḿnh. Chính v́ thế mà anh nhận công việc nặng nề nhất là xây bệ đỡ cho khối đất bên dưới môi cầu.
Hàng trăm viên đá chẻ được một đội tù khác cung cấp chất đống trên mô đất dự định xây móng chân cầu. Sức nặng của đống đá cùng với sự hỏng chân của doi đất, khối đất trên đầu Mỹ bất ngờ đổ sụp. Mỹ bị chôn sống dưới khối đất khổng lồ. Bạn tù đă nổ lực đào bới để cứu anh. Nhưng, con người chỉ là sinh vật bằng xương bằng thịt làm sao chịu đựng nổi sức nặng hàng chục tấn của đất đá đè lên. Xác anh cuốn tṛn mềm nhũn như con sùng. Nước mắt chúng tôi chảy ràn rụa. Lần đầu tiên người tù không che dấu ḍng lệ của ḿnh trước mặt bọn cai tù. Mỹ ra đi để lại nỗi đau đớn tận cùng cho người vợ trẻ và hai đứa con thơ.
- Thưa bác, đây là vị Tiên tri Joseph Smith được Chúa mặc khải viết ra Giáo Lư và Giao Ước. Cũng là vị Chủ tịch đầu tiên của Giáo Hội bầu ra tại một buổi họp của Hội Đồng Thượng Phẩm trong ngày 24 tháng Chín năm 1834 tại Kirtland, Ohio.
Lời giới thiệu của Thuật làm tôi bừng tỉnh. Trước mặt tôi là bức tượng bán thân bằng đồng đỏ mà mắt tôi chỉ nh́n thấy thân thể của Mỹ đầy máu. Tất cả xương trong người anh từ đầu đến chân hầu như nát vụn. Thi hài anh khi được khiêng lên nó oằn xuống thoạt trông như một chiếc bao tời đựng thịt. Đầu và mặt anh hoàn toàn bị biến dạng . Đến đây, tôi không c̣n tinh thần và hứng thú để đi xem hết các công tŕnh nghệ thuật trong viện bảo tàng nữa nên cáo từ Thuật ra về.
*********
Sáng ngày hôm sau, tôi nhận được cú phôn của Thuật thật sớm mời tôi đến nhà hàng Mỹ Tiên vào lúc 12 giờ trưa, nhân tiện me của cậu xin phép được gặp mặt.
Tôi vừa đến cửa nhà hàng, Thuật đă vội vàng ra đón. Một phụ nữ mặc áo dài màu khói hương đứng dậy cúi đầu:
- Kính chào ông anh.
Tôi thật sự xúc động, khi Thuật giới thiệu đây là me của cậu. Khuôn mặt người đàn bà thanh tú, phúc hậu nhưng trong ánh mắt vương vất nỗi buồn. Tôi cúi đầu chào đáp lễ, rồi ngồi vào chiếc ghế đối diện mà Thuật vừa mới kéo ra mời.
- Thưa ông anh, giọng Huế nhè nhẹ, trầm buồn, người đàn bà tự giới thiệu:
- Em tên là Trương Thị Ngọc nghe cháu Thuật nói gặp được ông anh, người ở cùng chung trại tù An Điềm với ba nó. Em mừng lắm. Mặc dầu anh Mỹ mất đă gần 25 năm mà ḷng em cứ phân vân, thắc mắc măi khi nhận được giấy báo của trại tù rằng chồng em chết v́ bệnh nhiễm trùng gan cấp tính. Trong khi đó đă hai lần em được anh ấy về báo mộng với khuôn mặt đầy máu me nh́n em trong đau đớn. H́nh ảnh đó chưa phai mờ trong trí nhớ của em. Trước khi đi Hoa Kỳ, chúng em có đến trại An Điềm để xin dời mộ nhưng Ban Giám Thị trại không xác định được vị trí nơi chôn anh Mỹ, c̣n tù nhân toàn là lớp h́nh sự sau này. Cái nghĩa địa tù bị nước trên đỉnh núi cao đổ xuống xói ṃn gần hết. Em vô cùng đau khổ, đến lúc ra đi mà chưa lo cho chồng được mồ yên mả đẹp. Hai đứa con em biết rơ niềm trăn trở đó, chúng nó luôn luôn cầu nguyện mong được gặp người biết rơ về cái chết của ba chúng. Cách đây hai đêm, em nằm mộng thấy nhà em về chùa. Trong cơn mơ em mừng quá chạy đến ôm anh ấy nhưng h́nh hài đó tan biến ngay. Không biết có phải đây là điềm báo của anh Mỹ rằng em sắp gặp được ân nhân. Em hy vọng ông anh biết rơ cái chết của chồng em và c̣n nhớ địa điểm mộ phần của anh ấy.
Người phụ nữ nói một mạch như trút cả nỗi ḷng u ẩn bấy lâu nay. Tôi trân trọng trước ḷng trung trinh tiết nghĩa của người vợ sống trọn đời thờ chồng nuôi con. Trước khung cảnh này đây, tôi không muốn khơi lại h́nh ảnh cái chết khủng khiếp của Mỹ. Tôi không muốn tạo thêm sự khủng hoảng trong ḷng mỗi người. V́ thế, buộc ḷng tôi phải lặng thinh xem như đồng lơa với sự dối trá của một chế độ luôn luôn che đậy sự thật và chối bỏ trách nhiệm của ḿnh.
- Thưa chị, tôi lên tiếng. Cái chết của anh Mỹ, anh em tù chúng tôi đau ḷng lắm. Đời người chỉ một lần chết, tiếc rằng anh ra đi quá sớm. Phải chăng định mệnh đă an bài. Mong chị và các cháu thôi băn khoăn về nó nữa. Tôi vẫn c̣n nhớ chỗ chôn anh ấy trong nghĩa địa tù. Hứa với chị khi về lại Cali, tôi sẽ vẽ sơ đồ địa điểm ngôi mộ của anh Mỹ.
Khi tôi ngưng nói, bà lấy khăn thấm giọt lệ c̣n đọng lại trong khóe mắt, rồi tiếp lời:
- Thưa ông anh, nếu được, xin gởi cho em bản vẽ địa điểm mộ của anh Mỹ càng sớm càng tốt. Cuối năm này, cháu Thuật đi Việt Nam với phái đoàn thuộc "Hội Bạn Người Cùi Việt Nam" trụ sở ở Mỹ kết hợp với nhóm "Ṿng Tay Bạn Bè" ở Hà Nội làm công tác thiện nguyện ủy lạo, giúp đỡ và chăm sóc cho những người mắc bệnh cùi. Nhân dịp này em sẽ theo cháu về dời mộ cho ba chúng nó
Thuật đang ngồi yên trong góc bàn chăm chú nghe, tôi liền quay sang hỏi:
- Cậu về Việt Nam công tác bao lâu ?
- Cháu t́nh nguyện một năm.
- Sao lâu đến thế !
Bà mẹ tiếp :
- Cháu nó theo ngành Y, c̣n một năm cuối cùng thực tập trong bệnh viện ở tiểu bang này trước khi ra trường. Người yêu của nó là nữ sinh viên Việt Nam qua Mỹ du học. Chúng nó yêu nhau và dự tính sau chuyến đi này trở về sẽ tổ chức đám cưới tại đây. Thằng con em, nó sống cho tha nhân. Sẵn ḷng dấn thân giúp đỡ cho người nghèo khổ, hoạn nạn dù bất cứ dân tộc nào. Hai chị em nó có cùng một quan điểm: “Thương người như thể thương thân.”
Tôi ngắt lời :
- Vậy hiện giờ cháu gái ở đâu?
- Cháu có chồng là một Mục Sư Tin Lành người Mỹ hiện ở Colorado. Trận thiên tai, băo lụt nào ở Việt Nam bị thiệt hại nặng nề là vợ chồng nó đều gởi về cả tấn áo quần, chăn mền do Thánh đường quyên góp.
Sau bữa cơm trưa tại nhà hàng, tôi từ biệt mẹ con Thuật ra về. Một tuần lễ sau tôi lên máy bay trở lại tiểu bang Cali. Để thực hiện điều ḿnh đă hứa, tôi ôn lại vị trí của nghĩa địa tù An Điềm để vẽ cách nào đơn giản nhất mà gia đ́nh của Mỹ có thể t́m được mộ anh dễ dàng. Tôi không tưởng tượng được hiện giờ nghĩa địa ấy bị hoang phế ra sao, nhưng chắc chắn là nước mưa từ trên núi đổ xuống đă san bằng tất cả. Những tấm bia bằng gỗ tạp trải qua trên hai chục năm không thể tồn tại với thời gian. Rất may là ngôi mộ của Mỹ nằm sau gốc một cây đại thụ che chắn. Nước có thể xoi ṃn phần trên mặt nhưng xương cốt Mỹ nằm sâu dưới đất không thể trôi theo ḍng nước. Trong sơ đồ, tôi ghi rơ trên thân cây đó có bốn nhát búa h́nh chữ M do anh em tù trong đội thay nhau khắc vào. Đó là dấu tích mà tôi hy vọng gia đ́nh của Mỹ sẽ t́m ra.
Nhận được bản phác họa chỉ dẫn,Thuật điện thoại sang cảm ơn và tin cho tôi hay tháng tới sẽ lên đường về Việt Nam.
********
Ba năm sau, tôi trở lại Utah trong mùa Giáng Sinh. Đồi núi vây quanh thung lũng rộng lớn trở thành những dăy núi tuyết sáng trắng. Tuyết phủ đầy trên mái nhà và tràn ngập hai bên lề đường.
Trong ngày Giáng Sinh, tôi theo đoàn người tiến vào khu Temple Square. Vừa bước chân vào đây là tôi cố ư t́m gặp cậu Tôn Long Trương Thuật để hỏi thăm tin tức về mẹ cậu và việc dời mộ của bố cậu như thế nào. Tôi dạo trong khu Tabernacle nổi tiếng với cây đàn Orchestra khổng lồ gồm 11,000 ống tupe kim loại ghép lại. Có thể nói đây là cây đàn lớn nhất thế giới. Rồi đến khu Conference Center, chứa 21,000 chỗ ngồi và 900 ghế cho ca đoàn. Hội trường được thiết kế với kỹ thuật hiện đại mà âm thanh của hai mảnh giấy cọ vào nhau trên khán đài, người ở cuối pḥng cũng nghe được. Sau cùng, tôi t́m tới khu Joseph Smith Memorial Building, nơi đây chung quanh tường có những phù điêu chạm khắc mỹ thuật và tinh xảo nhưng vẫn không thấy Thuật đâu. Tôi ra về mà nghe ḷng ḿnh trống trải vô cùng.
Ngày mồng một âm lịch, tôi đến viếng cảnh chùa Tam Bảo. Những bông tuyết rơi đầy trời, phủ trắng cả sân chùa như trải thảm bằng bông. Hàng cây kiểng chạy dài trước sân lung lay những mảnh tuyết vỡ trên cành lá. Tôi đang dạo bước trên lối đi vào chánh điện, chợt một ni cô đến trước mặt tôi vái chào. Tôi sững sờ khi nhận ra người phụ nữ ba năm về trước,Trương Thị Ngọc. Bà cho biết đă quy y mang pháp danh Diệu Ngọc. Chỉ ba năm thôi mà trông bà cằn cỗi, già đi rất nhiều. Đôi mắt tràn ngập nỗi ưu tư, sầu năo. Bà mời tôi vào nhà khách dùng trà. Ni cô lên tiếng:
- A Di Đà Phật, trước tiên bần ni xin đại diện gia đ́nh bày tỏ ḷng tri ân đến ông anh. Nhờ bản vẽ địa điểm ngôi mộ rơ ràng từng chi tiết nên chúng tôi đă t́m được mộ phần của anh Mỹ khá dễ dàng. Hài cốt của anh ấy đă được đem qua đây thờ trong chùa. Những tưởng linh hồn anh Mỹ được thanh thoát... Nói đến đây, chợt những giọt lệ long lanh trong mắt của ni cô trào ra.
Tôi ngạc nhiên, vội hỏi:
- Đă có chuyện ǵ xảy ra?
Ni cô cúi đầu để dấu đi những giọt lệ mà một sa di cần phải đè nén. Hồi lâu bà mới ngẩng mặt lên:
- Sau một năm chăm sóc những nạn nhân bệnh cùi ở Việt Nam, cháu Thuật trở lại Hoa Kỳ. Ban đầu, Thuật trốn tránh người yêu của nó và cuối cùng quyết định dứt khoát không c̣n liên lạc với nhau. Một thời gian sau, trên mặt cháu xuất hiện những mụn sưng đỏ. Tôi hỏi, nó lảng tránh, không trả lời. Dần dần cháu nó ít về nhà hơn. Cách đây một năm, cháu về Việt Nam ở lâu dài. Vừa rồi tôi nhận được thơ của nó.
Bà ngưng kể, lấy trong túi áo trao cho tôi một lá thư đă nhàu, nội dung khá ngắn gọn: “Có lẽ ư muốn của Chúa dành cho con một đời phải hy sinh phục vụ cho nhân sinh đang gánh chịu nỗi thống khổ của căn bệnh hiểm nghèo. Con rất thỏa ḷng khi chính bàn tay ḿnh thoa dịu được nỗi cô đơn của bao người bất hạnh. Tuần này ở trại cùi Quy Ḥa thuộc tỉnh B́nh Định. Tuần sau có thể ở làng phong cùi Đồng Lệnh tận tỉnh Tuyên Quang để chăm sóc cho các bệnh nhân. Mong me xem con như được Chúa đón đi từ lúc mới lọt ḷng.”
Chờ tôi đọc xong bức thư, bà tiếp :
- Khi hiểu ra thằng con đă mắc bệnh phong cùi, tôi đă khóc suốt đêm trường. Mỗi lần nghĩ đến nó là ḷng tôi quặn thắt như đứt từng đoạn ruột, tê dại cả tâm hồn.
- Thưa bà, tôi lên tiếng an ủi : Có phải chăng đây là sự sắp đặt củaThượng Đế? Theo tôi được biết bệnh phong cùi không dễ truyền nhiễm cho người chăm sóc khi đă ngăn ngừa đầy đủ, vả lại đă có thuốc điều trị tổng hợp từ thập niên 70 – 80. Thuốc tiêu diệt được vi khuẩn, giảm thiểu lây lan.
- Nhưng, thưa ông anh, bà mẹ của Thuật nh́n tôi không c̣n là ánh mắt một ni cô mà trở về với ánh mắt chuyên môn của một y tá viên điều dưỡng, nghề nghiệp của bà ngày xưa:
- Thuốc có thể chữa lành bệnh với đa hóa trị liệu nầy, nhưng không phục hồi được tổn thương của dây thần kinh làm biến dạng mặt, biến dạng bàn tay bàn chân. Đó là những dấu tích mà con tôi phải chịu đau ḷng, mang mặc cảm tủi nhục suốt đời của người mắc bệnh phong cùi !
Nói đến đây, bất chợt ni cô Diệu Ngọc ôm ngực chạy về hướng tịnh thất.
Tôi thật sự xót xa trước nỗi đau của người mẹ như đă nhận lănh cơn đau của con trai ḿnh. Riêng về Thuật, tôi cảm nhận được đức tin cao cả của chàng. Đức tin đă vượt lên trên những ước vọng tầm thường mà người phàm đeo đuổi. Tôi tin rằng Chúa sẽ dẫn dắt cậu ấy đi trọn vẹn cuộc đời hạnh phúc sống v́ tha nhân.
Chỉ biết ngậm ngùi, tôi đẩy cửa bước ra ngoài. Gió mỗi lúc mỗi mạnh thổi nghiêng ngả hàng cây trụi lá đứng chơ vơ hai bên đường. Cái băng giá ngoài trời làm tăng thêm nỗi u hoài trong tôi. Lê đôi chân nặng trĩu, tôi bước đi dưới bầu trời đang cơn băo tuyết. Từng mảnh tuyết hắt vào mặt tôi như những mảnh vỡ thủy tinh thay nhau cứa vào da thịt tôi rát buốt. Tôi vuốt mặt, tuyết tan ra nhơn nhớt trên đôi tay. Bất giác, tôi có cảm tưởng như máu và đất trộn lẫn nhầy nhụa trên tay tôi ngày nào đă vuốt mắt cho Mỹ khi xác anh nằm bất động trên bờ sông Côn. Tôi lau nhanh những giọt lệ đọng bờ mi trước khi bước lên chiếc xe bus cửa mở sẵn đợi chờ.
Tác giả Chung Mốc hiện đang cư trú tại Thủ Đức, Việt Nam, gửi bài qua một thân hữu chuyển đến. Trước 1975, tại miền Nam, ông là một nhà giáo, một huynh trưởng hướng đạo sáng giá. Bài viết của ông, như tựa đề, viết theo cách nh́n của bà con quê nhà nh́n những Việt kiều Mỹ khi họ về thăm lại quê quán.
Tháng Năm, nóng toé khói.
Ai đă từng đi xa quê hương đều ước mong có dịp trở về, hoài niệm làm người ta xao xuyến đến cháy ḷng. T́m về từ vật chất đến tinh thần, để thấy những cái tưởng mất đi vĩnh viễn nay lại t́m gặp, cái xưa tầm thường nay trở nên quí giá.
Tôi may mắn thường có dịp đón tiếp thân nhân cùng bạn bè về thăm nhà, nhận thấy song song với nỗi vui mừng khi tái ngộ, c̣n có vài điều tưởng giữa chúng ta, TA và TÂY tự điều chỉnh, để ngày sum họp niềm vui thêm trọn vẹn.
Tôi nhận thấy có mấy dạng Việt Kiều:
1. Người giàu (Có lẽ là giàu thật) quan niệm đi 5 về 10, xênh xang áo gấm về làng, họ hàng cũng được thơm lây. Hàng xóm có ḷng đố kỵ cho là nổ : Hồi xưa nghèo không có đôi dép mà đi, giờ tha đi đâu cũng kè kè chai nước lọc, vô nhà ai cũng không dám uống nước dù là nước trà; nước giếng, nước mưa th́ chê hôi. Họ đâu c̣n nhớ tới những ngày kinh tế mới, những ngày đi đào kinh thuỷ lợi nghiêng nón múc một ít nước đục ngầu mà uống. Bây giờ cứ đ̣i vào nhà hàng máy lạnh sang thiệt là sang để ăn uống cho an toàn khỏi sợ đau bụng, nhưng nếu họ chịu quá bộ ra chỗ đang rửa chén tô, nơi nhà bếp đang lặt rau, làm cá băm thịt, th́ tưởng chưa có nơi nào mất vệ sinh hơn thế nữa !. Tôi lấy làm ngạc nhiên và hănh diện khi người ḿnh mới qua tới xứ người, người lâu th́ vài ba chục năm, người mới th́ chỉ năm hay mười năm mà nay ai cũng là bác sĩ, kỹ sư, chủ hăng chủ tiệm, tiếng Tây tiếng Mỹ phun phèo phèo, mà h́nh như không có ai làm thợ hết cả (?). Nếu quả thực như thế th́ Mỹ trắng Mỹ đen quá kém, nay họ lại phải xin đi làm công cho người ḿnh nhiều quá, chứ như ở VN mà mấy anh Campuchia qua đây lập nghiệp, không chịu làm cu ly khuân vác từ đời cha tới đời con th́ cũng c̣n khuya mới ngóc đầu lên nổi. Có người qua Mỹ đă lâu nhưng c̣n e ngại v́ tài chánh eo hẹp chưa muốn về thăm quê, v́ ngoài tiền vé máy bay ra, c̣n tiền quà cáp, xe cộ tiêu xài. Nhưng họ đâu biết rằng có tiền cho thân nhân đă quí, nhưng gặp lại người thân sau bao nhiêu năm xa cách c̣n quí hơn nhiều lắm. Vẫn biết rằng trong đám thân nhân "yêu vấu" kia thế nào cũng có người nói xấu sau lưng: "Việt Kiều về quê mà Trùm Ṣ thế th́ về làm quái ǵ". Cũng may số người này không nhiều.
2. Người nghèo (Có thể là nghèo giả) than van quá trời v́ sợ người nhà ṿi tiền, mà có người ṿi tiền thật, mè nheo đủ thứ. Họ không chờ cho đến khi gặp mặt mà thư, điện tới tấp khiến mẹ cha, anh em con cái phát chán, v́ người ta biết tiền gửi về sẽ bị tiêu pha một cách lăng nhách bởi những người chuyên vô công rỗi nghề, từ sáng tới tối xách xe chạy ṿng ṿng. Thái độ và cử chỉ bên TÂY th́ lịch sự nhă nhặn, cưng chiều vợ con hết mức (theo kiểu nịnh nghề bà lắm nạc) khiến phe TA ở quê nhà xốn con mắt lắm. Nhưng khốn nỗi TA lại cộc cằn thô lỗ, gia trưởng y như xưa, y như cách đây hàng thế kỷ. Hôm nay nhà có cơm khách, khách hỏi:
- C̣n các cháu đâu, không ra dùng cơm luôn thể?
- Các bác cứ xơi tự nhiên, các cháu đă có rồi.
Các bác đang xơi, các cháu thập tḥ ở cửa, Bố quát:
- Xuống bếp ăn với mẹ!
Đứa con giơ tay lên trời:
- Xin thề là dưới bếp hết cả nước lẫn cái rồi bố ạ!!!
*
Bên TÂY gặp nhau ôm hôn chùn chụt, bên TA mà làm thế có ngày chả c̣n răng ăn cháo. Hôm anh tôi về, thấy mấy trự Việt Kiều gặp người đi đón ở phi trường, lợi dụng cơ hội ôm hôn tùm lum, ảnh nói có nhiều người làm tṛ khỉ quá.
Rồi sau đó ít hôm ảnh lại nói sao Việt Kiều về cứ phải chứng tỏ ḿnh là Việt Kiều cho oai, lúc nào cũng thấy đeo cái túi mề gà trước bụng, đàn ông lại c̣n mang quần có dây đeo vai cứ như mấy anh bồi nhà hàng. Họ nói chuyện với nhau hay với con cái cứ xổ tiếng Mỹ làm người nhà phải nghệt mặt ra. Mà làm như thế nghĩ cũng chả ích lợi ǵ, chỉ tổ cho nhà hàng chém thẳng tay.
Việt Kiều thường phê b́nh người trong nước đổ đốn, không chịu làm ǵ cả chỉ ăn nhậu. Nói của đáng tội, cái đó cũng có nhưng v́ họ chưa có cơ hội tiếp xúc với những Giám Đốc trẻ không rượu bia thuốc lá; có trách nhiệm, năng lực và ḷng tự trọng; những người thợ quần quật với công việc nặng nề; những nông dân chân lấm tay bùn đă làm nên những thay đổi và ấm no hơn những ngày cũ.
*
Việt kiều lớn đă thế c̣n Việt Kiều con, tụi nhỏ về đây gặp khí hậu, thời tiết khác lạ, ăn ngủ trái múi giờ dễ sinh ra dị ứng ốm đau, làm ông bà cha mẹ lo sốt vó.
Thái độ tụi nó cũng kỳ dị lắm, h́nh như nó không thích được nâng niu âu yếm, đụng vào người là nó co rúm lại, mà người ḿnh có thương th́ mới rờ rẫm bóp mông, bóp đít khen nó mập, trắng hồng coi dễ thương hết sức. Ban đầu tôi tưởng tụi nó chê ḿnh ở bẩn, nhưng sau này mới biết là làm vậy không nên, nếu là ở Mỹ có thể bị kết tội child abuse ǵ đó.
Tụi nhỏ nói tiếng Việt không rành, nó ú ớ bảo là đau bụng, đưa thuốc cho uống cả tiếng sau mới nói là nó "wrong", nó bị đau cổ họng cơ. Có nhiều đứa lư sự và phá trời thần, trẻ con VN mà nói tay đôi với người lớn thế th́ có mà nát đít, c̣n trẻ Việt Kiều nó được tự do tranh luận nếu nó nhận thấy người lớn nói sai. Về VN mà nó làm cứ như ở nhà nó, cái máy quay phim, dàn máy hát ở quê nhà quí lắm, dành dụm biết bao lâu mới mua được, nhưng con cháu Việt Kiều về xài rồi nó quăng vất tứ tung, chọc ghẹo nhau chạy tới chạy lui làm đổ dàn am-pli, cả nhà thấy xót quá mà không ai dám nói ǵ!
Nói sang cái ăn mới ngộ, đăi Việt Kiều ở nhà hàng, TA ép TÂY ăn thịt.
TÂY than thở: "Tại sao lại ép chúng tôi những thứ mà hàng ngày phải ăn mấy chục năm nay?". Không lẽ kêu măng luộc, rau đay cua rốc, cà pháo mắm tôm, rau muống xào đập tỏi v.v...Những thứ đó quê tôi có đầy ra, bước ra đàng sau vườn loáng một cái có cả rổ, bây giờ thường để cho heo ăn mà thôi, ai nỡ ḷng nào đem ra đăi Việt Kiều.
Việt Kiều con th́ khác hẳn, vào bàn nó ngồi im như tượng, mặt buồn như Đức Mẹ Sầu Bi ngồi dưới chân thánh giá, hỏi ăn ǵ th́ chỉ lắc đầu. Thấy mấy ông kêu đồ nhậu rắn rùa, chim chuột ... đặc sản, nó chỉ con thạch sùng (thằn lằn) trên tường mà hỏi: "Con đó có ăn không ?"
Người lớn thích ăn tiết canh, mua con heo, con vịt về cắt tiết hay thọc huyết, nh́n thấy cảnh đó nó kinh hăi ôm nhau khóc thét lên. C̣n về thịt cầy, nó dặn là đừng bao giờ đánh lừa nó ăn một miếng, bởi v́ ăn thịt chó, tim sẽ đau đớn như phạm tội vậy. Về tới SG thả tụi nó vào khu siêu thị th́ như cá gặp nước, tụi nó hoạt bát hẳn lên, nói líu lo v́ trong đó có bán đồ ăn khoái khẩu của nó.
Ở quê tôi c̣n có một thứ mà mỗi nhà có Việt Kiều về thăm th́ phải lo trước, đó là cái bàn cầu ngồi theo lối Mỹ, nhà cầu kiểu cũ trẻ con ngồi không quen cứ ngă bổ chửng ra. Nhớ hồi cách đây hơn 10 năm, cầu cá dồ chưa bị cấm, có ông Việt Kiều đang ngồi th́ bị cầu sập, ông đứng giữa đ́a khóc ầm lên kêu Trời kêu Phật, kêu cả thánh quan thầy.
Một cái đáng sợ nữa cho Việt Kiều là muỗi. Xưa kia muỗi chỉ có mùa, bây giờ nhờ kinh tế thị trường nên có quanh năm, nó lại theo trào lưu khủng bố của thế giới nên không kêu vo ve nữa mà chuyên âm thầm đánh du kích, cắn xong một phát là chỗ đó ngứa không chịu nổi. Đối với người trong nước không hiểu v́ đă chịu muỗi chích hoài nên cơ thể quen nọc ngứa, hay là tại v́ thịt Việt Kiều thơm (tắm bằng xà bông Dove), hay tại muỗi vẫn c̣n thù dai đối với Đế Quốc, mà cho dù là ban ngày sáng sủa đàn muỗi không cắn ai, lại cứ xà quần bên Việt Kiều như đàn trực thăng sắp đổ quân vậy.
Đi với Việt Kiều nhí th́ thật là thê thảm, cho dù bôi thuốc chống muỗi rồi đó, nhưng dính mũi nào là làm độc mũi đó, có khi mưng mủ sưng to như trái chùm ruột. Tôi có đứa cháu kiên nhẫn ngồi đếm được 108 mụn trên một cái chân nhỏ bé !!!
C̣n trục trặc ngôn ngữ Việt giữa người trong và ngoài nước nữa chứ. Có nhiều Việt Kiều nghe không hiểu được những từ ngữ "mới". Hồi sau 75 tôi có dịp tiếp xúc với cán bộ hay người miền Bắc mới vô, nghe họ nói tôi buồn cười lắm mà không dám cười, sau đó nhái chơi, rồi dần dần nó ngấm vào giọng nói lúc nào không hay, bây giờ có những chữ mà loay hoay măi không nhớ ra chữ cũ để thay thế.
Thí dụ: Hôm nay tôi tranh thủ đến thăm anh (cố gắng). TV hôm nay bị sự cố kỹ thuật (trục trặc). Nhưng đến câu "Họ có mặt bằng cho thuê" th́ tôi đành chịu không t́m ra chữ nào để thay.
Có anh về nước cầm máy chụp h́nh hay quay phim th́ thấy cái ǵ hơi lạ là bấm máy liên hồi, thấy người ta nói đi xe khách chất lượng cao (high quality); xe tham quan (tourist); cửa hàng chuyên bán ổn áp (survolter) là cười khinh khỉnh, nhưng chúng tôi thấy họ nói pha tiếng Mỹ lại càng kỳ quái hơn: Đem cái xe tới tiệm để estimate, anh thợ sửa xe dốt nát đâu biết tiếng Tây tiếng U ǵ đâu, nghe vậy bèn tháo tung chiếc xe ra; bảo tun-ấp th́ nghe giống như "ốc" nên lấy đồ nghề ra siết tất cả những con ốc lại. Đàn bà con gái ǵ mà nói giữa chốn đông người "Tôi không có khe" (care); "Vẫn c̣n ở chỗ cũ đây, chứ tôi đâu có mu (move)". Cười, bởi v́ khe và mu là những chữ dùng để chỉ cơ quan sinh dục của đàn bà.
Có lần được tháp tùng về thăm quê cũ của mẹ tôi ngoài Bắc, gặp đứa em họ đang phụ trách một đoàn thể trong xứ đạo, nó hỏi xin cái máy kích. Tôi hỏi cần đẩy hay kéo cái ǵ, nó giải thích th́ ối giời ơi! đó là cái am-pli và cặp loa để phát thanh, ở ngoài Bắc gọi là cái máy kích âm !!!. Bây giờ họ c̣n hay nói tắt. Hỏi gia đ́nh thế nào? Trả lời dạo này gia đ́nh chúng em VẤT lắm (vất vả); Món này ăn ngon CỰC (cực kỳ); Thợ xây quát phu hồ: "Lấy cho tao bao Xi (xi măng) !!!
Chữ "bị" ở thế thụ động (passive voice) lại được nói: "Ông ta hơi bị giỏi đấy" ; Món này ăn hơi bị ngon v.v... Ban đầu tôi tưởng chỉ là cách dùng chữ cho khôi hài, không ngờ có những nhà văn lớn dùng trong văn chương nghiêm túc nữa đấy. Thật quái đản !!!
Hôm xem lậu cuốn băng Thuư Nga, thấy ông Nguyễn Ngọc Ngạn nói xỏ người ở nước ngoài hay nói chữ là, thay v́ nói "Rất đẹp" th́ lại nói "Rất là đẹp". Tôi th́ tiếng Anh dốt nát, đành dịch ra là "Very is beautiful"!. Ngày xưa c̣n đi học mà làm luận văn xài chữ: th́, là, mà, bị v.v... lung tung như kiểu này chắc thầy vă cho rách mép. Ở VN bây giờ từ quan cho tới anh cùng đinh khố rách đều nghiện chữ "Nói chung" cũng như mấy anh Việt Kiều hay dùng chữ "You know" vậy. Hỏi thăm gia đ́nh khoẻ không th́ được trả lời: "Nói chung cũng tốt. Mẹ tôi c̣n đang nằm bệnh viện c̣n vợ tôi th́ mới chết tuần rồi". Hăy nghe đài BBC phỏng vấn mấy quan chức, hay đọc trong bản báo cáo của mỗi cơ quan, đoàn thể, mỗi ngành không bao giờ thiếu chữ "Nói chung":
- T́nh h́nh chỗ nào cũng vậy, nói chung là tốt, nhưng trong đó c̣n có một vài bộ phận yếu kém tồn tại ...
Tôi tới thăm gia đ́nh người bạn mới từ nước ngoài về, bố bảo con gọi mẹ ra đây. Thằng con chạy vào trong hét toáng lên: "Momy, dady muốn momy bây giờ". Hồi lâu sau nó lại chạy ra bảo: "Momy đang rửa he". Tôi ngạc nhiên ngẫm nghĩ măi mới hiểu là má nó đang gội đầu (hair).
Tháng rồi có mấy đứa cháu từ Úc về chơi, tôi dẫn đi ăn nghêu ở Ngă Sáu, trong đĩa nghêu luộc chín há vỏ ra, có con thịt rớt ra ngoài chỉ c̣n cái vỏ không, đứa bé cầm cái vỏ ngắm nghía một hồi rồi tặc lưỡi: "Không có ai". Ôi ngôn ngữ Việt của Việt Ta và Việt Tây sao mà rắc rối, biến hoá làm vậy!
Ngày vui qua mau rồi cũng đến ngày tiễn đưa người nhà ra phi trường. Người c̣n ở VN khoái tiễn đưa lắm, lư do là lúc đó người đi rất ngậm ngùi, c̣n bao nhiêu tiền trong túi cũng móc ra cho hết, thương lắm cơ.
Việt Kiều con ra tới phi trường th́ mừng lắm, chúng nhảy cỡn lên múa máy tay chân rồi la to:
- Thoát khỏi Việt Nam rồi! Thoát Việt Nam rồi!
Vậy th́ tôi c̣n mong ǵ khi chúng to lên, học hành thành tài rồi về giúp đỡ quê hương?
Đây là câu chuyện về người thám hiểm, một chuyên viên leo núi muốn chinh phục ngọn núi cao nhất nước.
Sau nhiều năm tháng chuẩn bị sửa soạn để quyết lên tận đỉnh ngọn núi cao nhất này, người leo núi bắt đầu cuộc phiêu lưu của ḿnh; nhưng v́ không muốn chia xẻ vinh quang chinh phục đỉnh núi với ai, ông ta quyết định leo núi một ḿnh. Trời bỗng nhiên sụp tối rất mau trên cao độ của các ngọn núi quanh năm mờ mịt trong sương mù khiến người leo núi không nh́n thấy ǵ nữa hết. Tối đen nhu mực, bàn tay xoè ra trước mặt mà cũng không nhận ra v́ mây mù đă che khuất tất cả… Tuy vậy, người leo núi vẫn không chịu ngưng mà vẫn ṃ mẫm leo. V́ không nh́n thấy nên th́nh ĺnh ông trượt chân và rơi vào khoảng không.
Kinh hoàng, người leo núi chỉ biết là ḿnh rơi vào khoảng không gian tối đen, càng lúc càng nhanh…. Trong phút giây cùng tận của sợ hăi, những khoảnh khắc vui buồn, và các việc làm xấu cũng như tốt trong cả cuộc đời bỗng tranh nhau hiện lên như một cuốn phim quay nhanh…. Đang cận kề với cái chết, bỗng dưng người leo núi cảm thấy bị giật thật mạnh và thắt chặt ngang hông nơi có cái đai, rồi sau đó cả thân người quay tṛn và đong đưa qua lại trong khoảng không gian tối đen. Th́ ra khúc dây an toàn cột đâu đó trên con đường lên đỉnh núi với cái đai ngang hông đă giữ ông lại. Treo lơ lửng không biết đâu là bến bờ trong mù mịt tối tăm khiến người leo núi bật rú lên:
- Cứu con với, Thượng Đế ơi!! Cứu con với, Thượng Đế ơi!!
Th́nh ĺnh, giữa không gian tối đen rền vang lên câu hỏi:
- Con muốn ta làm ǵ?
Người leo núi trả lời: “Cứu con với, Thượng Đế ơi!!”
- Con có tin là ta cứu được con không?
- Tin chứ, dĩ nhiên là con tin…..
- Vậy th́ con cắt sợi dây đang treo con đi…..
Trưa ngày hôm sau, đội cấp cứu t́m thấy người leo núi đă chết cứng v́ lạnh, và treo tọng teng bởi sợi dây cột vào đai an toàn ngang hông, bàn tay người leo núi nắm chặt cứng sợi dây thừng…
Biên bản cũng ghi nhận là thi thể người leo núi chỉ cách mặt đất khoảng hơn ba mét……
Luân hồi h́nh như luôn đi với sanh tử. Luân hồi sanh tử. Nghe cứ rờn rợn. Có cách nào “giải thoát” không? Có đó. Đi tu! Đi tu để giải thoát luân hồi sanh tử. Nghe nói vậy. Làm như tu th́ không c̣n sanh tử nữa, không c̣n luân hồi nữa, tu th́ sống đời đời kiếp kiếp vậy! Nhưng… không c̣n sanh tử, không c̣n luân hồi nữa, sống đời đời kiếp kiếp th́… chán chết! Không luân hồi sanh tử nữa th́ mọi thứ khựng lại. Trái đất chẳng buồn quay. Chẳng c̣n xuân hạ thu đông. Chẳng sáng trưa chiều tối. Chẳng vô thường. Chẳng đổi thay. Chán chết! Cho nên luân cứ phải hồi, sanh cứ phải tử. Và bởi v́ sanh cứ phải tử nên tử cứ phải sanh. Phải luẩn quẩn loanh quanh vậy mới công bằng, mới phải điệu. Ba cơi sáu đường phải thênh thang rộng mở cho chúng sanh lũ lượt vào ra!
Nhưng, chỉ có ba cơi sáu đường thôi ư? Chỉ có “Thiên, nhân, atula, ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục”… thôi ư? Chắc c̣n nhiều thứ “cao tốc” nữa. Vô số vô lượng vô biên nẽo đường cho phù hợp với vô số vô lượng vô biên chúng sanh chứ? Nhưng chỉ tượng trưng vậy là đủ cho các thứ bệnh“tham, sân, si, nghi, kiến, mạn”… của cơi người!
Được làm người thật khó! Một con rùa mù lờ quờ bơi giữa biển khơi, mỗi trăm năm trồi đầu lên một lần giữa mênh mông sóng nước, vậy mà làm thế nào lại đội trúng chóc ngay khúc gỗ mục, giữa bộng cây, đang trôi giạt bềnh bồng trên biển. Đâu có dễ phải không? Đó là một h́nh ảnh đầy biểu tượng sinh học, mang tính nghệ thuật vẫn được điêu khắc trên các đền đá từ ngàn xưa của linga với yoni ! Cho nên cha mẹ mà không bồng bềnh gặp nhau th́ ta là ai? Ông bà mà không bồng bềnh gặp nhau th́ ta là ai? Phải có cái nhân, cái duyên, cái nghiệp, cái báo ǵ đó chứ?
Muôn sự tại tham. Không tham th́ đă không sinh sự. Mà tham th́ không đáy. Y như cái bao tử, vốn là một cái túi không đáy vậy! Tham th́ lúc nào cũng thấy thiếu, cũng đói, cũng khát. Khát đủ thứ, đói đủ thứ. Không chỉ cơi người đâu. Cá lớn nuốt cá bé. Bọ hung hùng hục đánh nhau giành giựt cục phân. Thiêu thân tranh nhau lao vào lửa. Dă tràng miệt mài se cát biển đông… Tham quá th́ thành… ngạ quỹ. Đói khát triền miên. Sân (giận) thực ra chỉ là một sản phẩm của tham. Tham mà không được mới sân, mới bị thiêu đốt đủ kiểu ở chín tầng địa ngục. Sân sinh địa ngục. Địa ngục chẳng đâu xa. Nó ở ngay trong ta và luôn háo hức chờ đợi. Nhưng cái gốc của tham, sân là từ “ngu muội” (Si) mà ra! “Súc sanh” quá đi chớ. C̣n căi ǵ nữa! Lâu lâu nh́n lại ḿnh mà coi: “Đồ súc sanh! Đáng đời! Đáng kiếp!”…
Vậy c̣n thiên, nhân, atula th́ từ đâu ra? Th́ từ các “bệnh” nghi, kiến, mạn! Nghi th́ sanh sự, tâm không lúc nào an. Nghi th́ không thể Từ bi! Cho nên nghi sinh… Atula, thần không ra thần, người không ra người, thông minh quỷ quyệt, đấu đá tranh giành, đằng đằng sát khí… C̣n nhân (người)? Chắc là do “Kiến” sinh ra rồi. Chỉ người mới có nhiều thứ kiến, khi tà khi chánh, khi thường khi đoạn, điên đảo mộng tưởng. Cứ quay ṃng như chong chóng. Đáng mừng là người th́ có cơ hội để đổi thay, để chuyển hóa. Cho nên mới bảo làm người, khó, nhưng được làm người đă là may mắn. C̣n “Mạn”? Coi trời bằng vung! Kiêu căng phách lối, vỗ ngực xưng tên, nghĩ ḿnh phước báo, ăn chơi xả láng… Thế nhưng dù là Trời vẫn có lúc rơi xuống địa ngục như chơi!
Tóm lại, sáu nẻo đường… thênh thang th́ tà nhiều hơn chánh. Tà có vẻ… hấp dẫn hơn, lôi cuốn hơn. Cho nên ta mới có khuynh hướng trôi nổi, lăn lộn, măi miết trong sáu nẻo đường… tà, không muốn thoát ra là vậy!Luân hồi sanh tử là cần thiết, là phải vậy. Nước xuôi ra biển lại tuôn về nguồn! Bỉ cực rồi thái lai! Nếu không th́ chán quá. Nếu không th́ bất công quá! Xuân hạ thu đông… rồi lại Xuân. Sắc thọ tưởng hành thức rồi lại… Sắc? Vô minh, hành, thức… rồi sanh, lăo tử hay ngược lại, Lăo tử rồi sanh, hữu, thủ, ái… vô minh, để từ đó mà sinh sự cho sự sinh? “Vô sinh” là hết chuyện, diệt thọ tưởng, dứt ái thủ… là hết chuyện chăng? C̣n lâu! Bởi “Vô vô minh diệc vô vô minh tận…”, không hề có vô minh mà cũng chẳng bao giờ hết vô minh!Luân hồi sanh tử, nghiệp báo oan gia các thứ… ở đâu mà ra?
Th́ ở đâu nữa. Ở ngay trong ta thôi. Trong tứ đại ngũ uẩn. Trong các hợp chất carbon, hydro, oxy, nitrogen (C,H,O,N) và mấy chục nguyên tố đồng ch́ sắt kẽm, mangan, manhê, vôi vữa… các thứ đó thôi. Ôi, cát bụi tuyệt vời! Khi vẽ được bản đồ hệ gene người, các nhà khoa học bật ngữa thấy tinh tinh, chuột bọ, cải ngồng, cổ thụ… đều có những gene y như vậy với một tỷ lệ khác nhau nhiều ít. Tinh tinh có đến 99% cấu trúc gen giống hệt bộ gen người, chuột bọ th́ có đến 98% gen người… Ai dám bảo hôm nào đó chẳng “luân” chẳng “hồi” một phen, cho tinh tinh thành cải ngồng, cải ngồng thành chuột bọ…? Có cái nh́n xuyên suốt ngàn năm chắc thấy biết, c̣n ta mắt trần (nhục nhăn) chưa thấy được đâu, đành lớ ngớ, loay hoay. Bản hoài của chư Phật muôn đời chẳng phải là muốn khai thị cho ta ngộ nhập vào cái “Thấy Biết” của Phật đó sao?
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử c̣n là tiến tŕnh tâm trong mỗi sát-na. Từ sáng đến chiều, từ trưa đến tối ta đă… lang thang sáu nẻo biết bao lần. Hết thiên, nhân lại đến atula rồi ngạ quỷ súc sanh địa ngục xà quần không ngưng nghỉ. Sáng bảnh mắt ra, người sảng khoái, lâng lâng, quần là áo lượt có thua ǵ… tiên nhân đâu, vậy mà trưa nghe một cú điện thoại từ đâu đó bỗng đùng đùng nổi giận, đỏ mặt tía tai, bầm gan tím ruột, lọt tơm vào địa ngục… Chỉ một thoáng thôi, đă từ thiên đàng rơi xuống địa ngục, từ thiên nhân thành Atula, ngạ quỹ… Một thoáng thôi, tiến tŕnh tâm đă trải qua muôn ngàn kiếp rồi vậy!
Biết rơ “cơ chế” bệnh sinh th́ điều trị không khó. Có khi chỉ cần chữa triệu chứng. Có khi phải điều trị căn nguyên để không c̣n tái phát. Cái ǵ làm ta xà quần trôi nổi trong cơi luân hồi sanh tử? Cái ǵ có vẻ như măi cợt đùa không mệt mỏi với ta đó vậy? Chính cái “Ta” đó. Nó đó. Cho nên chỉ có “ta” mới cứu được “ta” thôi, “duy ngă độc tôn” mà! Cho nên phải quay lại với ḿnh, phải phản quan tự kỷ, phải nương tựa chính ḿnh thôi, c̣n t́m kiếm đâu xa nữa? Gia trung hữu bảo hưu tầm mích (Trần Nhân Tông). Khi nhận ra “không phải của ta/ không phải là ta/ không phải là tự ngă của ta” th́ có lẽ đă có một nụ cười thanh thản, tự tại, an nhiên.
Bậc Y vương đă bày biện sẵn thuốc men cả đó thôi. Nói đi nói lại mấy ngàn năm rồi. Lẽ nào ta chẳng nghe ra ? Nào Tứ diệu đế, nào Bát chánh đạo, nào Lục độ, Bát Nhă, Pháp Hoa… các thứ. Sắc cho khéo để hoà nhập vào nhau, tương tác lẫn nhau ba chén sáu phân thành một thứ « dược vương » trị bệnh cho kiếp người.
Nói năng, đi đứng, cái ăn, cái ở… cách nào đây cho nó thôi đừng sanh sự, đừng tạo nghiệp? Th́ đă có Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng. C̣n Chánh niệm, Chánh định lại là những thứ thuốc đặc trị để có được Chánh kiến, Chánh tư duy. Cho nên, Giới Định Tuệ là đủ để chấm dứt những nẻo đi về địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Giải thoát và Giải thoát tri kiến là đủ để… chấm dứt những lang thang trôi nổi quẩn quanh c̣n lại ?
Rơ ràng để « giải thoát luân hồi sanh tử » chỉ có mỗi một cách là phải « tu ». Nghĩa là phải « sửa » ḿnh. Phải dứt đi cái nghiệp cái duyên, cái sinh cái sự. Một khi « sự sự vô ngại » rồi th́ thong dong ba cơi sáu đường không c̣n dính mắc, nơi nào cũng trở nên an lành mát mẻ, bởi đă cùng chung dưới một mái nhà. Mái nhà Như Lai.
Thánh Clemente' Hofbauer, nổi tiếng là một người nóng tính, Ngài được cử làm bề trên một cô nhi viện.
Một hôm trong nhà không c̣n lương thực, Clemente' đă phải đích thân đi xin ăn. Ngài vào nhà một người giàu có đang tổ chức một ṣng bạc. Người chủ nhà vừa gặp cơn đen lại vừa bị người hành khất quấy rầy. Ông không kiềm nổi cơn bực bội nên đă nhổ tung nước bọt vào mặt thánh nhân.
B́nh thường có lẽ Clêmentê đă có phản ứng mạnh. Nhưng vốn luyện tập nhẫn nại, nên ngài đă đứng lên lau mặt rồi vui vẻ nói với người đă phỉ nhổ ḿnh: "Đó là qùa ông dành cho tôi, xin cảm ơn ông. Thế c̣n qùa của các trẻ mồ côi đâu?". Bị đánh động bởi cử chỉ điềm nhiên vui vẻ của thánh nhân, người chủ nhà đành phải lấy tiền trao cho ngài để giúp đỡ các em mồ côi.
Người Việt Nam là một dân tộc hiền ḥa, chịu đựng, thông minh và sáng tạo…nhưng vô phước thay, măi đến thế kỷ XXI nầy, người dân sống tại nội địa vẫn c̣n thua kém và lạc hậu so với những dân tộc Á Châu khác. Chưa tính đối với các quốc gia văn minh như Nhật Bản, Đại Hàn, Đài Loan, Thái Lan, Mă Lai, Singapour, Ấn Độ, Tân Gia Ba, Miến Điện …mà ngay với những nước láng giềng sát biên giới, trước đây 38 năm, vị trí của họ lúc đó c̣n đứng quá xa nếu đem so sánh với Việt Nam Cộng Ḥa ! Với trên 80 triệu dân, một lực lượng lao động lớn tại vùng Đông Nam Á, và tiềm lực thiên nhiên tiền rừng bạc biển th́ Việt Nam chính là một trong những con rồng lớn của Á Châu phải đứng dậy sau khi im tiếng súng. Nhưng tiếc thay, kể từ lúc rơi vào tay cộng sản th́ Đất Nước chẳng những bị khựng lại trước đà văn minh tiến bộ thế giới mà c̣n đi tụt lùi một bước quá dài. Có thể nói rằng, bắt đầu từ đó Việt Nam đă biến thành nơi hội tụ của những cái xấu xa, khốn nạn và dă man nhất thế giới.
Đất nước và dân tôc Việt Nam tội t́nh ǵ phải gánh chịu những xấu xa oan trái nầy ? Đáng lư sau chiến tranh, tất cả mọi người đều phải được hưởng thái b́nh, vững tâm làm lại cuộc đời và sống đầy đủ trong hạnh phúc. Nhưng ai đă đưa cả dân tộc đi vào con đường đói rách, bần cùng, phản tiến hóa để rồi phải bị tiếng xấu khi mang thân phận là người Việt Nam !
Thương quá : danh dự con người Việt Nam bị chà đạp :
Trước đây, một vị giám mục Việt Nam đă than thở rằng : ‘Thật xấu hổ với nước ngoài khi trên người mang hộ chiếu quốc tịch Việt Nam’. Thật đúng vậy, sau khi các nhân viên hăng máy bay Hàng Không Việt Nam và du học sinh ăn trộm hàng hóa trong các siêu thị th́ người Nhật đă đặt cho đám nầy một tên thật ‘hoành tráng’ và ‘chính xác’ là bọn ḍi bọ ! Chưa hết, từ sau các vụ như buôn lậu sừng tê giác tại Phi Châu, câu trộm cua ở Mỹ…do những ‘ngài đại sứ’ của các ổ buôn bán visa cho đến việc nhân viên hăng hàng không Việt Nam chuyển tiền, đôla và bạch phiến lậu, cũng như chở thịt chó từ Việt Nam qua cung cấp cho thị trường chui tại Pháp và Bỉ, th́ người ngoại quốc nh́n những người Việt Nam dưới một góc cạnh thiếu thiện cảm. Hơn nữa, từ trên một thập niên trở lại đây, Việt Nam xuất khẩu thanh niên nam nữ đi làm nô lệ xứ người cũng như bán gái ra làm điếm khắp năm châu, th́ dân địa phương, mỗi khi thấy người Việt Nam, thái độ họ ra mặt khinh thường và tự đặt câu hỏi : đàn ông có phải là thành phần nô lệ ? Và đàn bà toàn là một lũ đĩ điếm không ?
Mới đây, thành phần gia đ́nh cán bộ đảng viên cũng như du học sinh thuộc loại ‘con ông cháu cha’ ra xứ ngoài thường theo thói quen cắp vặt tại những siêu thị và chen lấn giành giựt ăn uống trong các nhà hàng khách sạn mà họ đi qua. H́nh ảnh nầy thật xấu hổ cho ngựi Việt Nam, nhất là đối với các cộng đồng người Việt tự do đang sống trên khắp thế giới, điển h́nh mới nhất vừa xảy ra tại Spojovaci Praha 3 Tiệp Khắc, là nơi có rất nhiều lao nô từ Việt Nam qua. Trong thời gian vừa qua, báo chí quốc tế cho biết ở Thủ Đô Bangkok Thái Lan, cũng như ngay tại vài thành phố xứ man ri mọi rợ Tàu cộng, ở đó người địa phương cũng treo bản cấm chó và người Việt Nam vào ăn ! Thế mới đau ! Cũng v́ thành phần ‘đỉnh cao trí tuệ cộng sản’ ăn cắp và ăn giựt ở xứ người nầy mà thằng Chệt, là một giống tồi tệ nhất hành tinh cũng có cớ để ví người Việt Nam ta là chó ! Cái đám ‘ngợm’ mới giàu sau 1975 nầy chính là thủ phạm làm ô danh chung cho toàn thể người Việt đang có mặt trên khắp thế giới.
Cũng đừng quên, trước đây vài năm, ‘chủ tịch nước’ Nguyễn Minh Triết, trong dịp qua Mỹ vận động cho chương tŕnh chính trị kinh tế, ‘nhà vua’ Việt Nam ta không ngại ngùng kiêm luôn chức vụ ma cô khi lên tiếng quảng cáo gái Việt Nam rẻ lắm, mời các ông đến chơi ! Hơn nữa, chuyện vừa xảy ra cho tên công an miệt vườn, nay là thủ tướng với nhiều học vị của trường ‘Cầu Muối’, Nguyễn Tấn Dũng, trước mặt các cơ quan truyền thông quốc tế, không biết kư vào chỗ nào trên tờ thông cáo chung giữa Pháp và Việt. Điều nhục nhă hơn nữa là thủ tướng Pháp đă dùng ngón tay giữa để chỉ cho ‘thủ tướng Việt Nam’ nơi kư tên. Phải hiểu rằng, mỗi khi người Pháp dùng ngón tay giữa để chỉ hoặc ra dấu việc ǵ là một cử chỉ khinh bỉ người đối diện. Và đây, c̣n có thể xem là một hành động bỉ ổi (có thể nói là tục tỉu) dành cho các đối tượng là những người ‘thiếu văn hóa’.
Ngoài ra, một khi nhắc đến các ṭa đại sứ Việt cộng th́ mọi người đều h́nh dung đây chỉ là những ổ buôn đồ lậu, bán visa và cũng là nơi hành hạ những ai mang hộ chiếu do Việt cộng cấp phát. Các ‘ngài đại sứ’ rất ít xuất đầu lộ diện v́ mặc cảm tội lỗi và khả năng sinh ngữ. Ngược lại đám ‘đầu gấu’ và ‘mafia’ mang thông hành ngoại giao th́ len lỏi trong các cộng đồng Việt Nam và người địa phương để buôn lậu, buôn người, khủng bố và thi hành nghị quyết 36. Điển h́nh qua vụ ‘người rừng’ trốn trong các rừng rậm của miền Bắc nước Pháp để kiếm phương tiện qua Anh Quốc, trong hai năm về trước, mà các cơ quan truyền thông Châu-Âu đă phổ biến rộng răi. Một điều cần phải nói thêm, những tên Việt cộng mang thông hành ngoại giao cũng như những đám nằm vùng thường bị mặc cảm tội lỗi. Chúng mặc cảm là thành phần cộng sản cặn bă xă hội nên sống chui rúc, không bao giờ dám chường mặt ra xưng tên xưng tuổi ở nơi công cộng. Trong lúc đó, bất cứ một người Việt Tự Do nào cũng vinh dự tự nhận ḿnh là gốc tỵ nạn đă trốn chạy cộng sản!
Tóm lại, cũng tại bọn ḍi bọ triệu phú cộng sản là những con thú đội xác người, tuy ở nhà lầu đi xe hơi nhưng cốt khỉ vẫn là khỉ. Dù đă gần 40 năm, chúng luôn làm tṛ cười cho thế giới. Chỉ tội nghiệp cho người dân Việt Nam nội địa, mỗi khi có dịp ra nước ngoài, họ thường bị đồng hóa với thành phần cặn bă cộng sản nầy !
Thương quá : đất nước chiến tranh vùi dập triền miên :
Việt Nam đă trải qua chiến tranh tự vệ hàng chục thế kỷ với Tàu, Nhật và Pháp. Đất nước điêu tàn, dân tộc tiêu hao, và rồi, đến lúc có thể gọi là ngưng tiếng súng th́ Hà Nội lại cùm lên đầu nguời dân cái ‘búa liềm’ cộng sản do chúng nhập từ Nga Tàu. Sau ngày 30.4.1975, Hà Nội luôn to mồm tuyên truyền rằng cộng sản đă giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước ! Nhưng sự thật, giải phóng là mục đích cướp của và thống nhất cốt để làm nô lệ Tàu cộng ?
Thật vậy, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tuy im tiếng súng nhưng Hà Nội vẫn luôn chủ trương càng quyét và tiêu diệt thành phần chế độ cũ, những người yêu nước và thế hệ trẻ tiến bộ. Do đó, gông cùm vẫn c̣n, máu vẫn đổ đối với những ai bất đồng ư kiến và lên tiếng đ̣i quyền sống. Ngoài ra, v́ tham nhũng, cán bộ đảng viên cộng sản và thành phần bám vào gấu quần Hà Nội đă vơ vét, từ những việc ăn cắp, cắt xén tài nguyên quốc gia, đến thủ đoạn cướp bóc nhà cửa tiền bạc của nhân dân Miền Nam. Gọi là giải phóng nhưng chỉ trong vài ngày th́ những tên thắng trận đă trở thành tỷ phú và toàn bộ dân chúng Miền Nam đều trắng tay. Chưa hết, hàng rào dây kẽm mọc lên, nhà tù xuất hiện đồng loạt và súng đạn lại bắt đầu nổ…nhằm bảo vệ cái chế độ thối nát với những cái ngai vàng bê tông cốt sắt của chúng.
Ngày nay, cả thế giới đều nhận thấy rằng Việt Nam hiện tại là một nhà tù vĩ đại được ngụy trang bằng mỹ từ cải tạo chạy suốt từ đầu các tỉnh giáp giới Tàu cộng vào đến tận cùng mũi Cà Mau. Tuy không c̣n tiếng súng, nhưng dưới chế độ cộng sản, người dân phải sống trong phập phồng lo sợ, ngày lo miếng ăn, đêm ngủ không yên trước một hệ thống công an ch́m nổi, bất cứ lúc nào cũng có thể xông vào nhà trói tay bịt mắt dẫn đi. Hơn thế nữa, văn hóa đỏ cộng sản đă làm cho người dân mất gốc, quên gia đ́nh, quên tổ quốc. Cái văn hóa đỏ nầy đă tẩy năo con người đồng thời ngày đêm nhồi sọ thế hệ trẻ để biến họ trở thành loài sâu bọ ăn bám, hèn nhát và khuất phục trước bạo quyền Hà Nội cũng như nhu nhược đối với bọn giặc ngoại xâm Tàu cộng !
Thương quá : thân phận người dân dưới chế độ cộng sản :
Gần 40 năm, đội quân cướp nước cộng sản Hà Nội đă làm ǵ được cho Quê Hương và Dân Tộc ? Ngoài những ḷe loẹt vật chất nhằm che đậy một hệ thống tham nhũng từ trung ương xuống địa phương ra, th́ kết quả ‘giải phóng miền Nam’ và ‘thống nhất đất nước’ mà đảng cộng sản Việt Nam đă đem lại cho người dân Việt Nam, là những thành công ‘vĩ đại’, có thể vắn tắt sau đây :
1. Văn hóa cộng sản : Nền văn hóa nhân bản cổ truyền đă bị chế độ cộng sản tẩy năo và thay vào đó một hủ mắm ḍi rừng rú, gọi là ‘văn hóa đỏ’, nhằm ngu muội hóa, bần cùng hóa để dễ dàng khống chế con người bằng h́nh thức quản lư bao tử và khối óc. Những h́nh ảnh đổi đời không bao giờ phai mờ trong trí óc người Việt Nam. Đúng vậy, kể từ ngày cộng sản kéo vào, xă hội Miền Nam hoàn toàn đảo lộn : đồng tiền và bạo lực trở thành thước đo và cái cân địa vị con người trong xă hội. Đạo Đức cuốn gói ra đi, Lễ Nghĩa cúi mặt trốn chạy, T́nh Người biến mất để nhường chỗ cho cảnh cha hiếp dâm con giữa thanh thiên bạch nhật, vợ giết chồng chỉ chẳng qua vài đồng bạc, anh em đâm chém nhau v́ khúc ḿ bó rau. Ngay trong gia đ́nh, người thân ruột thịt c̣n đối xử tàn tệ với nhau như vậy huống ǵ đối với bà con làng giềng và kẻ xa lạ…
2. Nhân phẩm con người : Nhờ vào sự lănh đạo anh minh của ‘bác và đảng’, con gái Việt Nam được chưng bày trong tủ kiến ở các thành phố lớn Đài Loan, Đại Hàn, Mă Lai, Tân Gia Ba, Thái Lan với lời rao ‘mua về làm vợ, làm đầy tớ’, có thể xài thử trước, nếu không thích th́ tự do đổi hoặc bán lại ! Trên các đường hẻm, gái Việt Nam được rao bán dâm với giá rẻ c̣n dưới mức một vài ly café. Tệ hơn nữa, ra đường gặp thanh niên thiếu nữ Việt Nam th́ người địa phương nghĩ ngay đến, một là, thành phần nô lệ do nhà nước cộng sản bán ra ngoại quốc để kinh tài, hai là bọn ḍi bọ con ông cháu cha ra xứ ngoài rửa tiền ăn cắp trong nước. Đúng vậy, dưới chế độ cộng sản, đại đa số người dân đă bán lương tâm cho quỷ đỏ để đổi lấy những thứ nhục dục thỏa măn cho cuộc sống chụp giựt. Do đó, lương tâm và phẩm giá con người ngày nay tại Việt Nam có thể mua với một giá rẻ mạt, hoặc nếu cần, dùng để đổi để lấy vài ba củ khoai, bó rau hay kư gạo !
3. Môi trường giết người : Một điều đau đớn nhất cho đồng bào trong nước : đó là người nội địa đang ‘tự ḿnh giết bản thân ḿnh’ qua môi trường sống thường nhật. Ai cũng biết vậy nhưng làm sao để tránh bây giờ ? Trách nhiệm nhà nước th́ chính cán bộ đảng viên vô trách nhiệm, tham nhũng và sợ quan thầy Tàu cộng…nên không có kế hoạch chỉnh đốn cũng không dám kiểm soát các nguồn sống thiên nhiên cần thiết như không khí, nước uống cũng như các lănh vực biến chế và sản xuất thực phẩm. Không khí ô nhiễm trầm trọng, từ khói, bụi bặm cho đến các loại khí độc thải ra từ các nhà máy vô tổ chức và thiếu kiểm soát. Nguồn nước uống cũng quan trọng nhưng người dân thành phố phải tiêu thụ hằng ngày từ những nguồn ao, lạch, sông, hồ dơ bẩn bởi các chất phế thải do con người và súc vật tống ra hệ thống sông hồ…Nước ống cũng chẳng khác ǵ hơn nước ao mang hàng triệu mầm vi khuẩn độc hại cho sức khỏe con người. Chương tŕnh làm sạch môi trường thật ra quá dễ dàng hơn là xây cất hàng trăm hàng ngàn cơ sở du hí đúng tiêu chuẩn quốc tế hay đua đ̣i phóng vệ tinh, mua hỏa tiễn là những việc làm không cần thiết như vấn đề sức khỏe người dân. Đảng viên, cán bộ và những tay tỷ phú đỏ uống nước chai ngoại nhập, ăn các loại thực phẩm đưa về từ Mỹ, Pháp, Nhật, Đại Hàn, Tân Gia Ba…Trong khi đó giới b́nh dân, ngày chưa đủ hai bữa cơm độn th́ lấy đâu tiền để ăn uống hàng xa xỉ phẩm. Hàng giả, hàng dỗm, hàng độc, hàng pha chế hóa chất là nhu cầu cần thiết mà người dân phải xử dụng để sống qua ngày, dù biết rằng đó là tự đào hố chôn ḿnh ! Ngày nay tại nội địa, cộng sản không cần dùng súng đạn để tiêu diệt dân tộc Việt Nam mà chắc chắn người dân sẽ ngă xuống đồng loạt v́ những loại bệnh quái gở gây ra bởi không khí ô nhiễm và đồ ăn độc hại. Nội giặc Việt cộng và ngoại xâm Tàu chệt thâm độc thật ! Khỏi cần súng đạn, nhưng trong một thời gian nữa th́ toàn dân Việt Nam sẽ trở sẽ thành những thây ma với các loại bệnh kỳ lạ không thể chữa trị !
4. Âm mưu ru ngủ : Mục đích văn hóa đỏ là đả phá cái cũ đồng thời dùng để ru ngủ con người theo chiều hướng cộng sản. Âm mưu của Hà Nội nhằm hủy bỏ quá khứ, tẩy năo bất cứ ǵ thuộc văn hóa nhân bản để thay vào đó một nếp sống mới, mà ăn chơi trác táng là sách lược đứng hàng đầu dành cho thanh niên thiếu nữ. Mục đích của chế độ cộng sản là hủy hoại tinh thần yêu nước của giới trẻ, biến thanh niên thiếu nữ trở thành những con thiêu thân nhục dục hay tay sai chế độ. Hà Nột đă đào tạo hàng loạt con ông cháu cha nối tiếp sự nghiệp, nắm quyền cai trị và bảo vệ đảng trong tương lai. Đảng cần phải tiêu diệt thành phần trẻ để tránh hậu họa, do đó, chương tŕnh ru ngủ người dân cũng như giới trẻ không ngoài mục đích ‘suy nhược hóa’ biến con người trở thành những con vật vô tâm, vô tri, vô giác. Cuộc đời giới trẻ dưới cộng sản ngày nay chỉ c̣n ba vấn đề đơn giản : nô lệ t́nh dục, hưởng thụ tối đa và chết v́ bệnh thời đại !
Để chấm dứt bài, người viết xin phép nhấn mạnh một điều : mai đây khi đất nước hoàn toàn vắng bóng cộng sản, Quê Hương và Dân Tộc Việt Nam chúng ta c̣n lại được ǵ ngoài một gia tài rách nát, một đất nước c̣n da bọc xương và con người là những cái xác không hồn. Muốn sinh tồn, người dân trong những ngày sắp đến phải sống theo bản năng của loài cầm thú. Đó là một điều đau ḷng mà những ai nặng t́nh với Quê Hương Dân Tộc cần phải quan tâm.
Vật chất mất đi, có thể xây dựng lại trong vài ba năm. Nhưng một khi văn hóa, đạo đức và t́nh người đă hoàn toàn cuốn gói ra đi th́ phải cần một vài thế hệ sau mới có thể khôi phục trở lại. Vậy bây giờ chúng ta, thế hệ thứ nhất, thứ hai…phải làm một chút ǵ cho Quê Hương và Dân Tộc trước khi nhắm mắt ?
Lễ khánh thành bức tường tưởng niệm bẩy vị anh hùng tuẫn tiết 30 tháng tư 1975 tổ chức 10 giờ sáng thứ bẩy ngày 5 tháng 4-2014. Tại Viện Bảo Tàng Việt Nam số 1650 Senter Rd, San Jose CA 95112. Lối vào trên đường Pheland. Tôi riêng nghĩ rằng dù gọi là bức tường nhưng ư nghĩa như một mộ bia tập thể cho 7 vị anh hùng. Gọi là khánh thành nhưng mang h́nh thức một ngày tang lễ muộn màng gần nửa thế kỷ. Tôi viết bài này tặng cho các bạn trẻ đă hoàn tất một công tác ư nghĩa từ cả hai cơi âm dương.
Tháng tư 75, năm cùng tháng tận.
Tháng 4 năm 2014 tại Hoa Kỳ tôi ghi lại chuyện 39 năm về trước. Cuối tháng 12 năm 1974 Bắc quân dốc toàn lực tổng tấn công miền Nam. Trận mở đầu thăm ḍ đánh Phước Long. Địch vừa đánh vừa nh́n qua Hoa Thịnh Đốn. Hoa Kỳ án binh bất động. Sau Paris, tù binh đă trở về, quốc hội Mỹ quay lưng nh́n về hướng khác. Khi Sông Bé, thị trấn đầu tiên của Nam Việt Nam kêu cứu. Saigon chỉ c̣n trong tay một phần của liên đoàn 81 để gửi lên tiếp viện. Những người lính biệt kích anh hùng mỏi mệt vừa từ mặt trận Phước Thành được kéo về tưởng chừng sau 3 tháng hành quân nay tạm nghỉ. Nào ngờ lại được trực thăng vận xuống giữa vùng lửa đạn để đánh trận tuyệt vọng tại Phước Long. Ngày 6 tháng 1 năm 1975 Phước Long hoàn ṭan thất thủ. Đây là trận mở đầu cho cuộc chiến tranh kết thúc. Kể từ Genève 54 chia đôi đất nước, sau 21 năm từ chiến tranh chính trị đến chiến tranh quân sự, miền Nam lại thua trận chỉ trong 3 tháng mở đầu của năm 1975.
Sau Phước Long, Saigon trải qua cái tết 75 buồn bă rồi cùng một lượt các chiến trường nổ súng. Ngoại trừ miền Tây tạm yên, các mặt trận đều bị tấn công. Từ miền Đông, lên cao nguyên, xuống duyên hải và ra miền Trung. Năm sư đoàn cộng sản tấn công Ban Mê Thuộc ngày 1 tháng 3-1975. Ngày 8 tháng 3-1975 thêm 5 sư đoàn cộng sản tấn công Huế, cùng 1 lượt 3 sư đoàn đánh vào Quảng Ngăi.
Riêng Ban Mê Thuộc hoàn toàn do cộng sản kiểm soát ngày 14 tháng 3-1975. Qua ngày hôm sau tổng thống Nguyễn văn Thiệu ra Cam Ranh đưa quyết định bất hạnh nhất của đời binh nghiệp khi ra lệnh rút quân đoàn II. Tiếp theo là một loạt các lệnh bất thường cho quân đoàn I.
Hà Nội vừa đánh vừa thăm ḍ Hoa Thịnh Đốn. Saigon vừa rút lui cũng vừa thăm ḍ Hoa Thịnh Đốn.
Mọi việc không c̣n như xưa. Ngân khoản viện trợ cuối cùng của Hoa Kỳ chỉ đủ dành để cất lều và dự trù nuôi ăn cho hàng ngàn người tỵ nạn đến Mỹ. Qua tháng 4 pḥng tuyến cuối cùng của Saigon tan vỡ tại Xuân Lộc. Sau khi ban hành những quyết định sai lầm tai hại khôn cùng, tổng thống Thiệu từ chức với bài diễn văn oán trách đồng minh Hoa Kỳ. Nhưng ông cũng vẫn được đồng minh chở đi kịp thời ra khỏi nước. Phó tổng thống Trần văn Hương lên cầm quyền cố giữ cho đủ 1 tuần rồi thể theo yêu cầu của quốc hội giao quyền cho đại tướng Dương văn Minh.
Lúc đó nước đă đến chân, không c̣n giải pháp nào để lựa chọn. Hải quân VNCH trước khi ra khơi lần cuối đă cử đề đốc tham mưu trưởng Diệp Quang Thủy lên gặp ông Minh để mời xuống tàu. Đại tướng Minh với chút khí phách Nam Kỳ đă từ chối để ở lại nhận ngàn cân tủi nhục. Lúc đó là chiều 29 tháng 4-1975.
Cũng vào chiều 29 tháng 4-1975 được tin vợ con đă vào Tân Sơn Nhất để di tản, tướng Phạm văn Phú, tư lệnh quân đoàn II uống thuốc tự vận tại nhà. Trên đường vào phi trường, được tin chồng tự vẫn, bà Phú và con quay trở về đưa chồng vào nhà thương Đồn Đất (Grall).
Sáng 30 tháng 4 khi tướng Minh c̣n đang soạn bài kêu gọi buông súng, tướng Phú đă qua đời. Ông chết trước khi có lệnh đầu hàng. Tướng tư lệnh quân đoàn II tự vẫn để trả món nợ của riêng ông về trách nhiệm mặt trận cao nguyên.Tướng Phạm văn Phú, nguyên là tù binh trận Điện Biên Phủ, quê Hà Đông, khi chết ông 47 tuổi. Ông ra đi trước khi chiến tranh chấm dứt được vài giờ. Gia đ́nh đă trở lại chôn cất ông và sau đó kẹt lại tại Việt Nam.
tuong1
Bia đá tưởng niệm.
Những cái chết anh hùng.
Trong lịch sử kháng Pháp của dân tộc Việt đă có biết bao nhiêu anh hùng tuẫn quốc. Năm 1867 trong Nam có cụ Phan thanh Giản tự vẫn để nhận tội làm mất 3 tỉnh miền Tây. Năm 1873 cụ Nguyễn Tri Phương tự vẫn ở ngoài Bắc, tiếp theo năm 1882 tổng đốc Hà Nội, cụ Hoàng Diệu tự vẫn v́ không giữ được thành.
Chuyện bây giờ ở thời cận đại là cái chết của các anh hùng Việt Nam Cộng Ḥa vào tháng 4-1975. Trong cái tháng 4 oan nghiệt đó hàng trăm quân cán chính đă tự vẫn. Tuy nhiên để ghi nhận vào bảng vàng, bia đá, chúng ta cần có đủ h́nh ảnh, nhân chứng, tài liệu thật chính xác.
* Cái chết mở đầu trước giờ cuối cùng của cuộc chiến là của thiếu tướng Phạm văn Phú. Tiếp theo ngay sau khi đại tướng Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng trưa 30 tháng 4-75 th́ người tự vẫn công khai và đầu tiên là trung tá cảnh sát Nguyễn văn Long, quê ở Huế 56 tuổi. Ông tự tử bằng súng lục lúc 11:30 ngay trước tượng thủy quân lục chiến Việt Nam, ngó qua quốc hội. Những người vô danh và anh nhà báo Pháp chở xác ông vào nhà thương Đồn Đất của Pháp. T́nh cờ tướng Phú cũng chết tại nhà thương này vào buổi sáng cùng ngày.
Trong khi tại Saigon có 2 chiến binh tự sát th́ trung tá Đỗ Đ́nh Vượng dẫn trung đoàn về bộ tư lệnh sư đoàn 5 tại Bến Cát. Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ tư lệnh sư đoàn mời các sĩ quan tập trung về ăn cơm trưa. Mọi người không c̣n ai b́nh tĩnh mà ăn uống. Riêng ông Vỹ ăn đủ 3 bát cơm thường lệ rồi cho lệnh các đơn vị trưởng tùy nghi. Ông lui vào pḥng riêng dùng súng tự vẫn. Ông là người thứ ba.
Tướng Lê Nguyên Vỹ quê Sơn Tây chết năm 42 tuổi. Vợ con di tản qua Mỹ mấy tháng sau mới biết tin. Gia đ́nh sau này bốc mộ đem về quê cũ tại Sơn Tây, Bắc Việt. Bàn thờ ông để trong đ́nh làng ghi rơ là Lê tướng công, tư lệnh sư đ̣an số 5 quân đội Saigon.
Người thứ tư tuẫn tiết bằng thuốc độc là chuẩn tướng Trần văn Hai tư lệnh sư đoàn 7 tại căn cứ Đồng Tâm, Mỹ Tho. Trước khi ra đi vào chiều 30 tháng 4-1975 tướng Hai có điện thoại từ giă tướng Hoàng văn Lạc tư lệnh sư đoàn 9. Ông Hai quê G̣ Công, qua đời năm 50 tuổi.
Người thứ năm là tướng Lê văn Hưng, tư lệnh phó quân đoàn 4, tự vẫn bằng súng vào buổi tối 30 tháng 4-1975. Ông Hưng lúc qua đời có đông đủ vợ con và các sĩ quan cận vệ. Lúc đó khoảng 9 giờ tối. Ông quê ở Gia Định và ra đi năm 42 tuổi.
Vị tư lệnh quân đoàn 4, thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam đă sống 1 ngày 30 tháng 4 rất dài. Riêng ngày 29 ông đă nhận lệnh đón phái đoàn chính phủ VNCH từ Saigon xuống, nhưng rồi lệnh hủy bỏ. Suốt ngày 30 tháng 4, ngay sau lệnh đầu hàng ông đă có dịp gặp phái đoàn cộng sản 2 lần nhưng rồi lại cho biết chưa sẵn sàng. Chiều 30 tháng 4 ông c̣n đi thăm thương binh tại quân y viện Phan thanh Giản. Qua đêm không ngủ, sau khi thắp hương thỉnh chuông lạy Phật, tướng Nguyễn Khoa Nam lấy súng lục tự tử vào sáng 1 tháng 5-1975. Ông Nam sinh quán Thừa Thiên, chết độc thân năm 48 tuổi.
Người sau cùng ghi danh trên bảng tưởng niệm là đại tá Hồ Ngọc Cẩn. Ông Cẩn chiến đấu đến giờ phút cuối trong ngày 30 tháng 4-1975 và bị bắt tại Chương Thiện. Ông là một trong các sĩ quan đă tiếp tục chiến đấu. Đại tá Hồ Ngọc Cẩn bị bắt giam, bị tra tấn hành hạ suốt 4 tháng. Ông bị xử bắn tại sân vận động Cần Thơ ngày 4 tháng 8-1975. Ông Cẩn quê Rạch Giá, khi qua đời trẻ nhất 37 tuổi. Cùng bị xử bắn có 4 vị quận trưởng Chương Thiện và các trưởng ty. Tiểu khu Chương Thiện quyết chiến đến giây phút cuối nên bị xử bắn nhiều nhất.
tuong2
Bia đá tưởng niệm.
Bia Đá ngàn thu.
Trong chiến sử thế giới, hai bên tử sĩ hy sinh là chuyện thường t́nh. Khi nước Nhật bại trận, các sĩ quan theo tinh thần vơ sĩ đạo truyền thống, nhiều người tự vận. Chuyện này đă được thế giới biết đến.
Tuy nhiên, sau chiến tranh Việt Nam, con số sỹ quan, và chiến binh tự vẫn hàng trăm người, quả thực là điều đáng kính phục. Đặc biệt là cái chết của cấp chỉ huy. Xúc động v́ những hy sinh cao cả đó, biệt đoàn văn nghệ Lam Sơn tại San Jose đă vận động gây quỹ và lập bức tường tưởng niệm để h́nh ảnh các anh hùng QLVNCH được lưu lại với bia đá ngàn thu. Nguyên khối đá chính nặng 8 ngàn pounds. Tất cả 3 khối đá, bệ đá và khối cement chân bệ tổng cộng trên 30 ngàn tấn. Trên bia đá khắc h́nh ảnh 7 vị anh hùng. Hai bên là lời tri ân bằng Anh ngữ và Việt Ngữ. Khối đá quư như là 1 loại cẩm thạch vĩ đại từ Ấn Độ được cắt sẳn theo kích thước và chở qua California. Tại xưởng làm mộ bia có máy tạo h́nh. Lại thêm chuyên viên từ Phi Luật Tân làm bằng tay h́nh ảnh 7 vị anh hùng VNCH. Phía sau là h́nh bóng các chiến binh Việt Nam.
tuong3
Bia đá tưởng niệm.
Lễ khánh thành
Buổi lễ khánh thành sẽ là 1 ngày hết sức đặc biệt với sự tham dự của các quan khách Việt Mỹ. Ban tổ chức đă phổ biến thư trên báo chí, radio, TV và trên internet. Địa điểm tại Viện Bảo Tàng Việt Nam số 1650 Senter Rd, San Jose- CA 95112. Lối vào trên đường Pheland. Tổ chức từ 10 giờ sáng thứ bẩy ngày 5 tháng 4-2014. Nếu không có ǵ trở ngại, kính mời quư bà, quư cô mặc áo dài, quư vị cựu quân nhân mặc quân phục. Chương tŕnh sẽ thực hiện bằng Anh và Việt ngữ.
Mở đầu nghi lễ chào cờ mặc niệm sẽ do toán quốc quân kỳ của US Army. Ban quân nhạc Hoa Kỳ sẽ ḥa tấu quốc ca Hoa Kỳ và quốc ca Việt Nam Việt Nam Cộng Ḥa. Phần nghi lễ quan trọng nhất là việc mở các tấm vải phủ trên bức tường. Ban tổ chức thực hiện 7 bóng bay lớn có viết chử thảo danh tánh các vị anh hùng.Theo thứ tự ngày giờ hy sinh từng trái bóng và hương linh anh hùng sẽ bay lên trời xanh.
Mỗi bóng bay lên là có súng nổ. Khởi đầu là tướng Phạm văn Phú và sau cùng là đại tá Hồ ngọc Cẩn. Phần ư nghĩa nhất cần ghi nhận là lần đầu tiên ban tổ chức mời được tất cả đại diện các gia đ́nh của 7 vị anh hùng từ bốn phương về tham dự. 7 vị tướng lănh và cấp chỉ huy có danh trên bảng tưởng niệm đă trở thành các anh hùng bất tử tượng trưng cho cả QLVNCH. Đặc biệt các cựu chiến binh của quân đoàn 4, của sư đoàn 7, của tiểu khu Chương Thiện, của sư đoàn 5 BB, của cảnh sát quốc gia đều có thể t́m thấy ư nghĩa thiêng liêng, một chút riêng tư trong t́nh huynh đệ chi binh.
Bài báo này xin gửi đến các bạn như là 1 bản báo cáo và 1 lời ân t́nh, xin mời đến dự.Bên cạnh bức tường tưởng niệm, c̣n có 1 biểu tượng hết sức ư nghĩa. Có thêm phần triển lăm một mộ bia lấy từ nghĩa trang quân đội đem về năm 2004.
Nếu chưa từng về thăm nghĩa trang quân đội, các bạn sẽ có dịp ghé đến đây thắp 1 nén hương cho người anh hùng tử sĩ vô danh. Một bia mộ đặt ngay tại Việt Museum nhân dịp khánh thành bức tường tưởng niệm. Đây là lễ giỗ 30 tháng 4 dành cho các anh hùng tuẩn tiết. Lễ giỗ muộn màng mà cộng đồng làm chung với gia đ́nh tang gia 39 năm sau. Xin hăy đến 1 lần với buỗi lễ và sẽ nhớ suốt đời v́ đă mang ư nghĩa thiêng liêng nối kết mối liên hệ giữa người ra đi trong ḷng đất quê hương và người ở lại hải ngoại đến giây phút này. Bia đá đợi chờ, 39 năm sau.
Quê Hương Già Nua hay “Sao Quê Hương Ḿnh Già Nua đến Vậy?” tác giả Alan Phan nhận định về thực trạng của giới trẻ tại Việt Nam hiện nay và chia sẻ những lời khuyên hữu ích của ông. H́nh ảnh chỉ là minh họa.
silicon-valley-sign-lg-content
Các nhà đầu tư thế giới thường nghĩ về Việt Nam như một quốc gia trẻ trung, đang lên và chứa nhiều tiềm năng nhất trong số các thị trường mới nổi. Họ ấn tượng với con số tăng trưởng về dân số, về sự kiện là 58% người VN dưới tuổi 25, và theo nhăn quan của người Âu Mỹ, đây là phân khúc sáng tạo và cầu tiến nhất của bất cứ xă hội nào. Họ t́m đến VN mong những đột phá kỳ diệu và một vận hành năng động kiểu thung lũng Silicon (trung tâm IT của Mỹ ở phía nam San Francisco). Sau vài năm tung tiền mua tiềm năng và cơ hội, họ thường thất vọng và âm thầm bỏ đi. Tại sao?
silicon-valley3-content
Những giả thuyết ngây thơ
Họ đă không lầm về những số liệu tạo nên h́nh ảnh đó. Tuy nhiên, sự phân tích và biện giải về logic của họ vướng phải vài giả thuyết và tiền đề không chính xác. Một người có số tuổi c̣n trẻ không có nghĩa là sự suy nghĩ và vận hành của người đó cũng phải trẻ trung như số tuổi, nhất là khi họ lớn lên trong một xă hội khép kín, ít tiếp xúc với thế giới.
Tôi c̣n nhớ một đại gia IT nổi tiếng cũng đă từng kết luận trong một buổi hội thảo về kinh tế là số người sử dụng điện thoại di động ở VN đă tăng trưởng ấn tượng 36% mỗi năm trong 5 năm qua và lên đến 68 triệu người hay khoảng 80% dân số. Kết luận của anh chuyên gia trẻ này là tương lai về công nghệ thông tin của VN phải sáng ngời và sẽ vượt trội các nước như Trung Quốc, Ấn Độ, Philippines…
Đây là những kết luận ngây thơ về thực tại của xă hội. Một người trẻ suốt ngày la cà quán cà phê hay quán nhậu sẽ không đóng góp ǵ về sáng tạo hay năng động; cũng như vài ba anh chị nông dân với điện thoại cầm tay không thay đổi ǵ về cuộc diện của nông thôn ngày nay (nông dân vẫn chiếm đến 64% của dân số xứ này).
Tôi thích câu nói (không biết của ai): Tất cả bắt đầu bằng suy nghĩ (tư duy). Suy nghĩ tạo nên hành động, hành động liên tục biến thành thói quen và thói quen tạo nên định mệnh. Định mệnh của cá nhân phát sinh từ tư duy cá nhân, định mệnh tập thể đúc kết bởi suy nghĩ của tập thể.
Tư duy, thói quen và định mệnh
Quên đi góc nh́n cá nhân, hăy tự suy nghĩ về tư duy thời thượng của xă hội này và từ đó, ta có thể nhận thức được những hành xử và thói quen của người dân VN. Bắt đầu từ tầng cấp lănh đạo về kinh tế, giáo dục và xă hội đến lớp người dân kém may mắn đang bị cơn lũ của thời thế cuốn trôi; tôi không nghĩ là một ai có thể lạc quan và thỏa măn với sự khám phá.
Những thói quen xấu về chụp giựt, tham lam, mánh mung, dối trá, liều lĩnh, sĩ diện… vẫn nhiều gấp chục lần các hành xử đạo đức, cẩn trọng, trách nhiệm, danh dự và hy sinh. Dĩ nhiên, đây là một nhận định chủ quan, sau một lục lọi rất phiến diện trên báo chí, truyền h́nh và diễn đàn Internet. Nhưng tôi nghĩ là rất nhiều người VN sẽ đồng ư với nhận định này.
Tôi nghĩ lư do chính yếu của những thói quen tệ hại này là bắt nguồn từ một tư duy già cỗi, nông cạn và nhiều mặc cảm. Tôi có cảm giác là ngay cả những bạn trẻ doanh nhân và sinh viên mà tôi thường tiếp xúc vẫn c̣n sống trong một thời đại cách đây 100 năm, dưới thời Pháp thuộc. Thực t́nh, nhiều bậc trí giả đă lo ngại là so với thời cũ, chúng ta đă đi thụt lùi về đạo đức xă hội và hành xử văn minh.
sonnam-large-contentcamau4-content
Nhà văn miền nam Sơn Nam
Tôi thường khuyên các bạn trẻ hăy đọc lại những tiểu thuyết của thời Pháp thuộc trước 1945. Họ sẽ thấy đời sống và các vấn nạn của một nông dân trong truyện của Sơn Nam vẫn không khác ǵ mấy so với một nông dân qua lời kể của Nguyễn Ngọc Tư.
tu6-contentcanhdongbatta n5
Tác giả Nguyễn Ngọc Tư (trái) và 1 cảnh quay trong phim “Cánh Đồng Bất Tận” với tài tử Dustin Nguyễn, Đỗ Hải Yến.
tu7
Bâng khuâng và thách thức của những gia đ́nh trung lưu qua các câu chuyện của Khái Hưng rất gần gũi với những mẫu chuyện ngắn của nhiều tác giả trẻ hiện nay. Ngay cả những tên trọc phú, cơ hội và láu lỉnh trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng cũng mang đậm nét h́nh ảnh của những Xuân Tóc Đỏ ngày nay trong xă hội.
Nhà văn Khái Hưng và tác phẩm giá trị văn học “Anh Phải Sống”
images9khaihung8
Nhà văn Vũ Trọng Phụng (dưới) với tác phẩm nổi tiếng “Số Đỏ” nhiều lần tái bản.
sodo10sodo11-content
Ôm lấy quá khứ ở thế kỷ 21
Tóm lại, tôi có cảm tưởng chúng ta vẫn sống và vẫn tranh đấu, suy nghĩ trong môi trường cả 100 năm trước. Những mặc cảm thua kém với các ông chủ da trắng vẫn ám ảnh các bạn trẻ ngày nay. Chúng ta vẫn bàn căi về những triết thuyết mà phần lớn nhân loại đă bỏ vào sọt rác. Trong lănh vực kinh doanh, phần lớn các doanh nhân vẫn cho rằng bất động sản và khoáng sản là căn bản của mọi tài sản. Sản xuất gia công và chế biến nông sản vẫn chiếm một tỷ trọng rất lớn trong kim ngạch xuất khẩu. Một doanh nhân Trung Quốc đă mỉa mai với tôi khi đến thăm một khu công nghiệp của VN, “Họ đang cố học và làm những ǵ chúng tôi đang muốn quên”.
Tôi đang ở tuổi 66. May mắn cho tôi, nền kinh tế toàn cầu đă thay đổi khác hẳn thời Pháp thuộc. Tôi không cần phải dùng tay chân để lao động, cạnh tranh với tuổi trẻ. Kinh doanh bây giờ đ̣i hỏi một sáng tạo chỉ đến từ trí tuệ và tư duy đổi mới. Thân thể tôi dù bị hao ṃn (xương khớp lỏng lẻo, tai mắt nhấp nhem..). nhưng trí óc tôi và tinh thần vẫn trẻ hơn bao giờ hết. Thêm vào đó, nó không bị phân tâm bởi những hóc môn (hormones) về đàn bà hay những thứ lăng nhăng khác như các bạn trẻ. Do đó, hiệu năng và công suất của sự suy nghĩ trở nên bén nhậy hơn.
Người Mỹ có câu, “Những con chó già không bao giờ thay đổi” (old dogs never change). Do đó, tôi thường không thích tṛ chuyện với những người trên 40, nhất là những đại trí giả. Nhưng tôi thất vọng vô cùng khi về lại VN và gặp toàn những ông cụ non mới trên 20 tuổi đời: Nhút nhát, cầu an, thụ động, chỉ biết ăn nhậu, và đua đ̣i theo thời thế. Họ sống như các ông già đă về hưu, họ nói năng như một con vẹt, lập đi lập lại những giáo điều, khẩu hiệu đă hiện diện hơn trăm năm. Họ làm việc như một con ngựa bị bịt kín đôi mắt để chỉ nh́n thấy con đường một chiều trước mắt.
Nhiều người đỗ lỗi cho những thế hệ trước và văn hóa gia đ́nh đă kềm kẹp và làm cho thế hệ trẻ này hay ỷ lại và hư hỏng. Cha mẹ vẫn giữ thói quen sắp đặt và quyết định cho các con đă trưởng thành (ngay khi chúng vào tuổi 30, 40..) về những cuộc hôn nhân, công việc làm, ngay cả nhà cửa và cách sinh họat. Hậu quả là một thế hệ đáng lẽ phải tự lập và lo tạo tương lai cho ḿnh theo ư thích lại cuối đầu nghe và làm theo những tư duy đă lỗi thời và tụt hậu.
ALAN PHAN
nguồn Blog mười sáu
Sài G̣n của thập niên 50 thế kỷ trước. Thời ông Ngô Đ́nh Diệm chưa về chấp chánh, thời của những thủ tướng lên cầm quyền thiệt ngắn như Nguyễn Văn Thinh, Nguyễn Phan Long, Bửu Lộc, Nguyễn Văn Tâm, Trần Văn Hữu, đến và đi không để lại được công trạng ǵ cho dân tộc v́ những áp lực của những thế mạnh chánh trị từ các cường quốc xa xôi. Họ cũng chẳng để lại ǵ trong trí nhớ thơ dại của tôi, chỉ ghi nhận những ǵ xảy ra trong một hai khu phố gần gần nơi ḿnh ở. Chú ư đến những ồn ào sôi động hơn là những chuyện xa vời như chánh trị, văn hóa…
Lúc đó ngày nào như ngày nấy, tôi và những đứa bạn cùng trang lứa sống trong khu gọi là Chợ Cháy của cái chợ lớn hơn là Cầu Ông Lănh, mới qua tuổi mười, chui rúc trong những gian sạp nho nhỏ, tất cả sinh hoạt của đời sống đều diễn ra trong đó. Chừng khoảng chín giờ sáng th́ đă bắt đầu chờ đợi chiếc xe Renault nhỏ và mấy chiếc xe ngựa của những đoàn cải lương chạy qua mà hai bên hông xe nào cũng có dựng hai tấm ban-nô lớn vẽ h́nh quảng cáo tuồng cải lương, bu theo để xin những tấm giấy “pồ-gam” (programe) nói về tuồng hát đêm hôm ấy. Trống trong xe đánh thùng thùng điếc tai nhức óc chen với tiếng phèng la, chập chơa chát chúa không làm chúng tôi ngại ngùng, trái lại càng bị kích thích hơn. Chạy, chạy. Bu bu. Níu níu. Kêu kêu. Cả chợ ai cũng ngó theo xe quảng cáo và lũ con nít ở trần chúng tôi. Nhiều bà nhiều cô cố bước mau tới kế bên để kịp nhận một tờ. Giấy in màu xanh đỏ có h́nh đào kép bận quần áo đẹp đẽ sang trọng, có sơ lược tuồng tích và có những câu rất kêu quảng bá sự hay ho của tuồng sắp được diễn đêm nay.
Chúng tôi ṭ ṃ để biết họ hát tuồng ǵ th́ ít mà để làm một thứ tiền chơi đánh bài, chơi oảnh-tù-t́ với nhau th́ nhiều. Người phát giấy pồ-gam nhẵn mặt và bực bội với chúng tôi. Họ hất tay không cho khi thấy mấy thằng nhỏ xin hết tờ nầy tới tờ kia. Được tờ nào th́ giấu mau ra sau lưng rồi đưa tay kia ra xin tờ khác. Có thằng, thường là thằng Dần, bạo dạn hơn, chờ lúc anh phát giấy vô ư, lẹ như chớp giựt cả xấp chạy biến vô trong chợ. Bữa hôm đó nó tha hồ mà làm cái của ṣng bài cào chơi tiền bằng giấy pồ-gam, đứa nào đặt mấy tấm nó cũng giở, cũng ăn thua đủ.
Nhờ những tấm giấy xanh đỏ quảng cáo kia chúng tôi biết rành mặt đào kép, biết tên gánh hát, biết tuồng tích và biết ai thủ vai ǵ trong tuồng. Có đứa c̣n rành hơn, nó biết tên thầy tuồng và gánh nào chuyên hát loại tuồng ǵ nữa. Thằng Mẹo với thằng Ri kể vanh vách nào là gánh Hậu Tấn của Bảy Cao chuyên hát tuồng có pháo nổ lạch tạch, có bắn súng cắc bùm với lửa xanh phát ra ở đầu súng với mùi pháo bay ra khét lẹt, gánh Hậu Tấn Năm Nghĩa chuyên hát tuồng xă hội với chủ nhơn Lư Ḥa Nghĩa xuống vọng cổ mùi tận mạng bằng những tiếng ơ… ơ kéo dài mà nó bắt chước kéo theo th́ lần nào cũng đứt hơi ho sặc sụa. Mấy chị đàn bà bàn nhau rằng kép Thanh Tao, kép Năm Phồi, kép Bảy Nhiêu đẹp trai nhứt hạng. Có chị chê rậm ŕ là kép Bảy Cao lên sân khấu coi bảnh tỏn vậy mà ai lén lên dăy ghế thượng hạng sẽ thấy ông ta mặt rỗ hoa mè, đánh phấn dầy cộm cũng không che khuất hết.
Cải lương và tuồng tích ảnh hưởng lên đời sống của chúng tôi, đứa nào cũng thuộc vài ba đoạn, năm bảy bài ca trong mấy tuồng đă in ra giấy như Hoàng Tử Lưng Gù hay Máu Nhuộm Phụng Hoàng Cung…. C̣n nói về thể loại bài ca th́ ôi thôi, các loại như Mẫu Tầm Tử, Khổng Minh Tọa Lầu, Hướng Mă Hồi Thành, B́nh Bán Vắn, thủ Phong Nguyệt… tụi tôi ca cũng có hạng và thường th́ chiều chiều tụ lại ba bốn đứa chia vai mà ca mà hát.
Lúc nầy mấy rạp hát thường được đoàn lớn về đóng là rạp Nguyễn Văn Hảo ở đường Galiéni, góc với đường Dixmude, gánh nhỏ hơn chút xíu th́ về trụ 1, 2 tuần ở rạp Aristo, tức Trung Ương Hí Viện ở đường ǵ đó ngó vô ga xe lửa Sàig̣n, rạp Tân Tiến xéo xéo với đ́nh Cầu Muối vùng chợ Cầu Muối. Rạp Văn Cầm ở đường Lacaze, tức Nguyễn Tri Phương sau nầy mà có một hai lần tôi rán đi bộ theo tụi nó tới để xin giấy pồ-gam rồi khi về bị cô tôi giảng mo-ran hai ba giờ đồng hồ, đứng bắt mỏi chưn…
Rồi th́ những gánh như Tỷ Phượng, Phụng Hảo, Tiếng Chuông, Phước Chung, Thanh Hương Văn Chung rồi Thanh Hương-Hùng Minh… kể cả những chuyện nho nhỏ liên quan tới đào kép chúng tôi nhiều khi cũng nghe, cũng biết. Thằng Th́n không hiểu từ đâu mà học được câu hát “Bửu Tài là rể bầu Cao, căi vă với vợ là đào Cẩm Vân”, nó ê a câu nầy hoài bên tai bọn tôi tới nỗi hơn sáu mươi năm nay tôi c̣n nhớ. C̣n thằng Dần lớn con nhứt bọn th́ khen không tiếc lời “Coi em bé Juliette Nga bận áo đầm trước khi đoàn Hậu Tấn Năm Nghĩa của ba mở màn, ra tŕnh diễn một bản Hành Vân hay Mẫu Tầm Tử hoặc Khổng Minh Tọa Lầu hay một hai câu vọng cổ” th́ bữa hôm đó về phụ má nó bán gạo rất là hăng hái. Cái thằng lớn mau như thổi, có nhiều giấy quảng cáo nhứt, có lần nó đi coi cọp về bị đ̣n vậy mà ngày sau bô bô về chuyện em bé Hương Lan ca mùi đứt ruột, bỏ xa Thần đồng Quốc Thắng bên tân nhạc của những kỳ Đại Nhạc Hội vốn cũng được chúng tôi ưa thích.
Chúng tôi, những đứa c̣n lại, chưa đủ lớn để có tiền mua giấy vô cửa hay không đủ lém để tự tin nắm tay một bà dễ tánh nào đó theo vô rạp, vậy mà nhiều đêm rủ nhau 5, 6 đứa tới trước rạp nghe phát loa họ vặn lớn những bài ca vọng cổ như Tôn Tẫn Giả Điên: “Úy trời đất ơi cái nỗi đoạn trường! Cũng bởi v́ tôi quá tin thằng Bàng Quyên là bạn thiết với tôi cho nên ngày hôm nay mới ra nông nỗi… nó đành tâm chặt đứt một bàn chưn tôi... c̣n như công cuộc ngày hôm nay đây….” Mà hễ mỗi lần thằng Dần ca, dầu cho nó vô t́nh hứng chí ca chơi hay cố ư châm chọc th́ thằng Thới què, anh của con Hiền, con nhỏ nhí thường lẽo đẽo theo tôi nắm tay bắt chia giấy program tôi xin hay giựt được, đều nổi máu quạu lên rượt nó chạy có cờ, trước khi bắt đầu rượt thằng Thới đều chụp đại một cái chổi lông gà của ai đó quơ quơ coi bộ ngầu lắm… Sớm quá th́ chưa vô được dầu là đă bắt đầu màn hai. Mấy đứa tôi lang thang ăn cóc, ăn ổi cho rẻ tiền, chờ tới chừng 11 giờ, màn ba bắt đầu, đợi chú gác cửa nháy mắt nói “thả dàn” rồi quay lưng đi vô, chúng tôi vén màn cửa chạy ùa vô coi cọp vớt vát lớp chót. Khúc nầy thường là hội ngộ, trùng phùng, vinh hiển, đào kép ôm nhau cười vui sau khi hoạn nạn đă hết. Chàng vinh hiển làm quan lớn, hai ba vợ, nàng cực khổ ngày xưa trở thành mệnh phụ phu nhơn, cô tỳ nữ trung thành nhiều khi được thưởng làm vợ hai…. trước khi màn nhung kéo lại có gắn tấm bảng đề chữ Văn và nhạc “̣ e rô be đánh đu tạc dzăng nhảy dù, zo rô bắn súng” phát lên. Tiếng guốc giày lốc cốc trên đường nhựa rôm rả một hồi rồi trả sự êm đềm của đêm lại cho Sài G̣n thanh b́nh tạm bợ v́ tiếng súng lẻ tẻ c̣n ở quá xa. Chuyện thanh b́nh của nước nhà tuy chưa có nhưng vẫn ít bén mảng tới thành phố…
Vậy mà thỉnh thoảng khán giả cũng ăn măng cầu lửa, hết lựu đạn liệng lên sân khấu rạp Nguyễn Văn Hảo khiến kép Duy Lân phải bị cụt gị, tới cà na bay lên hàng ghế thượng hạng ở tạp Aristo khiến vài ba ông bà nhà giàu mất mạng. Gánh nào lănh đạn th́ khốn đốn vài ba bữa rồi cũng đứng dậy khai trương tuồng với phong cách mới. Những tuồng phong vị Ba Tư Ngàn Lẻ Một Đêm huyền ảo diễm t́nh ra đời với đủ thứ đèn màu xanh đỏ vàng tím, những tuồng hiệp khách bay lộn bằng dây móc kéo lên quay ṿng ṿng trên sân khấu xuất hiện. Thời nầy người ta chú trọng tới tuồng tích ly kỳ, cảnh trí huyền ảo, xiêm y rực rỡ. Sự ca diễn chỉ là thứ yếu.
Rồi th́ những năm gần giữa thập niên 50, gánh Kim Chung, Tiếng Chuông Vàng Thủ Đô đóng đô quanh năm ở rạp Aristo với kép đẹp Huỳnh Thái, Ngọc Toàn, đào thương Bích Hợp, đào diễn Kim Chung, các đào kép phụ chuyên làm hề đồng, làm tỳ nữ như Túy Định, Thúy Liệu, Phúc Lai, Tư Vững, Ba Hội chuyên diễn những tuồng tích phong vị Trung Hoa gần giống như trong các truyện thơ Nôm của thế kỷ trước mà nhơn vật thường là giai nhơn tài tử, với những mối t́nh thi vị, trong sáng của soạn giả Phong Trần Tiến.
Vậy mà tuồng nào tuồng nấy ăn khách quá chừng, đêm nào rạp cũng chật ních. Thời nầy an ninh trong thành phố đă vững, lựu đạn giết dân của mấy ông trời con ngoài bưng vô không c̣n dịp tung hoành nữa, gánh Kim Chung sau đó dời sang rạp Olympic ở đường Chasseloup Laubat rồi phát triển thành 2, rồi 3. Người coi cải lương chuyển từ từ sang thích giọng ca, cách diễn… Út Trà Ôn, Út Bạch Lan, Bạch Tuyết, Thanh Nga, Diệu Hiền, Ngọc Giàu, Ngọc Nuôi, Út Hiền, Út Hậu, Tấn Tài, Thành Được, Thanh Sang, Hữu Phước… mỗi người mỗi vẻ, mỗi làn hơi, không ai giống ai nhưng người nào cũng có giọng ca trời cho, ru hồn người nên hái ra tiền và có thể nói là góp phần đưa cải lương lên ṿm trời cao của nghệ thuật. Lúc nầy giấy pồ-gam cải lương h́nh như đă hết, chúng tôi hơi lớn lớn, bắt đầu chuyển sang sưu tập program của ciné, cũng in bằng giấy màu của rạp Vĩnh Lợi, Lê Lợi, Eden… đặc biệt viết bằng hai thứ tiếng Việt và Pháp. Chúng tôi bắt đầu làm quen với tên tuổi đào kép của thế giới văn minh bắt đầu từ đây.
Trong hoàn cảnh đó giải Thanh Tâm ra đời xác nhận tài năng ca diễn của đào kép nên nghệ nhơn càng cố gắng trau dồi thêm. Cải lương bước những bước đi bảy dặm, chỉ trong ṿng 10 năm trước 1975 mà tiến bộ hơn mấy lần ba thập niên trước đó…
*
Sống ở Sài G̣n từ nhỏ vậy mà tôi chỉ c̣n nhớ lơm bơm có vậy về cải lương. Quá khứ của bộ môn nầy vượt khỏi trí nhớ của tôi và của biết bao nhiêu người khác dầu họ sanh ra và sống măn đời suốt kiếp ở Sài G̣n với chung quanh gần cả chục rạp và sự đi về của mười mấy đoàn lớn nhỏ. Huống chi cải lương c̣n mọc rễ và phát tán ra ở các tỉnh miền Hậu Giang nữa. Ai dám tự hào ḿnh biết hết bước đường của môn nghệ thuật mới nầy?
Năm ấy Sài G̣n đổi chủ, chủ mới thuộc phe của những người đă liệng lựu đạn vô khán giả yêu thích cải lương ngày xưa. Tôi đi t́m lại chút quá khứ mờ nhạt của ḿnh v́ đă rời xóm chợ hơn 10 năm nay. Dần đă đi Mỹ, thằng Thới què đă chết, mấy thằng Ri, thằng Mẹo đứa th́ già cỗi, răng sún đưa càng, đứa th́ lưu lạc hà phang bất biết. Vậy mà tôi gặp lại con Hiền. Con nhỏ lúc nầy đă gần ba mươi tuổi, không có chồng, mời tôi vô cái sạp bán guốc của nó, đưa cho tôi coi hai xấp program cải lương ngày cũ. Tôi nắm xấp giấy ngày xưa ḿnh thân thiết, mơ ước, ngồi như mơ, nhớ lại thời gian cách đó hơn hai mươi năm…
Thằng Ri bặm trợn cầm một tấm ván mỏng tháo ra từ cái thùng đựng củ hành tây nhập cảng của tiệm đường nhà nó, dí dí vô mặt của con Hiền hét lớn:
Trảm bạch mă tế thiên!
Tru hắc ngưu tế địa!
Giết giết!
Con Hiền né né tránh th́ thằng Mẹo ở đâu lại xía vô, tay cầm ngược chổi lông gà làm kiếm:
Sát nhứt miêu cứu vạn thử cho xong,
Bảo v́ Liêu mà Bảo phải lụy tàn…
Rồi nó chặt mạnh xuống trước mặt con nhỏ như là chặt đầu ông vua nước Liêu mà chúng tôi thường đóng vai ca hát.
Con Hiền sợ quính quáng, chạy tới ôm tôi cứng ngắt. Tôi hơi sượng sùng, nhưng làm bộ tỉnh queo, ra mặt anh hùng rầy tụi kia không được ăn hiếp con gái nữa…
Mấy bữa sau tôi giúp con Hiền ngồi sắp xếp lại đống giấy chương tŕnh mà chị Hai nó liệng ra ngoài v́ choán chỗ, nó vừa xếp, vừa đưa tay gạt cho giấy bớt nhăn nhúm vừa quẹt nước mắt nói khiến tôi giựt ḿnh:
“Nữa lớn Hiền làm vợ của Sang rồi hai đứa ḿnh đi hát cải lương.”
Tôi ngó ngay vô ngực nó, cặp mắt như là chê. Nó biết ư cũng ḍm xuống ngực ḿnh, quả quyết:
“Bây giờ chưa, nhưng lớn lên cũng có chứ bộ!”
Tiếng chứ bộ của nó tôi thương quá chừng, nhưng mới 11, 12 tuổi tôi c̣n ghét con gái lắm, tôi bảo vệ con Hiền v́ tánh anh hùng của con trai hơn là v́ thích nó, tôi nạt phũ phàng:
“Thôi mầy! Chị Hai mầy thấy mặt tao là đuổi đi chỗ khác chơi, vô nhà mầy ở chắc chỉ đánh chưởi tối ngày… với lại…”
Tôi lại ngó vô ngực nó rồi chỉ vô ḿnh một cô đào Mỹ nào đó.
Con nhỏ đỏ mặt lại ngó xuống ngực ḿnh không nói ǵ…
Tôi hỏi con Hiền c̣n nhớ hồi nó ôm tôi và câu chuyện trao đổi lúc hai đứa xếp lại những tờ giấy nầy không. Nó nói nhớ chớ sao không, người ta quên th́ có.
Tôi làm thinh lâu lắm mới bào chữa:
“Đời trai, học hành, lính tráng, sự nghiệp… làm cho ḿnh quên đi quá khứ rất đáng yêu của thời tuổi trẻ. May mà Hiền c̣n giữ quá khứ của chúng ta qua những tờ chương tŕnh nầy.”
Tôi vừa nói vừa chỉ vô bút tích của ḿnh ngày xưa phân vai cho những nhân vật trong quyển tuồng cải lương Hoàng Tử Lưng Gù mà tôi với Hiền thủ vai t́nh nhân của nhau.
Con nhỏ phản đối ngay:
“Sang có vợ con rồi, đừng nói vậy, Hiền chỉ giữ ǵn quá khứ của cải lương thôi, không giữ ǵn quá khứ của chúng ḿnh.”
Câu nói của con Hiền không biết tại sao tôi thấy đáng giận hơn là đáng thương. Tôi nói năm ba câu nữa rồi từ giă, ḷng chẳng lưu luyến ǵ.
Gần bốn mươi năm sau từ ngày bực ḿnh v́ nhóm chữ chỉ giữ quá khứ của cải luơng thôi tôi lại thấy vui vui v́ ư nghĩa ḿnh t́m thấy khi đọc quyển sách “Bước Đường Của Cải Lương” của Nguyễn Tuấn Khanh, đó là tác giả đă thực hành được chuyện giữ ǵn quá khứ của cải lương. Tại sao cùng một ư nghĩa mà trước đây Hiền nói th́ tôi bực ḿnh mà bây giờ tôi lại vui khi gán cho ư nghĩa trong quyển sách của người bạn?
Câu trả lời rất giản dị:
Ông Nguyễn Tuấn Khanh với con mắt của nhà khoa học, với tâm hồn đam mê của nghệ nhơn đă bỏ công đi t́m quá khứ của cải lương để ghi lại những bước đường của nó một cách chính xác bằng những tài liệu với những suy luận chắc nịch, khó căi….
Sách của anh Nguyễn Tuấn Khanh kéo tôi về quá khứ, và sẽ kéo người đọc về một thời mà cải lương là sinh hoạt nghệ thuật đáng trân trọng của Miền Nam nay đă bị giết đi, giết tức tưởi v́ nhiều nguyên nhân…
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.