Nhớ 'một câu nhịn chín câu lành', người Việt sẽ không hung dữ
Hơn nhau không phải ở nắm đấm mà là ở khả năng học tập, làm việc, chia sẻ, thương yêu, tử tế với mình, với người trong mối quan hệ với cuộc sống xung quanh!
Hạ cẳng tay, thượng cẳng chân sau khi va chạm giao thông - Ảnh do bạn đọc cung cấp
Cách đây mấy bữa, trên đường đi làm về, tôi thấy một đám đông ở Hàng Xanh (Q.Bình Thạnh, TP.HCM), nghĩ là có kẹt xe. Tới gần mới phát hiện là vừa có vụ va quẹt và hai tài xế đang cãi nhau, người đi đường ngang qua ai cũng lắc đầu.
Chuyện va quẹt trên phố đông như Sài Gòn giờ tan tầm là chuyện cơm bữa, nếu cảm thông và chia sẻ được thì có lẽ người ta sẽ nhẹ nhàng cho qua, tôi nghĩ vậy!
Môi trường nhiều mầm mống bạo lực
Thường người ta sẽ nổi nóng khi gặp một chuyện bất như ý nào đó, như vừa bị sếp la, ra cổng cơ quan bảo vệ đùa một câu, liền sân si. Nỗi buồn, sự bực bội là thứ năng lượng chi phối hành xử khiến người ta không thể kiềm chế được cơn tức dâng lên, lây sang người khác.
Vì vậy, có người dễ nổi nóng đã cảnh báo: "Thấy tôi ‘khó ở’ là tránh xa xa giùm, không ăn mắng ráng chịu". Theo đó, người nóng lâu ngày họ cũng biết tính khí của mình nên có "chống chỉ định" chuyện nói đùa, tiếp xúc lúc họ đang không vui, căng thẳng. Thực ra, khi quá mệt mỏi, phiền muộn trong lòng, ta không còn giữ được mình.
Có người bạn của tôi bình thường hiền queo, ai nói gì cũng cười. Bỗng một ngày, tôi hỏi "sao buồn dữ rứa?" lại bị bạn nạt cho một câu nghe chưng hửng. Trời, bạn mình đây sao? Mới đầu tôi phản ứng vậy, nhưng chợt dừng lại vì nhớ ra, đây không phải là bản chất của bạn. Có thể bạn đang có một nỗi niềm, áp lực từ cuộc sống, gia đình, tình yêu hoặc bản thân đang trải qua bệnh tật, sự cố…
Ai cũng có lúc nóng giận, nếu mình hiểu thì sẽ không khiến ngọn lửa trong họ cháy phừng. Tôi im lặng và không bỏ mặc, cuối cùng cũng nghe được thổ lộ từ bạn. Bạn bị nhiều áp lực trong công việc: sếp chèn ép, đồng nghiệp tìm cách chơi khăm, lương không cao, phải chật vật trang trải cuộc sống…
Tất nhiên, nhiều người khó khăn hơn nhưng họ không nổi nóng. Đó là tính cách và sức chịu đựng của từng người. Sự nóng tính là một thói quen được huấn tập hằng ngày theo nguyên lý:
"Thói quen tạo nên tính cách, tính cách tạo nên số phận".
Vì thế, các chuyên gia tâm lý khi chia sẻ với tôi về thói vũ phu của chồng vẫn thường lưu ý, có thể anh ấy từng bị bạo hành lúc nhỏ, từng sống gần những gia đình lớn tiếng, ồn ào đánh cãi nhau như cơm bữa.
Sự tác động của cuộc sống xung quanh lên tính cách con người theo hướng đó được ông bà xưa đúc kết rằng "gần mực thì đen". Cái đen đó cần có thời gian thanh lọc để dần trắng, nhưng nếu vẫn tiếp tục nuôi dưỡng trong môi trường đen hơn thì sẽ đen đậm hơn.
Ngày nay các văn hóa phẩm mang tính bạo lực vẫn đầy rẫy trên mạng và tồn tại trong cuộc sống, giải trí của nhiều người: từ game online đến phim ảnh. Thường ngày tiếp xúc với sự đánh đấm, máu me trong các "thức ăn tinh thần" đó khiến não quen với những "mùi vị" của bạo lực, từ đó hành xử theo.
Những kẻ "giang hồ mạng" được ngưỡng mộ và thu tiền trăm triệu cũng chính là một "hình tượng" khiến người ta thay đổi suy nghĩ: cần gì học hành, tử tế, chỉ cần có "số má" là có thể lên đời.
Môi trường bên ngoài đã vậy, trong nhà trường, gia đình cũng đầy mầm mống bạo lực, tránh sao người trẻ không hoang mang và hành xử theo cách tương tự. Đây mới là điều đáng lo, và người lớn muốn thay đổi không khí bạo lực lan tràn thì chính bản thân phải nỗ lực để ứng xử nhẹ nhàng với nhau trước.
Nhẫn để yêu thương
Không thể có kết cục tốt với những người nóng nảy. Nhân vật Trương Phi trong Tam Quốc Chí là hình mẫu của nóng tính dẫn đến hư sự và mang họa sát thân. Ai cũng nóng nảy trong hành xử thì chiến tranh sẽ nổ ra, thương vong là tất yếu.
Một câu nói đùa cũng thành chuyện lớn vì con người ta quá nóng, quá hung dữ; đi nhậu lo hát karaoke cũng bị đánh chết thì… ôi thôi, cuộc sống quá kinh khủng. Pháp luật cần nghiêm minh để trừng trị việc vô cớ đánh, giết người nhưng đó là xử lý phần ngọn, còn cái gốc vẫn là giáo dục.
Làm sao để con người có thể chậm lại để phân tích kỹ hơn từng câu nói, từng biểu hiện của người khác, trong đó có thân nhân, bạn bè mình để không chụp mũ rồi hành xử như người điên, người say?
Sống thiền hay bình tĩnh sống, sống chậm, sống có chánh niệm… là những cách sống theo tinh thần "nhẫn để yêu thương". Đầu tiên là thương mình. Một người chỉ được người khác tin tưởng, nể trọng và giao việc khi có sự chín chắn, điềm tĩnh trong xử lý. Như vậy, người sống có lý trí, điềm tĩnh chính là cách sống lợi lạc tự thân.
Còn cái lợi cho người xung quanh, nhất là người thân - thương thì cũng dễ dàng để thấy. Con cái sẽ học được nhiều điều hay ho từ bố mẹ có cách sống nhẹ nhàng, tình cảm. Đó mới là gia tài quý giá để lại cho con.
Hành xử nóng tính dẫn tới hư việc, hại người thì vòng lao lý chờ mình là chắc chắn. Một khi đã gây ra sự cố mới hối thì đâu còn kịp. Nhiều người bình luận thiếu niên 16 tuổi rút dao đâm chết người nhắc mình chuyện chạy xe chính là "anh hùng rơm", chứng tỏ với bạn gái nhưng rồi được gì sau lần ra tay đó? Tù tội và có thể mất luôn bạn gái.
Ai đợi và ai chấp nhận một người giết người làm người yêu, người chồng, người cha tương lai?
Thực ra, sân si - ai cũng có. Cái chính là cách quản lý năng lương tiêu cực đó để những năng lượng tích cực phát triển. Để làm được điều đó, phải xây dựng lối sống nhân văn từ chính mỗi gia đình, người lớn dạy trẻ nhẫn nhịn để an lành như ông bà mình nhắc "một câu nhịn chín câu lành".
Cho dù bạn thân thiện và cư xử đúng mực thế nào, bạn sẽ luôn phải đối mặt với những người không ưa mình và tìm cách dìm bạn đến hết mức có thể.
Giữ bình tĩnh, đừng chấp cứ những tranh cãi vặt vãnh, bạn sẽ chứng tỏ được mình hơn họ về bản lĩnh sống và kinh nghiệm ứng xử.
Giữ bình tĩnh
minhhọa8
Một trong những cách để đối phó với những haters là hãy luôn là chính bạn và ngày càng trở nên tuyệt vời hơn. Họ không ưa bạn, họ làm mọi thứ trở nên khó chịu cũng là chủ yếu để xem phản ứng của bạn như thế nào và tìm cơ hội để hạ thấp đối phương. Vì vậy, đừng khiến họ dễ dàng đạt được mục đích ấy. Giữ bình tĩnh, sống tốt hơn và phấn đấu hơn thay vì để ý những chuyện nhỏ nhặt như vậy!
Không chấp những cuộc chiến vô nghĩa
minhhọa9
Họ không ưa bạn, muốn thách thức, gây chiến với bạn. Họ muốn xem thái độ và năng lực của bạn đến đâu thông qua những cuộc chiến mà họ làm chủ và đã nắm rõ trong lòng bàn tay.
Trong cuộc sống, điều quan trọng không phải ai là người giỏi nhất, mà là bạn sống có ý nghĩa và cảm thấy hạnh phúc với những gì mình đang làm. Với những cuộc chiến vô nghĩa, bạn không nên mất thời gian để bị dính líu.
Hiểu rằng họ không ưa là quyền của họ
Bạn không thể làm dâu trăm họ, vừa lòng tất cả mọi người được. Những gì bạn đã, đang và sẽ làm sẽ vì cuộc sống sau này của bạn, của bạn bè, của những người mà bạn yêu thương, chứ không là chỉ để chứng tỏ cho những người không ưa mình.
Không bị ảnh hưởng bởi những lời cay độc
Những lời đáp trả có thể giúp bạn thỏa mãn cơn giận dữ nhưng cũng làm bạn tuột dốc không phanh trong mắt người khác. Lời nói là con dao hai lưỡi. Cho dù những haters có dùng lời lẽ khó nghe đến thế nào, hãy bỏ ngoài tai và cho rằng những điều đó không đáng để bạn phải bận tâm. Mục đích của việc phê bình là để giúp cho người khác tiến bộ, không phải để họ suy sụp và phiền não về chúng.
Đối mặt với những lời đồn
Không phải lúc nào im lặng cũng là vàng. Bạn cần biết khi nào cần phải im lặng và khi nào phải lên tiếng bộc bạch. Hãy đối diện trực tiếp với những người gây tiếng xấu cho bạn. Mềm mỏng và xử sự với họ một cách chân thành, chứng minh cho họ thấy những trò trẻ con đó không có tác dụng gì, và bạn bản lĩnh hơn họ rất nhiều.
Nếu như họ tiếp tục gây rối và làm phiền nhiễu thì hãy luôn tin rằng, bên cạnh mình vẫn còn người thân, bạn bè, những người thật sự đáng tin, hiểu rõ và luôn ở bên bạn dù bất cứ chuyện gì xảy ra.
The Following 2 Users Say Thank You to florida80 For This Useful Post:
Tên đường phố Sài Gòn : xưa (thời Pháp thuộc) và nay (trước năm 1975) theo Alphabet
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
(Thăng Long thành hoài cổ – Bà Huyện Thanh Quan)
Trong niềm nhớ thương khôn nguôi về quê nhà của một người Việt Nam ly hương còn nặng tình hoài cổ, tôi xin cố gom góp trí nhớ còn sót lại để ghi ra tên những đường phố Sài Gòn thời xưa cũng như các cơ quan chính quyền, cơ sở văn hóa giải trí đặc biệt trên đó, vì e rằng đến một lúc nào mọi thứ sẽ mai một đi thì đáng tiếc lắm.
Cho nên dù biết rằng viết về những địa hình địa vật của một thời xưa cách nay năm, sáu chục năm bằng vào trí nhớ kém cỏi của cái tuổi gần thất thập cổ lai hi là cả một khó khăn trùng điệp nhưng lòng hoài cổ trong con người tôi vẫn cố vượt mọi trở ngại nhất là với sự góp ý bổ túc đầy nhiệt tình của quý niên trưởng và các bạn nên công việc đã hoàn thành cho dù chưa được hoàn hảo. Chỉ mong ước nhỏ nhoi là qua tài liệu nầy, chúng ta tìm lại hình ảnh ngày xưa của chính chúng ta trên khắp nẻo đường của Sài Gòn đẹp lắm ! Sài Gòn ơi ! Sài Gòn ơi !
tac-gia-ng-tran
Và hơn nữa chúng ta có thể chỉ dẫn cho đàn con cháu nghe thấy về thủ đô Sài Gòn, hòn ngọc Viễn Đông, nơi mà cha mẹ, ông bà chúng đã từng một thời sinh sống và biết đâu chừng cũng là nơi đã từng gặp gỡ của ba má sắp nhỏ qua mối tình đầu.
Cũng xin chân thành cảm tạ sự đóng góp quý báu của nhiều anh chị nhất là chị Đỗ Thanh Vân (Đức Quốc), niên trưởng Trương Thới Lai (Canada), anh Cao Thiếu Lang (Canada), anh Nguyễn Đình Phúc (Canada), anh Bùi văn Tâm (Canada), anh Trần Kiêu Bạc (Mỹ), anh Trương Thúy Hậu (Mỹ)… Chính nhờ những sự bổ túc đó mà hành trình tìm về con đường của dư hương ngày cũ bớt nhiều thiếu sót. Và chúng tôi hy vọng vẫn còn tiếp tục nhận được những góp ý của quý bằng hữu bảng sưu tầm chúng ta thêm hoàn chỉnh hơn. Xin chân thành đa tạ.
Bây giờ mời các bạn cùng chúng tôi đi dạo một vòng quá khứ (back to the past) của một thời hoa mộng trên thủ đô yêu dấu từng đườc mệnh danh là Hòn ngọc Viễn Đông.
Nguyên Trần
Tên thời Pháp thuộc – Tên thời Đệ II Cộng Hòa
dg-le-loi
– Boulevard Bonard – Lê Lợi (Trụ sở Quốc Hội – Nhà Hát Lớn, bệnh viện Sài Gòn, nhà sách Khai Trí, nước mía bò bía Viễn Đông, rạp Vĩnh Lợi, quán cơm Thanh Bạch, quán giải khát Pôle Nord, Hà Nội ice cream, quán kem Mai Hương, Thư Viện Abraham Lincoln, Nhà hàng Kim Sơn, Bồng Lai)
– Boulevard Chanson – Lê văn Duyệt Ngã Bảy trở xuống (Trụ sở Tổng Liên Đoàn Lao Công, Chợ Đủi, trụ sở Tòa Đại Sứ Miên, nơi hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu góc Phan Đình Phùng, rạp Nam Quang – ngã tư Trần Quý Cáp, rạp Kinh Đô sau là văn phòng Usaid, trường trung học tư thục Trường Sơn, Câu Lạc Bộ Kỵ Mã Sài Gòn) – CMT8
dg-ng-hue
– Boulevard Galliéni – Trần Hưng Đạo (Bộ Lao Động, Nha Cảnh Sát Đô Thành, Sở Cứu Hỏa Đô Thành, rạp Nguyễn văn Hảo, Hưng Đạo, rạp Đại Nam, vũ trường Tour d’Ivoire, Bộ Tổng Tư Lệnh quân lực Đại Hàn, Bộ Tổng Tham Mưu cũ, sân bóng rổ Tinh Võ, Khiêu vũ trường Vân Cảnh, Arc en Ciel, Đêm Màu Hồng, trường tiểu học Tôn Thọ Tường, Nhà thờ Tin Lành)
– Boulevard Kitchener – Nguyễn Thái Học trường tiểu học Trương Minh Ký, trường tư thục Huỳnh Thúc Kháng, rạp Nam Tiến, rạp cải lương Thành Xương, Chợ Cầu Ông Lãnh)
– Boulevard Norodom – Thống Nhất (Toà Đại Sứ Mỹ, Phủ Thủ Tướng, Rạp Norodom-Thống Nhất – xổ số quốc gia giúp đồng bào ta mua lấy xe nhà giàu sang mấy hồi – Trần văn Trạch, hãng nhập cảng xe Peugeot Jean Compte, Bộ Tư Pháp, hãng xăng Shell, Esso) – Lê Duẩn
– Boulevard Paul Bert – Trần Quang Khải (Đình Nam Chơn, rạp Văn Hoa)
– Boulevard de la Somme – Hàm Nghi (Đài Pháp Á, Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín,BanqueFranco-Indochinoise, Tổng Nha Thuế Vụ, chợ Chó,chợ Chim,trung tâm Cờ Tướng, tiệm incils quân đội Phước Hùng)
– Rue – 11e RIC (Régiment d’Infanrerie Colonniale)- Nguyễn Hoàng (bến xe lục tỉnh, cư xá hỏa xa)– Trần Phú
– Albert 1er – Đinh Tiên Hoàng (Sân vận động Hào Thành – Hoa Lư – Citadelle, Tổng Nha Thanh Niên, Asam Đakao, mì Cây Nhãn, Chè Hiển Khánh)
– Alexandre de Rhodes – Lục Tỉnh (trung tâm quân báo Cây Mai, bò 7 món Ngân Đình), đường Alexandre de Rhodes tới thời Cộng Hòa thay thế đường Paracels trước dinh Độc Lập – Alexandre de Rhodes
– Alexandre Frostin – Bà Lê Chân (hông chợ Tân Định, rạp Moderne sau đổi là Kinh Thành)
– Alsace Loraine – Phó Đức Chính (biệt thự chú Hỏa – Hui Bon Hoa)
cho-ben-thanh
– Amiral Roze – Trương Công Định (Chùa Chà, chạy xuyên qua vườn Tao Đàn – Vườn Pelouse) – Trương Định
– d’Arfeuille – Nguyễn Đình Chiểu
– Armand Rousseau – Hùng Vương (Trường Trung Học Chu văn An,cư xá sinh viên Sài Gòn)
– d’Arras – Cống Quỳnh (Bệnh viện Từ Dũ, rạp Khải Hoàn, trường trung học tư thục Hưng Đạo-Giáo Sư Nguyễn văn Phú)
– Arroyo de l’Avalanche – Rạch Thị Nghè
– Audouit – Cao Thắng (rạp Việt Long, rạp Đại Đồng Sài Gòn, Chùa Tam Tông Miếu, bánh mì pâté Phò Mã, tư gia nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, Lâm Tuyền)
– d’Ayot – Nguyễn văn Sâm(rạp Kim Châu) – Nguyễn Thái Bình
– Ballande- Nguyễn Khắc Nhu
– Barbier – Lý Trần Quán (chả cá Thăng Long)
– Barbé – Lê Quý Đôn (Trung Học Lê Quý Đôn-Chasseloup Laubat) – Hồng Thập Tự – Nguyễn Thị minh Khai
– Blan Subé – Duy Tân (Viện Đại Học Sài Gòn, Đại Học Luật Khoa, công trường Chiến Sĩ, Con Rùa, Vương Cung Thánh Đường) – Phạm Ngọc Thạch
– Bourdais – Calmette
dg-tc6b0-do
– Catinat – Tự Do (Bộ Nội Vụ, bánh mì pâté Hương Lan, Nhà Hàng Caravelle, Nhà Hàng Continental Palace, La Pagode, Brodard, Vũ trường Maxim’s, Hotel Restaurant Majestic, rạp Majestic, Tiệm quý kim Đức Âm, nhà may Cát Phương, Adam,Tân Tân, Phòng Thông Tin cho các cuộc triễn lãm) – Đồng Khởi
– Champagne – Yên Đổ (Cư xá Đắc Lộ, trường Anh Ngữ Khải Minh) – Lý Chính Thằng
– Charles de Coppe – Hoàng Diệu (hiệu giày Gia, quán nhậuTư Sanh Khánh Hội – cari dê)
– Charles Thomson – Hồng Bàng (bệnh biện Hồng Bàng, đại học Nha Khoa) – Hùng Vương
– Chasseloup Laubat – Hồng Thập Tự (Trường Nữ Hộ Sinh Quốc Gia, Hội Hồng Thập Tự Việt Nam, Rạp Olympic, bàn ghế Phan văn Nhị, khu quán cháo vịt, Bộ Y Tế, Bộ Tài Chánh, Tổng Nha Ngân Sách Ngoại Viện, Cơ quan Tiếp Vận Trung Ương, Hông vườn Tao Đàn – vườn Ông Thượng – vườn Bờ Rô-Pelouse, Hông Dinh Độc Lập, Hông Thảo Cầm Viên, trường trung học kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ) – Nguyễn Thị minh Khai
– Colonel Budonnet- Lê Lai (Rạp Aristo – nhà hàng Lê Lai – tiệm bánh trung thu Tân Tân, cơm chay Vạn Lộc)
– Colonel Grimaud – Phạm ngũ Lão (Chợ Thái Bình, tòa soạn nhật báo SàiGòn Mới – bà Bút Trà, rạp Thanh Bình, ga xe lửa, quày bán vé Hàng Không Việt Nam)
– Cornulier – Thi Sách (nhà in Ideo)
– Danel – Phạm Đình Hổ – Denis Frères – Ngô Đức Kế (Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam)
– Dixmude – Đề Thám
– Docteur Angier – Nguyễn Bỉnh Khiêm (Thảo Cầm Viên, hồ tắm Nguyễn Bỉnh Khiêm, Tổng Nha Trung Tiểu Học & Bình Dân GiáoDục, trường Trung Học Trưng Vương, Võ Trường Toản, Nha An Ninh Quân Đội)
– Docteur Yersin – Ký Con
– Đỗ Hữu Vị – Huỳnh Thúc Kháng (Trường trung học kỹ thuật Cao Thắng, khu chợ Trời)
– Douaumont- Cô Giang (chợ, rạp hát Cầu Muối)
– Dumortier – Cô Bắc (hãng cao su Labbé)
– Duranton – Bùi thị Xuân (trường trung học Nguyễn Bá Tòng, trường Les Lauriers)
ben-bach-dang
– Eyriaud des Verges – Trương Minh Giảng (Chợ Trương Minh Giảng, rạp Văn Lang – Minh Châu -, cổng xe lửa số 6, Viện Đại học Vạn Hạnh) – Lê Văn Sĩ
– l’Église – Trần Bình Trọng( Hôtel Massage Hồng Tá)
– d’Espagne – Lê Thánh Tôn (Tòa Đô Chánh, Cửa Bắc Chợ Bến Thành, tiệm vàng Nguyễn Thế Tài -Thế Năng, tiệm incils quân đội An Thành, Rạp Lê Lợi, nhà may Văn Quân)
– Faucault – Trần Khắc Chân
– Frère Louis – Nguyễn Trãi từ Ngã Tư Cộng Hoà đổ vô Chợ Lớn (trung tâm đào tạo huấn luyện viên thanh niên thể thao, Nhà thờ Chợ quán)
– Frère Louis – Võ Tánh (Sài Gòn) từ Ngã Tư Cộng Hòa đổ xuống Ngã Sáu (cổng chính Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia, rạp hát Quốc Thanh, phở 79, nhà mồ Á Thánh Matthew Gẫm, trường nữ trung học tư thục Đức Trí) – Nguyễn Trãi
– Filippiny – Nguyễn Trung Trực (Nhà hàng Thanh Thế với tuyệt chiêu suôn, nhà hàng Quốc Tế, Bồng Lai, Kim Sơn, rạp Les Tropiques, Văn Khoa cũ, Pháp Đình Sài Gòn)
– Jean Eudel – Trình Minh Thế – Ng(thương cảng Sài Gòn, kho 5, kho 10) – Nguyễn Tất Thành
– Lacaze – Nguyễn Tri Phương ( Mì vịt tiềm Lacaze, hủ tiếu Mỹ Tiên, hủ tiếu Cả Cần, bánh bao bà Năm Sa Đéc, quán sò huyết lề đường)
– Lacotte – Phạm Hồng Thái (toà soạn nhật báo Dân Ta – ông Nguyễn Vỹ)
– Lacaut – Trương Minh Ký (Lăng Cha Cả – Linh mục Bá Đa Lộc – Pigneau de Béhaines) – Hoàng Văn Thụ
– De Lagrandière – Gia Long (Dinh Gia Long, Bộ Quốc Phòng, Thư viện Quốc Gia, rạp Long Phụng – phim Ấn Độ, tiệm bánh Bảo Hiên Rồng Vàng, tiệm Đồ da Cự Phú, tiệm quần áo trẻ em Au Printemps, tòa soạn nhật báo Tiếng Chuông – ông Đinh văn Khai, nhật báo Việt Nam của ông Nguyễn Phan Long 1936, nhật báo Tiếng Dội, Tiếng Dội Miền Nam, Dân Quyền của ông Trần Tấn Quốc và nhiều nhật báo khác) – Lý Tự Trọng
– Larclause – Trần Cao Vân (bộ Thông Tin)
– Lefèbvre – Nguyễn công Trứ
– Legrand de la Liraye – Phan Thanh Giản (Bệnh viện Bình Dân, Chợ 20, Trường Nữ Trung Học Gia Long, bệnh viện St Paul, Trường tư thục Phan Sào Nam, Nghĩa Trang Mạc Đĩnh Chi – Đất Hộ, cư xá Đô Thành, rạp Long Vân, bánh xèo Đinh Công Tráng) – Điện Biên Phủ
htrg-dien-hong
– Le Man – Cao Bá Nhạ
– Léon Combes – Sương Nguyệt Ánh (văn phòng bác sĩ quang tuyến Lý Hồng Chương, võ trường Hàn Bái Đường ở góc Sương Nguyệt Ánh – Lê văn Duyệt 1954)
– Luro – Cường Để (thành Cộng Hòa, Trường Đại Học Y, Dược Khoa,Văn Khoa, Nông Lâm Súc) – Đinh Tiên Hoàng
– Mac Mahon – Công Lý (Dinh Độc Lập, Dinh Hoa Lan, Phủ Phó Tổng Thống, Chùa Vĩnh Nghiêm, trường tư thục Quốc Anh,Thương xá Crystal Palace – Tam Đa, rạp Hồng Bàng) – Nam kỳ Khởi Nghĩa
– Marchaise – Ký Con
– Maréchal Fox – Nguyễn văn Thoại ( trường đua ngựa Phú Thọ, bệnh viện Vì Dân) – Lý Thường Kiệt
– Maréchal Pétain – Thành Thái (trường trung học Bác Ái) – An Dương Vương
– de Marins – Đồng Khánh (tửu lầu Á Đông, Đồng Khánh, Bát Đạt, Arc En Ciel – Đại Thế Giới) – Trần Hưng Đạo B
– Martin des Pallières – Nguyễn văn Giai
– Massiges – Mạc Đĩnh Chi (Hội Việt Mỹ, Ty Cảnh Quốc Gia Quận Nhứt, nhà hàng thịt rừng Trường Can, phở Cao Vân, trường trung học Les Lauriers, bộ Canh Nông)
– Mayer – Hiền Vương (Nguyễn Chí Nhiều dược cuộc, trung tâm phở gà, giò chả Phú Hương, rạp Casino Đa Kao) – Võ Thị Sáu
– Miche Phùng – Phùng Khắc Khoan (tư dinh đại sứ Mỹ trước đó là tư dinh của tướng Năm Lửa Trần văn Soái)
– Miss Cawell – Huyền Trân Công Chúa
dinh-doc-lap
– Nancy – Cộng Hoà (Trung Học Pétrus Ký, Đại Học Khoa Học, Đại Học Sư Phạm, cửa hôngTổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia) – Nguyễn Văn Cừ
– Nguyễn tấn Nghiệm – Phát Diệm – Trần Đình Xu
– Noel – Trương Hán Siêu
– Ohier – Tôn Thất Thiệp (hủ tiếu Thanh Xuân, Tài Nam Restaurant với món đuôn chà là chiên bơ rất mắc, Chùa Chà Và)
– d’Ormay – Nguyễn văn Thinh (tòa soạn nhật báo Thần Chung – ông Nguyễn Kỳ Nam, Restaurant Admiral) – Mạc Thị Bưởi
– Paracels – Alexandre de Rhodes (Học ViệnQuốc Gia Hành Chánh cũ, Bộ Ngoại Giao)
– Paris – Phùng Hưng (chợ thịt quay vịt quay)
– Pavie- Trần Quốc Toản (Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, Viện Hóa Đạo – Việt Nam QuốcTự, trường tư thục Hồng Lạc, cục Quân Cụ, chợ cá Trần Quốc Toản) – Đường 3 tháng 2
– Paul Blanchy – Hai Bà Trưng (Chợ Tân Định, Tổng Cuộc Điện Lực, BGI – Brasseries et Glacières de l’Indochine, Phở An Lợi, cà phê Quán Trúc, vũ trường Mỹ Phụng, công trường Mê Linh,nhà thờ Tân Định)
– Paulin Vial – Phan Liêm
dai-su-my
– Pellerin – Pasteur (Viện Pasteur, Khu Phở Gà, Phở Minh, Nhà sách Khai Trí, rạp Casino Sài Gòn sau đổi thành rạp Rạng Đông, nước mía bò bía Viễn Đông)
– Pierre Flandin- Đoàn thị Điểm (hông trường Nữ Trung Học Gia Long, hông Tổng Nha Ngân Sách Ngoại Viện)
– Laregnère – Bà Huyện Thanh Quan (Cư xá nữ sinh viên Thanh Quan, Chùa Xá Lợi)
– Renault – Hậu Giang
– René Vigerie – Phan Kế Bính
– Résistance – Nguyễn Biểu (Cầu chữ Y)
– Richaud – Phan Đình Phùng (Tổng Nha Kiến Thiết và Thiết Kế Đô Thị, Đài Phát Thanh Sài Gòn, Bảo sanh viện Hồng Đức, Kỳ Viên Tự, Trường Rạng Đông, chợ Vườn Chuối, Restaurant Sing Sing, nhà hàng La Cigale, sân vận động PĐP) –Nguyễn Đình Chiểu
– Roland Garros – Thủ Khoa Huân
– Sabourain – Tạ Thu Thâu (cửa Đông chợ SàiGòn, Nhà thuốc tây Nguyễn văn Cao, nhà sách & xuất bản Phạm văn Tươi)
– Sohier – Tự Đức
– Taberd – Nguyễn Du (Sở xuất nhập di trú, Nhà thương Đồn Đất- bệnh viện Grall, trung tâm văn hóa Pháp – Centre Cul turel Francais) – Lý Tự Trọng
– Testard – Trần Quý Cáp (Vũ trường AuBaccara, Đại Học Y khoa cũ, Trường Âu Lạc) – Võ Văn Tần
– Tong-Kéou – Thuận Kiều (bệnh viện Chợ Rẫy)
– Turc – Võ Tánh (Phú Nhuận) (Văn Phòng Quận Tân Bình, Phở Quyền, Lăng Cha Cả, bệnh viện Cơ Đốc) – Hoàng Văn Thụ
– Verdun – Lê văn Duyệt Ngã Bảy trở lên (Ngã Ba Chợ Ông Tạ, rạp Thanh Vân) – CMT8
– Vassoigne – Trần văn Thạch
– Yunnam – Vạn Tượng (Q5) bên cầu Ba-Lê Cao
rap-rex
– Quai de Belgique – Bến Chương Dương (Thượng Nghị Viện- Hội Trường Diên Hồng,Tổng Nha Kế Hoạch) – Võ Văn Kiệt
– Quai Le Marne – Bến Hàm Tử – Võ Văn Kiệt
– Quai Le Myre de Vilers – Bến Bạch Đằng (Hotel Restaurant Majestic, Phủ Đặc Ủy Trung ƯơngTình Báo, Bộ Tư Lệnh Hải Quân, bến đò Thủ Thiêm, Cột Cờ Thủ Ngữ – Point des BlagueurS, tư dinh Thủ Tướng, Sở Ba Son – Arsénal – Hải Quân Công Xưởng)
– Quai de Fou-Kien – Bến Trang Tử
Tài liệu tham khảo : – Đặc Trưng Net – Đa Kao trong tâm tưởng
tr-xe-ngua
MÀU NẮNG SÀI GÒN
(Cảm đề khi sưu tầm bảng đối chiếu tên đường Sài Gòn)
Tôi nhớ Sài Gòn nắng chói chang
Những hàng cây ngả bóng bên đàng
Ngựa xe xuôi ngược về muôn nẻo
tr-xe-ngua-3
Tà áo thướt tha đưới gió ngàn
Cờ kéo (1) taxi bung rãi rác
Chuông reo (2) xe điện nhịp rình rang
Bồn Binh thổ mộ qua xe kéo
Hợp tấu rộn ràng vui ánh quang
Nguyên Trần (Toronto)
(1) Cờ kéo : khi lên taxi (hầu hết là chiếc Renault 4 có hai màu : xanh nửa phần dưới và vàng nhạt nửa phần trên), tài xế bẻ cờ đồng hồ tính tiền.
(2) Chuông reo : xe điện (tramway-street car) Sài Gòn reo chuông khi dừng lại ở các trạm. Nếu tôi nhớ không lầm thì thời bấy giờ có hai lộ trình chính :
– Thứ nhất là lộ trình Galliéni (Trần Hưng Đạo) chạy suốt con đuờng Trần Hưng Đạo từ Chợ Lớn vô Sài Gòn mà hai trạm chính là ga Nancy và ga Arras
– Thứ hai lộ trình Boulevard de la Somme (Hàm Nghi) chạy trên đường Hàm Nghi ngừng ga Chợ Cũ rồi quẹo xuống bến Bạch Đằng rẽ vô Hai Bà Trưng chạy tới chợ Tân Định.
tr-danh-may
Hai bên thành xe điện có nhiều mẫu quảng cáo khác nhau nhưng nổi bật nhất là 4 hiệu : – Một viên Cửu Long Hoàn bằng 10 thang thuốc bổ của nhà thuốc Võ văn Vân của ông bầu bóng tròn Võ văn Ứng – Thuốc dưỡng thai Nhành Mai – Dầu khuynh diệp bác sĩ Bùi Kiến Tín – Kem Hynos anh Bảy Chà.
Lúc đó tôi rất thích nhìn cần câu điện trên nóc xe chạm vào hệ thống dây điện xẹt lửa màu xanh xanh tím tím rất lạ và đẹp mắt. Bây giờ ở Toronto xe điện cũng chạy đầy đường và cũng xẹt lửa sáng ngời nhưng tôi thấy nó vô vị làm sao, có lẽ tâm lý là cái gì đã mất đi, đã vào kỷ niệm thì đều quý cả.
SÀI GÒN CỦA TA ƠI !
tranh-sai-gon-1
Chiều nay ngồi ngắm mưa bay
Chạnh lòng tôi nhớ đến Sàigòn xưa
Niềm đau nói mấy cho vừa
Mưa giăng giăng lối lưa thưa giọt buồn
Đâu còn những buổi hoàng hôn
Cà phê tình tự góc Pôle Nord sầu
Tự Do rực rỡ muôn màu
Maxim dìu bước em vào thiên thai
Duy Tân bóng mát trải dài
tranh-lang-ong
Queen Bee vang tiếng hát ai dặt dìu
Đường Trần quốc Toản thân yêu
Trường Hành Chánh trong nắng chiều nghiêng nghiêng
Bạch Đằng xóa nỗi ưu phiền
Chợ hoa Nguyễn Huệ ghe thuyền Chương Dương
Đường về Gia Định muôn phương
Dừng chân Phú Nhuận nghe thương nhớ nhiều
tranh-cho-tan-dinh
Đa Kao xe cộ dập dìu
Phố khuya Tân Định hắt hiu dáng gầy
Lăng Ông Bà Chiểu giờ đây
Còn đâu hương khói những ngày đầu Xuân
The Following User Says Thank You to florida80 For This Useful Post:
SƠ LƯỢC VỀ NGUỒN GỐC MỘT SỐ ĐỊA DANH MIỀN NAM - Hồ Đình Vũ
12 Tháng Sáu 20168:48 SA(Xem: 5308)
Sơ lược về nguồn gốc một số địa danh miền Nam
Hồ Đình Vũ.
Có nhiều nơi ở miền Nam mình đã đi qua, đã ở đó, đã nghe nói tới hoặc đã đọc được ở đâu đó... riết rồi những địa danh đó trở thành quen thuộc; nhưng chắc ít khi mình có dịp tìm hiểu tại sao nó có tên như vậy?
Bài viết này được hình thành theo các tài liệu từ một số sách cũ của các học giả miền Nam: Vương Hồng Sển, Sơn Nam và cuốn Nguồn Gốc Địa Danh Nam Bộ của Bùi Đức Tịnh, với mục đích chia sẻ những hiểu biết của các tiền bối về tên gọi một số địa phương trên quê hương mình.
Xin mời các bạn cùng tham khảo và đóng góp ý kiến từ các nguồn tài liệu khác - để đề tài này được đầy đủ và phong phú hơn.
Đất Nam Việt mà trước đây người ta còn gọi là Nam Kỳ, người Tây Phương khi đặt chân lên xứ mình hồi thế kỷ 16, 17 đã gọi bằng tên Cochinchine hay Đằng Trong.
Người ta cũng gọi xứ này là Đồng Nai (đồng có nhiều nai), Lộc Dã, Lộc Đồng (cùng một nghĩa) hoặc Nông Nại, là nơi mà người Việt mình đặt chân lần đầu tiên năm 1623. Sử chép rằng Chúa Sãi Vương Nguyễn phúc Nguyên (1613-1635), đã gả Công chúa Ngọc Vạn, lệnh ái thứ 2, cho vua Cao Miên Chei Chetta II (1618-1626) từ Xiêm trở về lên ngôi báu và đóng đô tại Oulong. Nhờ sự giao hiếu ấy vua Cao Miên mới cho phép người Việt di dân vào Nam Bộ. Chúng ta đã đặt đầu cầu tại Mô Xoài (gò trồng xoài), gần Bà Rịa đúng vào năm 1623( Theo Claude Madrolle -Indochine du Sud, Paris 1926).
Cũng trong năm này một phái đoàn ngoại giao đã được cử sang Oulong để thương thuyết sự nhượng lại Sở Thuế quan Saigon. Về sau đến đời vua Réam Thip Dei Chan(1642-1659), em vua trước, vị hoàng hậu Việt Nam nói trên đã xin vua Cao Miên cho phép người Việt được quyền khai thác xứ Biên Hòa năm 1638.
Sở dĩ vua Cao Miên đã giao hảo với nước ta và tự ý nhân nhượng một phần nào, là vì muốn cậy thế lực của triều đình Huế để chế ngự ảnh hưởng của người Xiêm. Như vậy chúng ta đã đến sinh cơ, lập nghiệp, khai khẩn đất đai Nam Bộ là do sự thỏa thuận hoàn toàn của đôi bên, chứ tuyệt nhiên không phải là một sự xâm nhập. Lại nữa nhờ uy thế của chúng ta mà Cao Miên đã đối phó hiệu quả với những tham vọng của nước Xiêm và bảo toàn được nền độc lập của mình.
Nói tóm lại sự hiện diện của chúng ta từ hơn 800 năm nay tại Nam bộ rất là hợp tình, hợp lý và hợp pháp. Nói một cách khác công cuộc Nam tiến của tổ tiên ta là một sự kiện lịch sử bất di bất dịch,nó hiển nhiên cũng như cuộc Tây tiến của người Âu Châu tại Mỹ Quốc và cuộc Đông tiến của người Anh tai Úc Châu.
Con sông Đồng Nai đã đưa ta đến tỉnh Biên Hòa (hòa bình ở biên cương), một trấn đã được sáp nhập vào nước ta năm 1653. Khoảng đất này xưa được gọi là Đông Phố đúng ra là Giãn Phố vì hai chữ Đông và Giãn viết theo chữ Hán hơi giống nhau. Về sau nơi này đã được triều đình Huế giao cho bọn người Trung Hoa gốc Quảng Tây di cư theo hai tướng Trần Thượng Xuyên và Trần An Bình đến khai khẩn và lập nghiệp năm 1679 tại Cù lao Phố, sau khi nhà Minh bị nhà Thanh lật đổ.
Miền trên Biên Hòa thì có Hố Nai (hố sập nai), Trảng Bom (trảng là một đồi bằng phẳng và rộng rải cótr ồng nhiều cây chum-bao-hom đọc trạnh thành bom, sinh ra một thứ dầu gọi là chaulmougra, dùng để trị phong hủi.
Phía dưới là nhà thương điên Nguyễn Văn Hoài, một nhà bác học đã quả quyết với chúng tôi rằng trong một đời người, số giờ mà chúng ta điên cuồng cộng lại ít nhất cũng được vài năm!
Biên Hòa là quê hương của Đỗ Thành Nhân, một trong Gia định Tam hùng. Hai người kia là Võ Tánh quê ở Gò Công và Nguyễn Huỳnh Đức quê ở Tân An.
Biên Hòa là xứ bưởi bòng ngon ngọt có tiếng nên mới có câu ca dao:
Thủy để ngư, thiên biên nhạn
Cao khả xạ hề, đê khả điếu,
Chỉ kích nhơn tâm bất khả phòng
E sau lòng lại đổi lòng,
Nhiều tay tham bưởi chê bòng lắm anh
Chúng ta đi ngang qua trước ngọn núi Châu Thới, cao 65m trên có ngôi chùa Hội Sơn, được trùng tu vào đầu thế kỷ thứ 19, nhờ công đức sư Khải Long:
Bao giờ cạn lạch Đồng Nai,
Nghiêng chùa Châu Thới mới sai lời nguyền !
Rồi đến Thủ Đức với những hồ bơi nước suối, và những gói nem ngon lành. Thủ nhắc lại ngày xưa có những chức quan văn như thủ bạ, thủ hô lo về việc thuế má và nhơn thế bộ. Do đó mà có những địa danh như Thủ Thiêm, Thủ Thừa, Thủ Ngữ v.v.. để nhắc lại tên mấy ông thủ bạ và thủ hộ ngày trước. Miền Thủ Đức lại nhắc cho ta hai câu đối "tréo dò"
Xứ Thủ Đức năm canh thức đủ
Kẻ cơ thần trở lại Cần Thơ
Có lẽ vì năm canh thức đủ mà có kẻ than thân trách phận tự mình sánh với cái nem Thủ Đức lột trần :
Người ta năm chị bảy em
Tôi đây như thể chiếc nem lột trần
Phía tay mặt là Gò Vấp, xưa kia là một ngọn đồi trồng cây vấp. Thứ cây này xưa kia được coi như thần mộc, yểm hộ cho dân tộc Chàm. Dã sử thuật lại rằng vào đời vua Chiêm cuối cùng là Pô Romé (1627-1651), vua này muốn vừa ý một ái phi người Việt đã ra lệnh đốn cây Kraik (vấp) cổ thụ rợp bóng nơi vườn ngự uyển. Hơn một trăm thị vệ lực lưỡng không sao hạ nổi vì vết rìu mỗi lần bổ xong thì khép lại ngay. Nhà vua tức giận cầm lấy rìu hạ xuống một nhát, tức thời một tiếng rên rỉ vang lên và cây gục xuống giữa một vũng máu. Và cũng từ đó vận khí nước Chiêm suy dần cho đến ngày tàn tạ.
Bây giờ ta vào thành phố Saigon, nơi mà 300 năm về trước(1674) tiền đạo quân ta lần đầu tiên đã đặt chân tới,mang theo khẩu hiệu: " Tĩnh vi nông, động vi binh". Quân ta không phải tư động mà đến, chính là do lời yêu cầu khẩn thiết của nhà đương cuộc hồi bấy giờ.
Họ khai khẩn đất đai với sức dẻo dai sẵn có, đào sông ngòi trong vùng đất thấp và đây đó khắp nơi, xây dựng thành trì kiên cố.
Một trong những công tác quân sự ấy do tướng Nguyễn Đức Đàm xây năm 1772,rồi đến thành trì Phan An xây năm 1790, kế đến là thành Gia Định xây năm 1836. Những thành ấy xây đắp với mấy vạn nhân công và bao nhiêu tài trí như đã ghi trong câu ngạn ngữ :
Dân đất Bắc
Đắp thành Nam:
Đông đã là đông!
Sầu Tây vòi vọi!
Chúng ta đang ở trung tâm thành phố Saigon (sài là củi, gòn là bông gòn) chuyển sang chữ nho thành Sài-Côn là củi gòn, vì chữ nôm gòn viết là Côn, như Ông Trịnh Hoài Đức (1765-1825) đã ghi trong tác phẩn Gia Định Thống Chí mà hiện nay chúng còn một bản dịch ra pháp văn của ông Gabriel Aubaret.
Theo một số người khác thì Saigon có lẽ do chữ Đê Ngạn đọc thành Tai Ngon hay Thay gon theo giọng Quảng Đông hay Tingan theo giọng Triều Châu, dùng để chỉ thành phố do người Tàu lập nên năm 1778 sau khi họ phải rời bỏ Biên hòa vì chiến sự giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn, để nhờ sự bảo hộ của quân đội chúa Nguyễn đóng tại Bến Nghé.
Nguyên ủy xa hơn cả có lẽ là sự chuyển âm của một danh xưng tối cổ Preikor, có nghĩa là rừng gòn, một loại cây hiện nay còn trồng ở Thủ Đô.
Theo Ông Verdeille thì Saigon có thể là hai chữ nho: Tây Cống đọc chạnh ra, tên này ám chỉ rằng thành phố là phần đất xưa kia đã được các vị vua phía Tây cống hiến cho ta. Ta nên lưu ý rằng tên Siagon chỉ được dùng trong các văn kiện của Pháp kể từ 1784 trở đi mà thôi
Còn danh xưng của Chợ-lớn mà người Tây đọc liền lại là Cholon, nó chỉ ngôi chợ xưa kia nằm trên địa điểm hiện tại của Sở Bưu điện Chợ-lớn kéo dài tới tận Đại Thế Giới cũ. Chợ này lập song song với chợ nhỏ hiện nay còn tồn tại với tên chợ Thiếc ở phía trường đua Phú Thọ. Về sau Chợ-lớn được dời tới Chợ-lớn mới do nhà đại phú Quách Đàm xây tặng, tượng họ Quách vẫn còn ở giữa đỉnh chợ Bình Tây
Sự biến đổi địa âm dạng của địa danh Saigon đã tùy sự hiện diện liên tiếp của những người quốc tịch khác nhau như Preikor (rừng gòn), Tai- Ngon hay Thầy gòn của người Trung Hoa mà ta đọc là Đê-ngan, người phương tây dùng chữ la mã ghi là Saigon từ năm 1784.
Hồi xưa tên Saigon chỉ áp dụng cho khu vực Chợ-lớn hiện thời, còn chính Saigon bây giờ thì khi ấy là Bến Nghé (theo Trịnh Hoài Đức, theo các nhà hàng hải Âu Mỹ, theo bản đồ do ông Trần Văn Học vẽ ngày mùng 4 tháng chạp năm Gia-Long thứ 14( 1815) ghi trên vùng Chợ-lớn hiện tại chỗ nhà thương Chợ-Rẫy ba chữ Saigon xứ, khoảng gần Cây Mai và Phước Lâm. Khu Saigon cao, nằm phía Đồn Đất tức là cái đồn thâu hẹp năm 1836 sau khi Lê Văn Khôi nổi loạn, chắc đã có người ở từ thời thượng cổ, chứng cớ là những khí giới và đồ dùng bằng đá mài tìm thấy khi đào móng nhà thờ Đức Bà. Khu thấp thường gọi là Bến Nghé hay bến Thành.
Bến Thành là cái tên ở gần hào thành Gia-Định, nguyên trước có cái rạch nối liền hào thành với sông Bến-Nghé và có cái chợ gọi là chợ Bền Thành. Cái rạch ấy về sau lấp đi thành Đại lộ Nguyễn Huệ và đến bây giờ có câu ca dao như sau :
Chợ Bến Thành đèn xanh đèn đỏ,
Anh nhìn cho tỏ thấy rõ đèn màu;
Lấy em anh đâu kể sang giàu,
Rau dưa mắm muối có nơi nào hơn em!
Bến Nghé theo Trịnh Hoài Đức là cái bến uống nước của trâu con, do một tên rất cũ là Kompong Krabey (bến trâu) đã được Việt hóa. Nhưng ông Đốc phủ Trần Quang Tuất (1765-1825) cho rằng nơi đây có lắm con cá sấu chúng thường kêu nghé nên gọi là Bến Nghé- Trịnh hoài Đức dịch là "Ngưu-tân" Bến Nghé là cái bến sông Saigon có tên là sông Bến Nghé, cũng có tên là Tân Bình Giang hay là Đức Giang lấy nguồn ở Ban Bót (theo gia-định thống chí) . Còn cái rạch Bến nghé nối dài bởi kinh Tàu -hủ (Arroyo chinois) ngày xưa có tên là Bình Dương và chỗ nó chảy ra giáp sông Bến Nghé gọi là Vàm Bến Nghé. Bến Nghé tức là Saigon và khi ta nói Đồng Nai-Bến Nghé tức là nói đến Nam Bộ vậy.
Phía đông Saigon có một cái kênh gọi là rạch Thị Nghè hay là rạchBà Nghè. Bà tên là Nguyễn Thị Canh, con gái thống suất Nguyễn Cửu Văn tức Văn Trường Hầu, đẹp duyên với một ông nghè. Để cho chồng bà tiện đường qua rạch hàng ngày vào làm trong thành, bà cho dựng một chiếc cầu mà dân sự có thể dùng được. Để tỏ lòng nhớ ơn một bậc nữ lưu,họ đã gọi cầu ấy là cầu Bà Nghè. Đến khi Tây đến đánh thành Saigon, pháo hạm Avalanche tiến vào rạch này đầu tiên nên họ mới gọi là Arroyo de l'Avalanche.
Trên rạch Bến Nghé hồi xưa có nhiều chiếc cầu ván dựng tạm cho người qua lại. Chiếc cầu nổi tiếng hơn cả là cầu Ông Lãnh, được xây nhờ công ông Lãnh binh, thời tả quân Lê Văn Duyệt. Còn những chiếc cầu khác là Cầu Muối, Cầu Khóm (thơm), Cầu Kho và Cầu học (giếng học). Về các công sự thì có :
Chợ Bến Thành (mới) xây năm 1914 trùng tu năm 1950
Nhà thờ Đức Bà khởi công năm 1877,hoàn thành năm 1883
Sở Bưu Điện và Tòa án cất năm 1883
Dinh Norodom khởi công ngày chủ nhật 23-2-1868 với sự tham dự dông đảo của dân chúng. Thủy sư Đô Đốc De La Grandìère với sự hiện diện của kiến trúc sư Hermitte từ HongKong tới, đã đặt viên đá đầu tiên vuông vức mỗi bề nửa mét,trong đó đựng một hộp chì chứa nhũng đồng tiền vàng và bạc dập hình vua Napoléon III. Đức Giám mục Miche, cai quản địa phận,với một số đông con chiên, đã ban phép lành và đọc một diễn văn lời lẽ cao quý đã làm cử tọa đặc biệt chú ý. Công cuộc xây cất trên một khoảng đất rộng 14 mẫu tây đã phải dùng tới hai triệu viên gạch,và cái móng dày tới 3,5m tốn mất 2.436 thước khối đá xanh Biên Hòa. Công tác đã hoàn thành năm 1875 và người đầu tiên đến ở trong dinh đó là Thủy sư Đô Đốc Roze. Sau 84 năm Pháp thuộc, ngày 7-9-1954 Đại tướng Ely, Cao ủy Pháp đã trả dinh thự này cho Chính phủ Việt Nam thời bấy giờ.
Tòa Đô Sảnh (1901-1908) trên có một gác chuông do họa sĩ Ruffier trang trí mặt tiền
Viện Bảo Tàng Quốc Gia xây năm 1927, khánh thành ngày 1-1-1929 , bị vụ nổ nhà thuốc súng làm hư hại ngày 8-3-1946 và được hoàn lại chính phủ Việt Nam ngày 19-9-1951 thu thập tới 4.000 cổ vật đã kê thành mục lục và trình bày trong 14 gian phòng.
Vườn Cầm Thảo (Sở Thú) tương tự với rừng Vincennes ở Pháp, được lập năm 1864. Sau khi đã san bằng,việc đứa thú tới nhốt nơi đó hoàn tất năm 1865. Ngày 28-3-1865 nhà thực vật học Pierre đảm nhiệm việc điều khiển vườn Cầm Thảo Saigon và ngày nay nhiều giống cây ở xứ ta còn mang tên nhà bác học ấy.
Đây đó ta còn gặp một số địa danh nguồn gốc Tây Phương như: Ba-Son (Arsenal) trong có một bến sửa tàu (bassin de radoub) xây bằng ximăng cốt sắt từ năm 1858, và bến tàu nổi được hạ thủy tháng giêng năm 1866. Chữ Ba-Son do chữ Bassin mà ra.
Vườn Bờ Rô (do chữ Jardin des Beaux Jeux) hay là vườn Ông Thượng, xưa kia là hoa viên của Tổng Trấn Lê Văn Duyệt, nay là vườn Tao Đàn.
Dakao là biến danh của Đất Mộ (đất của lăng)
Lăng-tô là biến danh của Tân Thuận, tên một làng mà dân Saigon thường đến hóng mát (pointe des flaneurs).
Bây giờ chúng ta rời Saigon xuống đò Thủ-Thiêm qua bên kia sông xem địa phận mà chính phủ đang trù định một chương trình kiến thiết rộng lớn,để biến nơi này thành một khu vực nguy nga tráng lệ.
Con đò Thủ-Thiêm ngày xưa đã hấp dẫn một số đông những chàng trai trẻ :
Bắp non mà nướng lửa lò,
Đố ai ve được con đò Thủ-Thiêm.
nhưng một ngày kia chàng trai phải ra đi trong khói lửa chiến tranh,đến khi trở về thì than ôi:
Ngày đi trăm hoa hẹn hò,
Ngày về vắng bóng con đò Thủ-Thiêm!
Từ Thủ-Thiêm chúng ta thẳng tiến đến một nơi gọi là Nhà Bè hay là Ngã Ba Sông Nhà Bè, nơi mà con sông Đồng Nai gặp con sông Saigon cũng gọi là sông Bến Nghé. Ngày xưa ở chỗ ấy ông Thủ khoa Hườn có lập nhà bè để bố thí lúa gạo cho những kẻ lỡ đường và ngày nay còn vọng lại mấy câu hò tình tứ của cô lái miền quê:
Nhà Bè nước chảy chia hai:
Ai về Gia định Đồng Nai thì về!
Rời Nhà Bè, chúng ta trở lại Saigon để đi về miền Bà Chiểu, một vùng ngoại ô trù mật ở phía đông, chúng ta phải đi qua một cái cầu gọi là Cầu Bông, vì xưa kia ở gần đó Tả Quân Lê Văn Duyệt có lập vườn hoa rất ngoạn mục. Bà Chiểu tỉnh lỵ Gia định, nổi tiếng về lăng Tả Quân Lê Văn Duyệt (1764-1832), một vĩ nhân được người Việt và người Tàu tôn thờ như một vị thần thánh.
Theo Trương Vĩnh Ký thì Bà Chiểu là một trong 5 bà vợ của ông Lãnh Binh đã xây cái cầu ông Lãnh. Theo phương pháp kinh tế tự túc mà các cụ ngày xưa thường áp dụng, ông đã lập ra 5 cái chợ, giao cho mỗi bà cai quản một cái: Bà Rịa (Phước Lễ), Bà Chỉểu (Gia-Định), Bà Hom (Phước Lâm), Bà Quẹo (phía Quán Tre) và Bà Điểm (phía Thụân Kiều). Riêng chợ Bà Điểm gần làng Tân Thới quê hương của Cụ Đồ Chiểu, tác giả Lục Vân Tiên, thi phẩm đầu giường của đồng bào Nam bộ là nơi bán trầu ngon có tiếng ở Miền Nam. Món trầu là đầu câu chuyện, cho nên bao nhiêu chuyện,hay dở gì cũng do miếng trầu trao cho nhau mà sinh ra cả :
Trồng trầu trồng lộn dây tiêu
Con theo hát bội mẹ liều con hư!
Từ Bà Chiểu chúng ta trở lại Saigon để rẽ về Phú Nhuận, qua Cầu Kiệu hay là Cầu Xóm Kiệu là nơi xưa kia trồng rất nhiều hành kiệu.Phú-Nhuận (giàu sang và thuần nhã) là nơi còn nhiều cổ tích như: Lăng Đô-đốc Võ Di Nguy, mất tại cửa bể Thị Nại năm 1801. Lăng Trương Tấn Bửu và lăng Võ Quốc Công tức là hậu quân Vũ Tính, nơi đây vua Gia-Long có cho trồng 4 cây thông đưa từ Huế vào để tỏ lòng mến tiếc. Võ Tánh là một trong Gia-Định tam hùng mà dân chúng nhắc tới trong những điệu hò giao duyên.Theo thường lệ :
Người con gái lên tiếng trước :
Nghe anh làu thông lịch sử,
Em xin hỏi thử đất Nam-Trung :
Hỏi ai Gia-Định tam hùng,
Mà ai trọn nghĩa thủy chung một lòng ?
Người con trai liền đáp lại :
Ông Tánh, Ông Nhân cùng Ông Huỳnh Đức,
Ba Ông hết sức phò nước một lòng
Nổi danh Gia-Định tam hùng:
Trọn nghĩa thủy chung có Ông Võ Tánh,
Tài cao sức mạnh, trọn nghĩa quyên sinh,
Bước lên lầu bát giác thiêu mình như không!
Về phía Tân Sơn hòa có Lăng Cha Cả là một cổ tích kiến trúc Việt Nam xưa nhất ở vùng Saigon. Nơi đây mai táng Đức Giám Mục Bá-Đa-Lộc, mất tại cửa Thị Nại năm 1799.
Rời khỏi ngoại ô Saigon chúng ta thuê một chiếc thuyền con về vùng Lái-Thiêu (tức là ông Lái gốm họ Huỳnh đã thiêu nhà vì say rượu) để thăm vườn trái :
Ghe anh Nhỏ mũi tráng lường
Ở trên Gia-Định xuống vườn thăm em.
Nơi đây quy tụ rất nhiều trái ngon đặc biệt như: dâu da, thơm, bòn bon, mít tố nữ, măng cụt và nhất là sầu riêng (durian) là giống cây từ Mã-Lai đưa vào Cây Sầu riêng thân cao lá ít, trái có gai bén nhọn kinh khủng, cho nên trời chỉ cho phép nó rụng khi đêm khuya thanh vắng mà thôi! Đồng bào Nam-bộ liệt nó vào hàng đầu trong các loài trái, vì nó có đủ năm mùi hương vị đặc biệt như quả lê Trung hoa. Những người xa lạ phải chịu nhẫn nại một thời gian mới thông cảm và khi đã thông cảm rồi thì thèm muốn như mê say, chỉ trừ anh học trò thi rớt:
Có anh thi rớt trở về
Bà con đón hỏi nhiều bề khó khăn
Sầu riêng anh chẳng buồn ăn,
Bòn bon, tố nữ anh quăng cùng đường!
Tại vùng Lái Thiêu, có một ngôi nhà thờ cổ kính xây từ thế kỷ XVIII trên ngọn đồi xinh tươi, chung quanh có nhiều lò gốm, lò sành và một trường dạy học cho trẻ em câm điếc với một phương pháp riêng biệt.
Đến Búng chúng ta không quên đi thăm chùa Phước Long ở vùng An-Sơn, có ông huề thượng thâm nho, thường ra nhiều câu đối bí hiểm cho những khách nhàn du :
Rượu áp sanh (absinthe) say chí tử
Có người đã đối lại như sau :
Bóng măng cụt mát nằm dài
Trong chùa ông huề thượng có ghi hai câu :
Cúng bình hoa, tụng pháp hoa, hoa khai kiến Phật.
Dâng nải quả, tu chánh quả, quả mãn thông Thần
(sưu tầm bài viết của ông Tân Việt Điêu trong Văn hóa nguyệt san số 33 năm 1958)
Tên gọi Saigon từ đâu?
Đây là một đề tài được các nhà nghiên cứu, học giả, Tây lẫn Ta, tốn rất nhiều thì giờ và công sức.
Cho đến nay thì có khoảng 5 giả thuyết về xuất xứ của chữ Sài Gòn, trong đó có 3 thuộc loại quan trọng hơn. Xin ghi lại 3 thuyết quan trọng hơn dưới đây:
Sài Gòn từ Thầy Ngòn (Đề Ngạn), Xi- Coón (Tây Cống):
Đây là thuyết được đưa ra bởi 2 tay thực dân Pháp là Aubaret và Francis Garnier (người bị giặc Cờ Đen phục kích chết ). Theo Aubaret, Histoire et description de la Basse-Cochinchine và Garnier, Cholen, thì người Tàu ở miền Nam, sau khi bị Tây Sơn tàn sát, đã lập nên thành phố Chợ Lớn vào năm 1778 và đặt tên cho thành phố đó là Tai-ngon hay Ti-ngan. Sau dó, người Việt bắt chước gọi theo và phát âm thành Sài Gòn.
Thuyết này được hai học giả là Vương Hồng Sển và Thái Văn Kiểm đồng ý. Quả thật, trên phương diện ngữ âm, thì Thầy Ngòn, Xi Coón, rất giống Sài Gòn! Tuy nhiên, theo lịch sử thì không phải.
Tại sao? Vì lịch sử chứng minh rằng Saigon có trước, rồi người Tàu mới đọc theo và đọc trại ra thành Thầy Ngòn, Xi Coọn.
Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn viết năm 1776, năm 1674 Thống Suất Nguyễn Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn đánh Cao Miên và phá vở "Luỹ Sài Gòn"(theo Hán-Việt viết là "Sài Côn"). Đây là lần đầu tiên chữ Sài Gòn xuất hiện trong tài liệu sử sách Việt Nam . Vì thiếu chữ viết nên chữ Hán "Côn" được dùng thế cho "Gòn". Nếu đọc theo Nôm là "Gòn", còn không biết đó là Nôm mà đọc theo chữ Hán thì là "Côn".
Như vậy, ngay từ năm 1674 đã có địa danh Saigon! Thì làm gì phải đợi đến 1778 khi người Tàu ở Cù Lao Phố bị Tây Sơn tiêu diệt rồi chạy xuống lập nên Thầy Ngòn tức Đề Ngạn, hay Xi Coón tức Tây Cổng.
Sài Gòn từ Củi Gòn, Cây Gòn, Prey Kor.
Thuyết này được Petrus Trương Vĩnh Ký đưa ra dựa theo sự "nghe nói" như sau:
"Sài là mượn tiếng viết theo chữ Hán có nghĩa là củi gỗ; Gòn là tiếng Nam chỉ bông gòn . Người ta nói rằng tên đó phát sinh bởi sự kiện nhiều cây bông gòn do người Cao Miên đã trồng chung quanh đồn đất xưa của họ, mà dấu vết nay vẫn còn ở chùa Cây Mai và các vùng lân cận".
Pétrus-Trương Vĩnh Ký- Souvenirs historiques sur Saigon et ses environs, trong Excursions et Reconnaissance X. Saigon , Imprimerie Coloniale 1885.
Không biết tại sao mà sau này Louis Malleret và Vương Hồng Sển lại quả quyết thuyết này là "của" Trương Vĩnh Ký , mặc dù ngay sau đoạn này, TVK lại viết tiếp "Theo ý tôi, hình như tên đó là của người Cao Miên đặt cho xứ này, rồi sau đem làm tên gọi thành phố. Tôi chưa tìm ra được nguồn gốc đích thực của tên đó".
Tương tự, có nhiều thuyết phụ theo nói rằng Sàigòn từ"Cây Gòn" (Kai Gon) hay "Rừng Gòn" (Prey Kor) mà ra.
Nói chung, các thuyết này đều dựa trên một đặc điểm chính: cây bông gòn.
Nhưng thuyết này phần lớn đã bị bác bỏ vì lý do đơn giản là không ai tìm được dấu tích của một thứ "rừng gòn" ở vùng Sàigòn, hay sự đắc dụng của củi gòn ở miền Nam, kể cả nhà bác học Trương Vĩnh Ký . Ngay vào thời của Trương Vĩnh Ký (1885) tức khoảng hơn 100 năm sau mà đã không còn dấu tích rõ ràng của thứ rừng này, mặc dù lúc đó Sàigòn không có phát triển hay thay đổi gì cho lắm. Ngay cả khi Louis Malleret khảo nghiệm lại, hình như cũng không có dấu vết gì của một rừng gòn ở Sàigòn.
Sài Gòn từ Prei Nokor
Đây là thuyết mà thoạt đầu khó có thể chấp nhận nhứt (về ngữ âm), nhưng hiện nay được coi như là "most likely".
Chính Petrus Trương Vĩnh Ký là người đưa ra thuyết này Trong Tiểu Giáo Trình Địa Lý Nam Kỳ, ông đã công bố 1 danh sách đôi chiếu 187 địa danh Việt Miên ở Nam Kỳ, như Cần Giờ là Kanco, Gò Vấp là Kompăp, Cần Giuộc là Kantuọc và Sài Gòn là Prei Nokọr
Trước nhất, theo sử Cao Miên được dịch lại bởi Louis Malleret, vào năm 1623, một sứ thần của chúa Nguyễn đem quốc thư tới vua Cao Miên và ngỏ ý muốn mượn xứ Prei Nokor (Saigon) và Kras Krabei của Cao Miên để đặt phòng thu thuế.
Năm 1747, theo danh mục các họ đạo trong Histoire de la Mission Cochinchine, có ghi Rai Gon Thong (Sài Gòn Thượng) và Rai Gon Hạ(Sài Gòn Hạ).
Đó là theo sử sách, còn theo tiếng nói thì Prei Nokor(hay Brai Nagara theo tiếng Phạn mà người Miên mượn), có nghĩa là "thị trấn ở trong rừng", Prei hay Brai là rừng, Nokor hay Nagara là thị trấn. Đây là vùng mà chúa Nguyễn đã mượn làm nơi thu thuế như đã nói ở trên.
Theo tiến trình của ngôn ngữ, Prei hay Brai biến thành RAI, thành"Sài", Nokor bị bỏ "no" thành "kor", và từ "kor" thành "Gòn".
Từ Prei Nokor …mà thành SàiGòn thì thật là …dễ sợ !
Còn sở dĩ có Saigon viết dính nhau là do các giáo sĩ Tây phương đã bỏ mất dấu và gắn liền nhau khi in. Sau khi chiếm nước ta, để khỏi đọc "sai" ra "sê" theo giọng Pháp nên Saigon được viết với hai dấu chấm trên chữ i.
Saigon … muôn thuở là Sài gòn !
Ca dao tục ngữ Sài Gòn
Saigon là Hòn ngọc Viễn Đông, là một thành phố lớn nhất Việt Nam. Những nơi như Saigon được mệnh danh là Kẻ Chợ, đã là Kẻ Chợ ắt có chợ, mà phải là ngôi chợ lớn, khách Lục tỉnh lên thăm Saigon, ra vào chợ Saigon hẳn không quên. Chợ Saigon được đồng bào Hậu Giang so sánh với ngôi chợ tỉnh nhà:
Chợ Saigon cẩn đá,
Chợ Rạch Giá cẩn xi măng.
Giã em xứ sở vuông tròn,
Anh về xứ sở không còn ra vô.
Người con gái ở đô thành tiêm nhiễm nếp sống Tây phương, chàng trai xa nàng khỏi sao thắc mắc, lo nàng ở lại chẳng vuông tròn nên phải ra vô, nàng vuông tròn chàng yên tâm về xứ sở.
Cúc mọc bờ ao kêu bằng cúc thủy,
Chợ Saigon xa, chợ Mỹ cũng xa.
Viết thư thăm hết mọi nhà,
Trước thăm phụ mẫu sau là thăm em.
Saigon và Mỹ Tho, hai nơi cách nhau trên sáu chục cây số, nay tuy thật gần những xưa thật xa, vì phương tiện di chuyển đâu có dồi dào như nay, chàng và nàng dù đã yêu nhau, nhưng mỗi lúc tới thăm đâu có dễ dàng, đôi bên cùng bận làm ăn buôn bán, nàng ở chợ Saigon, chàng ở chợ Mỹ Tho. Nhớ nhung nhau, chỉ biết tin thư thăm hỏi, lấy giấy thay lời. Chàng yêu nàng vì duyên, vì tình, tình yêu chân thật, đâu thấy nàng giàu mà ham hoặc thấy nàng nghèo mà chê.
Chợ Saigon đèn xanh, đèn đỏ,
Anh coi không tỏ, anh ngỡ đèn tàu.
Lấy anh em đâu kể sang giàu,
Rau dưa mắm muối có nơi nào hơn em.
Chợ Saigon với những hàng quảng cáo đèn màu xanh đỏ, chàng trai quê lên nhầm lẫn đó là đèn tàu. Sự lầm lẫn thị giác này có thể có được, nhưng lầm về yêu đương, chàng đâu có lầm. Chàng lấy nàng đâu có kể sang giàu, vì tiền tài bao nhiêu cũng có thể hết, duy tình nghĩa mới bền lâu, như người xưa đã nói:
Theo vàng bỏ ngãi ai hơi,
Vàng thời đã hết, ngãi tôi vẫn còn.
Chính vì nghĩa mới bền lâu, nên khi xa người nghĩa, người con trai đứng ngồi không yên:
Chim quyên xuống đất tha mồi,
Tôi xa người nghĩa đứng ngồi không yên!
Giấy tây bán mấy,
Mua lấy tờ nguyên,
Làm thơ hỏi bạn tình duyên chuyện gì?
Mến thương nàng, đem nàng so sánh với các nàng Lục tỉnh, cô gái Saigon thật hơn:
Nội trong lục tỉnh Nam kỳ,
Mấy ai được nết nhu mì như em.
Hai hàng lụy ngọc ướt nhèm,
Làm sao cho đặng anh với em giao hòa.
Sự ước vọng, lòng mong mỏi của chàng là được cùng nàng giao hòa!
Chợ Saigon ngày nay ta vẫn gọi là chợ Bến Thành, nhưng Bến Thành trước đây là bến tàu và hàng ngày thường 10 giờ thì tàu đến bến này:
Mười giờ tàu lại Bến Thành,
Súp lê còi thổi bộ hành lao xao.
Sao lại mệnh danh Bến Thành? Phải chăng đây là bến của đô thành Saigon hay của Gia Định thành? Còn khách bộ hành lao xao vì muốn ngắm tàu Tây.
Anh ngồi quạt quán Bến Thành,
Nghe em có chốn anh đành quăng om!
Anh ngồi quạt quán Bà Hom,
Hành khách chẳng có, đá om quăng lò.
Chàng trai ngồi quạt quán ở Bến Thành với bình trà Huế, được tin người mình thương đã có nơi chốn, chàng tỏ buồn rầu quẳng cả bình trà đi! Kể cũng đáng buồn, tưởng được cùng người thương thưởng thức bình trà (om) ngon, ngờ đâu nàng là hoa có chủ, chàng đành ôm hận, trút mối giận vào om, cái bình trà vô tội.
Nhắc đến Bến Thành, quên sao được thành Tây:
Dân đất Bắc,
Đắp thành Tây.
Đông thật là đông,
Sầu Nam vời vợi.
Câu này gồm đủ đông, tây, nam, bắc! Dân đất Bắc phải chăng những người dân miền Bắc bị đưa vào Nam làm dân phu, đắp thành cho người Tây? Số dân phu ắt nhiều lắm, Đông thật là đông. Sự đông đúc này quả là một mối sầu vời vợi cho nước Nam, cho dân Nam! Nước mất nhà tan, thân làm nô lệ, phải đi đắp thành cực khổ cho Tây để chúng dựa vào thành trì đô hộ đồng bào mình. Người miền Bắc bị đi dân phu hằng than thở:
Nhà tan nước mất ai ơi,
Cái thân nô lệ sống đời cu ly!
Người dân than thân như vậy, nhưng vẫn có bọn mũ cao áo dài hà hiếp dân để nịnh bợ quân thù! Thật đau đớn nhưng những kẻ mãi quốc cầu vinh, cõng rắn cắn gà nhà, có bao giờ chúng nghĩ đến Sầu Nam vời vợi. Và trong khi sống đời cu ly đi đắp thành Tây, đã biết bao nhiêu người bỏ thây cùng công việc, ngày xưa đâu đã có máy móc, kỹ thuật xây dựng đắp hoàn toàn công ở sức người.
Đắp thành Tây rồi xây soái phủ cho Tây, người dân Nam trong cảnh căm hờn muốn nói không ra, đành gởi tâm tình vào ca dao tục ngữ:
Trên thượng thơ bán giấy
Dưới Thủ Ngữ treo cờ.
Kìa Ba còn đứng trơ vơ!
Nào khi núp bụi, núp bờ,
Mũi Di đánh dạo bây giờ bỏ em.
Thượng thơ, xưa chính là soái phủ miền Nam ở góc đường Tự Do và Gia Long ngày nay. Nơi ấy có bán ấn chỉ cho dân, trong Nam quen gọi là bán giấy. Thủ Ngữ là nơi thủy quân Pháp đóng, cọ dựng cột cờ. Con người ái quốc trông hai nơi này căm gan sôi ruột! Ai đã khéo đạt ra cau ca dao trên để kích thích lòng căm hờn của người dân Việt, đã nhắc đến tượng Gambotta ở vườn Tao Đàn, gọi một cách nhục nhã là Ba Tượng một người Pháp gọi là Ba, ai là dân Việt ắt thấy nhục vong quốc này. Nếu câu ca dao chỉ có ba dòng đầu có thể gợi sự nghi ngờ của người Pháp, bởi vậy phải thêm hai hàng sau gắn vào, mượn lời tình nhân oán trách tình nhân che dấu ý kín của câu hát. Tuy đây là lời tình nhân oán trách tình nhân, nhưng cũng là lời đồng chí oán trách đồng chí, đã cùng nhau núp bụi ngồi bờ, đã cùng nhau đánh dạo ở mũi Di, vậy mà quên nhau, về đầu thú người Pháp để cầu công danh phú quý.
Pháp chiếm Việt Nam, một mặt dân Việt Nam căm hờn, một mặt một số cô gái Việt Nam kém ý thức, vì hoàn cảnh đã sánh duyên với Pháp trở thành me Tây. Lính Pháp lấy me trong thời gian ở đất Việt, rồi anh lính trở về Pháp, cô me Tây ở lại nước Việt lại lấy chồng, đậng một anh lính khác, chẳng khác chi các nàng Giao chỉ sau này trong thập niên 60 cho đến năm 1975 sánh duyên cùng các chú lính Mẽo:
Saigon mũi đỏ,
Gia Định súp lê.
Giã hiền thê ở lại lấy chồng,
Thuyền anh ra cửa bể như rồng lên mây.
Thuyền, tàu Saigon hồi đó sơn mũi đỏ để phân biệt với thuyền tàu lục tỉnh, như vậy thực dân tiện bề kiểm soát.
Thuyền anh ra cửa bể như rồng lên mây, câu này muốn nói khi anh lính Tây đã ra cửa bể rồi, anh tha hồ được tự do, đến bến mới anh tha hồ kết duyên cùng người mới.
Về các cuộc hôn nhân Việt Pháp, lúc tiễn đưa, chúng tôi đã từng nhắc tới một câu trong ca dao hôn nhân dị chủng, xin phép được nhắc lại như sau:
Còi súp lê một anh còn than thở,
Còi súp lê hai anh nức nở vắn dài.
Còi súp lê ba, tàu ra biển Bắc,
Nước mắt anh nhỏ ra, anh rút mù xoa anh chậm,
Tình nghĩa vợ chồng ngàn dặm không quên.
Cuộc tiễn đưa ắt phải xảy ra tại bến tàu Saigon, và có anh chàng Tây đã thút thít vì phải xa vợ, anh bảo rằng ngàn dặm không quên, có thật hay chăng anh ra cửa bể như rồng lên mây? Sao có sự mâu thuẫn giữa hai câu thơ trên, hay ý tại ngôn ngoại, chỉ có sự mâu thuẫn trên hình thức, còn thực ra thì ngàn dặm có đời nào mà không quên đối với những lứa đôi dị chủng, nhất là trong cuộc chắp nối giang hồ.
Saigon nơi có đô hội lớn, phố xá rộng rãi, cây cao và rậm mát:
Đường Saigon cây to bóng mát,
Đường Chợ Lớn hạt cát nhỏ dễ đi.
Đường Saigon có đúng cây to bóng mát, còn đường Chợ Lớn có lẽ trước đây với đất phù sa của đồng bằng Cửu Long, cát nhỏ dễ đi chăng! Dưới thời Pháp thuộc, đường Saigon cũng như đường Chợ Lớn đều đã rải đá và sau này tráng nhựa... Ngày nay, với thời gian đường đã hư hỏng dù rải đá hay tráng nhựa, mà chính quyền có ít chú ý tới sửa chữa, nên có thể có người than:
Đường Saigon ổ gà đi xóc,
Đường Chợ Lớn đi xóc ổ gà.
Ca dao Saigon có những câu rất ngộ nghĩnh, nhắc tới địa danh một cách khéo léo:
Chị Hươu đi chợ Đồng Nai,
Bước qua Bến Nghé ngồi nhai thịt bò.
Trong bài này chúng ta bắt gặp bốn con vật ăn cỏ là Hươu, Nai, Nghé, Bò với hai địa danh là Đồng Nai, Bến Nghé.
Dưới đây là câu ca dao nhắc tới các chợ khác ngoài chợ Bến Thành:
Mẹ đi chợ Quán, chợ Cầu,
Mua cau chợ Vải, mua trầu chợ Dinh.
Sáng mai đi chợ Gò Vấp,
Anh mua một xấp vải đem về.
Cho con hai nó cắt, con ba nó may,
Con tư nó đột, con năm nó viền.
Con sáu đơm nút, con bảy vắt khuy;
Anh bước ra đi,
Con tám núi, con chín trì,
Ớ em mười ơi!
Sao em để vậy còn gì áo anh?
Ca dao Saigon hẳn phải còn nhiều, biết tới đâu xin tỏ tường tới đó, những điều chưa biết xin nhờ sự chỉ giáo của người biết.
(Trích tác phẩm "Hương Nước Hồn Quê" – Toan Ánh )
Đầu tiên được nói đến Bà Nghè, tên gọi hồi trước của con rạch Thị Nghè quận 1 sát bên Sở thú Sài Gòn. Trong Gia Định phú do Phan Văn Thị sáng tác có câu ví ngộ nghĩnh.
Coi ngoài rạch Bà Nghè, dòng trắng hây hây tờ quyến trải,
Ngó lên giồng Ông Tố, cây xanh nghịt nghịt, lá chàm rai.
Tôi chịu thua, tìm cả trong tự điển cây "chàm rai" là cây gì, mà lá nó xanh dữ vậy.
Nội ô Sài Gòn còn có một bà cũng nổi tiếng đó là Bà Chiểu, nằm trên địa bàn phường 1, 2 và 14 thuộc quận Bình Thạnh. Khu vực này có cái chợ cùng tên Bà Chiểu tấp nập ngày đêm, chủ yếu là bán lẻ. Có câu ca dao, nghe cũng vui tai:
Xe mui chiều thả chung quanh
Đôi vòng Bà Chiểu thích tình dạo chơi.
Có lẽ nổi tiếng nhất trong các bà là Bà Điểm. Tương truyền bà Điểm là một chủ quán nước chè vùng Tân Thới Nhứt, Hóc Môn, có 18 thôn vườn trầu, nơi đây Bình Tây Đại Nguyên soái Trương Định từng hoạt động (khoảng năm 1861).
Nói cho ngay, người Sài Gòn xưa hay đặt cho con rạch, chiếc cầu, một địa danh, một con đường, con hẻm một cái tên (hoặc bà hoặc ông) trước là dễ nhớ, sau là ghi lại công tích của người đó góp cho dân trong vùng; thứ nữa nhìn hình vóc của khu vực đó mà đặt.
Thí dụ: Bà Quẹo, là khu vực gồm các phường 13, 14 quận Tân Bình. Ai đi trên đường lên Tây Ninh, vọt thẳng biên giới với Cam-pu-chia, có một ngã ba, nếu nhà ở hướng lộ 14 thì quẹo trái (rẽ) vào.
Hay Bà Đô, là con rạch ở phường 1, quận 5, thông từ các ao, đầm ra rạch Bến Nghé, nay bị lấp rồi. Bà Đô còn là tên chiếc cầu ở đầu đường Hàm Tử bắc qua rạch Bà Đô (còn gọi là Thị Đô). Dân chèo ghe ở Sài Gòn hồi trước, qua đây hay hát:
Kể từ chợ Sỏi trở vô
Xóm Lá là chợ, Thị Đô là cầu.
Hay như Bà Thuông, tên chiếc cầu trên kênh Tàu Hũ, từ đầu đường Tản Đà đến đầu đường Phú Định. Trong Gia Định phú có câu ví rất hay:
Giếng Bà Nhuận rạch cam tuyền, trai gái nhảy thỏa tình khát vọng
Cầu Bà Thuông đường quan lộ gần xa đều phỉ chí quy lai.
Tên cầu, tên rạch, tên khu vực nào đó có từ Bà rất nhiều. Như: rạchBà Bướm có tên từ 1902 ở phường Tân Thuận Đông, quận 7 chảy vào sông Sài Gòn, nay nằm trong khu chế xuất Tân Thuận. Sông Bà Cả Bảy chảy qua hai xã Trung Lập Thượng và Trung Lập Hạ, huyện Củ Chi dài 15 km từ ranh giới với Tây Ninh đến sông Láng Thé. Bà Hom vừa là khu vực phường 13, 14, quận 6 giáp ranh với Tân Bình và Bình Chánh, vừa là chiếc kênh ở xã Tân Tạo. Bà Tàng,vừa là các rạch ở phường 7, quận 8, cũng là tên chiếc cầu bắc qua rạch Lào trên đường Phạm Thế Hiển. Rồi Bà Tà, Bà Lài, Bà Hồng, Bà Lát, Bà Nghiêm, Bà Chủ, Bà Tàng, Bà Thiên, Bà Tiếng, Bà Xếp... cũng là cầu, là rạch, là tên riêng vùng đất. Như tên Bà Khắc là chiếc cầu xưa ở vùng Cầu Kho quận 1. Khắc trong tiếng Nam Bộ còn gọi là Khấc, để cầu khỏi trơn trợt.
Trong bài Cổ Gia Định phong cảnh vịnh có câu:
Trên cây Da Còm, nỡ để ông già gùi đội
Dưới đường Cầu Khắc, chi cho con trẻ lạc loài.
Chiếc cầu Bà Khắc (hay Khấc) này thời nay không còn nữa. Nhiều tên đường cũng tên bà, như đường Bà Huyện Thanh Quan trên địa bàn phường 6, 7, 9 quận 3, hồi Pháp có tên là Rue Nouvelle, đến năm 1920 đổi thành Pierre Fladin. Năm 1955 mới có tên Bà Huyện Thanh Quan đến ngày nay. Bà Ký là đường trên địa bàn phường 9, quận 6. Bà Lài là đường nối từ đường Phạm Văn Chí với Lò Gốm, nay tên đường mới là Đặng Thái Thân. Bà Lê Chân ở Tân Định. Năm 1906 có tên là Frostin. Đến 19-10-1955 đổi lại thành
đường Bà Lê Chân.Bà Triệu nằm sau Bệnh viện Chợ Rẫy, thời Pháp có tên là Merlande. Năm 1955 mới đổi thành Bà Triệu... Chắc là còn nhiều "bà" nữa mà người viết chưa có vinh hạnh làm quen xin mọi người tìm thêm nữa.
Cũng lạ, khi đặt tên cho cái rạch, con sông, chiếc cầu, hay địa danh một vùng đất gắn với một bà nào đó, thì có cả ca dao, câu hát, câu ví dí dỏm. Nhưng, với cánh đàn ông thì thiệt là khô khan, chả thơ phú, câu vè, câu đố nào. Dù sao, có bà thì phải có ông, bởi thiếu ông nghe như trống trải trong lòng vậy.
Ở Sài Gòn địa danh mang tên năm ông sau đây, cứ nhắc tới thì cả nam, phụ, lão, ấu ai cũng rành.
Đầu sổ là Ông Lãnh. Gắn liền với Ông Lãnh là chiếc cầu. Dạ, Cầu Ông Lãnh, rồi chợ Cầu Ông Lãnh, và phường Cầu Ông Lãnh (Nói nhỏ: chỗ này hồi trước bụi đời dữ lắm nghen, nay thì đỡ nhiều rồi). Đúng là có cầu, có chợ, có phường 100%, nhưng thử hỏi cắc cớ: vậy Ông Lãnh là ai vậy, thưa bà con, thì nghe chừng ngắc ngứ lắm! Có giả thuyết cầu này do ông Lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng (1798 - 1866) đóng quân ở đồn Cây Mai, Thủ Thiêm và tại đình Nhơn Hòa, quận 1 gần chiếc cầu. Vả lại,năm 1885, Trương Vĩnh Ký có viết rằng chiếc cầu gỗ do ông lãnh binh ở gần đó cho bắc qua, chắc là ông Lãnh binh Thăng này, chớ không phải ai khác. Cũng có người bảo, cầu này ở cạnh một ông lãnh sự, nên đặt chết tên luôn. Nghe chừng chuyện này không thuyết phục mấy.
Hai là Ông Thượng. Người Sài Gòn trọng tuổi một chút nghe đến vườn Ông Thượng thì biết ngay là Công viên Tao Đàn thuộc quận 1 bây giờ. Chớ hỏi bọn trẻ,chưa chắc hiểu vườn Ông Thượng ở đâu. Vả lại, Ông Thượng là tên dân gian gọi tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt những thập niên 20 và 30 của thế kỷ 19. Nghe nói, vườn Ông Thượng hồi đó hay có gánh hát đến biểu diễn, cả cải lương lẫn hát bội, và Nguyễn Đình Chiểu hồi nhỏ cũng hay đến đây coi tuồng hát bội.
Ba là Ông Tố. Giồng Ông Tố , hồi năm nẳm, ở vùng này còn nhiều cọp beo và nhiều ve lắm, nên có câu:
Coi cọp, xuống Thị Nghè
Ăn ve, lên Ông Tố.
Ve mà nướng lên ăn cũng thơm như cào cào, châu chấu vậy. Không rõ ông Trương Vĩnh Tố có làm quan chức gì, chỉ biết ông ở gần đấy và khu đất cao (gọi là giồng) có lẽ là của ông chăng?
Bốn là Ông Tạ. Là chợ mang tên một thầy thuốc nam nổi tiếng Trần Văn Bỉ (còn gọi là Tạ Thủ). Chợ Ông Tạ còn là vùng đất thuộc các phường 3, 4, 5, 7 của quận Tân Bình. Nói thêm: Dân ghiền thịt chó nghe đến chợ Ông Tạ là gợi ngay đến các hàng thịt chó treo lủng lẳng cả chục con thui vàng rực, coi bắt mắt lắm.
Năm là Ông Thìn. Cầu Ông Thìn bắc qua sông Cần Giuộc, nối hai xã Đa Phước và Quy Đức, huyện Bình Chánh trên tỉnh lộ 50. Dân gian truyền rằng Ông Thìn là tên người lái đò đưa khách sang sông. Cầu Ông Thìn được bắc dã chiến năm 1925, nay đã nâng thành cầu đúc dài 162 m.
Có cái tên ông rất nổi tiếng ở Sài Gòn này. Đó là Lăng Ông (dân thường gọi là Lăng Ông Bà Chiểu). Đây là lăng của Tả quân Lê Văn Duyệt, được xây trên khuôn viên khá rộng 18.500 m2. Nghe rằng tác giả công trình này về sau xây lăng Tự Đức ở Huế. Ngày 16-11-1988, Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận Lăng Ông là di tích kiến trúc nghệ thuật. ở lăng có bốn cột gỗ chạm rồng rất đẹp ở chánh điện. Cổng tam quan có cây thốt nốt tạo vẻ trang nghiêm, tĩnh mịch.
Ở Sài Gòn, còn có Chùa Ông là chùa thờ Quan Công (Quan Vân Trường) tại xã Thạnh Mỹ Lợi, Thủ Đức.
Tên đường chỉ duy nhất có Ông Ích Khiêm. Gắn với tên ông còn có rạch, cầu Ông Buông ở quận 6 (dài độ 2.800 m từ ngả ba rạch bến Trâu và Tân Hóa tới rạch Lò Gốm); rạch Ông Cái ở quận 2, rạch Ông Cốm, Ông Đồ ở Tân Túc, Bình Chánh, rạch Ông Điền từ đất Cần Giuộc đổ vào sông Nhà Bè, rạch Ông Đội ở quận 7, rạch Ông Mưu ở Bình Chánh; rạch Ông Nghĩa ở xã An Thới Đông, Cần Giờ từ rừng lá đến sông Lòng Tàu.
Có cầu Ông Lớn bắc qua kinh Tàu Hủ; cầu Ông Nhiêu, cầu Ông Thìn, cầu Ông Tiều... Rồi đập Ông Hiền ở xã Bình Hưng dài đến ba cây số.
Về vài địa danh mang tên thảo mộc.
Ở Việt Nam có rất nhiều địa danh mang tên thảo mộc. Trong khuôn khổ bài viết nầy chúng tôi chỉ đề cập đến Gò Vấp, Củ Chi, Trảng Bàng, Giồng Trôm, Thốt Nốt và Bạc Liêu mà thôi.
GÒ VẤP
Trước năm 1975 Gò Vấp là một quận của tỉnh Gia Định gồm có 8 xã. Quận lỵ Gò Vấp cách Sài Gòn 10km. Đó là nơi có nhiều thành quách (An Nhơn, Hạnh Thông Tây), vườn rau cải (Hạnh Thông Tây), ruộng rau muống (Xóm Mới), vườn dừa (An Phú Đông, Bình Triệu), vườn sầu riêng, măng cụt (Nhị Bình), vườn bưởi (Thạnh Lộc) với hai xã đông dân cư và phồn thịnh về kinh tế và thương mại gần Sài Gòn: Bình Hòa và Thạnh Mỹ Tây.
Sau năm 1975 Gò Vấp là một quận trong thành phố. Diện tích Gò Vấp bấy giờ thu hẹp chỉ còn 20 km2. Các xã Bình Hòa, Thạnh Mỹ Tây trở thành quận Bình Thạnh, Nhị Bình, Thạnh Lộc, An Phú Đông sát nhập vào quận Hóc Môn.
Gò Vấp là quận đông dân cư. Đó là nơi có nhiều giáo đường và chùa chiền. Viện Mồ Côi và bịnh viện Cộng Hòa nằm trong quận nầy. Sau năm 1954 Gò Vấp nổi tiếng về việc sản xuất pháo (Xóm Mới).
Địa danh Gò Vấp do tên của cây vấp mà ra. Tên khoa học của cây vấp là Mesua coromandelina, Mesua ferrea, Mesua nagassanium... thuộc gia đình Clusiaceae hay Guttiferae. Loại thảo mộc nầy có nhiều ở Ấn Độ, Sri Lanka và các quốc gia Đông Nam Á. Người Ấn Độ gọi là nagkesa; tiếng Phạn (Sanskrit): nagakesara; Khmer: bos neak. Người Anh gọi là cobra saffron vì theo tiếng Phạn naga có nghĩa là con rắn và chữ saffron gợi lên màu vàng của cây vấp. Tiếng anh cũng gọi cây vấp là iron wood tree hay Ceylon ironwood (thiết mộc Tích Lan).
Cây vấp cao từ 15 - 20m. Gỗ màu vàng rất cứng, ngâm duới nước không bị rã mục. Lá cây vấp nhọn, thon, dài trông rất đẹp. Lá non màu đỏ bầm. Hoa to, màu trắng bốn cánh với nhụy vàng. Hoa có hương thơm. Trái có hột dùng để lấy dầu.
Gỗ cây vấp dùng để làm nhà, ngạch đường rầy xe lửa rất tốt. Dầu lấy từ hột cây vấp dùng để thắp đèn. Cây vấp là quốc mộc ở Sri Lanka (đảo Ceylon: Tích Lan), nơi cây vấp được gọi là nahar.
Người ta dùng hoa, rễ và hột cây vấp để làm thuốc trị bịnh. Hoa được dùng để trị táo bón, đau bụng, phong hủi, ho, sốt, bất lực sinh lý. Dầu dùng để trị các chứng bệnh ngoài da, trị ghẻ, tê thấp. Dầu cây vấp có nhiều ác xít béo: ác xít stearic. oleic, linoleic và arachidic. Hoa khô dùng để trị bịnh trĩ, kiết lỵ. Hoa tươi trị ngứa, kinh nguyệt, khát nước quá độ (tiêu khát; tiểu đường), ra mồ hôi. Rễ dùng để trị rắn cắn. Lõi cây vấp có nhiều xanthones: euxanthones, mesuaxanthones A, mesuaferrone B. Nhụy hoa có hai bioflavonoids: mesuaferrone A và mesuaferrone B và ác xít mesuanic. Vỏ có ferruol B và triterpenoid gutiferol.
CỦ CHI
Trước năm 1954 Củ Chi là một quận trong tỉnh Gia Định. Sau năm 1954 quận nầy nằm trong tỉnh Bình Dương một thời gian ngắn. Khi tỉnh Hậu Nghĩa được thành lập, Củ Chi nằm trong tỉnh tân lập nầy. Trước năm 1975 Củ Chi có 14 xã.
Sau năm 1975 Củ Chi là một quận ngoại thành của thành phố. Quận Củ Chi nằm cách Sài Gòn 40 km. Diện tích quận Củ Chi lối 435 km2. Đa số dân đều sống bằng nghề nông và đan thúng rổ, làm vật dụng bằng mây. Củ Chi được biết đến nhiều trong chiến tranh vừa qua. Vùng nầy nằm trong vùng Tam Giác Sắt. Bộ tư lệnh Sư Đoàn 25 đóng tại đây. Sau năm 1975 tân chế độ gọi Củ Chi là Đất Thép Thành Đồng và biến Địa Đạo Củ Chi thành vùng du lịch.
Củ Chi là sinh quán của Trần Minh Tiết, Chánh Án Tối Cao Pháp Viện VNCH; Phan Văn Khải, cựu thủ tướng CHXHCNVN.
Địa danh Củ Chi phát xuất từ tên gọi của cây củ chi tức mã tiền. Cây củ chi hay mã tiền được tìm thấy nhiều ở Nam Á và Đông Nam Á. Tên khoa học của nó là Strychnos nux-vomica thuộc gia đình Loganiaceae. Người Anh gọi là poison nut (vì độc chất của mã tiền), quaker buttons, snake-wood, nux-vomica, strychnine tree. Người Ấn Độ có nhiều kinh nghiệm về việc dùng mã tiền (củ chi) làm thuốc. Họ gọi mã tiền (củ chi) là kuchala. Người Trung Hoa gọi là ma qian zi.
Cây củ chi cao đến 25 m. Lá bầu như trầu. Trên lá có nhiều gân lá song song với rìa lá. Hoa nhỏ màu trắng ngà kết thành chùm. Trái tròn màu vàng cam khi chín. Gỗ trắng và cứng.
Củ chi nổi tiếng vì độc chất của nó. Nhưng độc chất đó cũng được nghiên cứu kỹ lưởng để dùng vào việc chữa trị bệnh. Nó có alkaloid strychnine rất độc. Vỏ có brucine và nhiều hợp chất độc khác. Nói chung cây củ chi có nhiều độc chất. Nhưng dùng ở liều lượng đúng, nó trở thành thuốc trị đau bụng, gây nôn, táo bón, mất ngủ, bịnh tim, thần kinh, tinh thần hồi hộp bất an, kinh nguyệt không điều hòa, bịnh hô hấp của người già, viêm vành tai ngoài gây ngứa ngáy khó chịu.
Trong y học dân gian người ta xem mã tiền như thuốc bổ tạo sự thèm ăn. Hiện nay ở Trung Hoa người ta nghiên cứu xem củ chi có thể dùng vào việc chữa trị ung thư gan hữu hiệu hay không.
TRẢNG BÀNG
Tràng Bàng là một quận trong tỉnh Tây Ninh gồm có 7 xã. Quận nầy nằm cách Sài Gòn 50 km về phía tây bắc. Quận Trảng Bàng rộng lối 340 km2. Trảng Bàng nổi tiếng với bánh canh giò heo ăn với bánh tráng phơi sương (không cần nhúng nước), rau rừng và nước mắm pha chế đặc biệt của người miền đông Nam Bộ. Năm 1972 một bức ảnh chụp một em bé trần truồng chạy ngoài quốc lộ ở Trảng Bàng sau một cuộc dội bom napalm trong một làng trong quận Trảng Bàng được giải thưởng Putlitzer.
Trảng Bàng là sinh quán của giáo sư Nguyễn Ngọc An, người sáng lập hai trường Minh Đức (Trảng Bàng) và Tân Dân (Hóc Môn). có một thời ông là tổng trưởng bộ Thông Tin và Chiêu Hồi.
Theo từ nguyên thì Trảng (savanna) là một vùng đất trống có nhiều cỏ và cây cùng một loại mọc lưa thưa. Bàng là cây bàng, một loại thảo mộc được tìm thấy nhiều ở Nam Á, Đông Nam Á, Nam Hoa, các hải đảo Thái Bình Dương và biển Caribbean.
Tên khoa học của cây bàng là Terminalia molucca (còn nhiều tên khác) thuộc gia đình Combretaceae. Chữ molucca trong tên khoa học cho thấy nguồn gốc Molucca, Indonesia, của loại thảo mộc nầy hay ít ra nó cũng có nhiều trên đảo nầy. Người Anh gọi cây bàng là umbrella tree (vì bóng mát rộng lớn của nó), tropical almond (hạnh nhiệt đới) như người Tây Ban Nha gọi almondro de la India (hạnh Ấn Độ) Người Miến Điện gọi là badan và Khmer là pareang prang.
Cây bàng cao đến 25 m, có nhiều nhánh nên cho bóng mát rộng lớn. Lá bàng to, dày và láng. Vào mùa thu lá chuyển sang màu vàng rồi đỏ rất đẹp trước khi rụng. Trái bàng khá to, cơm dày ăn được. Hột có nhiều dầu và có mùi dễ chịu. Hột được ăn sống hay rang chín. Lá hay hoa cây bàng đều đẹp. Lá tươi hay khô đều được dùng làm thuốc nhuộm. Màu xanh chuyển sang màu vàng khi cho phèn chua và sulfate sắt vào. Gỗ cây bàng rất cứng và đẹp. Nó được dùng để cất nhà hay làm đồ mộc. Trồng cây bàng để có bóng mát, có nhiều gỗ, thanh lọc không khí, chống xâm thực ngoài bờ biển và tạo phong cảnh đẹp.
Lá, gỗ, vỏ, hột cây bàng đều được dùng làm thuốc. Sự dồi dào tannins của lá, vỏ làm cho cây bàng hữu dụng trong việc trị chứng tiêu chảy, kiết lỵ và đau nhức. Hột được dùng làm thuốc trị huyết tiện (hematuria). Ở Ấn Độ người ta dùng lá bàng trị tê thấp. Kết hợp với thuốc xức để trị ghẻ, phong hủi và các chứng bịnh về da.
Trái bàng có ác xít tannic. Tannin của lá và vỏ cây bàng có punicalag
The Following User Says Thank You to florida80 For This Useful Post:
Cá Sống Khi Lội Ngược Dòng, Thuận Nước Trôi Xuôi Là Cá Chết
Cá Sống Khi Lội Ngược Dòng, Thuận Nước Trôi Xuôi Là Cá Chết
Sói đi ngàn dặm để ăn thịt, ngựa đi ngàn dặm để ăn cỏ, cá sống khi bơi ngược dòng, cá chết mới thuận nước trôi xuôi. Đạo lý trên đời cũng là như vậy…
Có một câu khiến người ta cảm thấy vô cùng tán thán: “Cuộc sống có phải thực sự mệt mỏi? Mệt mỏi là đúng rồi, thoải mái chỉ dành cho những người đã khuất”.
minhhọa16
Đường đi dễ dàng là đang xuống dốc, khó khăn là bởi vì bạn đang lên dốc. Khổ mới là nhân sinh; mệt mỏi, mới là công việc; biến hóa mới là vận mệnh; nhẫn nhịn mới là từng trải; cho đi, mới là trí tuệ; tĩnh lại, mới là tu dưỡng; buông bỏ, mới chính là đạt được.
Nếu như lúc này bản thân cảm thấy vất vả, thì hãy tự nói với mình rằng:
“Đường đi dễ dàng chính là đang xuống dốc, mệt mỏi, bởi vì bạn đang lên dốc”.
Tham lam cùng với may mắn, đó là điều không thể
Báo chí từng đăng thông tin về một người mua vé số trúng 3 tỷ, lập tức có rất nhiều người đều đổ xô đi mua vé số, cảm thấy rằng, không chừng mình cũng có cơ hội trúng thưởng, cảm thấy may mắn có thể cũng sẽ đến với mình.
Nhưng nếu như báo chí có đăng thông tin về một vụ tai nạn xe, trong 50 người ngồi trên xe thì chỉ có 2 người mua bảo hiểm, được bồi thường 6 tỷ. Bạn cảm thấy hai người mua bảo hiểm kia đã lựa chọn đúng đắn, nhưng bạn sẽ không lập tức đi mua bảo hiểm, cảm thấy, chuyện xui xẻo như thế không thể nào đến với mình được. Hai sự việc này phản ánh 2 loại tâm lý: Tham lam và may mắn.
minhhọa17
Muốn thành công, cần có sự giúp sức của nhiều người, giống như một tổ kiến vậy. Trong thế giới mà mọi chuyện thay đổi trong nháy mắt này, nếu một người “đơn đả độc đấu”, thì con đường càng đi càng chật vật. Lựa chọn những đồng đội cùng chung chí hướng, cũng chính là lựa chọn thành công.
Vậy nên, cần dùng sức mạnh tập thể để đi thực hiện ước mơ. Con người, bởi vì mộng tưởng mà vĩ đại, bởi vì có đồng đội mới vang danh, bởi vì cảm ơn mà hạnh phúc, bởi vì học tập mà thay đổi, bởi vì hành động mà thành công.
Quan niệm của bạn như thế nào, thì nó sẽ quyết định nhân sinh của bạn
minhhọa18
Có một thợ mộc chặt cái cây đục đẽo thành 3 cái thùng gỗ. Thùng đựng phân, gọi là thùng phân, mọi người đều tránh xa; thùng đựng nước, gọi là thùng nước, mọi người đều đến dùng; thùng đựng rượu, gọi là thùng rượu, mọi người đều đến nếm thử.
Thùng giống nhau, nhưng đựng bên trong những thứ khác nhau thì số mệnh của nó cũng khác nhau. Đời người cũng như vậy!
Quan niệm như thế nào thì cuộc đời sẽ như thế đó, suy nghĩ như thế nào thì cuộc sống như thế đó!
Đây chính là cuộc đời, thành công là không thể tách rời sự giúp đỡ của quý nhân, danh sư chỉ điểm, sự thấu hiểu của bạn bè, sự khích lệ của những người ở xa, sự ủng hộ của những người ở gần.
The Following User Says Thank You to florida80 For This Useful Post:
Năm 1998, Kodak đã có 170.000 nhân viên và đã bán 85% của tất cả các giấy ảnh trên toàn thế giới. Chỉ trong vòng vài năm thôi, mô hình kinh doanh của họ biến mất và họ đã bị phá sản.
Những gì đã xảy ra với Kodak sẽ xảy ra trong rất nhiều ngành công nghiệp trong 10 năm tới - và đa số chúng ta đã không nhìn thấy nó tới.
Vào năm 1998, có bao giờ bạn nghĩ rằng 3 năm sau đó bạn sẽ không bao giờ mất hình ảnh trên phim giấy nữa không?
Bạn có biết?
Máy ảnh kỹ thuật số đã được phát minh vào năm 1975. Những cái đầu tiên chỉ có 10.000 pixel, nhưng theo định luật Moore, tất cả các công nghệ theo cấp số nhân, đều phải trãi qua một sự thất vọng trong một thời gian dài, trước khi nó được công nhận là cao siêu và nhập trào lưu.
Điều này sẽ xảy ra với trí tuệ nhân tạo, y tế, xe tự trị và điện, giáo dục, in ấn 3D, nông nghiệp và công việc làm.
Chào mừng bạn đến cách mạng công nghiệp thứ 4. Chào mừng bạn đến Kỷ Niên Cấp Số́ Nhân
1/ Software
Sẽ làm xáo trộn hầu hết các ngành công nghiệp truyền thống trong 5-10 năm tới.
Uber chỉ là một công cụ phần mềm, họ không sở hữu bất kỳ chiếc xe nào mà bây giờ họ là công ty taxi lớn nhất trên thế giới.
Airbnb bây giờ là công ty khách sạn lớn nhất thế giới, mặc dù họ không sở hữu bất kỳ tài sản nào.
2/ Trí Tuệ Nhân Tạo:
Máy điện toán trở thành cấp số nhân tốt hơn trong việc tìm hiểu thế giới cuả chúng ta.
Năm nay,một máy điện toán đã đánh bại các cầu Cờ Chốt giỏi nhất trên thế giới, 10 năm sớm hơn so với dự tính.
Tại Mỹ, các luật sư trẻ tuổi đã tìm được việc làm.
Do IBM Watson, bạn có thể nhận pháp lý tư vấn (những vấn đề cơ bản) trong vòng vài giây, với độ chính xác 90% so với 70% độ chính xác khi thực hiện bởi con người.
Vì vậy, nếu đang học về luật, bạn nên ngừng ngay. Sẽ mất 90% luật sư trong tương lai, chỉ sẻ còn lại các chuyên gia mà thôi.
Watson đã giúp y tá chẩn đoán ung thư, 4 lần chính xác hơn y tá của con người.
Facebook hiện nay có một phần mềm nhận dạng ra khuôn mặt con người chính xác hơn con người.
Trong năm 2030, máy điện toán sẽ trở nên thông minh hơn con người.
3/ Xe Tự Trị:
Trong năm 2018 những chiếc xe tự lái xe đầu tiên sẽ xuất hiện cho công chúng. Ở Cali, chúng đã chạy lòng vòng rồi.
Khoảng năm 2020, kỷ nghệ xe hơi sẽ bị lung lay.Bạn không muốn sở hữu một chiếc xe nữa. Bạn chỉ cần gọi một chiếc xe với điện thoại của bạn, nó sẽ tới trước nhà bạn và sẽ đưa bạn tới nơi bạn muốn.
Bạn sẽ không de xe tìm chổ đậu, bạn chỉ trả tiền cho khoảng cách bạn đả đi và có thể dùng thời gian khi xe tự lái một cách hửu ích hơn.
Con Cháu chúng ta sẽ không còn cần bằng lái xe nữa và sẽ không bao giờ sở hữu một chiếc xe hơi.
Việc này sẽ thay đổi thành phố, vì với 90-95% xe ít hơn, chúng ta có thể biến không gian đậu xe thành công viên.
Hiện nay, 1.2 triệu người chết mỗi năm vì tai nạn xe hơi trên toàn thế giới tương đương với 1 tai nạn cho 100,000km.
Với lái xe tự trị, con số này sẽ giảm xuống bằng một tai nạn cho 10 triệu km. Điều này sẽ tiết kiệm được một triệu mạng sống mỗi năm.
Hầu hết các kỷ nghệ xe hơi có thể bị phá sản. Những công ty xe hơi truyền thống sẻ ráng tiến hóa để sản xuất một chiếc xe tốt hơn, trong khi các công ty kỹ nghệ xe hơi cao (Tesla, Apple, Google) sẽ làm cách mạng và tạo dựng một máy điện toán trên 4 bánh xe.
Tôi đã nói chuyện với rất nhiều kỹ sư từ Volkswagen và Audi; họ hoàn toàn khiếp đảm với sáng kiến của Tesla.
Các công ty bảo hiểm sẽ có rắc rối lớn bởi vì không có tai nạn, bảo hiểm sẽ rẻ hơn 100 lần.
Mô hình kinh doanh bảo hiểm xe hơi sẽ biến mất.
Bất động sản cũng sẽ thay đổi.
Bởi vì nếu bạn có thể làm việc trong khi bạn di chuyển tới sở, mọi người sẽ di chuyển xa hơn để sống trong những khu phố đẹp hơn.
Năm 2020, xe điện sẽ trở bình dân. Các thành phố sẽ bớt ồn ào bởi vì tất cả các xe sẽ chạy bằng điện. Điện sẽ trở nên cực kỳ rẻ và sạch do việc sử dụng năng lượng mặt trời.
Năng lượng mặt trời đã nằm trên một đường cong hàm mở từ 30 năm, và bây giờ bạn có thể thấy nó bắt đầu nhập vào trào lưu chánh.
Năm ngoái, năng lượng mặt trời nhiều hơn đã được cài đặt để dược sử dụng trên toàn thế giới nhiều hơn năng lượng hóa thạch.
Giá năng lượng mặt trời sẽ giảm xuống rất nhiều và tất cả các công ty than sẽ biến mất năm 2025.
Với điện giá rẻ thì nước dùng sẻ dồi dào. Khử muối lấy nước bây giờ chỉ cần 2kWh mỗi mét khối. Sẽ không còn nạn khan hiếm nước, chỉ có nước uống sẽ còn khan hiếm. Bạn cứ tữợng một thế giới không còn khan hiếm nước và giá nước rất rẻ.
4/ Y Tế:
Giá X Tricorder sẽ được công bố trong năm nay. Sẽ có công ty sẽ sản xuất một thiết bị y tế (gọi tắt là "Tricorder" Star Trek) sẽ làm việc chung với điện thoại của bạn.
Nó sẽ scan võng mạc của bạn, sẽ thử nghiệm mẫu máu và nhịp thở của bạn. Sau đó nó sẻ phân tích 54 chỉ dấu sinh học và sẽ chẩn bịnh bất cứ bịnh gì cho bạn. Giá nó sẽ rẻ, vì vậy trong một vài năm tất cả mọi người trên hành tinh này sẽ được tiếp cận với y học đẳng cấp thế giới, gần như miễn phí.
5/ In 3D:
Chỉ trong vòng 10 năm tới, giá của máy in 3D sẽ xuống từ 18.000 $ đến 400 $ và nhanh hơn gấp 100 lần.
Tất cả các công ty giày lớn sẻ bắt đầu giày in ấn 3D.
Phụ tùng máy bay đã được 3D in tại sân bay từ xa. Trạm không gian bây giờ có một máy in và đã loại bỏ sự cần thiết đem theo một số lớn các phụ tùng thay thế như họ đã từng làm trong quá khứ.
Cuối cùng năm nay, điện thoại thông minh mới sẽ có khả năng quét 3D và bạn có thể quét 3D của chân bạn và in giày hoàn hảo của bạn ở nhà.
Ở Trung Quốc, họ đã in 3D hoàn chỉnh 6 tầng Tòa nhà văn phòng. Vào năm 2027, 10% của tất cả mọi thứ đó sẽ được sản xuất theo phương pháp in 3D.
6/ Cơ Hội Kinh Doanh:
Nếu bạn nghĩ về một cơ hội kinh doanh, hãy tự hỏi: "trong tương lai, bạn có nghĩ rằng chúng ta sẽ có điều đó không? "
Và nếu câu trả lời là có, thì nên tự hỏi câu tiếp là:
Làm thế để thực hiện điều đó sớm hơn????
Và nếu sáng kiến của bạn không đi chung với điện thoại thì quên nó đi.
Và nhớ thêm điều này:
Bất kỳ ý tưởng thiết kế thành công trong thế kỷ 20 sẽ thất bại trong thế kỷ 21.
7/ Việc Làm - Jobs:
70-80% việc làm hiện giờ sẽ biến mất trong vòng 20 năm tới. Sẽ có rất nhiều việc làm mới, nhưng hiện giờ chưa rỏ là sẽ được đủ việc làm mới cho mọi người trong một thời gian ngắn như vậy.
8/ Nông Nghiệp:
Sẽ có một robot nông nghiệp chỉ giá 100$ trong tương lai. Nông dân ở thế giới thứ 3 có thể nhờ nó mà chỉ ngồi nhà quản lý của mảnh đất của họ thay vì làm việc vất vả ngoài đồng.
Phương Pháp Khí canh sẽ cần rất ít nước.
Món ăn đầu tiên với thịt bê Petri đã được sản xuất bây giờ và sẽ rẻ hơn so với thịt bê do bò vào năm 2018.
Hiện nay, 30% của đất đai được sử dụng cho việc nuôi bò.Hãy tưởng tượng nếu chúng ta không cần phải cần diện tích đó nữa.
Đã có sáng kiến sản xuất protein từ côn trùng mà ra. Nó chứa nhiều protein hơn thịt. Và sẽ được dán nhãn là "nguồn protein thay thế"
(Vì hầu hết mọi người vẫn từ chối ý tưởng của việc ăn côn trùng).
Đã có một ứng dụng gọi là "moodies" để có thể biết tâm trạng bạn đang có. Đến năm 2020 sẽ có ứng dụng đọc và phân tích được nét mặt của bạn nếu bạn đang nói dối.
Hãy tưởng tượng một cuộc tranh luận bầu cử với ứng dụng này !!!
Bitcoin sẽ trở thành phổ biến trong năm nay và thậm chí có thể trở thành đồng tiền dự trữ mặc định.
9/ Tuổi Thọ:
Ngay bây giờ, tuổi thọ trung bình tăng 3 tháng mỗi năm. Bốn năm trước, tuổi thọ là 79 năm, bây giờ là 80 năm.
Hy vọng sống chính nó đang gia tăng nhanh và năm 2036, hy vọng sống sẽ tăng hơn 1 năm cho mỗi năm sống.
Chúng ta sẽ̉ số́ng 100 tuổi hay hơn nữa.... !!!
@ F O R W A R D I N G
*****
Things to come in near Future........
Must read article.......
In 1998, Kodak had 170,000 employees and sold 85% of all photo paper worldwide.
Within just a few years, their business model disappeared and they got bankrupt.
What happened to Kodak will happen in a lot of industries in the next 10 year - and most
people don't see it coming. Did you think in 1998 that 3 years later you would never take
pictures on paper film again? Yet digital cameras were invented in 1975. The first ones
only had 10,000 pixels, but followed Moore's law. So as with all exponential technologies,
it was a disappointment for a long time, before it became way superiour and got
mainstream in only a few short years. It will now happen with Artificial Intelligence, health,
autonomous and electric cars, education, 3D printing, agriculture and jobs. Welcome to
the 4th Industrial Revolution. Welcome to the Exponential Age.
Software will disrupt most traditional industries in the next 5-10 years.
Uber is just a software tool, they don't own any cars, and are now the biggest taxi company
in the world. Airbnb is now the biggest hotel company in the world, although they don't own
any properties.
Artificial Intelligence: Computers become exponentially better in understanding the world.
This year, a computer beat the best Go player in the world, 10 years earlier than expected.
In the US, young lawyers already don't get jobs. Because of IBM Watson, you can get legal
advice (so far for more or less basic stuff) within seconds, with 90% accuracy compared with
70% accuracy when done by humans. So if you study law, stop immediately. There will be 90%
less lawyers in the future, only specialists will remain. Watson already helps nurses diagnosing
cancer, 4 time more accurate than human nurses. Facebook now has a pattern recognition
software that can recognize faces better than humans. In 2030, computers will become more
intelligent than humans.
Autonomous cars: In 2018 the first self driving cars will appear for the public. Around 2020,
the complete industry will start to be disrupted. You don't want to own a car anymore. You will
call a car with your phone, it will show up at your location and drive you to your destination.
You will not need to park it, you only pay for the driven distance and can be productive while driving.
Our kids will never get a driver's license and will never own a car. It will change the cities, because
we will need 90-95% less cars for that. We can transform former parking space into parks.
1,2 million people die each year in car accidents worldwide. We now have one accident every
100,000km, with autonomous driving that will drop to one accident in 10 million km.
That will save a million lifes each year.
Most car companies might become bankrupt. Traditional car companies try the evolutionary
approach and just build a better car, while tech companies (Tesla, Apple, Google) will do the
revolutionary approach and build a computer on wheels. I spoke to a lot of engineers from
Volkswagen and Audi; they are completely terrified of Tesla.
Insurance companies will have massive trouble because without accidents, the insurance will
become 100x cheaper. Their car insurance business model will disappear. Real estate will change.
Because if you can work while you commute, people will move further away to live in a more
beautiful neighborhood. Electric cars will become mainstream until 2020. Cities will be less noisy
because all cars will run on electric. Electricity will become incredibly cheap and clean: Solar production
has been on an exponential curve for 30 years, but you can only now see the impact. Last year,
more solar energy was installed worldwide than fossil. The price for solar will drop so much that
all coal companies will be out of business by 2025. With cheap electricity comes cheap and
abundant water. Desalination now only needs 2kWh per cubic meter. We don't have scarce water
in most places, we only have scarce drinking water. Imagine what will be possible if anyone can
have as much clean water as he wants, for nearly no cost.
Health: The Tricorder X price will be announced this year. There will be companies who will build
a medical device (called the "Tricorder" from Star Trek) that works with you phone, which takes
your retina scan, you blood sample and you breath into it. It then analyses 54 biomarkers that will
identify nearly any disease. It will be cheap, so in a few years everyone on this planet will
have access to world class medicine, nearly for free.
3D printing: The price of the cheapest 3D printer came down from 18,000$ to 400$ within 10 years.
In the same time, it became 100 times faster. All major shoe companies started 3D printing shoes.
Spare airplane parts are already 3D printed in remote airports. The space
station now has a printer
that eliminates the need for the large amout of spare parts they used to have in the past. At the end
of this year, new smartphones will have 3D scanning possibilities. You can then 3D scan your
feet and print your perfect shoe at home. In China, they already 3D printed a complete 6-storey
office building. By 2027, 10% of everything that's being produced will be 3D printed.
Business opportunities: If you think of a niche you want to go in, ask yourself: "in the future, do you
think we will have that?" and if the answer is yes, how can you make that happen sooner? If it doesn't
work with your phone, forget the idea. And any idea designed for success in the 20th century is doomed
in to failure in the 21st century.
Work/Jobs: 70-80% of jobs will disappear in the next 20 years. There will be a lot of new jobs, but it is not
clear if there will be enough new jobs in such a small time.
Agriculture: There will be a 100$ agricultural robot in the future. Farmers in 3rd world countried can then
become managers of their field instead of working all days on their fields. Aeroponics will need much
less water. The first petri dish produced veal is now available and will be cheaper than cow produced
veal in 2018. Right now, 30% of all agricultural surfaces is used for cows. Imagine if we don't need that
space anymore. There are several startups who will bring insect protein to the market shortly.
It contains more protein than meat. It will be labeled as "alternative protein source"
(because most people still reject the idea of eating insects).
There is an app called "moodies" which can already tell in which mood you are. Until 2020 there will be
apps that can tell by your facial expressions if you are lying. Imagine a political debate where it's being
displayed when they are telling the truth and when not.
Bitcoin will become mainstream this year and might even become the default reserve currency.
Longevity: Right now, the average life span increases by 3 months per year. Four years ago,
the life span used to be 79 years, now it's 80 years. The increase itself is increasing and by
2036, there will be more that one year increase per year. So we all might live for a long long
time, probably way more than 100 years.
The Following User Says Thank You to florida80 For This Useful Post:
Với cái nhìn “chủ quan” của một tu sĩ Theravāda, tôi xin mạo muội liệt kê ra đây những hiểu lầm tai hại và rất phổ biến của Phật giáo trong và ngoài nước để chư vị thức giả cùng thấy rõ như thực:
1- Tôn giáo
Đạo Phật có những sinh hoạt về tôn giáo nhưng đạo Phật không phải là tôn giáo, vì đạo Phật không có một vị thượng đế tối cao hóa sinh muôn loài và có quyền ban thưởng, phạt ác.
2- Tín ngưỡng
Đạo Phật có những sinh hoạt tín ngưỡng nhưng đạo Phật không phải là tín ngưỡng để mọi người đến van vái, cầu xin những ước mơ dung tục của đời thường.
3- Triết học
Đạo Phật có một hệ thống tư tưởng được rút ra từ Kinh, Luật và Abhidhamma, được gọi là “như thực, như thị thuyết” chứ không phải là một bộ môn triết học “chia” rồi “chẻ”, “phán” rồi “đoán” như của Tây phương.
4- Triết luận
Đạo Phật có tuệ giác để thấy rõ Cái Thực chứ không sử dụng lý trí phân tích, lý luận. Còn triết, còn luận là vì chưa thấy rõ Cái Thực. Đạo Phật là đạo như chơn, như thực. Kinh giáo của đức Phật luôn đi từ cái thực cụ thể để hướng dẫn mọi người tu tập, nó không có triết, có luận đâu. Ngay “thiền” mà còn “luận” (thiền luận) là đã đánh mất thiền rồi.
5- Từ thiện xã hội
Đạo Phật có những sinh hoạt từ thiện xã hội nhưng không coi từ thiện xã hội là tất cả, để hy sinh cuộc đời đầu tròn, áo vuông một cách uổng phí. Đạo Phật còn có những sinh hoạt cao cả hơn: Đó là giáo dục, văn hoá, nghệ thuật, tu tập thiền định và thiền tuệ nữa. Từ thiện xã hội thì ai cũng làm được, thậm chí người ta còn làm tốt hơn cả Phật giáo, ví dụ như Bill Gates. Còn giáo dục, văn hóa, nghệ thuật của đạo Phật là nền tảng Mỹ Học viết hoa (nội hàm các giá trị nhân văn, nhân bản) mà không một tôn giáo, môt chủ nghĩa, một học thuyết nào trên thế gian có thể so sánh được. Và đây mới là sự phụng hiến cao đẹp của đạo Phật cho thế gian. Còn nữa, nếu không có tu tập thiền định và thiền tuệ thì mọi hình thái sinh hoạt của đạo Phật, xem ra không phải là của đạo Phật đâu!
6- Cực lạc, cực hạnh phúc
Đạo Phật có nói đến hỷ, lạc trong các tầng thiền; có nói đến hạnh phúc siêu thế khi ly thoát tham sân, khổ lạc (dukkha), phiền não của thế gian – chứ không có một nơi chốn cực lạc, cực hạnh phúc được phóng đại như thế.
7- 8 vạn 4 ngàn pháp môn
Đạo Phật có nói đến 8 vạn 4 ngàn pháp uẩn (dhammakhandha) chứ không nói đến 8 vạn 4 ngàn pháp môn (dhammadvāra). Uẩn (khandha) ngoài nghĩa che lấp, che mờ và nghĩa chồng lên, chồng chất, còn có nghĩa là nhóm, liên kết, tập hợp ví như Giới uẩn (nhóm giới), Định uẩn (nhóm định), Tuệ uẩn (nhóm tuệ). Do từ uẩn (khandha) lại dịch lệch ra môn – cửa (dvāra), pháp môn nên ai cũng tưởng là có 8 vạn 4 ngàn pháp môn, tu theo pháp môn nào cũng được! Ai là người có thể đếm đủ 8 vạn, 4 ngàn cửa pháp này? Còn nữa, xin lưu ý, 8 vạn 4 ngàn chỉ là con số tượng trưng, có nghĩa là nhiều lắm, đếm không kể xiết theo truyền thống tôn giáo và tín ngưỡng Ấn Độ cổ thời. Ví dụ 84 ngàn lỗ chân lông, 84 ngàn vi trùng trong một bát nước, 84 ngàn phiền não, 84 ngàn cách tu…
8- Xin xăm, bói quẻ, cầu sao, giải hạn, xem ngày giờ tốt xấu
Những hình thức này không phải của đạo Phật. Trong kinh tụng Pāli có đoạn: “Sunakkhataṃ sumaṅgalaṃ supabhātaṃ suhuṭṭhitaṃ, sukhno ca suyiṭṭaṃ brahmacārisu. Padakkhinaṃ kāyakammaṃ vācākammaṃ padakkhinaṃ padakkhinaṃ manokammaṃ paṇidhī te padakkhinā…” Có nghĩa là: Giờ nào (chúng ta) thực hành thân, khẩu, ý trong sạch; giờ đó được gọi là vận mệnh tốt, là giờ tốt, là khắc tốt, là canh tốt… Ngày đó gọi là có nghiệp thân phát đạt, nghiệp khẩu phát đạt, nghiệp ý phát đạt. Và nguyện vọng theo đó được gọi là nguyện vọng phát đạt. Người tạo nghiệp thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý phát đạt như thế rồi sẽ được những lợi ích phát đạt (chữ phát đạt có thể có thêm nghĩa nhiều ích).
9- Định mệnh
Đạo Phật có nói đến nghiệp, đến nhân quả nghiệp báo chứ không hề nói đến định mệnh. Theo đó, gây nhân xấu ác thì gặt quả đau khổ, gây nhân lành tốt thì gặt quả an vui – chứ không phải “cái tơ cái tóc cũng do trời định” như định mệnh thuyết của Khổng Nho hoặc định mệnh 4 giai cấp của Bà-la-môn giáo.
10- Siêu độ, siêu thoát
Không có bài kinh nào, không có uy lực của bất kỳ ông sư, ông thầy nào có thể tụng kinh siêu độ, siêu thoát cho hương linh, vong linh, chân linh cả. Thời Phật tại thế, nếu có đến nơi người mất, chư tăng chỉ đọc những bài kệ vô thường, khổ và vô ngã để thức tỉnh người sống; và hiện nay các nước Phật giáo Theravāda còn duy trì. Có thể có hai trường hợp:
– Nếu vừa chết lâm sàng thì thần thức người chết vẫn còn. Vậy có thể đọc kinh, mở băng kinh, chuông mõ, hương trầm… để “thần thức người chết” hướng về điều lành để thần thức tự tạo “cận tử nghiệp” tốt cho mình.
– Nếu thần thức đã lìa khỏi thân rồi – thì họ đã tái sanh vào cõi khác rồi, ngay tức khắc. Khi ấy thì gia đình làm phước để chư tăng tụng kinh hồi hướng phước ấy cho người đã mất.
Cả hai trường hợp trên đều không hề mang ý nghĩa siêu độ, siêu thoát mà chỉ có ý nghĩa gia hộ, gia niệm, gia lực mà thôi. Tu dựa vào tha lực cũng tương tự như vậy, nhưng cuối cùng cũng phải tự lực: “Tự mình thắp đuốc mà đi, tự mình là hòn đảo của chính mình”.
Chư thiên chỉ có khả năng hoan hỷ phước và báo truyền thông tin ấy cho người quá vãng mà thôi. Họ không có uy lực ban phước lành cho ai cả.
11- Huyền bí, bí mật
Giáo pháp của đức Phật không có cái gì được gọi là huyền bí, bí mật cả. Đức Phật luôn tuyên bố là “Như Lai thuyết pháp với bàn tay mở ra”; có nghĩa là ngài không có pháp nào bí mật để giấu kín cả !
12- Tâm linh
Ngày nay, người ta tràn lan lễ hội, tràn lan mọi loại điện thờ với những hình thức mê tín, dị đoan, sa đọa văn hoá… mà ở đâu cũng rêu rao các giá trị tâm linh. Đạo Phật không hề có các kiểu tâm linh như vậy. Thuật ngữ tâm linh này được du nhập từ Trung Hoa. Và rất tiếc, tôi không hề tìm ra nguồn Phật học Pāli hay Sanskrit có từ nào tương thích với chữ “linh” này cả!
13- Niết-bàn
Nhiều người tưởng lầm Niết-bàn là ở một cõi nào đó, một nơi chốn nào đó; thậm chí là ở một thế giới ở ngoài thế gian này. Người nào tìm kiếm Niết-bàn kiểu ấy, thuật ngữ thiền tông có cụm từ “lông rùa, sừng thỏ” như ngài Huệ Năng đã nói rõ: “Phật pháp tại thế gian. Bất lý thế gian giác. Ly thế mịch bồ-đề. Cáp như tầm thố giác”. Thố giác là sừng thỏ. Và giác ngộ cũng vậy, chính ở trong khổ đau, phiền não mới giác ngộ bài học được.
14- Bỏ khổ, tìm lạc
Tu Phật không phải là bỏ khổ, tìm lạc. Xin lưu ý cho: Khổ và Lạc chính là căn bản của phiền não!
15- Tu để được cái gì !
Có nhiều người nghĩ rằng, tu là để được cái gì đó. Xin thưa, được cái gì là sở đắc. Ai sở đắc? Chính là bản ngã sở đắc. Đạo Phật là vô ngã. Hãy xin đọc lại Bát-nhã tâm kinh.
16- Tu là sửa
Nếu tu là sửa thì mình đã từ “cái ta này” biến thành “cái ta khác”. Nếu tu là không sửa thì cứ để nguyên trạng tham sân si như vậy hay sao? Xin thưa, sửa hay không sửa đều trật. Đạo Phật quan trọng ở Cái Thấy! Có Cái Thấy mới nói đến giác ngộ và giải thoát. Không có Cái Thấy này thì tu kiểu gì cũng trệch hướng hoặc rơi vào phước báu nhân thiên.
17- Vía
Đạo Phật không có vía nào cả. Vía, hồn, phách là quan niệm của nhân gian. Ví dụ, ba hồn bảy vía. Ví dụ, nam thất, nữ cửu – nam bảy vía, nữ chín vía. Nếu là nam thất, nữ cửu thì nó trùng với nam 7 khiếu, nữ 9 khiếu. Vía là phần hồn. Không có cái hồn, cái linh hồn tự tồn tại nếu không có chỗ nương gá. Vía không độc lập được. Như danh – phần tâm, sắc – phần thân – luôn nương tựa vào nhau. Chỉ có năng lực thiền định mới tạm thời tách lìa danh ra khỏi sắc, như Cõi trời Vô tưởng của tứ thiền. Tuy nhiên, cõi trời Vô tưởng hữu tình này không phải là không có danh tâm mà chúng ở dạng tiềm miên. Còn các Cõi trời Vô sắc thì sắc không phải là không có, chúng cũng ở dạng tiềm miên. Thật đáng phàn nàn, Phật và Bồ-tát đều có “vía” cả! Và cũng thật là “đau khổ” khi trong lễ an vị Phật, người ta còn hô “Thần nhập tượng” nữa chứ!
18- Bồ-tát
Bồ-tát là âm của chữ Bodhisatta: Chúng sanh có trí tuệ. Vậy, chúng ta tạm thời bỏ quên “khái niệm Bồ-tát” quen thuộc trong kinh điển mà trở về với nghĩa gốc là “chúng sanh có trí tuệ”. Và như vậy, sẽ có hạng chúng sanh có trí tuệ với nguyện lực Thanh Văn; chúng sanh có trí tuệ với nguyện lực Độc Giác; chúng sanh có trí tuệ với nguyện lực Chánh Đẳng Giác. Ngoài 3 loại chúng sanh có trí tuệ trên – không có loại chúng sanh có trí tuệ nào khác.
19- Phật
Phật là âm của chữ Buddha, nghĩa là người Giác ngộ. Vậy chúng ta nên tạm thời bỏ quên “khái niệm Phật” từ lâu đã mọc rễ trong tâm thức mà trở về nghĩa gốc là bậc Giác ngộ. Vậy, có người Giác ngộ do nghe pháp từ bậc Chánh Đẳng Giác, được gọi là Thanh Văn Giác. Có người Giác ngộ do tự mình tu tập vào thời không có đức Chánh Đẳng Giác, được gọi là Độc Giác. Có vị Giác ngộ do trọn vẹn 30 ba-la-mật, trọn vẹn minh và hạnh nên gọi là Chánh Đẳng Giác.
Không có vị Giác ngộ (Phật) nào ngoài 3 loại Giác ngộ trên.
20- Thể nhập
Tu là không thể nhập vào cái gì cả. Thể nhập là bỏ cái ngã này để nhập vào cái ngã khác. Cái ngã khác ấy có thể là dòng sông, có thể là ngọn núi, có thể là một cội cây, có thể là một thần linh, thượng đế. Cái cụm từ “thể nhập pháp giới” rất dễ bị hiểu lầm. Khi đi, chánh niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái đi; khi nói, chánh niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái nói; khi ăn, chánh niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái ăn – thì đấy mới đúng nghĩa “thể nhập pháp giới”, ngay giây khắc ấy, mọi tham sân, phiền não không có chỗ để phan duyên, sanh khởi./.
Minh Đức Triều , H/Tst...
The Following User Says Thank You to florida80 For This Useful Post:
Ý NGHĨA CÁC LOẠI TRANH TREO NGÀY TẾT - Đỗ Chiêu Đức
25 Tháng Hai 20159:53 CH(Xem: 5838)
Ý NGHĨA CÁC LOẠI TRANH TREO NGÀY TẾT
blank
1. Về tranh CỬU NGƯ ĐỒ 九魚圖 : CỬU 九 là số Chín, lại đồng âm với từ TRƯỜNG CỬU 長久 là lâu dài. NGƯ 魚 là Cá lại đồng âm với DƯ 餘 ( âm Quan Thoại ) là DƯ DẢ, Có Thừa, lại vẽ chung với hoa sen là LIÊN HOA 蓮花, đồng âm với LIÊN 連 là Liên Tục 連續, không gián đoạn. Nên
Tranh Cửu Ngư vẽ chung với hoa Sen, có nghĩa là : Luôn luôn sung túc dư dả có thừa liên tục mãi mãi !
blank
2. Tranh CÁ CHÉP : Tất cả các tranh cá đều có nghĩa là " HỮU DƯ 有餘 "( do âm Quan Thoại DƯ 餘 và NGƯ 魚 đồng âm ). Có Cá tức là Có Dư, Dư ăn dư để. Tranh Cá còn mang 2 Ý chính sau :
* NHƯ NGƯ ĐẮC THỦY 如魚得水 : Ta nói là " Như Cá gặp nước !". Chỉ NHƯ Ý , THUẬN LỢI.
* NHƯ HÓA LONG NGƯ 如化龍魚 : là Như Cá Hóa Rồng, chỉ sự đổi đời, thay đổi hoặc thành công vượt bực.
blank blank blank blank
Ngoài ra còn rất nhiều loại tranh cá khác như :
* Ông Câu ôm con cá lớn với hàng chữ : NGƯ ÔNG ĐẮC LỢI chỉ trong năm sẽ được cái lợi như của Ngư Ông, cái lợi nhẹ nhàng ít tốn nhiều công sức như trong thành ngữ " CÁP BẠNG TƯƠNG TRANH, NGƯ ÔNG ĐẮC LỢI. 蛤蚌相爭,漁翁得利。" Ta nói là " Ngao Sò tranh nhau, ngư ông được lợi ".
Image result for 漁翁得利渔翁得利景德镇雕塑瓷 厂Image result for 漁翁得利
* Tranh các đứa bé ôm con cá, lấy Ý " TỬ TÔN HỮU DƯ " , vừa có nghĩa " Con Cháu có Thừa " vừa có nghĩa " Có thừa Con Cháu ! ". Tranh nầy thường có hàng chữ " Niên Niên Hữu Dư 年年有餘 ". Có nghĩa : Mỗi năm đều dư ăn thừa mặc.
3. TRANH HOA MẪU ĐƠN :
Nhớ bài Học Thuộc Lòng hồi nhỏ, Á Nam Trần Tuấn Khải đã viết :
... MẪU ĐƠN hương kín thơm xa,
Liễu rơi trước gió ngỡ là bướm bay...
Hương kín thơm xa, nên Mẫu Đơn được phong tặng là PHÚ QUÝ CHI HOA ( Hoa tượng trưng cho sự Phú Quí ). Ngoài ra, Hoa Mẫu Đơn còn được xem như là một loài hoa Vương Giả Không Sợ Quyền Uy, theo tích sau đây :
Image result for 牧丹花 Image result for 牧丹花
Khi đã lên ngôi và xưng là Châu Thiên Tử xong. Có một năm vào cuối đông khi Tết gần kề, Võ Tắc Thiên thấy mai vàng trong cung đều nở hoa rực rỡ, đang cơn tửu hứng, bèn cất bút viết lên một đạo Thánh Chỉ của nhà Vua thành một bài thơ như thế nầy để ra lệnh cho Chúa Xuân :
明朝遊上苑,火急報春知;
花須連夜發,莫待曉風吹。
Minh triêu du Thượng UYển,
Hỏa tốc báo xuân tri.
Hoa tu liên dạ phát,
Mạc đãi hiểu phong xuy !
Có nghĩa :
Sáng mai ta du Thượng Uyển,
Hỏa tốc báo Chúa Xuân hay,
Hoa phải nở liền đêm lạnh,
Trước khi gió sớm hây hây !
blank
Nói cũng lạ, sáng sớm hôm sau, Võ Tắc Thiên dẫn hết quần thần ra Ngự Hoa Viên để ngắm hoa, thì tất cả các hoa đều nở rộ trong đêm cả rồi, muôn hồng ngàn tía, sắc màu rực rỡ khắp nơi. Võ Tắc Thiên rất đẹp Ý, duy chỉ có một loài hoa không chịu nở, chính là Mẫu Đơn đó vậy ! Võ giận cho loài hoa dám không tuân chỉ, mới hạ lệnh nhổ hết cả ngàn gốc Mẫu Đơn và ra lệnh đày xuống vùng Mang Sơn của đất Giang Nam. Và..." Nói cũng lạ ", năm sau Mẫu Đơn bén rễ và nở đầy cả đồi núi Giang Nam một dãy...
Trở lại với tranh hoa Mẫu Đơn, thường thì trên bức tranh luôn luôn có kèm theo 4 chữ " HOA KHAI PHÚ QUÝ " nên không cần phải giải thích nữa !
Image result for 牧丹花 Inline image
4. Tranh HOA SEN :
SEN là LIÊN 蓮 đồng âm với LIÊN 連 là Liên Tục. SEN cũng còn được gọi là HÀ HOA chữ HÀ 荷 đồng âm với chữ HÒA 和, là Hòa Thuận, Hòa Hợp.
Ngoài ra, SEN còn là biểu tượng của người Quân Tử trong sạch thanh cao, do câu nói " Liên xuất tự trọc nê, hữu Quân tử chi thanh đức 蓮出自濁泥,有君子之清德。C ó nghĩa : Sen mọc ra từ bùn sình dơ dáy, nhưng lại có cái đức thanh cao của người quân tử. Nên...
Image result for 蓮花 Image result for 蓮花
Tranh SEN chỉ để tặng cho những người làm các nghề thanh cao chính trực, như Nhà Văn, nhà Giáo, nhà Báo, Luật Sư...
5. Tranh TÙNG BÁCH :
TÙNG TRÚC MAI là " Tuế hàn tam hữu " 歲寒三友. Cuối năm mùa đông lạnh lẽo, các loại cây cỏ khác đều chết rụi cả, chỉ có 3 người bạn TÙNG, TRÚC và MAI là còn xanh tốt và phát triển mà thôi ! nên TÙNG BÁCH tượng trung cho sự bền bỉ, dẽo dai, chịu đựng bất chấp thời tiết khắc nghiệt, vẫn vươn lên xanh tốt như thường ! Ngoài ra, Tùng Bách còn có thân cây to lớn, tán lá rộng rãi là nơi núp bóng và che chở lí tưởng cho các thảo mộc thấp hèn yếu đuối khác dễ " núp bóng tùng quân !".
Tranh TÙNG BÁCH thường có 4 chữ " TÙNG BÁCH TRƯỜNG THANH " 松柏長青. Có nghĩa Tùng Bách luôn luôn trường kì xanh tốt. Thích hợp để tặng cho Khai trương , Tân gia, Chúc Thọ. Nếu Chúc THỌ thì chỉ thích hợp tặng cho đàn ông, không thích hợp tặng cho các bà.
Inline image Image result for 松柏
6. Tranh HOA LAN :
LAN có nét đẹp thanh thoát, mểm mại, đầy tính nghệ thuật. Hoa Lan lại có mùi hương thoang thoảng nhẹ nhàng dễ làm say đắm ngất ngây lòng người. Chả trách từ xưa cổ nhân đã ca ngợi : " Lan sanh ư u cốc, vi vương giả chi hương 蘭生於幽谷為王者之香!Có nghĩa : Hoa Lan sanh ra trong những sơn cốc thâm u, nhưng lại có mùi hương của bậc vương giả ! Trong Cung Oán Ngâm Khúc Ôn Như Hầu NGUYỄN GIA THIỀU cũng đã từng thương tiếc :
Lan mấy đóa lạc loài sơn dã,
Uổng mùi hương vương giả lắm thay !
blank blank blank
Tranh Hoa Lan chỉ thích hợp dùng để trang trí phòng khách, thư phòng... và chỉ thích hợp dùng để tặng cho các Bà các Cô mà thôi !
7. Tranh RỒNG NGỰA HỔ :
RỒNG NGỰA là Long Mã, linh hoạt và uyển Chuyển như Rồng, nhanh nhẹn và xông xáo như Ngựa. Hai con vật : Một Huyền thoại, một thực tế tượng trưng cho sự hoạt động mạnh mẽ liên tục không ngừng nghỉ, không chồn chân, không lười biếng. Đó là cái tinh thần của Long và Mã. Các công ty, công xưởng, khi khai trương hoặc khi nghỉ Tết vào thường hay dán câu " LONG MÃ TINH THẦN " ở nơi làm việc và sản xuất để nhắc nhở nhân viên, công nhân phải làm việc lại với cái tinh thần xông xáo như rồng như ngựa vậy !
Image result for 龍馬精神 Image result for 龍馬精神Image result for 龍馬精神
Về TRANH thì... trừ phi những người tuổi Thìn, hoặc tuổi Dần thì mới tìm mua tranh Rồng và Cọp, còn bình thường thì không ai dại gì rước CỌP về nhà, càng không có ai dám tặng CỌP cho người khác, nhất là lại vào dịp Tết nhất. CỌP là dã thú hung ác không thích hợp để treo và tặng. Nhưng nếu lỡ... có một bức tranh cọp trong nhà, thì nhớ treo làm sao cho cái đầu cọp hướng ra ngoài, để cọp... giữ nhà, chớ treo cọp quay đầu vào, nó sẽ... cắn hết những người trong nhà đó ! Tranh vẽ cọp thường có 4 chữ : KHIẾU CHẤN SƠN HÀ 嘯震山河. Có nghĩa : Tiếng gầm thét vang động cả núi sông ! để chỉ cái Uy Vũ của Chúa Sơn Lâm.
Inline image Image result for 嘯震山河 Image result for 嘯震山河
Tranh RỒNG, nếu có treo và tặng cho ai, thì cũng thường thấy 4 chữ " VỌNG TỬ THÀNH LONG 望子成龍。" Có nghĩa : Ước mong cho con cháu mình, hoặc chúc cho con cháu người có được thành tựu vượt bực, trở mình hóa thân thành rồng !
Ngựa là tranh thường thấy nhất, 2 con, 4 con, 6 con, hoặc 8 con gọi là Bát Tuấn Đồ. Dễ tặng dễ treo vì luôn có 4 chữ MÃ ĐÁO THÀNH CÔNG 馬到成功, không cần phải giải thích mà ai nấy đều thích, đều mua, đều tặng, đều treo...nhan nhản khắp nơi ! .
Image result for 龍馬精神 Image result for 望子成龍Inline image
8. TRANH DÊ.
MÙI : Đứng hàng thứ 8 trong Thập nhị Địa Chi, cầm tinh con DÊ, từ Hán Việt là DƯƠNG 羊, đồng âm với DƯƠNG 陽 là Thái Dương, là Dương Khí sanh ra từ trời đất.
Theo sách Chu Dịch. Sau tiết Đông Chí thì khí âm hàn bắt đầu tiêu thoái, và khí dương thì bắt đầu sanh trưởng, ta thường nghe các Thầy Bói gọi là ÂM TIÊU DƯƠNG TRƯỞNG, đêm sẽ ngắn dần, ngày sẽ dài thêm ra, cho nên Tháng Mười Một là tháng TÝ, thuộc quẻ Phục 復 là NHẤT DƯƠNG SANH, Tháng Mười Hai là Tháng Sửu, thuộc quẻ Lâm 臨 là NHỊ DƯƠNG SANH, và Tháng Giêng là Tháng Dần, thuộc quẻ THÁI 泰 là TAM DƯƠNG SANH. Vì thế nên Tết Nguyên Đán của tháng Giêng mới dùng câu TAM DƯƠNG KHAI THÁI 三陽開泰 mà chúc mừng cho năm mới mở ra vận hội mới, lấy Ý chữ THÁI là LỚN, là THÔNG, như trong tiếng Việt ta thường nói " Hết vận Bỉ rồi thời lại Thái ", hoặc " Bỉ cực thì THÁI lai " và " Hết cơn BỈ CỰC, đến hồi THÁI LAI ". Có nghĩa : Hết lúc Bế tắt, nghèo khó thì đến lúc Hanh Thông, khá giả.....
Image result for 三陽開泰意思 Image result for 三陽開泰意思
Vì 2 chữ DƯƠNG đồng âm, nên ta thường gặp những bức tranh vẽ hình 3 con dê thay thế cho khí dương của trời đất mà chúc nhau bằng câu TAM DƯƠNG KHAI THÁI như ta thường thấy !
Tranh DÊ rất thích hợp tặng nhau trong dịp Tết, để chúc cho đầu năm mở ra vận hội mới lớn hơn, phát đạt hơn năm rồi !.
9. LIỄN TREO, CÂU ĐỐI :
Liễn treo và Câu đối ngắn để chúc Tết thì nhiều vô số kể ! Tiêu biểu như :
NGHINH XUÂN TIẾP PHÚC 迎春接福 : Đón Xuân đón luôn Phước vào nhà.
HOA KHAI PHÚ QUÝ 花開富貴 : Hoa nở tượng trưng cho sự phú quí của gia đình.
TRÚC BÁO BÌNH AN 竹報平安 : Tre Trúc luôn xanh tốt trong mùa đông như đem lại bình an cho mọi người.
MAI KHAI NGŨ PHÚC 梅開五福 : Hoa mai nở 5 cánh như mang đến 5 cái phước cho gia đình ( 5 cái phước đó là : Thọ, Phú, Khang ninh, Du hảo đức và Khảo chung mệnh. 五福 是 : 寿,富,康寜,攸好德,考终命 。Sống lâu, giàu có, mạnh khỏe, được tiếng tốt và chết an lành. Đó là 5 cái phước mà mọi người đều mong mõi. )
Image result for 梅開五福 Image result for 梅開五福
TRÚC BÁO TAM ĐA 竹報三多 : Một chi nhỏ của nhánh trúc thường có 3 lá, như điềm báo mang đến 3 cái nhiều ( Tam Đa ) mà người ta thường mong mõi. Đó là : Đa Phúc, Đa Thọ, Đa Nam Tử 三多 是:多福,多寿,多男子。Nh iều phước, nhiều thọ, nhiều con trai.
Image result for 竹報三多 Image result for 竹報三多
VẠN SỰ NHƯ Ý 萬事如意, AN KHANG THỊNH VƯỢNG 安康盛旺, CUNG CHÚC TÂN XUÂN 恭賀新禧 ....
Đặc biệt năm Dê, thịnh hành thêm câu : TAM DƯƠNG KHAI THÁI 三陽開泰 !
GHI CHÚ :
Xin được nói thêm về 3 chữ " Nói cũng lạ "....
Sau khi lở " ra Lệnh " cho Chúa Xuân bắt hoa phải nở suốt đêm để ngày mai mình đi ngắm hoa xong , thì Võ Tắc Thiên cũng ngầm ... ra lệnh luôn cho những người trồng hoa trong vườn Thượng Uyển với sự phối hợp của Quân đội dùng vải căng lều để căng lều cho tất cả những nơi trồng hoa trong vườn. Đoạn cho nổi lửa nấu nhiều nồi nước khổng lồ trong vườn Thượng Uyển để tạo một luồn noãn lưu ấm áp khắp nơi, nhờ thế các hoa như ở trong các greenhouse ấm áp của mùa đông ở MỸ hiện nay... Nhờ thế các loài hoa mới nở kịp cho bà ta ngắm, và bà ta mới có dịp diệu võ dương oai với quần thần để chứng tỏ cái Chơn Mạng Thiên Tử của mình !
Đây cũng là cái cơ trí hơn người của Võ Tắc Thiên, chả trách bà ta là Nữ Hoàng Đế duy nhất trong lịch sử Trung Hoa cổ đại.
Đỗ Chiêu Đức
The Following User Says Thank You to florida80 For This Useful Post:
*Thế nào là Vợ ? Vợ là người con gái mà bạn tình nguyện giao cả gia tài cho cô ấy cất giữ.
*Thế nào là Người Tình ? Người Tình là người con gái mà bạn hẹn hò vụng trộm với cô ấy và sợ Vợ phát hiện.
*Thế nào là Hồng Nhan Tri Kỷ ? Hồng Nhan Tri Kỷ là người con gái mà bạn có thể nói với cô ấy tất cả mọi bí mật kể cả điều mà bạn không thể nói được với Vợ hay Người Tình.
Vợ là một sự ràng buộc, ràng buộc bạn không thể tuỳ tiện cặp bồ với một người con gái khác ; Người Tình là một sự bù đắp, bù đắp cho bạn những tình cảm mãnh liệt mà ở người Vợ còn thiếu hoặc bạn không tìm được ở người Vợ ; Hồng Nhan Tri Kỷ là sự chỉ rõ, chỉ rõ sự mê say trong trái tim bạn.
Vợ sống cùng bạn từng ngày, Người Tình vui buồn cùng bạn, Hồng Nhan Tri Kỷ nói chuyện cùng bạn. Vợ không thể thay thế Người Tình, vì Vợ không điều khiển được tình cảm như Người Tình ; Người Tình không thể thay thế Vợ, vì Người Tình không có được tình thân như Vợ ; Vợ và Người Tình đều không thay thế được Hồng Nhan Tri Kỷ, vì đó nhu cầu của tâm linh.
Vợ là người con gái không hề có chút quan hệ máu mủ nào với bạn nhưng lại bồn chồn mong nhớ mỗi khi màn đêm đã xuống mà bạn chưa về nhà ; Người Tình là người con gái không hề có chút quan hệ gia đình với bạn nhưng lại làm cho bạn thoả mãn mùi vị ái tình của đấng nam giới ; Hồng Nhan Tri Kỷ là người con gái chẳng có quan hệ gì với bạn cả nhưng lại có thể chia sẻ với bạn những vui buồn phiền muộn, Vợ là một ngôi nhà, là một bến cảng mang cho trái tim nông nổi của bạn sự vỗ về an ủi ; Người Tình là gánh nặng của ngôi nhà, chẳng qua chưa đến nỗi vạn bất đắc kỷ, bạn không muốn vứt bỏ ; Hồng Nhan Tri Kỷ là vật tô điểm cho ngôi nhà, không có cô ấy bạn không thấy cô đơn, nhưng bạn sẽ cảm thấy cuộc sống chẳng có ý nghĩa gì.
Sự quan tâm của người Vợ như một ly nước lọc, có lúc trở thành sự lảm nhảm, chỉ khi bị ốm mới trở thành sự ôn hoà ; sự quan tâm của Người Tình như cốc nước lọc đó bỏ thêm chút đường, dần dần qua một đêm rồi mà vẫn chưa thoả mãn ; sự quan tâm của Hồng Nhan Tri Kỷ giống như cốc cafe khi bạn đang làm việc lúc nửa đêm, càng uống càng tỉnh.
Khi Vợ có bầu thì sẽ hỏi bạn muốn có con gái hay con trai một cách rất tình cảm ; khi Người Tình có bầu với bạn thì sẽ khóc và hỏi bạn phải làm sao bây giờ ? đối với Hồng Nhan Tri Kỷ, bạn sẽ kể cho cô ấy nghe chuyện Người Tình của bạn có bầu và sẽ hỏi cô ấy bạn nên làm thế nào. Ngay đối với người Vợ, chỉ sau khi bị cô ấy phát hiện bạn mới nói rằng "Thật ra, anh đã muốn nói với em sớm hơn" sau đó cố gắng hết sức để giải thích, và giả bộ rất đáng thương.
Khi Vợ về nhà mẹ đẻ một tuần không quay lại bạn cũng không thấy nhớ ; khi Người Tình mới 3 ngày không gặp bạn liền gọi điện cho cô ấy : Em đi đâu đó ? Tối nay chúng mình đến nơi cũ uống cafe được không ? Khi trong lòng cảm thấy buồn khổ, bạn chỉ muốn tìm Hồng Nhan Tri Kỷ để trò chuyện, nói với cô ấy chuyện vận mệnh của bạn giữa Vợ và Người Tình, thực tế không thể chịu đựng được nữa.
Cái mà làm đàn ông không chịu nổi đó là sự lảm nhảm của người Vợ, nước mắt của Người Tình và sự hiểu lầm của Hồng Nhan Tri Kỷ. Sự lảm nhảm của người Vợ làm đàn ông thấy đã rối cả lòng lại càng thêm rối hơn, nước mắt của Người Tình làm cho trái tim của đàn ông mềm yếu hơn, sự hiểu lầm của Hồng Nhan Tri Kỷ làm cho đàn ông thấy bị tổn thương, hụt hẫng.
Người Vợ tốt nhất là người mà đàn ông có thể tìm thấy ở cô ấy Người Tình và Hồng Nhan Tri Kỷ, chỉ là cảm giác thôi mà đàn ông khó có thể tìm thấy. Người Tình tốt nhất là người mà khi mối quan hệ của bạn và cô ấy bị Vợ bạn phát hiện, cô ấy sẽ chủ động rút lui mà không có một yêu cầu gì hết, nhưng khó mà tìm được điểm này của Người Tình. Hồng Nhan Tri Kỷ tốt nhất là người đến một ngày nào đó sẽ trở thành Người Tình, thậm chí thành Vợ của bạn, chỉ là cái suy nghĩ này chẳng có chút hiện thực gì cả.
Nếu như có thể, đàn ông rất muốn biến Hồng Nhan Tri Kỷ thành Người Tình, nếu có thể nữa thì sẽ muốn cô ấy thành người Vợ. Nhưng nếu Hồng Nhan Tri Kỷ trở thành Vợ rồi thì sẽ không còn là tri kỷ nữa, bởi vì rất ít đàn ông muốn biến Vợ thành tri kỷ. Trái tim đàn ông có rất nhiều bí mật không thể tuỳ tiện nói cho Vợ nghe, không thế thì làm sao gọi là đàn ông nữa.
Lấy Vợ là vì sợ người khác nói ra nói vào, tìm một Người Tình là vì muốn thêm chút gia vị vào để điều chỉnh cái cuộc sống tẻ nhạt, muốn có Hồng Nhan Tri Kỷ vì muốn tưới cho tâm hồn trống rỗng của họ một chút canh tươi.
Đàn ông cả đời đi tìm không phải là Vợ, cũng không phải là Người Tình mà là Hồng Nhan Tri Kỷ .
Sưu Tầm trên Net
Đã 40 năm kể từ tháng 4 năm 1975, những nỗi kinh hoàng , những ngày tang tóc, nỗi niềm uất hận đã mất nước cho khối cộng sản quốc tế, như vẫn còn hiện ra trước mắt biết bao người. Dù thực trạng của xã hội có thay đổi, nhưng nỗi lòng của những người Việt Nam không cộng sản, vẫn hằn sâu vào tâm khảm về những tội ác diệt chủng của bọn việt cộng tay sai của chủ nghĩa tam vô cộng sản: Vô gia đình, vô tôn giáo, vô tổ quốc.
Những tội ác nầy của bè lũ việt cộng đã lên đến tột đỉnh trong tháng 3 và tháng 4 năm 1975
Tháng ba Gãy súng:
Bắt đầu từ ngày 10 tháng 3 năm 1975, Ban Mê Thuột, rồi pleiku, Kontum thất thủ, cao nguyên bỏ ngỏ, quân việt cộng tràn vào, dân bỏ chạy theo đoàn quân VNCHtrực thuộc vùng 1 vùng 2 đang “di tản chiến thuật”.
Tháng Ba là tháng thãm khốc của miền Trung,- Tháng Ba Gãy Súng vẽ lại cơn hồng thủy của một cuộc chiến xâm lược dã man, phủ chụp lên số phận của một dân tộc.
25 tháng 3-1975 nhiều đơn vị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, nhiều chiến sĩđã vị quốc vong thân bởi đạn pháo kích của cộng quân Bắc Việt, một số chiến sĩ đã tự sát tập thể bằng lựu đạn M26 để không bị lọt vào tay của cộng phỉ, một số khác bị cộng quân bắt làm tù binh, bị hành hạ bạo tàn.Có nhiều người phải bẻ súng đi vì hết đạn mà không còn để bổ sung, cây súng đã trở thành vật vô dụng.
Tháng 3/75 cả vùng 1 và vùng 2 đã lọt vào tay của cộng quân, dân và quân đã cùng nhau chạy thoát tầm kiểm soát của cộng phỉ, ùn ùn chạy xuống vùng 3 và vùng 4 để tỵ nạn, hoặc tái lập lại đơn vị.
blank
Trên đường chạy giặc và rút lui của dân và quân Việt Nam Cộng Hòa, bọn việt cộng vô nhân tính, với đại bác, súng AK, xe tăng của khối cộng sản quốc tế, nả đạn hàng loạt không ngừng vào những người dân tỵ nạn vô tội, thây người chết chất thành đống ven vệ đường, người bị thương nằm rên siết la liệt trên mặt đường, tạo nên sự hãi hùng vànỗi kinh hoàng nhưđịa ngục chốn trần gian:
ngày thứ 1 – trận chiến Ban Mê Thuột - 10-3-1975.
ngày thứ 2 – Ban Mê Thuột thất thủ - 11-3-1975.
ngày thứ 3 – quân đoàn 2 chuẩn bị tái chiếm ban mê thuột – 12-3-1975.
ngày thứ 4 – di tản miền trung – 13-3-1975.
ngày thứ 5 – di tản cao nguyên – 14-3-1875.
ngày thứ 6 – tử chiến ở Quảng Nam – 15-3-1975.
ngày thứ 7 – quân đoàn 2 triệt thoái – 16-3-1975.
cùng ngày thứ 7 – trận chiến Quảng Tín – 16-3-1975.
ngày thứ 8- 17-3-1975
ngày thứ 9 – 18-3-1975
ngày thứ 10 –19-3-1975
ngày thứ 11 –20-3-1975
ngày thứ 12 –21-3-1975
ngày thứ 13 –22-3-1975
ngày thứ 14 –23-3-1975
ngày thứ 15 –24-3-1975
ngày thứ 16 – quân đoàn 1 rút khỏi Huế - 25-3-1975.
ngày thứ 16 – trận chiến quân khu 2 – 25-3-1975.
ngày thứ 17 – kịch chiến tại phú thứ - quân khu 2 – 26-3-1975.
ngày thứ 18 – trận chiến ở BìnhĐịnh – 27-3-1975.
ngày thứ 19 –28-3-1975
ngày thứ 20 – Tuyên Đức - Lâm Đồng – thất thủ - 29-3-1975.
ngày thứ 21 – trận chiến tại Quy Nhơn – 30-3-1975.
ngày thứ 22 – Bình Định thất thủ - 31-3-1975.
blank
Tháng 4 tan hàng :
ngày thứ 23 – trận chiến tại Khánh Dương – quân khu 2 - 1-4-1975.
ngày thứ 24 – ngày cuối cùng của quân đoàn 2 – Nha Trang thất thủ - 2-4-1975.
ngày thứ 25 – Phan Rang hổn loạn - 3-4-1975.
ngày thứ 26 – trận chiến tại Ninh Thuận – 4-4-1975.
ngày thứ 27 – thủ tướng Trần Thiện Khiêm từ chức – 5-4-1975.
ngày thứ 28 – trận chiến tại Bình Thuận – 6-4-1975.
ngày thứ 29 – trận chiến tại miền Đông – 7-4-1975.
ngày thứ 30 – trận chiến quốc lộ 20 – 8-4-1975.
ngày thứ 31 – Long Khánh bùng nổ - 9-4-1975.
cùng ngày thứ 31 – trận chiến tại thị xã Tân An – 9-4-1975.
ngày thứ 32 – trận chiến thị xã Xuân Lộc – 10-4-1975.
ngày thứ 33 – trận chiến tại Dầu Giây – 11-4-1975.
ngày thứ 34 – kịch chiện tại Xuân Lộc – 12-4-1975.
ngày thứ 35 – trận chiến tại Bảo Định – 13-4-1975.
ngày thứ 36 – nội các mới trình diện – tại Sài Gòn – 14-4-1975.
ngày thứ 37 – trận Xuân Lộc – Dầu Giây thất thủ - 15-4-1975.
ngày thứ 38 – tại phòng tuyến Phan Rang – Phan Rang thất thủ - 16-4-1975.
ngày thứ 39 – trận chiến tại Xuân Lộc – 17-4-1975.
ngày thứ 40 – trận chiến tại Bình Thuận – 18-4-1975.
ngày thứ 41 – cuộc di tản của Tiểu Khu Bình Thuận - 19-4-1975.
cùng ngày thứ 41 – trận chiến tại Định Quán – 19-4-1975.
ngày thứ 42 – kịch chiến tại Xuân Lộc – 20-4-1975.
cùng ngày thứ 42 – ngày chúa nhật - 20-4-1975 – tại Sài Gòn.
ngày thứ 43 – tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức – 21-4-1975.
cùng ngày thứ 44 – trận chiến tại Tây Ninh – 22-4-1975.
cùng ngày thứ 44– trận chiến tại Trảng Bom – 22-4-1975.
cùng ngày thứ 44 – ngày thứ ba 22-4-1975 – tại Sài Gòn.
ngày thứ 45 – dàn xếp tình hình VNCH – 23-4-1975.
cùng ngày thứ 45 – thủ tướng Nguyễn Bá Cần từ chức – 23-4-1975.
cùng ngày thứ 45 – thứ tư ngày 23-4-1975.
ngày thứ 46 – thứ năm ngày 24-4-1975.
ngày thứ 47 – trận chiến tại Bình Dương – 25-4-1975.
ngày thứ 47 – thứ sáu ngày 25-4-1975.
ngày thứ 48 – trận chiến tại Bà Rịa – 26-3-1975.
cùng ngày thứ 48 – thứ bảy ngày 26-3-1975.
ngày thứ 49 – bầu tổng thống mới – 27-4-1975.
cùng ngày thứ 49 – sư đoàn 3 bộ binh giử Bà Rịa – 27-4-1975.
cùng ngày thứ 49 – trận chiến tại tân cảng cầu Sài Gòn – 27-4-1975.
cùng ngày thứ 49 – chúa nhật ngày 27-4-1975.
ngày thứ 50 – thứ hai ngày 28-4-1975 - ông Minh nhậm chức.
cùng ngày thứ 50 – thứ hai ngày 28-4-1975 – sư đoàn 5bộ binh tử chiến.
cùng ngày thứ 50 – thứ hai ngày 28-4-1975.
ngày thứ 51 – bộ Tổng Tham Mưu – 29-4-1975.
ngày thứ 51 – thứ ba ngày 29-4-1975.
ngày thứ 52 – thứ tư ngày 30-4-1975.
cùng ngày thứ 52 – ngày dài nhất của Dương Văn Minh – 30-4-1975.
Trong những ngày tháng 4/75, sự thảm khốc đè nặng trên quê hương và người dân Việt Nam Cộng Hòa.
Hơn bao giờ hết, sự thê thảm trong tháng 4/75 là vô cùng tận, tháng mà trời đất tối đen, âm u nhưâm phủ, tiếng than khóc đầy trời;
Tháng mà máu của những người vô tội bị tàn sát bởi những hung thần cộng sản, đã loan trên mặt đường đọng thành vũng;
Tháng của những trẻ thơ còn ôm vú mẹ, người đã bịđạn pháo của việt cộng giết chết nằm trên vũng máu đào;
Tháng của những tiếng hét phẩn nộ trong tuyệt vọng của những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, đã bịép buộc phải buông súng, tan hàng trước quân cộng phỉ, dẫn đến nước bị mất vào tay cộng sản quốc tế. Nhiều quân nhân từ binh sĩ đến cấp tướng của Việt Nam Cộng Hòa đã tự sát vì không chịu đầu hàng việt cộng, theo lịnh của ông tổng thống bất hợp hiến Dương Văn Minh, đã chứng minh nghĩa khí ngập Trời của những con người “sinh vi tướng, tử vi thần”.
blank
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, là ngày mà người dân của nước Việt Nam Cộng Hòa đã mất tất cả, bởi vì“mất nước là mất tất cả”. Mất từ mạng sống của người thân, đến mất cả căn nhà, tài sản, thậm chí mất cả đời sống như một con người.
Kết cuộc của ngày 30 tháng 4 là kết cuộc của máu và nước mắt của toàn thể công dân của nước VNCH, kết cuộc của những năm dài khổ sai trong các nhà tù cải tạo, kết cuộc của đời sống còn thua cả thú vật đói khát, khốn cùng.
Sự đau thương nầy đã hằn sâu vào tiềm thức của những người Việt Nam yêu nước, nó vẫn cứ hiển hiện chập chờn qua những cơn ác mộng, từ sau ngày đó cho mãi tận đến bây giờ sau 40 năm dài đăng đẳng, khó có thể quên đi theo thời gian.
Thế nhưng, cũng là người dân của nước Việt Nam Cộng Hòa, ngày nay có người lại nhẫn tâm quên đi những ngày tháng đau thương đó. Những lý do họ tự bào chữa, không thể rửa sạch được sự hèn hạ của thái độ dửng dưng với niềm đau của dân tộc.
Họ kêu gọi hảy “hòa hợp hòa giải” với bọn CS sát nhân vong bản đã tạo nên niềm đau nỗi hận của đồng bào mình. Họ cho rằng “thù hận gì cũng qua đi theo thời gian…Hảy hợp tác với kẻ thù để xây dựng lại quê hương…”
Họ quên rằng, đối với thù hận cá nhân có thể quên đi, nhưng thù nước là mối thù truyền kiếp, phải cố giữ lấy để làm kinh nghiệm cho tương lai, tránh sa vào lỗi lầm tái tục nên niềm đau nỗi hận sau nầy.
blank
Dù không muốn, nhưng nếu hàng năm vào tháng 3 và 4, những tháng đau thương tang tóc của dân tộc, họ nhân danh “tưởng niệm ngày Quốc Hận 30 tháng 4”, tổ chức những tiệc tùng ca hát, nhảy múa vui chơi, dù dưới danh nghĩa gì, cũng không thể tránh khỏi mang xú danh là ăn mừng “ngày đại thắng mùa xuân” của việt cộng, kẻ đã tạo nên ngày Quốc Hận của dân tộc Việt Nam.
Trong những ngày của “tháng 3 gãy súng, tháng 4 tan hàng”, mong rằng tập thể Người Việt Hải Ngoại hãy ghi nhớ, tháng 3 và tháng 4 là những tháng ngày của đau thương, những tháng ngày tang chế của hàng triệu gia đình đồng bào Việt Nam, nỡ lòng nào mà mình vui chơi trong những ngày đau thương đó.
Hãy nhớ cho kỹ lại truyền thống của ông cha, trong những ngày tháng tang chế, đau thương, không nên mặc quần áo màu mè, huống chi là tổ chức tiệc tùng vui chơi. Nếu là cá nhân ham vui vô tri thì có thể tạm xí xoá được, nhưng nếu là một tổ chức của người Việt tỵ nạn cộng sản, chắc không thể nào được những người Việt Nam Quốc Gia tha thứ cho đâu !
The Following 2 Users Say Thank You to florida80 For This Useful Post:
Trong những lúc rảnh rỗi, tôi hay mò mẫm vào internet để tìm hiểu thêm về cuộc chiến Quốc Cộng vừa qua, vì vào năm 1975, tôi chỉ mới vừa 20 tuổi mà thôi. Qua những lần lang thang trên mạng, tìm kiếm lung tung, may mắn tôi đã tìm được các chi tiết về những cái chết của 15 vị tướng QLVNCH từ 1955 đến 1975.
Quân lực Mỹ có 11 vị tướng tử trận từ 1967 đến 1972. Riêng các cố vấn cho những đơn vị Biệt Động Quân thì đã tìm được danh tính 55 người. Đặc biệt, đối với các cố vấn BĐQ bị tử thương trên quê hương chúng ta, Trung Đoàn 75/BĐQ Mỹ chỉ cung cấp họ, tên, ngày tháng, đơn vị BĐQ/ QLVNCH họ đã phục vụ mà không có ghi cấp bậc của mỗi người.
Tôi có hỏi về lý do nầy thì được cựu cố vấn BĐQ Dennis Kim trả lời như sau: “Theo truyền thống của BĐQ Mỹ, lúc còn sống thì các chiến sĩ BĐQ tuy mang cấp bậc khác nhau, nhưng khi đã nằm xuống thì từ binh sĩ đến sĩ quan đều bình đẳng trước cái chết.” Đó là lý do mà các tử sĩ BĐQ Mỹ không có ghi cấp bậc trên bia mộ, cũng như trong các bản thông tin lưu hành nội bộ của Trung Đoàn 75/ BĐQ Mỹ.
BĐQ Đỗ như Quyên
NHỮNG CÁI CHẾT BÍ ẨNblank
THIẾU TƯỚNG TRÌNH MINH THẾ
Sinh năm 1922, tỉnh Tây Ninh Việt Nam. Ngày 3-5-1955, trong lúc đang theo dõi các đơn vị của mình (quân đội Cao Đài) phối hợp với quân đội chính phủ tấn công lực lượng Bình Xuyên ở khu cầu Tân Thuận, tướng Trình minh Thế đứng trên một xe jeep tại dốc cầu, phía bên Sàigòn. Giữa tiếng nỗ của nhiều loại súng cách xa nơi ông đứng khoảng hơn 100m, có một viên đạn duy nhất không rõ ai bắn, đã trúng ngay đầu tướng Trình minh Thế làm ông chết tại chổ.
Cái chết chẳng ai ngờ của thiếu tướng Trình minh Thế vừa làm đau lòng, lẫn đau đầu cho người sống. Kẻ nổ phát súng ấy là ai? Và tại sao? Từ năm 1955 cho đến nay, 2010, đã có nhiều bài viết (kể cả sách) đưa ra các câu trả lời khác nhau về “thủ phạm” bắn tướng T.M.T., nhưng hầu hết các tác giả đó đều dựa trên sự suy luận mà không đưa ra được một chứng tích nào về văn bản, chứng từ, hoặc chứng nhân v.v… Duy nhất có một người tự nhận mình là kẻ tổ chức ám sát tướng T.M.T. Ông ta đã từng lập một lời thề, sẽ giết tướng T.M.T. để trả thù cho một vị chỉ huy mà ông ta kính trọng đã bị tướng T.M.T. tổ chức giết chết. Tuy ông nầy cũng chẳng trưng ra được chứng tích nào, nhưng nhận thấy lời ông kể nghe có lý hơn các câu trả lời từ trước đến nay. Chúng tôi xin phép được trích đăng lại từ nhiều nguồn tham khảo ở sách, báo tiếng Việt ở Mỹ có nói đến người nhận mình giết tướng Trình minh Thế.
…“Năm 1951, thiếu tá Antoine Savani là Trưởng Phòng Nhì, làm xếp an ninh mật thám của Phủ Toàn Quyền Pháp trên khắp ba nước Việt-Miên-Lào. Ông nầy rất kính trọng thiếu tướng Charles Chanson (1902-1951) nguyên Tư Lệnh quân đội Pháp tại Nam Việt.
Ngày 13-7-1951, Thủ Hiến Nam Việt là ông Thái Lập Thành (1896-1951) cùng với thiếu tướng Charles Chanson đến thị xã Sa Đéc dự lễ diễn binh mừng các chiến thắng vùng Tiền Giang. Hai ông xuống xe đứng chào cờ trước khán đài chính. Bỗng một bóng người mặc quân phục vạch đám đông dự lễ chạy thật nhanh đến chổ chào cờ, vừa chạy vừa đưa tay vào túi áo (rút chốt quả lựu đạn). Lúc đến trước mặt hai vị quan khách chính, người nầy đứng nghiêm và đưa tay lên chào cũng là lúc quả lựu đạn phát nổ. Sự việc xảy ra quá nhanh, không ai kịp có một phản ứng nào cả. Người mang lựu đạn bị xé làm hai, nằm bên cạnh hai xác người đang thoi thóp là các ông Thái lập Thành và tướng Charles Chanson. Gần đó hai sĩ quan Pháp cũng bị thương nặng. Những người bị thương được đưa vào một quân y viện gần đó, nhưng vài giờ sau thì cái chết đã đến với ông Thái lập Thành và tướng Charles Chanson.
Thiếu tá Antoine Savani gần như nổi điên vì cuộc ám sát vừa kể. Qua điều tra, được biết kẻ ám sát là một thanh niên tên Phạm văn Út (1925-1951) là con nuôi của đại tá Văn Thành Cao (1924- ?), Tư Lệnh quân đội Cao Đài vùng Đồng Tháp Mười. Ngoài ra, còn có tin báo cho phòng nhì Pháp biết: Đại tá Trình minh Thế ở Chiến Khu Lò Gò (dưới chân núi Bà Đen, Tây Ninh) cho tổ chức trọng thể lễ truy điệu và tôn vinh anh Phạm văn Út như một anh hùng kháng chiến của quân đội Cao Đài. Qua các nguồn tin thu nhận được, thiếu tá Antoine Savani cho rằng thủ phạm là ông Trình minh Thế và thề sẽ giết ông nầy bằng mọi giá.
Khoảng năm 1994, gần 40 năm sau ngày tướng Trình minh Thế bị ám sát (1955), ông Antoine Savani đã về hưu từ lâu với cấp đại tá và cũng đã già. Lúc gần chết vì bệnh tim, ông ta trăn trối những lời sau cùng về cái chết của tướng Trình minh Thế. Những lời kể của ông Antoine Savani được phỏng vấn và ghi chép bởi ông Jean Lartéguy (người sau nầy viết cuốn “Le Mal Jaune”, bản tiếng Anh là “Yellow Fever”).
…Chính tôi đã giết Trình minh Thế. Dù không tự tay cầm súng nhưng tôi là người tổ chức tất cả. Thế bị giết bởi một viên đạn do người thân tín của tôi nấp từ phía sau bắn tới, không phải từ dưới tàu bắn lên. Người bắn chẳng có tên tuổi gì, nói đúng ra, chỉ biết là cấp trung úy. Sở dĩ tôi phải giết Thế là để báo thù cho tướng Chanson mà tôi đã từng thề. Trong tất cả các thủ lãnh quân sự ở trong Nam thì Thế là người nguy hiểm nhất, có nhiều tham vọng nhất, và cũng là người khôn ngoan nhất. Lansdale* quả có mặt tinh đời khi chọn Thế … *(Đại Tá Edward Lansdale, 1908-1987, về hưu với cấp thiếu tướng)
TRUNG TƯỚNG ĐỖ CAO TRÍ: Trung Tướng Đỗ cao TríSinh ngày 20-11-1929, làng Bình Tước tỉnh Biên Hòa Việt Nam, nguyên là Tư Lệnh Quân Đoàn III/ Quân Khu III. Sáng ngày 23-2-1971, trên cương vị Tư Lệnh Hành Quân Toàn Thắng 1/71, ông chủ tọa cuộc họp tham mưu tại Bộ tư lệnh Tiền phương QĐIII/ QK III tại căn cứ Trảng Lớn, quận Châu Thành, tỉnh Tây Ninh như thường lệ. Sau buổi họp, khoảng 09:30 giờ, ông dùng trực thăng bay về hướng bắc tỉnh Tây Ninh để đến Dambe (một thị trấn nhỏ của Kampuchia) nơi lực lượng xung kích QĐ III của đại tá Trần quang Khôi đang chờ. Trực thăng chỉ huy của Trung Tướng Đỗ cao Trí rời khỏi Trảng Lớn khoảng bốn phút thì bùng nổ ở trên không. Địa điểm tai nạn khoảng 7km bắc- tây-bắc thị xã Tây Ninh. Ngoài tướng Đỗ cao Trí bị tử thương còn có hai phi công (chỉ biết tên một người là đại uý Đắc), hai xạ thủ và cơ khí phi hành (không rỏ danh tánh); trung tá Sỹ thuộc Trung Tâm Hành Quân QĐ III; trung tá Châu, Chỉ huy phó Truyền tin QĐ III; đại úy Tuấn, sĩ quan tuỳ viên; nhà báo Mỹ (gốc Pháp) Francoi Sully.
Sự ra đi đột ngột của tướng Đỗ cao Trí cũng để lại nhiều câu hỏi nhức đầu cho hậu thế. Gần 40 năm qua, đã có khá nhiều bài viết của người Việt bàn tán và nhận xét về cái chết nầy. Không có ai đưa ra được các chứng cứ nào có sức thuyết phục để dư luận chấp nhận là hợp lý, hợp tình hơn cả. Tuy nhiên tướng Đỗ cao Trí đi vào nơi khuất bóng trong lúc ông đang chiến thắng dồn dập (70-71) ở bên vùng biên giới Kampuchia. Có tin ông sắp ra nắm QĐ I để xoay chuyển tình huống mặt trận biên giới Lào, vậy mà ông ra đi! Đó là điều làm người đời sau thắc mắc.
THIẾU TƯỚNG NGUYỄN VĂN HIẾU:
Sinh ngày 23-6-1929, thành phố Thiên Tân, Cộng Hoà Trung Hoa Dân Quốc. Năm 1949 đang học đại học Aurore ở Thượng Hải thì phải theo gia đình dọn về Saigon, Việt Nam. Đầu năm 1951, ông theo học khóa 3 Võ Bị Liên Quân Việt Nam tại Đà Lạt, và tốt nghiệp (hạng hai) ngày 1-7-51 với cấp bậc thiếu uý.Thiếu Tướng Nguyễn văn Hiếu
Hai mươi năm sau, thiếu uý Nguyễn văn Hiếu đã là thiếu tướng Tư Lệnh Phó QĐ I (nhậm chức ngày 9-6-1971) và nỗi tiếng là một vị tướng liêm chính. Do có tài năng và đức độ, nên ngày 10-2-1972, Phó Tổng Thống Trần văn Hương (1902-1982) đề cử tướng Nguyễn văn Hiếu giữ chức Phụ Tá Đặc Biệt trong Ủy Ban Bài Trừ Tham Nhũng (tương đương cấp Thứ Trưởng). Ngày 1-10-1973, ông được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Phó QĐ III/ QK III và đã giữ chức vụ nầy qua ba vị Tư Lệnh Quân Đoàn là Trung Tướng Phạm quốc Thuần, Trung Tướng Dư quốc Đống (1932-2008), Trung Tướng Nguyễn văn Toàn (1932-2005).
Ngày 2-4-1975, tướng Nguyễn văn Hiếu được bổ nhiệm chức Tư Lệnh Tiền Phương QĐ III, nhưng chưa kịp nhận nhiệm sở. Ngày 4-4-1975, khoảng 17:30 giờ (các tài liệu khác thì ghi buổi trưa khoảng 13:30 giờ) những người đang làm việc tại Bộ Tư Lệnh QĐ III ở Biên Hoà bổng nghe một tiếng súng nổ trong văn phòng thiếu tướng Nguyễn văn Hiếu (cùng có nguồn tài liệu khác ghi có hai tiếng súng). Lúc mọi người mở cửa phòng thì thấy tướng Nguyễn văn Hiếu đã ngồi chết gục tại bàn làm việc, một tay ông để trên bàn và tay còn lại buông thòng xuống đất nơi có một cây súng nhỏ còn nằm trên sàn nhà (có thể loại súng P 38). Ông bị chết vì một viên đạn đi xuyên từ cằm lên thái dương (có vài tài liệu khác ghi viên đạn từ thái dương bắn xuyên lên đỉnh đầu và phá một lỗ trên trần nhà), nhưng chẳng có ai hiểu được nguyên nhân ông bị chết là do ngộ sát, tự sát hoặc bị ám sát. Vài ngày sau cái chết của tướng Nguyễn văn Hiếu, chính phủ ban đầu công bố là ông tự sát, nhưng sau đó đã cải chánh và đổi thành ngộ sát, bị cướp cò lúc đang lau súng.
Ba mươi năm sau cái chết bí ẩn của tướng Nguyễn văn Hiếu, có rất nhiều người vẫn không tin ông bị cướp cò súng bởi vì ông là người sưu tập và rất cẩn thận về súng. Có người còn quả quyết tướng Hiếu bị ám sát chết bởi những kẻ tham nhũng. Bọn nầy mượn gió bẻ măng để “giết người bịt miệng” lúc ngọn sóng Đỏ đang tràn tới. Nhưng cũng có người cho rằng một thế lực khác đã gây ra cái chết nầy. Thế lực đó đã biết được một kế hoặch bí mật giữa các tướng Nguyền văn Hiếu, Nguyễn khoa Nam, Lê văn Hưng, Trần văn Hai ở QĐIV/ QKIV, là các vị nầy sẽ tái phối trí và tổ chức lực lượng quân sự tử thủ ở vùng đồng bằng sông Cửu Long nếu thủ đô Sài gòn rơi vào tay quân Cộng Sản. Và thế lực đó không muốn cuộc chiến kéo dài thêm nữa khi họ đã công khai bắt tay với Việt Cộng vì quyền lợi của họ.
CÁI CHẾT ĐAU LÒNG
CHUẨN TƯỚNG TRƯƠNG QUAN ÂN:
Sinh năm 1932, là thủ khoa khóa 7 Trường Võ Bị Liên Quân Việt Nam ở Đà Lạt. Ông nguyên là Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh/ QĐII/ QKII từ ngày 24-11-1966. Vợ ông là bà Dương thị kim Thanh (Huế), nguyên chuẩn uý thuộc binh chủng Nhảy Dù nhưng làm việc tại Tổng Y Viện Cộng Hòa. Nhân dịp bà đi thăm và tặng quà cho các chiến sĩ và gia đình đang đồn trú tại vùng biên giới tây bắc tỉnh Pleiku, ngày 8-9-1968, Ông cùng bà đi chung một chiếc trực thăng loại H-34 (Choctaw) của Không Quân VNCH đến thăm các căn cứ tiền đồn. Sau khi thăm được vài nơi, trực thăng chở ông bà lại cất cánh để đến nơi khác thì máy bay phát nổ ngay trước mắt các binh sĩ và gia đình. Tất cả những người trên trực thăng đều tử thương, trong đó có Chuẩn Tướng Trương quang Ân và vợ là bà Dương thị Kim Thanh.
Sinh năm 1931, Lâm Đồng, tốt nghiệp khóa 4 Trường Võ Bị Liên Quân Việt Nam, Đà Lạt, nguyên là Tư Lệnh QĐIV/ QKIV từ ngày 1-7-1968. Hành quân Cửu Long 1 (bắt đầu ngày 9-5-1970) là cuộc hành quân cấp quân đoàn vượt qua đất Cam Bốt nhằm giải cứu, hồi hương hàng chục ngàn đồng bào thoát sự tàn sát của của dân Cam Bốt. Trên cương vị là Tư Lệnh Hành Quân Cửu Long 1, thiếu tướng Nguyễn viết Thanh thường xuyên có mặt trên máy bay trực thăng để theo dõi và đôn đốc các đơn vị. Ngày 1-5-1970, chiếc trực thăng chỉ huy của tướng Thanh đã vở tan trên không vì bị một chiếc trực thăng võ trang của Mỹ đụng vào. Tai nạn xảy ra trên bầu trời tỉnh Kiến Tường. Tất cả số người có mặt trên hai chiếc trực thăng đều tử nạn.
CHUẨN TƯỚNG PHAN ĐÌNH SOẠN:
Sinh ngày 16-11-1929, Huế, tốt nghiệp khóa 1 Trường Sĩ Quan Việt Nam Thủ Đức, nguyên Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh QLVNCH từ ngày 1-10-1968 đến 31-1-1972. Ông được bổ nhiệm giữ chức Tư Lệnh Phó QĐI/ QKI vào ngày 1-2-1972, thay thiếu tướng Nguyễn văn Hiếu. Ngày 25-2-1972, chuẩn tướng Phan đình Soạn đi máy bay trực thăng ra thăm một chiến hạm Mỹ, cách Đà Nẵng khoảng 20km ngoài khơi biển Đông Việt Nam. Lúc cất cánh trở về, trực thăng của ông vì sơ suất nên đụng vào trụ ăng ten của chiến hạm. Tuy bị hư hại nhưng trực thăng vẫn gắng bay về và bị rớt gần bán đảo Sơn Trà, quận ba thành phố Đà Nẳng. Toàn bộ người trên máy bay đều chết và tìm được thi hài. Cùng đi với tướng Phan đình Soạn có đại tá Ngô hân Đông, nguyên Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh QĐI/ QKI.
CHUẨN TƯỚNG NGUYỄN HUY ÁNH:
Sinh tháng 7-1934, tốt nghiệp trường Không Quân Phi Hành Salon de Provence 1953, nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn 4 Không Quân QĐIV/ QKIV cho đến năm 1972. Chuẩn Tướng Ánh tử nạn phi cơ trong một phi vụ quan sát tình hình, vì ghi nhận một phi cơ L19 bị rớt nên ông dùng trực thăng của ông đến câu phi cơ L19 và rủi ro xảy ra tai nạn. Ông tử nạn lúc 17giờ ngày 27-2-1972.
CHUẨN TƯỚNG NGUYỄN VĂN ĐIỀM
Sinh ngày 30-6-1929, tốt nghiệp khóa 4 Trường Bộ Binh Thủ Đức. Ông giữ chức vụ Trung đoàn trưởng của SĐ1/BB và Tư Lệnh Phó trước khi được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Sư Đoàn 1/BB, năm 1973. Ông được thăng cấp Chuẩn tướng tháng 4-1974. Trực thăng của ông bị rơi gần bờ biển tỉnh Quảng Ngãi khoảng 8 giờ tối ngày 28-3-1975. Ông là vị tướng bị tử nạn cuối cùng trong cuộc chiến Việt Nam (Năm 2011, thân nhân tướng Nguyễn Văn Điềm đã tìm được hài cốt của ông ở La Ngãi, An Hải, quận Bình Sơn tỉnh Quảng Ngãi).
NHỮNG VỊ TƯỚNG TỰ SÁT
CHUẨN TƯỚNG LÊ NGUYÊN VỸ:
Sinh ngày 22-8-1933, tỉnh Sơn Tây, học khoá 2 Trường Võ Bị Địa Phương Trung Việt, tốt nghiệp với cấp bậc chuẩn uý hiện dịch. Trước ngày 30-4-1975, ông nguyên là Tư Lệnh Sư Đoàn 5/BB. Ngay sau lúc nghe được lời kêu gọi buông súng của ông Dương văn Minh, chuẩn tướng Lê nguyên Vỹ đã tự sát trước sân cờ của bản doanh Bộ Tư Lệnh SĐ5/BB ở Lai Khê tỉnh Bình Dương.
THIẾU TƯỚNG PHẠM VĂN PHÚ:
Sinh năm 1929, tỉnh Hà Đông, học khóa 8 Trường Võ Bị Liên Quân Việt Nam, Đà Lạt, nguyên là Tư Lệnh QĐII/QKII từ tháng 11-1974. Trong cuộc họp ở Cam Ranh ngày 14-3-1975, Tổng Thống VNCH Nguyễn văn Thiệu (1924-2001) lệnh cho tướng Phạm văn Phú rút quân khỏi các tỉnh Kontum, Pleiku về vùng duyên hải QĐ II. Cuộc lui quân nầy diễn tiến như thế nào thì lịch sữ đã cho thấy. Ngày 29-4-1975, tại nhà riêng ở Sàigòn, thiếu tướng Phạn văn Phú đã uống một liều thuốc độc thật mạnh nhưng gia đình phát giác và đưa ông vào bệnh viện cứu chữa. Trưa ngày 30-4-1975, ông tỉnh lại và thều thào hỏi vợ về tình trạng lúc bấy giờ. Sau khi nghe vợ cho biết ông Dương văn Minh đã đầu hàng và Việt Cộng vừa vô dinh Độc Lập. Nghe đến đây, thiếu tướng Phạm văn Phú thở hắt ra. Đó cũng là hơi thở cuối cùng của ông.
CHUẨN TƯỚNG TRẦN VĂN HAI:Chuẩn Tướng Trần văn Hai
Sinh năm 1929, Cần Thơ, tốt nghiệp khoá 7 Trường Võ Bị Liên Quân, Đà Lạt. Ông nguyên là Tư Lệnh Sư Đoàn 7/BB thuộc QĐIV/ QKIV từ ngày 1-3-1974. Trước đó ông cũng từng đảm trách các chức vụ như Tỉnh Trưởng tỉnh Phú Yên (năm 1965), Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Trung Ương (năm 1967), Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia (năm 1968), Chỉ Huy Trưởng Trung tâm Huấn Luyện Lam Sơn kiêm Chỉ Huy Trưởng Huấn Khu Dục Mỹ (năm 1971), Tư Lệnh Phó QĐII/ QKII và kiêm nhiệm Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Hành Quân Chiến Thuật QĐII/QKII (năm 1972).
Trong ngày 30-4-1975, khoảng 17:00 giờ tại Bộ Tư Lệnh SĐ7/BB ở Mỹ Tho, chuẩn tướng Trần văn hai đã uống thuốc độc ngay trong văn phòng của mình. Vị sĩ quan tuỳ viên sau khi phát giác chủ tướng của mình đã quyên sinh, đã đưa ông qua Tiểu đoàn 7 Quân Y mong cứu được ông, nhưng mọi nổ lực đều quá muộn. Buổi chiều trong ngày, trước khi uống thuốc độc chuẩn tướng Trần văn Hai trao cho vị sĩ quan tuỳ viên số tiền 70.000 đồng nhờ đưa cho người mẹ già của mình. Đây cũng là tháng lương cuối cùng của một người lính suốt đời liêm chính.
CHUẨN TƯỚNG LÊ VĂN HƯNG:Chuẩn Tướng Nguyễn văn Hưng
Sinh năm 1933, Hóc Môn, Gia Định, tốt nghệp khoá 5 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, nguyên là Tư Lệnh Phó QĐIV/ QKIV từ ngày 1-11-1974. Ông cũng từng là Tư Lệnh Sư Đoàn 5/BB (ngày 14-6-1971), Tư Lệnh Phó QĐIII/ QKIII Đặc trách Lực Lượng Phản Ứng Cấp Thời (ngày 4-9-1972), Tư Lệnh Sư Đoàn 21/BB (ngày 9-6-1973).
Khoảng 19:30 giờ ngày 30-4-1975, tại tư dinh của mình ở Cần Thơ, Chuẩn Tướng Lê văn Hưng sau khi nói những lời từ biệt với các thuộc cấp, dặn dò khuyên nhủ bạn đời là bà Phạm thị kim Hoàng, ông vào văn phòng riêng và khóa chặt cửa lại mặc dù tiếng khóc than nức nở kêu gào của người vợ. Ông đã dùng súng tự sát vào lúc 20:45 giờ ngày 30-4-1975.
THIẾU TƯỚNG NGUYỄN KHOA NAM:Tướng Nguyễn khoa Nam lức mới thăng cấp Thiều Tường
Sinh ngày 23-9-1927, Đà Nẳng (chánh quán An Cựu Tây, quận Hương Thủy, tỉnh Thưà Thiên), tốt nghiệp khóa 3 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Đời binh nghiệp của ông đã trải qua những chức vụ như: Tiểu Đoàn Trưởng TĐ5 Nhảy Dù (năm 1965), Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù (năm 1967), Tư Lệnh Sư Đoàn 7/BB (tháng 1-1970) và Tư Lệnh Quân Đoàn IV/ Quân Khu IV (tháng 11-1974) với cấp thiếu tướng.
Ông đã dùng súng tự sát trong tư dinh của mình ở Cần Thơ khoảng 07:30 giờ ngày 1-5-1975.
CHẾT TRONG TÙ CỘNG SẢN
THIẾU TƯỚNG ĐOÀN VĂN QUẢNG:
•Sinh năm 1923, xuất thân Thiếu Sinh Quân Việt Nam.
•1960: Thiếu tá, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Hành Quân/ Đệ Ngũ Quân Khu (đến năm 1962 là QĐ IV vùng 4 chiến thuật)
•1961: Trung tá, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân/ Đệ ngũ Quân Khu.
•1962: Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 21/BB. Tháng 10-1963, Tư Lệnh Phó SĐ9/BB.
•7-11-1963: Đại Tá Tư Lệnh SĐ9/BB.
•1964: Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biêt.
•1966: Chuẩn tướng. 1971: Thiếu tướng.
•1972: Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung.
Sau ngày 30-4-1975, Việt Cộng đưa đi tập trung khổ sai. Thiếu tướng Đoàn văn Quảng chết trong tù Cộng sản ở trại khổ sai Nam Hà (Hà nam Ninh) ngày 6-3-1984.
CHUẨNTƯỚNG BÙI VĂN NHU
Sinh ngày 26-12-1920 tại quận Bến Lức tỉnh Long An, bắt đầu phục vụ ngành Cảnh Sát Quốc Gia năm 1939 từ ngạch Thư Ký phiên dịch.
•Từ 1949 đến 1952, Biên Tập Viên Chánh Sở Trung Ương Tình Báo.
•1952-1958: Quận Trưởng Hạng 4 Thanh Tra Tổng Nha CSQG
•1958-1960: Quận Trưởng Hạng 3 Giám Đốc TTHL/CS & CA
•1960-1962: Quận Trưởng Hạng 2 Phụ Tá Khối CS Đặc Biệt Tổng Nha CS
•Đến năm 1966-1971, ông lên đến ngạch Quận Trưởng Thượng Hạng và đảm nhiệm chức vụ Phó Tổng Giám Đốc Tổng Nha CS.
•1971-1975: Đại tá CSQG, Tư Lệnh Phó Tổng Nha
•01-2-1975: Chuẩn tướng CSQG, Tư Lệnh Phó Tổng Nha CS.
Sau ngày 30-4-1975, Việt Cộng đưa đi tập trung khổ sai và chết tại trại tù Nam Hà, ngày 15-3-1984.
CÁC VỊ TƯỚNG MỸ TỬ THƯƠNG TẠI VIỆT NAM
THIẾU TƯỚNG WILLIAM JOSEPH CRUMMTHIẾU TƯỚNG WILLIAM JOSEPH CRUMM:
Sinh ngày 20-9-1919, Scarsdale New York, nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn 3 Không Quân thuộc Bộ Tư Lệnh Không Quân Chiến Lược, Mỹ. Ngày 7-7-1967, tướng W. J. Crumm đích thân lái một chiếc B.52 dẫn đầu một hợp đoàn gồm 3 chiếc B.52 đến yểm trợ chiến trường ở miền Nam Việt Nam. Lúc còn cách ngoài khơi tỉnh Vĩnh Bình (vùng 4 chiến thuật) khoảng 32km, tai nạn xảy ra khi hai chiếc B.52 chạm cánh vào nhau và rớt xuống biển đông VNCH. Có sáu người bị chết (không tìm được xác) và bảy người được cứu sống. Trong số người tử nạn có thiếu tướng W. J. Crumm. Ông là sĩ quan cấp tướng đầu tiên của quân đội Mỹ chết tại chiến trường Việt Nam.
THIẾU TƯỚNG ROBERT FLANKLIN WORLEY:
Sinh ngày 10-10-1919, Riverside California. Nguyên Tư Lệnh Phó Không Lực 7, Không Lực Thái Bình Dương. Ngày 23-7-1968, tướng R.F. Worley tự mình lái chiếc máy bay phản lực loại RF-4C Phantom, đến yểm trợ một đơn vị bạn ở hưóng tây-nam Huế thì máy bay bị trúng đạn phòng không của Cộng sản Bắc Việt. Chiếc Phantom được ghi nhận đâm vào một sườn núi, khoảng 85km tây-bắc phi trường Đà Nẳng.
THIẾU TƯỚNG BRUNO ARTHUR HOCHMUTH:Thiếu Tướng BRUNO ARTHUR HOCHMUTH
Sinh ngày 10-5-1911 Houston, Texas, nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn 3 Thuỷ Quân Lục Chiến, hoạt động trong hai tỉnh Thưà Thiên và Quảng Trị. Vào ngày 14-11-1967, tướng B.A. Huchmuth đang trên đường đến thăm chuẩn tướng Ngô quang Trưởng, Tư Lệnh SĐI/BB thì trực thăng của ông bổng dưng phát nổ trên không tại hướng tây bắc thành phố Huế. Trong số những quân nhân Mỹ tử nạn trên chiếc trực thăng còn có thiếu tá Nguyễn ngọc Chương là sĩ quan liên lạc SĐI/BB cạnh Bộ Tư Lệnh SĐ3/ TQLC Mỹ.
Thiếu tướng B.A.Hochmuth là vị tướng duy nhất của TQLC Mỹ chết tại chiến trường Việt Nam.
THIẾU TƯỚNG KEITH LINCOLN WARE:
Sinh ngày 23-11-1915, Denver Colorado, nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh (Sư đoàn Anh Cả Đỏ, The Big Red One Division). Ngày 13-9-1968, trong lúc đang chỉ huy đơn vị cơ hữu chạm súng với VC, chiếc trực thăng chỉ huy của ông bị trúng đạn phòng không của VC, và bị rơi ở địa điểm khoảng 6km tây-bắc Lộc Ninh tỉnh Bình Long.
CHUẨN TƯỚNG WILLIAM ROSS BOND:
(Chúng tôi tạm dịch chức vụ Brigadier General, tướng một sao của quân đội Mỹ là chuẩn tướng) Sinh ngày 4-12-1918, Portland, Maine, nguyên Tư Lệnh Lữ Đoàn 199 Bộ Binh. Ngày 1-4-1970, lúc nhận được tin một đơn vị của mình là Chi đội 2, Chi đoàn D, Thiết đoàn 17 Kỵ Binh bị địch tấn công khi đang hộ tống một đoàn xe tiếp tế trên tỉnh lộ 15, phía nam Võ Xu tỉnh Long Khánh. Tướng W.R. Bond đã đáp trực thăng của mình xuống ngay trận địa để đôn đốc chiến sĩ. Khi ông chạy khỏi máy bay độ vài thước thì bị trúng đạn ngay vào ngực. Trực thăng khẩn cấp đưa ông khỏi trận địa, nhưng ông đã tắt thở lúc còn trên không. Chuẩn tướng W.R. Bond là vị tướng thứ nhất của quân đội Mỹ tử trận ngay trên mặt đất Việt Nam, không phải trên máy bay.
THIẾU TƯỚNG ALBERT BROADUS DILLARD, JR: Sinh ngày 1-9-1919, Lake Charles, Louisiana, nguyên Tư Lệnh Công Binh Mỹ ở Việt Nam. Ông bị tử thương ngày 12-5-1970 lúc từ Pleiku bay trực thăng dến trại Biên Phòng Plei D’Jreng để thám sát Tỉnh lộ 509. Trực thăng của tướng J.B. Dillard bị trúng đạn phòng không của CS và phát nổ. Địa điểm xảy ra khoảng 16 km hướng tây-nam thị xã Pleiku.
THIẾU TƯỚNG GEORGE WILLIAM CASEY: Sinh ngày 9-3-1922, Allston Massachusetts, nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn I Không Kỵ (The First Air Calvary Division). Ngày 7-7-1970, tướng G.W. Casey từ Phước Vinh tỉnh Tuyên Đức, dự tính đến thăm thương binh ở bệnh viện dã chiến Cam Ranh. Trên đường bay, trực thăng chở ông bị trúng đạn phòng không của CS Bắc Việt và đâm xuống đất.
Hải quân Đề đốc (thiếu tướng) Rembrandt C. Robinson: Hải quân Đề đốc (thiếu tướng) Rembrandt C. RobinsonSinh ngày 2-10-1924 Clearfield Pennsylvania. Nguyên Hạm Trưởng (Soái Hạm) Khu Trục Hạm USS Flotilla 11, kiêm Tư Lệnh Chiến Đoàn Khu Trục Hạm thuộc Hạm Đội 7. Vào buổi tối ngày 8-5-1972, sau khi dự họp trên một chiến hạm gần đó, ông dùng trực thăng trở về soái hạm thì tai nạn xảy ra lúc máy bay không đáp đúng vị trí trên tàu. Trực thăng lao xuống biển và vở tan làm chết tất cả những người trên trực thăng. Nơi xảy ra tai nạn nằm ngoài khơi biển đông Việt Nam, gần bán đảo Đồ Sơn thành phố Hải Phòng, Bắc Việt. Đề đốc R.C. Robinson là vị tướng Hải quân duy nhất của quân đội Mỹ bị chết trong chiến cuộc Việt Nam.
CHUẨN TƯỚNG RICHARD JOSEPH TALLMAN: Sinh ngày 28-3-1925, Honesdale Pennsylvania, nguyên Tư Lệnh Phó Bộ Tư Lệnh Vùng 3 Yểm Trợ (Third Regional Assistance Command: TRAC). Ngày 9-7-1972, tướng R.J. Tallman đáp trực thăng xuống An Lộc, tỉnh Bình Long để họp với thiếu tá Joe Hallum thuộc toán cố vấn Trung đoàn 48/BB và đại uý Willbanks, toán cố vấn Trung đoàn 43 SĐ 18/BB. Cuộc họp bàn thảo về sự phối hợp yểm trợ cho lực lượng phòng thủ ở thị xã An Lộc. Lúc trực thăng sắp cất cánh thì quân VC tập trung pháo kích dữ dội vào khu vực bải đáp làm chết tại chổ bốn người. Chuẩn tướng Tallman bị thương nặng, được tản thương về bệnh viện 3 dã chiến tại Saigon, và chết lúc còn trên bàn mổ.
Có tất cả 11 vị tướng Mỹ chết ở Việt Nam. Ngoài ra còn 2 vị tướng chết vì bạo bệnh.
CÁC CỐ VẤN MỸ CỦA BĐQ TỬ TRẬN TẠI VIỆT NAM
ĐƠN VỊ DANH TÁNH NGÀY TỬ TRẬN
TĐ11 BĐQ Arthur Edward Hickman 8/12/1965
Donald Walter Lovett 8/12/1965
Erman Milford Newman, Jr 12/8/1966
Donald A. Evans 30/01/1968
TĐ21 BĐQ Charles Wray Kaelin 20/01/1967
Roy M. McWilliams 20/01/1967
John Kendrick Hutton, Jr 11/8/1967
Swante August Swenson 11/1/1968
TĐ22 BĐQ Lyell Francis King 18/02/1966
Orie John Dubbeld, Jr 3/3/1971
James Edward Duncan 3/3/1971
TĐ23 BĐQ William Richard Spates, Jr 25/10/1965
Joe Worth Green 1/4/1970
TĐ31 BĐQ William Joseph Thornhill 18/02/1968
TĐ32 BĐQ Harry Curtis Mahoney, Jr 21/01/1967
Hardy Winston Peeples 21/01/1967
TĐ33 BĐQ Harold George Bennett 1/7/1966
Robert Joe Williamson 31/01/1968
TĐ34 BĐQ Henry Albert Deutsh 11/5/1965
TĐ35 BĐQ Joseph Davis Francolini 22/03/1967
Frederick George Wheeler,Jr 22/03/1967
TĐ36 BĐQ Alfred George Kircher 15/05/1967
TĐ37 BĐQ Robert Woodrow Grove 18/02/1965
Raymond Celeste 22/11/1965
Terry Wintermoyer 22/11/1965
Dillard Brock 10/9/1967
TĐ39 BĐQ Christopher Jo O’Sullivan 30/05/1965
Willie Donald Tyrone 30/05/1965
Henry Alfred Musa, Jr 5/7/1965
William Leroy Johnson 25/10/1965
Thomas Theodore Hewitt 2/7/1970
TĐ41 BĐQ William David Ragin 20/08/1964
Byron Clark Stone 20/08/1964
Gerald Carl Capelle 1/4/1965
Ned Natale Loscuito 20/08/1965
David Butler Kiser 8/6/1966
TĐ42 BĐQ Kenneth Lee Hargrave 15/02/1967
TĐ43 BĐQ John Lowery McCoy 26/09/1964
Leroy Clayton Martinson 8/12/1968
TĐ44 BĐQ David Winslow Bowman 6/4/1965
Robert Howard Fuellhart 12/8/1965
David Michael Halbauer 13/10/1965
TĐ52 BĐQ Francis D. Lynch 10/9/1964
TĐ67 BĐQ Randall Clairbone Kniseley 18/10/1970
TĐ81 BĐQ Little Jay Jackson 7/3/1968
Paul Donald Spillane 26/07/1968
TTHL/ BĐQ ởTrung Hòa,
Hậu Nghĩa.
Wilbur Turby Dunlap 15/10/1963
Morris Ralph McBride 3/3/1964
John Adams 26/03/1967
Frederick Agather 1/6/1969
Francisco Giron 30/10/1969
TTHL/BĐQ (?)
Charles Joseph Tighe 23/04/1967
Robert Dondero 6/11/1969
Giữa thập niên sáu mươi, nhà Bác học Cleve Backster chế ra máy Dò Nói Dối, người Mỹ gọi là Lie Detector hay Polygraph, máy này có thể phát hiện những thay đổi về mạch đập, những bất thường của nhịp thở ..v..v... mà Backster cho rằng do tinh thần căng thẳng, không giữ được bình tĩnh khi người bị thẩm vấn có những điều uẩn khúc, những chuyện muốn giấu giếm. Cơ quan Trung Ương Tình Báo( CIA) dùng Lie Detector để điều tra những nghi can. Họ thấy máy này đem lại kết quả tốt nên năm 1986 Backster được CIA mời ra cộng tác và sau đó được cử làm Giám Đốc Trường Huấn Luyện Dò Nói Dối và Sở Nghiên Cứu Backster(Polygragh Instruction School and The Backster Research Foundation)ở San Diego California. Từ đó, tên tuổi Ông được nhiều người biết đến, nhưng Ông chỉ thật sự nổi danh và được các khoa học gia thế giới cảm phục khi ông tình cờ tìm ra thảo mộc có tâm linh hay là cây cỏ có khả năng biết được ý định của con người.
cocay2
Một buổi sáng được nghỉ, Ông ngồi ngắm những chậu hoa, những chậu cây trong nhà, như một nhân duyên, Ông chú ý đến một cây có lá to và dày như lá đa trong một chậu cảnh, đã một tuần không được tưới nước, đất khô, thân cây cũng khô. Ông bỗng nẩy ra ý định:
- Thử cắm hai đầu dây của một điện kế(galvanometer) cực nhậy vào cái lá rồi tưới nước vào gốc cây.
Nước dần dần lên thân và lá, nhưng cây kim điện kế vẫn đứng im. Rồi một ý nghỉ khác đến với Ông:
- Hay là thử đốt chiếc lá này xem sao? Ông chỉ mới có ý nghĩ đốt chiếc lá tức thì kim điện kế bỗng nhẩy lên như bị điện giật. Ông tự hỏi, chẳng lẽ Ông nhìn lầm? Chẳng lẽ lá cây đọc được tư tưởng của Ông mà biểu lộ phản ứng sợ hãi hay sao?
Nghĩ như vậy Ông làm thử lần thứ hai. Tay cầm hộp quẹt như sắp sửa đốt chiếc lá, nhưng Backster tự nhủ sẽ không đốt; thì điện kế cũng không nhúc nhích.
Lần thứ ba ông nhất định sẽ đốt chiếc lá. Lúc đó trong phòng lặng gió kim điện kế đột nhiên nhẩy mạnh.
Nhìn chiếc lá bị đốt một phần Backster thấy sung sướng trong lòng vì sự tình cờ mà biết được linh tính lá cây. Sự khám phá này làm Ông thích thú hơn là phát minh ra máy Dò Nói Dối hồi ba thập niên trước. Ông muốn công bố ngay cho mọi người biết. Nhưng Ông kịp ngừng lại, thái độ đúng của nhà khoa học là phải thử nghiệm đầy đủ, khách quan để không đưa tới kết luận sai lầm, thiên kiến và chủ quan... rồi, Ông định phát triển, nghiên cứu sang nhiều loài thảo mộc khác. Có tới 25 loại cây cỏ được nghiên cứu gồm nhiều loại lá, loại quả và loại củ.
Sau những cuộc nghiên cứu thận trọng của Ông và các cộng sự viên. Ông chính thức công bố rằng:
- Cây cỏ có trực giác tâm linh
Chúng không có mắt, tai, mũi, miệng; không có óc; không có thần kinh hệ... thì cái biết của chúng hẳn phải khác với cái biết của con người. Con người có giác quan nhưng không có trực giác tâm linh như chúng. Dù một bác sĩ tâm lý giỏi cũng không biết được ý định của một kẻ điên khùng sắp đốt nhà mình. Suy nghĩ như vậy làm cho Backster phấn khởi Ông mở rộng cơ sở nghiên cứu và càng khám phá ra những điều mới lạ. Từng mảnh lá tách rời cũng phản ứng như nêu ở trên và người ta gọi là Phản Ứng Backster. Nhà Sinh thực vật(biologist) Ingo Swann, theo dõi cuộc nghiên cứu của Backster và viết trong quyển The Real Story(chuyện có thật). Quyển sách được phát hành ngày 15-11-1998 trong đó có đoạn:
- Sự nghiên cứu(của Backster) khởi đầu chỉ là một khám phá hầu như tình cờ vào năm 1996 là thực vật có khả năng nhận thức và tự động đáp ứng những xúc cảm mạnh thuận theo ý chí con người ... những cây cỏ của bạn, biết là bạn đang nghĩ gì.(His research started with the 1996 almost accidental rediscovery that plants are sentient and respond to the spontaneous emotions and strongly express intentions of relevant humans... Your plants know what you are thinking).
Phản ứng Backster còn đi sâu xa hơn và cho biết thêm là cây cỏ phản ứng không phải trước những mối nguy do con người tạo ra, mà cả những bất trắc, không tạo ra bằng ý định. Một con chó bất thần bước vào phòng, một người vốn ghét cây cỏ đi tới cũng làm điện kế nhẩy. Những cử động của một con nhện tiến đến, cũng gây phản ứng cho cây. Ông Backster đã làm thí nghiệm và chứng minh những điều đó trước các sinh viên trường Đại Học Yale(Hoa Kỳ) trong trường hợp trên, một khi có người tới đuổi nhện và ngay trước khi nhện chạy đi kim điện kế đã hạ xuống. Y như là trước khi nhện chạy thì cái quyết định rút lui của nó đã được cây tiếp nhận. Cây đã thấy hết nguy hiểm và không phản ứng nữa.
Một cuộc thí nghiệm khác chứng minh rằng khi sống cạnh nhau, cây để ý canh chừng nhau sợ bị quấy rầy nhưng khi có một động vật tới gần, mối nguy gần hơn cây cỏ quay sang canh chừng động vật.
Những điều còn làm cho chúng ta kinh ngạc là cây có trí nhớ và tình cảm. Chúng nhận biết những kẻ chuyên phá hoại hoặc những người hay chăm sóc chúng. Ông Charles A. Lewis trong quyển Ý Nghĩa Của Cây Cỏ Trong Đời Sống Chúng Ta(The Meaning of Plants in our Lives) viết:
- Sự say mê nghiên cứu về những liên kết giữa cây cỏ với tâm trí con người mà những tương tác làm tăng thêm hạnh phúc ở ngoại cảnh và môi trường có tác động đến đời sống con người(Fascinating research can lead to enhanced well-being and an appreciation of the environment).
Một gia đình an vui, hạnh phúc, cây cỏ trong nhà cũng tươi tốt. Khi người chăm sóc cây cối, cái tương tác tâm linh giữa Cây và Người làm cho cả hai đều khỏe mạnh hơn. Đó là lý do tại sao những cây mọc gần nhà thường tốt hơn những cây mọc xa. Vậy chúng ta hãy nâng niu, trân trọng từng cọng cây chiếc lá. Hãy dành một chút thì giờ để chăm sóc cây cỏ và vườn tươi(lawn and garden) sức khỏe chúng ta có thể nhờ đó mà tốt hơn. Ngược lại những người thường xuyên chặt phá cây cối thường gặp điều kém may mắn hay nhuốm bịnh là vì khi cây bị xâm phạm, phản ứng tâm linh yếu ớt của cây đánh vào thủ phạm. Mỗi lần một ít, lâu dần người đốn cây sẽ bị bệnh nặng. Có thể người xưa sống an vui, hạnh phúc vì cái thú Điền Viên chăng?
Các nhà sinh thực học thế giới rất hứng thú đang theo dõi công cuộc nghiên cứu của Backster, hiện đã có 7000 nhà bác học yêu cầu Ông thông báo cho biết kết quả nghiên cứu kèm theo các tài liệu khoa học. Những máy móc tối tân hơn được Ông thâu nhận, nhất là những máy ghi các nhịp luồng điện. Và cuộc nghiên cứu được tiến hành với kế hoạch tinh vi, được ghi chép đầy đủ. Các tài liệu được thu thập và xếp loại cẩn thận.
Nếu Backster chứng nghiệm được Tâm Linh Cây Cỏ thì kỹ sư Kirlian đã chụp được hào quang của chúng. Kirlian, tên đầy đủ là Semyon Davidovich Kirlian(1900-1980) sinh tại tỉnh Krasnoda, xứ Amenia nước Nga. Năm 1939 Ông cùng vợ là Valentina đã phát minh ra máy Chụp Hào Quang gọi là Kirlian Electrophotographic Camera(gọi tắt là máy Kirlian). Ông bà này đã áp dụng từ trường của điện vào thuật chụp hình của sinh thực vật (Bio Electrography). Một tấm ảnh chụp chiếc lá của máy Kirlian hiện ra như một thế giới điểm sáng. Chung quanh nó là hào quang(Corona). Những tia lửa nhỏ màu ngọc lam, màu da cam, phát ra từ trung tâm và đi xa theo những kinh xác định. Không phải chỉ lá mới có hào quang. Cây càng lớn, càng già, hào quang càng rực rở và Trường Sinh Lực(bio field) càng mạnh. Trường Sinh Lực (TSL) chính là sức mạnh vô hình của thảo mộc. Có những tiều phu vừa đốn xong một đại thụ bỗng lăn đùng ra chết. Có thể người này đã chặt phải một linh mộc có TSL quá mạnh.
Trong tín ngưỡng nhân gian ta, có tục thờ cây đa. Bên gốc đa già, thường có một cái miếu nhỏ, đặt bát hương, những chiếc bình vôi, để hương khói cho Thần Linh. Do kinh nghiệm của cha ông truyền lại thì cây lớn có Thần lớn. cây nhỏ có Thần nhỏ:
- Thần cây đa, ma cây gạo.
Trong kho tàng văn chương bình dân, ta còn thấy những câu tục ngữ xưa, có ý răn đe, những người chặt cây, phá rừng. Đó là nghề nguy hiểm nhất:
- Nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá.
Nhờ sự khám phá về năng lực sinh học và hào quang của thảo mộc. Một số khoa học gia người Nga thực nghiệm rằng, rau cỏ (vegetable) nào có hào quang càng sáng thì càng nhiều bổ dưỡng ẩm thực. Họ nói:
- Hào quang của rau cỏ giảm bớt khi bị nấu chín. Những tấm hình Kirlian cho thấy rau sống có hào quang chói sáng hơn rau luộc. (A Kirlian photogragh of a raw vegetable shows a brighter and more defined corona than a cooked one).
Nhiều bác sĩ Tây Phương gần đây cũng đồng ý và viết thành sách. Họ khuyên chúng ta nên dùng thực phẩm tươi. Một tờ báo ở Thụy sĩ ca ngợi bác sĩ Bircher Benner:
- Bác sĩ Bircher Benner, người đổi mới những bữa ăn điểm tâm không nấu chín thức ăn trong dưỡng đường của ông ở Thụy sĩ. Ông khuyên rằng thức ăn tươi luôn dùng trước bữa ăn đã nấu nướng, Ông tin chắc thức ăn tươi làm kích thích hoạt động điện của tế bào, vì vậy tăng cường sinh lực cũng như toàn bộ tiêu hóa được tốt hơn(DR. Bircher Benner innovator of Swiss Muesli for use in his clinic in Switzerland, advised that raw food always be taken first, before cooked meal. He believed that raw food stimulate the electrical activity of cells thereby enhancing the vitality as well as improving the rohole digestive process)
Động vật cũng có trường sinh lực và tác động mạnh mẽ tới con người. Trong tạp chí y khoa Health Care số 2-2000 có ghi những điều đáng chú ý giữa con người và vật nuôi làm cảnh(Pet) như sau:
- Những người yêu thích súc vật và nuôi làm cảnh trong nhà như: Chó, mèo, chim, cá, gà ..v..v.. thường có sức khỏe tốt hơn và sống lâu hơn. Những bệnh nhân bị áp huyết cao, bệnh đau tim, bệnh trầm cảm(depression) cũng lợi lạc hơn những người không nuôi một động vật nào. Các cuộc thử nghiệm của một số bác sĩ Tâm Bệnh Lý (Psychologist) Mỹ và Úc cho biết số người bị tắc mạch máu đã giảm đi hai lần và số người có chất mỡ (cholesterol) cao trong máu sẽ giảm đi nếu chủ nhà có nuôi vài con pets
Nhóm khoa học gia thuộc viện đại học U. S. C Tiểu Bang California còn đi xa hơn trong lãnh vực nầy. Họ bảo bệnh Alzheimer dường như phục hồi trí nhớ và cả đến nạn nhân của tử thần AIDS cảm thấy lạc quan và tỏ ra yêu đời hơn khi họ được làm chủ một con vật mà họ ưa thích.
- Con người cũng có Trường Tâm Linh, Trường Sinh Lực như thực vật và động vật. Kirlian đã chụp hình bàn tay và ngón tay đều có hào quang, giống như hào quang của chiếc lá. Hào quang nầy bước đầu cho biết về tình trạng sức khỏe của các sinh vật rồi tới tâm trạng của các sinh vật đó. Khi sức khoẻ hoặc tâm trạng thay đổi thì hào quang đó đổi thay theo. Nhiều bác sĩ người Nga khẳng định và viết trong sách Y Học của họ ...
Trong quá khứ, hình chụp Kirlian được dùng vào nhiều mục liên quan tới diện mạo, thần sắc của sức khỏe và tâm/ sinh lý. Hình ảnh thật rỏ ràng trong sự tiên đoán những hiện trạng bệnh tật như nhiều hình thức Ung Thư, những bệnh về Bướu, Phong thấp, Xưng khớp Xương, bệnh Thần Kinh, bệnh Suy Nhược v..v... Họ tin chắc hình chụp Kirlian có thể tiên đoán những bệnh từ lúc khởi đầu ngay trước khi có những triệu chứng phát hiện nó là một dụng cụ rất ích lợi để đoán trước bệnh(...Kirlian photograghy has been used in the past for a variety of purpose relating to psycho/physiological aspects of health. It has been clearly shown to be effective in diagnosing conditions such as the various forms of cancer, Cystic, fibrosis, Rheumatoid, Arthritis, Schizophrenia, Depression and Others. It is believed thatKirlian photography can predict the onset of disease prior to symptoms showing, making it a useful tool in early diagnosis)
Một số thống kê mới đây cho thấy rằng, người độc thân mau chết hơn người có gia đình. Ban đầu các nhà y học đánh giá là do vấn đề sinh hoạt tình dục. Nhưng ngay cả những người độc thân có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân cũng vẫn chết sớm. Người ta lại cho rằng khi có gia đình ổn định, con người được chăm sóc tốt hơn nên sức khỏe cải thiện hơn. Thật ra đó chỉ là lý do phụ, lý do chính là tình thương yêu chân thật của vợ chồng đã tạo ra Năng Lực Tâm Linh( hay TSL) làm cho khoẻ hơn.
Những huyệt đạo (sensitive points of body) trong khoa châm cứu(Acupuncture) Đông y hình như có liên quan đến vùng Không Gian Tâm Linh của con người.Đến ngày nay Tây y đã công nhận huyệt đạo là có thật. Khi châm cái kim hoặc kích thích vào một huyệt đạo thì nó có tác dụng lên cơ thể. Điển hình nhất là Châm (punctuare) gây Tê(numb) trong giải phẩụ Y học Tây Phương phải dùng thuốc tê để làm tê liệt các thần kinh rồi mới mổ xẻ. Các nhà châm cứu Đông Y chỉ việc châm một số huyệt vào phần cơ thể là họ có thể giải phẩu bình thường.
Các tác dụng cụ thể của huyệt đạo buộc các Bác Sĩ Tây Y phải công nhận là có huyệt đạo. Nhưng nó nằm ở đâu thì không ai thấy. Các Bác Sĩ Tây y lấy dao mổ ra, họ không thấy gì ở trong và cũng không thấy một sự liên hệ của Huyệt Đạo đó với các thần kinh chung quanh, Huyệt Đạo Hoàn Toàn Không nhưng mà tác dụng của nó thì Có Thật và các huyệt đó nối nhau thành một hệ thống huyệt đạo (Đường của những huyệt).
Trong cơ thể con người có nhiều đường. Đường Kinh Nhâm đi từ môi dưới xuống trước hậu môn. Đường Đốc Kinh đi từ hậu môn tới đỉnh đầu rồi đi về phía môi trên. Còn có Đường Kinh khác như là Túc Thái Dương, Bàng Quang Kinh.. v..v... những hệ thống kinh Huyệt này chứng tỏ một cách chắc chắn rằng Cơ Thể Nầy Ngoài Cấu Trúc vật Chất, Còn Có Một Cấu Trúc Tâm Linh Vô Hình rất là thật mà qua các Huyệt mình mới hiểu được nó.
Qua những sự nghiên cứu của Backster, Swann, Lewis, Kirlians... chúng ta rút ra một hệ luận, không gian tâm linh tuy vô hình nhưng có tác dụng. Những ý nghĩ thầm kín của chúng ta vẫn lặng lẽ tạo nghiệp. Đối với những người hiểu luật Nghiệp Báo, hiểu rỏ sức ảnh hưởng của Tư Tưởng và môi trường chung, họ sẽ giữ tâm hồn để không bị nhiễm bẩn bởi các dòng tư tưởng ác trong không gian, đồng thời họ chân thành cầu nguyện cho mọi người đều tốt đẹp, họ thường rải tâm từ bi đến muôn loài, từ con người, con thú đến tận cây cỏ lá hoa.
Lò vi sóng sinh ra bức xạ nhiệt không ion hóa. Nhiều nghiên cứu cho thấy, điều này có thể gây ra sự thay đổi trong máu và nhịp tim của chúng ta cũng như thực phẩm nấu bằng lò vi sóng có thể gây một số loại ung thư dạ dày và đường ruột nhất định.
Những thứ sau sẽ đặc biệt có hại khi cho vào lò vi sóng:
1. Sữa mẹ
Lợi ích cốt lõi của việc dùng sữa mẹ là để cho trẻ có thể hấp thu những chất kháng khuẩn mạnh mẽ vốn có trong sữa mẹ. Tạp chí Pediatrics đã làm thí nghiệm trên 22 mẫu sữa mẹ đông lạnh và được hâm lại bằng lò vi sóng ở nhiệt độ thấp hoặc cao và nhận thấy rằng, ở sữa mẹ được hâm lại, vi khuẩn E-coli phát triển rất nhiều.
Kết quả này cao hơn 18 lần so với sữa được nấu lại mà không dùng lò vi sóng. Các mẫu hâm trong lò vi sóng với nhiệt độ thấp làm giảm hoạt động của hệ enzyme một cách đáng kể cũng như thúc đẩy sự phát triển của những vi khuẩn có hại cho trẻ.
2. Bông cải xanh (súp lơ xanh)
Bất kỳ hình thức nấu nào cũng sẽ phá hủy một vài dưỡng chất trong thực phẩm. Hấp là hình thức nấu ăn nhẹ nhàng nhất mà cũng làm mất khoảng 11% lượng chất chống ôxy hóa trong bông cải xanh. Luộc bông cải xanh bằng lò vi sóng có thể làm mất đến 97% các chất ôxy hóa có lợi chứa trong nó.
3. Trái cây đông lạnh
Đây luôn là cách tiết kiệm thời gian hiệu quả. Mua thực phẩm đông lạnh thật ra không phải là một ý tồi, bởi quá trình cấp đông nhanh có thể giúp trái cây giữ được chất dinh dưỡng.
Các nghiên cứu ở Nga vào cuối những năm 1970 đã cho thấy, rau củ quả được rã đông trong lò vi sóng làm chuyển hóa những glucoside và gaclactacside có lợi thành những chất có thể gây ung thư. Người Nga cũng tiếp tục nghiên cứu vào đầu những năm 1990 và thấy những ảnh hưởng về miễn dịch học của lò vi sóng. Trái cây đông lạnh tốt nhất được tự rã đông trong tủ lạnh hoặc đơn giản là trên kệ bếp ở nhiệt độ phòng.
4. Thịt đông lạnh
Thịt là loại thực phẩm khó rã đông nhất vì thời gian rã đông lâu khiến bên ngoài và các cạnh của miếng thịt chín trong khi phần bên trong vẫn đông đá.
Khi nhiệt độ đạt từ 4,5 tới 60 độ, vi khuẩn trong thịt bắt đầu phát triển và sinh sôi, nếu không được nấu ngay, miếng thịt sẽ nhanh bị ôi thiu.
Các nghiên cứu của Nhật Bản cho thấy, thịt nấu hơn 6 phút trong lò vi sóng có thể làm mất một nửa lượng vitamin B12 có trong nó. Cách tốt nhất để rã đông thịt là để trong tủ lạnh rã đông qua đêm hoặc rã đông dưới vòi nước lạnh đang chảy.
5. Thức ăn bọc nhựa hoặc đựng trong vật dụng nhựa
Tuyệt đối không nấu trong lò vi sóng bằng bất cứ thứ gì có nhựa bao quanh. Khi bạn đun nóng thức ăn được bao quanh bằng vỏ nhựa, bạn có thể tạo nên những chất gây ung thư.
Nấu những thứ được gói bằng nhựa hoặc đựng trong hộp nhựa có thể thải ra những chất độc hóa học nguy hiểm trực tiếp vào trong thức ăn của bạn. Những hóa chất đó bao gồm: BPA, polyethylene terpthalate (PET), benzene, toluene, xylene. Tương tự, tuyệt đối không nên làm nóng bình sữa bằng nhựa của bé trong lò vi sóng.
Phân Biệt Mật Ong Thật Giả - Hỏi và Đáp - GS Hùynh Chiếu Đẳng
Thưa quý vị, đây là bài viết của giáo sư Hùynh Chiếu Đẳng. Xin giữ y nguyên màu mực original
From: Dong Danh Nguyen [mailto:nguyendrhrgda nh@gmail.com]
Sent: Thursday, February 5, 2015 3:36 AM
To: Dang Huynh Chieu
Subject: Honey?
Anh Ðẳng kính mến.
Lâu lắm rồi anh có viết bài về mật ong và sửa ong chúa, xin hỏi anh có cách nào để thử biết mật ong thiệt giả?.
Trên Net có người chỉ là dùng cọng hành lá nhúng vào mật, nếu cọng hành héo đó là mật ong thật, hoặc cho hủ mật vô ngăn freezer nếu mật không đặc, đó là thật v.v.
Anh có kinh nghiệm về vấn đề này hay không, xin vui lòng hướng dẫn.
Cám ơn anh và kính chúc sức khoẻ.
Danh.
HCD: Thưa câu hỏi của anh Danh rất hay, email dài rồi, hẹn email tới sẽ có đôi lời phân giải. Sở dĩ anh Danh hỏi tôi là vì ảnh biết có thời tôi nuôi ong mật tài tử. Trong số các bạn đọc email na62ymay ra chỉ được nam ba người trong nghề nuôi ong. Có lần tôi viết về ong và sữa ong chúa, còn trong quán ven đường.
Nhắc quí bạn hai điều:
1. Không cho trẻ con ăn mật ong dù thât hay giả (tôi không dùng chữ tuyệt đối đâu, nhưng đừng có cho trẻ em nhỏ ăn)
2. Mật ong chẳng phải là thần dược, chẳng phải là tiên dược, cũng chẳng phải là chất siêu thực phẩm. Nó chỉ là đường dù là mật ong thật.
Trước tiên tôi trình các bạn bản phân chất mật ong, kế đó là phân biệt thật và giả. Bài rất dài, các bạn không có liên hệ xin delete cho rồi.
Ghi hờ: Thấy thì nói, nói sai các bạn rán chịu, các bạn không tin cũng rán chịu luôn (tôi ghét chữ ráng của hiện giờ).
Dưới đây là bản phân tách thành phần của 100grams mật ong. Tôi mang nó so sánh với trái đu đủ (tình cờ) để các bạn thấy đu đủ bổ hơn. Dù so với bất cứ trái nào như bưởi, ổi, mít, cốc chi cho đi nữa thì mật ong vẫn đứng hạng chót.
Và dưới đây là thành phần 100grams đu đủ
Nếu chúng ta phân tách xa hơn thì mật ong cũng thua:
Bản so sánh amino acid, tức protein của mật ong và đu đủ.
Phân biệt mật ong thật và giả: Câu trước tiên tôi muốn nói là không có cách chi biết chắc đó là mật ong giả tại nhà. Người ta bày nhiều cách, từ huyền thoại tới thực tế, nhưng không có cách nào chính xác 100%
1. Cách thử khá hữu hiệu là đổ vài muổng mât ong vào ly nước: nhìn cách nó tan mà phân biệt. Tiếc thay mật giả pha với sirop (hay caramel nhẹ) cũng có kiểu hòa tan y như mật thật.
Cách thử huyền thoại là bỏ mật ong thật và giả lên chỏ có kiến, kiến bu là mật giả, không đúng, kiến thích đường, thật giả gì cũng bu, trừ mật ong Trung Cộng và Viêt Nam.
Nhểu một vài giọt mật ong lên tờ giấy xốp lau tay lau mặt, nếu có vết lan ra sau một lúc là mật giả (nước bị hút ra ngoài trước), mật thiệt không lan nhiều.
Nhưng, lại cái nhưng khó chịu, mật thật mà còn non (chưa tráng sáp) thì cũng lan ra. Còn mật giả pha với sirop (caramel non) thì cũng không tan.
2. Cách thứ hai là nhúng gòn vào mật ong rồi đốt:
mật giả đốt không cháy và nghe tiếng nổ nho nhỏ
Mật thật đốt cháy.
Một lần nữa, cũng không chắc ăn 100% đâu.
Cách thử huyền thoại, không đúng, là nhểu mật ong thành dòng mảnh nhỏ xuống cái dĩa. nếu vòng quay ngược kim đồng hồ thì là thật, vòng mât nhỏ xuống dĩa quay theo kim đồng hồ là giả.
Lập lại: Còn nhiều cách khác, nhưng không cách nào hữu hiệu chắc ăn hết. tùy cách pha chế mà mật ong giả, nên có khi nó qua được cái test tại nhà như kể trên.
Hùynh Chiếu Đẳng (quán ven đường)
at 2:50 PM
No comments:
Post a Comment
Newer Post Older Post Home
Subscribe to: Post Comments (Atom)
Người Phương Nam
Người Phương Nam
Blog Archive
► 2019 (497)
► 2018 (1685)
► 2017 (1773)
► 2016 (1943)
▼ 2015 (1914) ► December (163)
► November (175)
► October (175)
► September (157)
► August (167)
► July (160)
► June (145)
► May (157)
► April (162)
► March (159)
▼ February (151) Đóa Hoa Từ Tâm - Trầm Vân
Phự Nữ Thông Minh, Phụ Nữ Ngu Ngốc
Di Tích Lịch Sử của VN Xã Hội Chủ Nghĩa...
Ý Nghĩa Của 5 Ngón Tay
Xuân Đầy Tình Nghĩa - Trầm Vân
Mồng Tám Giải Hạn Sao Thưa - Đỗ Công Luận
Bàn Về "Con Vịt" Đồ Hộp Thái Lan Nhiểm HIV - GS Hù...
Người Là Mùa Xuân - Chúc Anh - Mai Đằng - Tâm Thư ...
Tiếng Phone Reo - Trầm Vân
Mở Toang Cánh Cửa Mùa Xuân - Đỗ Công Luận
Tô Hủ Tiếu To Nhất VN: Kỷ Lục Của Sự... Háo Danh -...
Người Bỏ Báo - Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích
Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ: Quốc Gia Bá Quyền Cuối Cùn...
Nghệ Thuật Uốn Dẻo - Extreme Contortionist Stretch...
Đời Người Như Gió Qua - Phạm Thanh Chương
Ngày Mồng Sáu Tết Say Nhừ - Đỗ Công Luận
Dược Thảo, Lợi Hại Ra Sao? - Dr Liêu Vĩnh Bình (Đ...
Thơ Người Phương Nam - PPS Marian Tran
Người Dân Xứ "Nẩu" - Sông Lô
Tự Tình Mùa Xuân - Đỗ Công Luận
Sài Gòn, Cà Phê Và Nhạc Sến - Vũ Thế Thành
Tân Niên Họp Mặt Thầy Trò - Trầm Vân
Chuyện Khó Tin Nhưng Có Thật Về Trạm Vũ Trụ Quốc T...
SỨC KHOẺ : Dép Xỏ Ngón !
Ở Trọ Mùa Xuân - Trầm Vân
Vài Mẹo Vặt Khi Chơi Bài Ở CASINO.
Một Chút Tết Paris
"Chơi Nổi" Và Hiện Thực Đời Sống VN..!!!
Trâu Nước Cao Thượng
[Hài Kịch] Một Chuyến Đi Về - Show Hè Trên Xứ Lạnh...
Ly Rượu Mừng - Trầm Vân
Mồng Ba Xuân Thắm Đong Đưa - Đỗ Công Luận
Từ Chính Lược Đến Chiến Thuật - Nguyễn Đạt Thịnh
Mồng Năm Nhớ Tết Quang Trung - Đỗ Công Luận
Đến Một Lúc - PPS Marian Tran
Ai Đang Thống Trị Nước Mỹ - Nguyễn Hải Hòanh
Xuân Về Nhớ Đống Đa Xưa - Trầm Vân
Bức Thư Viết Năm 2070 - Vô Cùng Ý Nghĩa
Tiết Lộ Tính Cách Qua Độ Dài Đốt Ngón Tay Út
Niềm Vui Ngày Mồng Hai Tết - Đỗ Công Luận
"Ly Rượu Mừng / Xuân Miền Nam"
Tết Trên Xứ Người - Người Phương Nam
Cờ Vàng Trong Trái Tim Tôi - Destiny Nguyễn
Chờ Xuân - Chúc Anh
Chúc Mừng Năm Mới Ất Mùi - Trầm Vân
Triết Lý Sống Đáng Suy Ngẫm Từ Những Loài Cây Kiên...
Khai Bút Đầu Năm Ất Mùi - Trầm Vân
Chúc Mừng Năm Mới - Minh Lương
Chiều Ba Mươi Tết Đăm Chiêu - Đỗ Công Luận
CHUYỆN ĐÀN ÔNG - Ngân Uyển
Chuyện Đời Thường
Encore Pour Rire - Thêm Chuyện Để Cười
Tổng Hợp Những Thiệp Chúc Tết Từ Thân Hữu Trên Diễ...
Những Người "Gom" Tết Trên Bãi Rác
Xuân Nhớ Trường Xưa - Trầm Vân
Hai Mươi Chín Tết Chợ Trưa - Đỗ Công Luận
Hãy chúc nhau “Hapy New Year” - Đừng Chúc "Sống Lâ...
Đầu Năm Ăn Món "Thăng Hoa Phát Lộc"
CSVN Sẽ Tách Khỏi Quỹ Đạo Trung Cộng – Thế Giới Ở ...
Khúc Tình Xuân Hát Miên Man - Đỗ Công Luận
Thiệp Chúc Tết Từ Người Phương Nam
Khai Bút Đầu Năm - Hoài Hương
Định Nghĩa Tình Yêu - Đỗ Công Luận
Hổ Phụ Sinh Hổ Tử
Vang Bóng Xuân Xưa - Trầm Vân
Lời Khuyên Đầu Năm: BỚT Và ĐƯỢC
Ông Và Cháu - Đỗ Công Luận
Dùng Thuốc Bổ Cho Người Cao Tuổi
Cung Buồn Thứ 4 - Tác giả Đông Hải
Đá Mòn Nhưng Dạ Chẳng Mòn - Tiểu Tử
Cuộc Chiến Giành Quyền Lãnh Đạo Thế Giới - Lữ Gian...
Sân Ga - Trầm Vân
Xuân Và Tết Trong Nhạc Việt Nam - NC_Lê Hoàng ...
Em Đi Chùa Hương - Remix
Tôn Trọng Cuộc Sống Riêng Tư Của Con Cái - Lâm Chi...
Lời Chúc Valentine - Như Nguyệt
Nguồn Gốc Valentine Có Từ Việt Nam Xa Xưa !!!
Chỉ Có Ở Việt Nam
Chúc Xuân Ất Mùi - Trầm Vân
Nguyên Đán - Hoài Hương
Lợi Ích Sức Khỏe Bất Ngờ Từ Bia (Theo ĐSPL)
Niệm Khúc Cuối Cho Đời - Đỗ Công Luận
Kỳ Quan VN
3 Cách Đối Nhân Xử Thế Giúp Bạn Sống An Vui
Lục Bát Tình Nhân và Ảnh Động Valentine Day
Anh Yêu, - Chúc Anh
Soi Ngón Áp Út Biết Tính Cách và Tương Lai Của Bạn...
Thời Điểm Để Nhìn Rõ Đảng Cộng Sản - Nguyễn Gia Ki...
Em Đã Yêu - Thơ Hồng Thúy - Đỗ Quân - Lâm Dung - D...
Vợ Chồng Già Và Ngày Lễ Tình Yêu Saint Valentine -...
Vì Sao Việt Nam Không Có Vietnam Town? - BS Hồ Hải...
23 Điều Vô Lý Chỉ Có Ở Việt Nam - Triết Học Đường ...
Táo Quân Trình Tấu Ngọc Hòang - Đỗ Công Luận
Thang Hai Vọng Tưởng - Trầm Vân
Điều Tôi Muốn Biết
Sự Thật Mất Lòng Nhưng Vẫn Phải Nói
Mùi Hương Bồ Kết - Trầm Vân
Gừng Ngâm Dấm
Thương Sao Vị Ngọt Tết Quê Hương - Đỗ Công Luận
Những Màn Liệu Pháp Mát-Xa Thót Tim Nhất Thế Giới
► January (143)
► 2014 (1228)
► 2013 (466)
Total Pageviews
Sparkline 3811048
Phân Biệt Mật Ong Thật Giả - Hỏi và Đáp - GS Hùynh Chiếu Đẳng
Thưa quý vị, đây là bài viết của giáo sư Hùynh Chiếu Đẳng. Xin giữ y nguyên màu mực original
From: Dong Danh Nguyen [mailto:nguyendrhrgda nh@gmail.com]
Sent: Thursday, February 5, 2015 3:36 AM
To: Dang Huynh Chieu
Subject: Honey?
Anh Ðẳng kính mến.
Lâu lắm rồi anh có viết bài về mật ong và sửa ong chúa, xin hỏi anh có cách nào để thử biết mật ong thiệt giả?.
Trên Net có người chỉ là dùng cọng hành lá nhúng vào mật, nếu cọng hành héo đó là mật ong thật, hoặc cho hủ mật vô ngăn freezer nếu mật không đặc, đó là thật v.v.
Anh có kinh nghiệm về vấn đề này hay không, xin vui lòng hướng dẫn.
Cám ơn anh và kính chúc sức khoẻ.
Danh.
HCD: Thưa câu hỏi của anh Danh rất hay, email dài rồi, hẹn email tới sẽ có đôi lời phân giải. Sở dĩ anh Danh hỏi tôi là vì ảnh biết có thời tôi nuôi ong mật tài tử. Trong số các bạn đọc email na62ymay ra chỉ được nam ba người trong nghề nuôi ong. Có lần tôi viết về ong và sữa ong chúa, còn trong quán ven đường.
Nhắc quí bạn hai điều:
1. Không cho trẻ con ăn mật ong dù thât hay giả (tôi không dùng chữ tuyệt đối đâu, nhưng đừng có cho trẻ em nhỏ ăn)
2. Mật ong chẳng phải là thần dược, chẳng phải là tiên dược, cũng chẳng phải là chất siêu thực phẩm. Nó chỉ là đường dù là mật ong thật.
Trước tiên tôi trình các bạn bản phân chất mật ong, kế đó là phân biệt thật và giả. Bài rất dài, các bạn không có liên hệ xin delete cho rồi.
Ghi hờ: Thấy thì nói, nói sai các bạn rán chịu, các bạn không tin cũng rán chịu luôn (tôi ghét chữ ráng của hiện giờ).
Dưới đây là bản phân tách thành phần của 100grams mật ong. Tôi mang nó so sánh với trái đu đủ (tình cờ) để các bạn thấy đu đủ bổ hơn. Dù so với bất cứ trái nào như bưởi, ổi, mít, cốc chi cho đi nữa thì mật ong vẫn đứng hạng chót.
Và dưới đây là thành phần 100grams đu đủ
Nếu chúng ta phân tách xa hơn thì mật ong cũng thua:
Bản so sánh amino acid, tức protein của mật ong và đu đủ.
Phân biệt mật ong thật và giả: Câu trước tiên tôi muốn nói là không có cách chi biết chắc đó là mật ong giả tại nhà. Người ta bày nhiều cách, từ huyền thoại tới thực tế, nhưng không có cách nào chính xác 100%
1. Cách thử khá hữu hiệu là đổ vài muổng mât ong vào ly nước: nhìn cách nó tan mà phân biệt. Tiếc thay mật giả pha với sirop (hay caramel nhẹ) cũng có kiểu hòa tan y như mật thật.
Cách thử huyền thoại là bỏ mật ong thật và giả lên chỏ có kiến, kiến bu là mật giả, không đúng, kiến thích đường, thật giả gì cũng bu, trừ mật ong Trung Cộng và Viêt Nam.
Nhểu một vài giọt mật ong lên tờ giấy xốp lau tay lau mặt, nếu có vết lan ra sau một lúc là mật giả (nước bị hút ra ngoài trước), mật thiệt không lan nhiều.
Nhưng, lại cái nhưng khó chịu, mật thật mà còn non (chưa tráng sáp) thì cũng lan ra. Còn mật giả pha với sirop (caramel non) thì cũng không tan.
2. Cách thứ hai là nhúng gòn vào mật ong rồi đốt:
mật giả đốt không cháy và nghe tiếng nổ nho nhỏ
Mật thật đốt cháy.
Một lần nữa, cũng không chắc ăn 100% đâu.
Cách thử huyền thoại, không đúng, là nhểu mật ong thành dòng mảnh nhỏ xuống cái dĩa. nếu vòng quay ngược kim đồng hồ thì là thật, vòng mât nhỏ xuống dĩa quay theo kim đồng hồ là giả.
Lập lại: Còn nhiều cách khác, nhưng không cách nào hữu hiệu chắc ăn hết. tùy cách pha chế mà mật ong giả, nên có khi nó qua được cái test tại nhà như kể trên.
Hùynh Chiếu Đẳng (quán ven đường)
at 2:50 PM
No comments:
Post a Comment
Newer Post Older Post Home
Subscribe to: Post Comments (Atom)
Người Phương Nam
Người Phương Nam
Blog Archive
► 2019 (497)
► 2018 (1685)
► 2017 (1773)
► 2016 (1943)
▼ 2015 (1914) ► December (163)
► November (175)
► October (175)
► September (157)
► August (167)
► July (160)
► June (145)
► May (157)
► April (162)
► March (159)
▼ February (151) Đóa Hoa Từ Tâm - Trầm Vân
Phự Nữ Thông Minh, Phụ Nữ Ngu Ngốc
Di Tích Lịch Sử của VN Xã Hội Chủ Nghĩa...
Ý Nghĩa Của 5 Ngón Tay
Xuân Đầy Tình Nghĩa - Trầm Vân
Mồng Tám Giải Hạn Sao Thưa - Đỗ Công Luận
Bàn Về "Con Vịt" Đồ Hộp Thái Lan Nhiểm HIV - GS Hù...
Người Là Mùa Xuân - Chúc Anh - Mai Đằng - Tâm Thư ...
Tiếng Phone Reo - Trầm Vân
Mở Toang Cánh Cửa Mùa Xuân - Đỗ Công Luận
Tô Hủ Tiếu To Nhất VN: Kỷ Lục Của Sự... Háo Danh -...
Người Bỏ Báo - Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích
Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ: Quốc Gia Bá Quyền Cuối Cùn...
Nghệ Thuật Uốn Dẻo - Extreme Contortionist Stretch...
Đời Người Như Gió Qua - Phạm Thanh Chương
Ngày Mồng Sáu Tết Say Nhừ - Đỗ Công Luận
Dược Thảo, Lợi Hại Ra Sao? - Dr Liêu Vĩnh Bình (Đ...
Thơ Người Phương Nam - PPS Marian Tran
Người Dân Xứ "Nẩu" - Sông Lô
Tự Tình Mùa Xuân - Đỗ Công Luận
Sài Gòn, Cà Phê Và Nhạc Sến - Vũ Thế Thành
Tân Niên Họp Mặt Thầy Trò - Trầm Vân
Chuyện Khó Tin Nhưng Có Thật Về Trạm Vũ Trụ Quốc T...
SỨC KHOẺ : Dép Xỏ Ngón !
Ở Trọ Mùa Xuân - Trầm Vân
Vài Mẹo Vặt Khi Chơi Bài Ở CASINO.
Một Chút Tết Paris
"Chơi Nổi" Và Hiện Thực Đời Sống VN..!!!
Trâu Nước Cao Thượng
[Hài Kịch] Một Chuyến Đi Về - Show Hè Trên Xứ Lạnh...
Ly Rượu Mừng - Trầm Vân
Mồng Ba Xuân Thắm Đong Đưa - Đỗ Công Luận
Từ Chính Lược Đến Chiến Thuật - Nguyễn Đạt Thịnh
Mồng Năm Nhớ Tết Quang Trung - Đỗ Công Luận
Đến Một Lúc - PPS Marian Tran
Ai Đang Thống Trị Nước Mỹ - Nguyễn Hải Hòanh
Xuân Về Nhớ Đống Đa Xưa - Trầm Vân
Bức Thư Viết Năm 2070 - Vô Cùng Ý Nghĩa
Tiết Lộ Tính Cách Qua Độ Dài Đốt Ngón Tay Út
Niềm Vui Ngày Mồng Hai Tết - Đỗ Công Luận
"Ly Rượu Mừng / Xuân Miền Nam"
Tết Trên Xứ Người - Người Phương Nam
Cờ Vàng Trong Trái Tim Tôi - Destiny Nguyễn
Chờ Xuân - Chúc Anh
Chúc Mừng Năm Mới Ất Mùi - Trầm Vân
Triết Lý Sống Đáng Suy Ngẫm Từ Những Loài Cây Kiên...
Khai Bút Đầu Năm Ất Mùi - Trầm Vân
Chúc Mừng Năm Mới - Minh Lương
Chiều Ba Mươi Tết Đăm Chiêu - Đỗ Công Luận
CHUYỆN ĐÀN ÔNG - Ngân Uyển
Chuyện Đời Thường
Encore Pour Rire - Thêm Chuyện Để Cười
Tổng Hợp Những Thiệp Chúc Tết Từ Thân Hữu Trên Diễ...
Những Người "Gom" Tết Trên Bãi Rác
Xuân Nhớ Trường Xưa - Trầm Vân
Hai Mươi Chín Tết Chợ Trưa - Đỗ Công Luận
Hãy chúc nhau “Hapy New Year” - Đừng Chúc "Sống Lâ...
Đầu Năm Ăn Món "Thăng Hoa Phát Lộc"
CSVN Sẽ Tách Khỏi Quỹ Đạo Trung Cộng – Thế Giới Ở ...
Khúc Tình Xuân Hát Miên Man - Đỗ Công Luận
Thiệp Chúc Tết Từ Người Phương Nam
Khai Bút Đầu Năm - Hoài Hương
Định Nghĩa Tình Yêu - Đỗ Công Luận
Hổ Phụ Sinh Hổ Tử
Vang Bóng Xuân Xưa - Trầm Vân
Lời Khuyên Đầu Năm: BỚT Và ĐƯỢC
Ông Và Cháu - Đỗ Công Luận
Dùng Thuốc Bổ Cho Người Cao Tuổi
Cung Buồn Thứ 4 - Tác giả Đông Hải
Đá Mòn Nhưng Dạ Chẳng Mòn - Tiểu Tử
Cuộc Chiến Giành Quyền Lãnh Đạo Thế Giới - Lữ Gian...
Sân Ga - Trầm Vân
Xuân Và Tết Trong Nhạc Việt Nam - NC_Lê Hoàng ...
Em Đi Chùa Hương - Remix
Tôn Trọng Cuộc Sống Riêng Tư Của Con Cái - Lâm Chi...
Lời Chúc Valentine - Như Nguyệt
Nguồn Gốc Valentine Có Từ Việt Nam Xa Xưa !!!
Chỉ Có Ở Việt Nam
Chúc Xuân Ất Mùi - Trầm Vân
Nguyên Đán - Hoài Hương
Lợi Ích Sức Khỏe Bất Ngờ Từ Bia (Theo ĐSPL)
Niệm Khúc Cuối Cho Đời - Đỗ Công Luận
Kỳ Quan VN
3 Cách Đối Nhân Xử Thế Giúp Bạn Sống An Vui
Lục Bát Tình Nhân và Ảnh Động Valentine Day
Anh Yêu, - Chúc Anh
Soi Ngón Áp Út Biết Tính Cách và Tương Lai Của Bạn...
Thời Điểm Để Nhìn Rõ Đảng Cộng Sản - Nguyễn Gia Ki...
Em Đã Yêu - Thơ Hồng Thúy - Đỗ Quân - Lâm Dung - D...
Vợ Chồng Già Và Ngày Lễ Tình Yêu Saint Valentine -...
Vì Sao Việt Nam Không Có Vietnam Town? - BS Hồ Hải...
23 Điều Vô Lý Chỉ Có Ở Việt Nam - Triết Học Đường ...
Táo Quân Trình Tấu Ngọc Hòang - Đỗ Công Luận
Thang Hai Vọng Tưởng - Trầm Vân
Điều Tôi Muốn Biết
Sự Thật Mất Lòng Nhưng Vẫn Phải Nói
Mùi Hương Bồ Kết - Trầm Vân
Gừng Ngâm Dấm
Thương Sao Vị Ngọt Tết Quê Hương - Đỗ Công Luận
Những Màn Liệu Pháp Mát-Xa Thót Tim Nhất Thế Giới
► January (143)
► 2014 (1228)
► 2013 (466)
Total Pageviews
Sparkline 3811048
Friday, February 6, 2015
Phân Biệt Mật Ong Thật Giả - Hỏi và Đáp - GS Hùynh Chiếu Đẳng
Thưa quý vị, đây là bài viết của giáo sư Hùynh Chiếu Đẳng. Xin giữ y nguyên màu mực original
From: Dong Danh Nguyen [mailto:nguyendrhrgda nh@gmail.com]
Sent: Thursday, February 5, 2015 3:36 AM
To: Dang Huynh Chieu
Subject: Honey?
Anh Ðẳng kính mến.
Lâu lắm rồi anh có viết bài về mật ong và sửa ong chúa, xin hỏi anh có cách nào để thử biết mật ong thiệt giả?.
Trên Net có người chỉ là dùng cọng hành lá nhúng vào mật, nếu cọng hành héo đó là mật ong thật, hoặc cho hủ mật vô ngăn freezer nếu mật không đặc, đó là thật v.v.
Anh có kinh nghiệm về vấn đề này hay không, xin vui lòng hướng dẫn.
Cám ơn anh và kính chúc sức khoẻ.
Danh.
HCD: Thưa câu hỏi của anh Danh rất hay, email dài rồi, hẹn email tới sẽ có đôi lời phân giải. Sở dĩ anh Danh hỏi tôi là vì ảnh biết có thời tôi nuôi ong mật tài tử. Trong số các bạn đọc email na62ymay ra chỉ được nam ba người trong nghề nuôi ong. Có lần tôi viết về ong và sữa ong chúa, còn trong quán ven đường.
Nhắc quí bạn hai điều:
1. Không cho trẻ con ăn mật ong dù thât hay giả (tôi không dùng chữ tuyệt đối đâu, nhưng đừng có cho trẻ em nhỏ ăn)
2. Mật ong chẳng phải là thần dược, chẳng phải là tiên dược, cũng chẳng phải là chất siêu thực phẩm. Nó chỉ là đường dù là mật ong thật.
Trước tiên tôi trình các bạn bản phân chất mật ong, kế đó là phân biệt thật và giả. Bài rất dài, các bạn không có liên hệ xin delete cho rồi.
Ghi hờ: Thấy thì nói, nói sai các bạn rán chịu, các bạn không tin cũng rán chịu luôn (tôi ghét chữ ráng của hiện giờ).
Dưới đây là bản phân tách thành phần của 100grams mật ong. Tôi mang nó so sánh với trái đu đủ (tình cờ) để các bạn thấy đu đủ bổ hơn. Dù so với bất cứ trái nào như bưởi, ổi, mít, cốc chi cho đi nữa thì mật ong vẫn đứng hạng chót.
Và dưới đây là thành phần 100grams đu đủ
Nếu chúng ta phân tách xa hơn thì mật ong cũng thua:
Bản so sánh amino acid, tức protein của mật ong và đu đủ.
Phân biệt mật ong thật và giả: Câu trước tiên tôi muốn nói là không có cách chi biết chắc đó là mật ong giả tại nhà. Người ta bày nhiều cách, từ huyền thoại tới thực tế, nhưng không có cách nào chính xác 100%
1. Cách thử khá hữu hiệu là đổ vài muổng mât ong vào ly nước: nhìn cách nó tan mà phân biệt. Tiếc thay mật giả pha với sirop (hay caramel nhẹ) cũng có kiểu hòa tan y như mật thật.
Cách thử huyền thoại là bỏ mật ong thật và giả lên chỏ có kiến, kiến bu là mật giả, không đúng, kiến thích đường, thật giả gì cũng bu, trừ mật ong Trung Cộng và Viêt Nam.
Nhểu một vài giọt mật ong lên tờ giấy xốp lau tay lau mặt, nếu có vết lan ra sau một lúc là mật giả (nước bị hút ra ngoài trước), mật thiệt không lan nhiều.
Nhưng, lại cái nhưng khó chịu, mật thật mà còn non (chưa tráng sáp) thì cũng lan ra. Còn mật giả pha với sirop (caramel non) thì cũng không tan.
2. Cách thứ hai là nhúng gòn vào mật ong rồi đốt:
mật giả đốt không cháy và nghe tiếng nổ nho nhỏ
Mật thật đốt cháy.
Một lần nữa, cũng không chắc ăn 100% đâu.
Cách thử huyền thoại, không đúng, là nhểu mật ong thành dòng mảnh nhỏ xuống cái dĩa. nếu vòng quay ngược kim đồng hồ thì là thật, vòng mât nhỏ xuống dĩa quay theo kim đồng hồ là giả.
Lập lại: Còn nhiều cách khác, nhưng không cách nào hữu hiệu chắc ăn hết. tùy cách pha chế mà mật ong giả, nên có khi nó qua được cái test tại nhà như kể trên.
Sau khi đổ xăng, ông Minh lên xe lái về nhà. Đi được một đoạn, ông nghe thấy tiếng kim khí chạm vào xi măng rồi tiếng loong coong tiếp theo. Đang chạy trên đường phố nhiều xe, ông không ngừng lại để coi xem vật gì rơi. Một thoáng nghĩ, ông đoán đó là chiếc nắp bình xăng để trên mui xe đã rơi mất tiêu. Lại quên rồi. Ông tự nhủ, với một chút chán nản.
Về đến nhà, ông ngần ngại một lúc rồi than vãn với bà vợ là hồi này mình già nên hay quên quá, và kể cho vợ nghe mất cái nắp bình xăng.
Vợ mỉm cười, nói: Đây đâu có phải là lần đầu mà ông lo. Ông nhớ khi gia đình mình lái xe về quê cách đây mấy năm, ông quên đến hai lần. Và phải mua nắp khác thay vào.
Cô con gái đứng gần đó, chêm vào: Bố ơi, bố có nhớ hồi xưa khi bố còn đi làm, đã bao nhiêu lần trước khi ra khỏi nhà, bố cứ kiếm cặp kính đọc sách của bố, trong khi bố gài nó trên mái tóc. Lúc đó bố đâu đã ở tuổi này.
Ngồi nghĩ lại, ông Minh thấy bà vợ và con gái nói cũng đúng. Đã nhiều lần, cách đây cả chục năm, lâu lâu ông cũng không biết để chìa khóa xe ở đâu, đi chợ bảo mua vài món đồ rồi cũng quên một món, chứ đâu có phải chỉ từ ngày ông về hưu ở tuổi 60 mới hay quên. Vậy mà mỗi khi nghĩ đến cái tuổi đó, ông cũng mang một thoáng suy tư.
Bước vào cái tuổi mà khi mình làm cái gì không giống ai thì thiên hạ cứ bảo ông bà ấy già rồi.
Gặp người bạn xa vắng đã lâu, mình có vui miệng nói ít nhiều câu chuyện thì người phối ngẫu lại nhắc khéo để mình ngưng bớt lại, kẻo nói dài dòng, phiền lòng người nghe.
Đau nhức xương cánh tay và đầu gối, kể lể với bác sĩ thì được trả lời: cụ ơi, cụ già rồi thì nó vậy đó, không sao đâu; hoặc tối ngủ hay thức giấc nửa khuya, không ngủ lại được thì lương y cũng bảo người già thường hay bị bệnh như vậy.
Trăm dâu đổ đầu tằm, cái gì cũng đổ tại già.
Riêng cái vụ “hay quên” thì vô số người, ngay cả bác sĩ đôi khi cũng phán rằng già thì nó lão suy, nói trước quên sau. Và có người cứ canh cánh sợ là già thì sẽ rơi vào tình trạng “lú lẫn, sa sút trí tuệ”.
Mà nói đến bệnh sa sút trí tuệ thì cũng đáng e ngại thật. Một thăm dò ý kiến tại Mỹ coi xem con người sợ gì nhất. Sợ đau tim, ung thư, mù lòa, rớt máy bay, nghèo túng, hoặc thả vào chuồng cọp... Mỗi người có mỗi mối sợ khác nhau, nhưng lo sợ nhất vẫn là mất trí nhớ, lú lẫn, rồi chẳng biết mình là ai, ở đâu, quên ăn quên ngủ, phụ thuộc hoàn toàn vào gia đình.
Có người bảo, quên như vậy càng sướng chứ sao. Chẳng phải lo nghĩ, chẳng cần để ý tới chuyện đời.
Nhưng, một lão bà vừa mới chôn cất chồng, mà về nhà liên tục kêu tên ông, tìm kiếm ông hết phòng này qua phòng khác. Đôi khi hiểu rõ trắng đen thì vật vã khóc than. Sự việc kéo dài suốt mấy năm trường, cho tới khi bà tạ thế. Bà đã ở trong tình trạng mất trí, lú lẫn. Và như vậy thì sướng nỗi gì!
Trở lại với chuyện hay quên thì cũng có nhiều lý do.
-Một độc giả hỏi thăm là có ông chú 70 tuổi hay bị quên tên người này người khác và ông cụ phải nhờ mọi người nhắc dùm. Khi không thỏa mãn thì ông trở nên hung hăng, đập phá, khó thở, phải uống viên thuốc an thần mới dịu xuống.
Hỏi kỹ thì được biết ông đã bị tai biến não, và cơn suy tim. Sở dĩ ông hay quên vì huyết lên não giảm. Mà huyết giảm thì thiếu nuôi dưỡng, tế bào thần kinh kém hoạt động, và ông ta không nhớ tên người, đồng thời tính tình trở thành bất thường, đôi khi hoang tưởng.
-Một lão bà than phiền không biết để cặp kính đọc sách báo ở đâu; vào phòng tắm rồi không biết để làm gì; mới nghe một câu chuyện mà nửa giờ sau đã quên; bạn bè than phiền bà hẹn tới chơi rồi không tới. Vì quên.... Bà hỏi có thuốc gì phục hồi trí nhớ cho bà.
Lấy thêm chi tiết thì được biết chồng bà mới mất cách đây nửa năm, rồi bà quá thương tiếc mà không ăn không ngủ được, buồn chán chẳng thiết làm gì, ngay cả những thú vui khi trước.
Bà được thầy thuốc cho uống thuốc chữa bệnh trầm cảm mấy tuần lễ thì tình trạng hay quên thuyên giảm. Bà đã bị bệnh sầu não, buồn phiền vì mất người chồng thân yêu.
-Dùng nhiều dược phẩm cũng là rủi ro của kém trí nhớ. do tác dụng phụ của thuốc.
Thuốc lợi tiểu để trị cao huyết áp là một thí dụ. Thuốc làm giảm muối và nước trong máu, hóa chất trong cơ thể thay đổi. Nếu liều lượng quá cao thì huyết áp xuống quá thấp. Não bộ người già rất nhậy cảm với những thay đổi này, sẽ trở nên kém hoạt động về ghi nhớ và tập trung. Và hay quên.
Thuốc an thần, thuốc ngủ cũng ảnh hưởng tới trí nhớ. Cho nên thầy thuốc cần lưu ý ở điểm này và bệnh nhân cũng cần cho thầy thuốc hay mọi khác thường xẩy ra khi dùng thuốc.
-Một vài bệnh kinh niên cũng ảnh hưởng tới trí nhớ.
-Sau nhiều ngày đằng vân giá vũ du thuyết liên lục địa, về đến nhà được ít ngày thì nhà chính khách thấy trong người mỏi mệt, không tập trung tư tưởng được, hay quên và có khó khăn trong giải quyết công việc thường lệ. Nhiều khi nhân viên thấy ông ngồi thẫn thờ như người mất hồn, đi đứng không vững. Thầy thuốc cho là ông bị căng thẳng thần kinh, vì làm việc quá sức. Và đề nghị ông đi nghỉ dưỡng sức.
Ông làm theo nhưng khó khăn vẫn không bớt.
Một hôm ông té xỉu, đưa vào bệnh viện cấp cứu. Bác sĩ khám bệnh và phát giác nhịp tim ông rất thấp và không đều. Một máy điều hòa nhịp tim được gắn cho ông và ông trở lại bình thường. Ấy là do ông có bệnh tim mà không hay.
Hay quên trong những trường hợp kể trên đâu có phải là vì tuổi hạc, tuổi cao. Nhưng nếu được xác định là bị bệnh Alzheimer, sa sút trí tuệ, lú lẫn thì quả là bệnh của một số người tuổi cao, người già. Vì thống kê cho hay, 4% người cao tuổi có thể bị bệnh nàỵ.
Trong bệnh Alzheimer, não bộ bị thoái hóa, hóa chất não suy giảm, máu huyết nuôi não cũng ít đi, mà nguyên nhân chưa được tìm ra. Hậu quả của các thay đổi này đưa tới một căn bệnh của thế kỷ. Bác sĩ Lewis Thomas, Khoa Trưởng Đại Học Y Yale coi đây là một bệnh xấu xa nhất trong các bệnh.
Bệnh không những tàn phá bệnh nhân mà còn gây hậu quả tai hại cho gia đình, bạn bè người bệnh. Nó bắt đầu với sự mất khả năng học hỏi, tính toán, suy nghĩ để rồi đưa đến sự khép kín hoàn toàn về tâm trí. Bệnh nhân tiếp tục sống không hồn cho tới ngày nào đó một bội nhiễm sưng phổi, những suy nhược tổng quát giải thoát cho họ.
Kết luận
Óc ghi nhận dữ kiện như một cái máy thu âm, bộ phận hải mã như là một cái nút kiểm soát. Bình thường, nút bấm này tắt, và chỉ mở để ghi khi nào dữ kiện được coi là quan trọng.
Một dữ kiện không quan trọng thường lởn vởn trong đầu một lúc rồi tan biến đi. Cho nên nếu ta có quên tên một người nào đó trong tiệc cưới cũng là chuyện bình thường, giống như là lâu lâu ta quên, không biết chìa khóa xe, chìa khóa nhà để ở đâu.
Nhưng lái xe đi làm mỗi ngày trên cùng con đường mà lạc lối; quên những hẹn quan trọng; kể đi kể lại cùng câu chuyện trong một cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với bạn bè, thì là điều đáng ngại.
Những thắc mắc, lo âu, tự hỏi: Ta già rồi chăng? Hay ta đang mắc chứng não suy trầm trọng?
Liệu trí nhớ có bỏ ta ra đi như những con chuột tìm đường chạy trốn khỏi con tầu sắp chìm đắm dưới biển cả mênh mông!
Làm Sao Quên Được Ngày Quốc Hận? - Huỳnh Quốc Bình
Làm Sao Quên Được Ngày Quốc Hận? - Huỳnh Quốc Bình
LTG: Nhân thời điểm 30-4 năm nay, tôi xin quảng bá lại những ý tình liên quan đến đến ngày đen tối ấy mà tôi từng đề cập bàn bạc trước đây, để kính tặng đồng bào tôi, đặc biệt các bậc trưởng thượng, bậc đàn anh là những người đã từng hy sinh tuổi thanh xuân, xương máu, trong cuộc chiến đấu bảo vệ nền tự chủ cho miền Nam đến 30-4-75; và cuối cùng tiếp tục chiến đấu đến khi vào tù, để cho người khác đủ thì giờ lên phi cơ, xuống tàu di tản ra hải ngoại lánh nạn VC.
Bài viết này tôi cũng muốn đặc biệt tâm tình với quý linh mục, mục sư, giáo sĩ Việt Nam và cấp lãnh đạo những nơi được gọi là “Hội Thánh”. Nhân tiện tôi cũng muốn đặt câu hỏi với những con dân Chúa là: Chúng ta nên tuân phục một chính quyền thật sự vì dân như Kinh Thánh đã dạy, hay lại nghe lời giảng dạy của thành phần “giáo quyền” gồm những tay sợ VC hơn sợ Thiên Chúa, rồi muốn người khác cũng giống mình là tiếp tục cúi đầu tuân phục bọn côn đồ VC đã và đang cướp của, giết người và bán nước hại dân tại Việt Nam ngày nay?
Bài viết này cũng để nói rằng, không một tên cướp hay đảng cướp nào lại muốn mọi người nhớ mãi những hình ảnh đau thương, tang tóc mà bọn chúng tạo ra cho những nạn nhân của chúng. Đảng cướp VC cũng vậy, chúng rất muốn người dân miền Nam Việt Nam chóng quên đi ngày “Quốc Hận 30-4” để chúng an tâm tiếp tục đè đầu, cởi cổ những người thấp cổ, bé miệng đang nằm trong sự kiềm kẹp của chúng. Để làm được việc đó, chúng có cả khối đứa muối mặt ăn lương chế độ để viết bài ru ngủ những người nhẹ dạ.
Theo tôi, muốn thắng VC, muốn ngăn chận tội ác… người ta phải sử dụng cái đầu khôn ngoan, chứ không chỉ bằng những lời cầu nguyện suông, hoặc những câu nói thiêng liêng nửa vời, hay những lời chửi đổng, hoặc dựa vào bằng cấp tiến sĩ, bác sĩ, hoặc kỹ sư… là được. Và để thắng VC, những ai nhận mình là người Quốc Gia, không thể lâu lâu “trồi lên yêu nước” một lần hay vài lần trong một năm, hoặc chỉ duy nhất vào ngày Quốc Hận 30-4, còn những ngày tháng khác thì nghỉ khỏe, không làm gì cả. (HQB)
***
Đối với người Việt Quốc Gia, ngày 30-4-75 là một ngày đau thương, ngày miền Nam Việt Nam bị quân cộng sản Bắc Việt thôn tính trọn vẹn, ngày mà cả hai miền Nam Bắc hoàn toàn rơi vào ách thống trị bạo tàn của những kẻ vô thần. Tại hải ngoại, hằng năm, người Việt khắp nơi tổ chức ngày 30-4 trong tinh thần “Quốc Hận 30-4” để tưởng niệm biến cố lịch sử đau thương của dân tộc, hoặc tổ chức ngày “Quốc Hận Đối Kháng 30-4” để lên tiếng tranh đấu chống lại những bất công và sự đàn áp người dân một cách thô bạo và tội buôn dân bán nước mà chế độ VC áp đặt lên đất nước Việt Nam suốt 43 năm qua, nếu chỉ lấy móc điểm ngày 30-4-75.
Nói với người Tin Lành Việt Nam: Trong các sinh hoạt có tính cách đấu tranh, sinh hoạt cộng đồng, người ta thấy hầu hết những người nhận mình là “Đạo Tin Lành” thường không muốn tham dự vì ngại dính dấp đến chính trị. Đây cũng là sự chọn lựa rất bình thường trong phạm vi sinh hoạt tự do, dân chủ. Thế nhưng, những người phản ứng như thế cũng đều biết là: Nếu xét đến bổn phận căn bản của một người công dân bình thường, thì dù là ai, cũng phải làm tròn trách nhiệm của mình đối với quê hương, dân tộc trên trần gian này. Là một Cơ Đốc Nhân, tôi biết trong Thánh Kinh có dạy: Con dân Chúa là phải tuân phục những chính quyền biết lo cho hạnh phúc người dân, kính kẻ đáng kính, phục kẻ đáng phục (Rô-ma 13); phải lên tiếng bênh vực cho những người thấp cổ bé miệng (Châm-ngôn 31:8-9); kẻ nào làm chứng dối, nói tốt cho kẻ ác sẽ bị dân tộc rủa sả và gớm ghiếc, còn ai quở trách kẻ ác sẽ được đẹp lòng Chúa và phước hạnh sẽ giáng lên người đó (Châm-ngôn 24: 24-25); kẻ biết điều lành mà chẳng làm là phạm tội (Gia-cơ 4:17). “Ðừng sợ kẻ giết thân thể mà không giết được linh hồn..” (Ma-thi-ơ 10:28). Ngoài ra, tôi cũng biết rằng Chúa Jesus khi còn ở trần gian, Ngài từng cầu nguyện với Đức Chúa Trời rằng: “Con chẳng cầu Cha cất họ ra khỏi thế gian, nhưng con xin Cha gìn giữ họ cho khỏi điều ác” (Giăng 17:15)
Căn cứ vào những gì tôi đề cập, vậy thì câu hỏi được đặt ra cho người Tin Lành, là vào những ngày mọi người tưởng niệm Quốc Hận 30-4 thì Cơ Đốc Nhân phải phản ứng thế nào? Đây là một câu hỏi khá hóc búa liên quan đến một vấn đề hết sức gai gốc mà hàng giáo phẩm Tin Lành thường không muốn nhắc đến. Nếu có nhắc, cũng chỉ trong tinh thần khuyên mọi người nên tìm cách lãng quên, tha thứ cho kẻ thù; phải có tình yêu thương; phải nhịn nhục, nhân từ; người cộng sản cũng cần được cứu ra khỏi tội lỗi… Đây là những lời dạy đã được chép bàng bạc trong Thánh Kinh. Thế nhưng, thiết nghĩ chúng ta cũng cần áp dụng đúng đối tượng, đúng lúc và đúng nơi, chứ không thể nói chung chung hay nói một chiều.
Chúng ta không thể nói hay dạy người khác những điều mà chính chúng ta không bao giờ áp dụng vào đời sống của mình, hoặc có khi còn làm ngược lại. Câu nói “người Tin Lành không làm chính trị…” chỉ là câu nói khôn ngoan của một số vị trong hàng lãnh đạo Tin Lành ngày xưa đã phản ứng khi khước từ hợp tác với Hồ Chí Minh và đảng VC mời gọi góp phần áp đặt chủ nghĩa cộng sản lên đất nước Việt Nam lúc bấy giờ, chứ không phải đây là những lời bất di bất dịch của Thánh Kinh để chúng ta dựa vào đó mà né tránh trách nhiệm.
Ý nghĩa của sự tha thứ: Trước khi chúng ta đi sâu vào những điều có liên quan đến tiêu đề của bài viết. Chúng ta thử tìm hiểu ý nghĩa đích thực của hai chữ “tha thứ” để chúng ta thấy rõ những gì mình đang quan tâm. Trọn bộ Thánh Kinh, hai chữ “tha thứ” được nhắc đến ít nhất là 43 lần trong 37 trường hợp khác nhau. Ý nghĩa tha thứ trong Thánh Kinh được đề cập về sự tha thứ mà Thiên Chúa dành cho con người, và chính con người dành cho nhau. Tôi xin nói ngay: Tha thứ tức là bỏ qua chứ không phải vì khiếp nhược mà không dám nhắc đến, hoặc dung dưỡng những điều sai trái bằng những mỹ từ: tình yêu thương, lòng nhịn nhục, nhân từ, hay lấy câu Kinh Thánh “khôn như rắn, đơn sơ như chim bồ câu” để làm cái vỏ bọc cho sự né tránh trách nhiệm bằng lối giả hình mà Chúa Cứu Thế Jesus từng lên án những tập đoàn thầy thông giáo của Do Thái ngày xưa. Liên quan đến ý nghĩa “tha thứ”, Kinh thánh chép: “Hãy ở với nhau cách nhơn từ, đầy dẫy lòng thương xót, tha thứ nhau như Đức Chúa Trời đã tha thứ anh em trong Đấng Christ vậy. (Ê-phê-sô 4:32)
Những lời giảng dạy lạc điệu: Chúng ta thường nghe giảng dạy trong các Nhà Thờ là “hãy quên và tha thứ”, nhưng thực chất thì những ganh ghét, đố kỵ không phải hiếm thấy từ những người dạy ra điều đó tại các nhà thờ. Chúng ta cũng thường nghe một số người chủ trương và kêu gọi “quên quá khứ, xoá bỏ hận thù” nhưng cảnh người dân vô tội bị chế độ VC đàn áp cũng không hề thuyên giảm bên cạnh những tiếng kêu lạc điệu về những chủ trương nghe có vẻ hài hoà, đạo đức nửa vời này. Người ta tìm cách bao che tội lỗi của những kẻ gây ra bao nhiêu tội ác tại Việt Nam rằng: “kẻ thù của dân tộc Việt Nam là nạn nghèo đói và lạc hậu” và người ta kêu gọi chất xám hải ngoại về giúp nước, thế nhưng người ta không đủ công bằng và liêm sỉ để nhìn nhận nguyên nhân nào đã gây ra nạn nghèo đói và lạc hậu tại Việt Nam? Chính đảng cướp VC đã gây ra tình trạng tàn tệ đó.
Đừng bẻ cong lời Chúa: Chúa Cứu Thế Jesus từng khuyến cáo các môn đệ của Ngài rằng: “Các ngươi hãy giữ lấy mình. Nếu anh em ngươi đã phạm tội, hãy quở trách họ; và nếu họ ăn năn, thì hãy tha thứ. (Lu-ca 17:3). Áp dụng cách tha thứ, chúng ta thấy Chúa Cứu Thế Jesus dạy chúng ta là: Hãy giữ lấy chính bản thân mình, đừng phạm tội. Nếu biết anh em nào đã phạm tội, hãy quở trách họ, (Biết chắc và có bằng chứng là họ phạm tội, chứ không phải nghe những lời đồn đãi vu vơ) nếu người phạm tội biết ăn năn, thì hãy tha thứ. Ăn năn phải được hiểu là biết lỗi của mình và tỏ ra thống hối, từ bỏ những sai trái và quay lại với điều ngay, lẽ phải, chứ không phải chỉ “ăn năn” bằng cái miệng, còn hành động gian ác thì không chịu ngừng nghỉ. Chúa không dạy chúng ta là cứ làm tội, rồi sử dụng quyền lực, vây cánh để chểm chệ xét tội người khác. Chúa dạy đối với kẻ gây ra tội ác, phải lên tiếng tố cáo, quở trách họ. Và nếu những người phạm tội thật lòng ăn năn thì chúng ta mới tha thứ, chứ Chúa không dạy tha thứ cho những kẻ ngoan cố, hay dạy chúng ta ngu khờ trước sự gian manh của những con cáo già đội lốt cừu non.
Theo tôi, thay vì kêu gọi “quên và tha thứ” một cách chung chung, chúng ta cần tìm cách giúp đỡ nạn nhân của các loại tội ác, có một cuộc sống ổn định để bù đắp lại những ngày khốn nạn mà họ từng trải qua. Thay vì kêu gọi “quên quá khứ, xoá bỏ hận thù”, chúng ta cần tiếp tay để chấm dứt các tội ác, bất công, tàn bạo, được chế độ VC tiếp tục áp đặt lên những người dân vô tội. Nếu chúng ta không làm được những điều đó, mà chỉ biết hùng hồn dạy mọi người phải “quên và tha thứ” một cách thiếu thực tế, là đạo đức giả, là trốn tránh trách nhiệm, là lừa dối chính mình. Chỉ kêu gọi “quên quá khứ, xoá bỏ hận thù” mà không dám ngăn chận những nghịch lý đã và đang xảy ra tại Việt Nam là bất công, là dung dưỡng tội ác, là chiêu bài của những kẻ gian manh, là lối nguỵ biện của những kẻ mơ hồ về chủ nghĩa cộng sản, là hành động dối trá, chứ không phải đạo đức.
Những kỷ niệm không thể quên: Trong cuộc đời của mỗi chúng ta, ngoài những kỷ niệm đẹp, ai cũng có những kỷ niệm buồn không quên được. Người ta gọi đó là dấu ấn sâu đậm trong cuộc đời. Có người thời thơ ấu vì bị ngược đãi, hoặc chứng kiến cảnh tượng hãi hùng, đến khi về già vẫn còn nhớ như in trong trí, và mỗi khi gặp cảnh tương tự như thế thì tinh thần bị chấn động.
Có người lúc còn trẻ dại bị người lớn nhồi nhét vào đầu những hình ảnh tiêu cực không đúng sự thật, liên quan đến đấng sanh thành mà mình không được gần gũi. Khi lớn lên, dù nạn nhân có đủ bằng chứng là những gì mình biết trước đó là sai sự thật, nhưng vẫn không làm sao bôi xoá những điều đáng quên đã in đậm trong tâm trí của nạn nhân… Đó là lý do tại sao, trong ngành sư phạm người ta khuyến cáo các bậc thầy cô phải tránh tối đa để không vô ý viết sai trên bảng, trên sách, dù sau đó được lập tức sửa lại. Trong phạm vi gia đình, có những người con bị cha mẹ, anh em ruồng bỏ, hoặc những bậc cha mẹ bị các con đối xử tệ bạc… Dù họ tìm cách bỏ qua, không trách hờn, cố lãng quên, nhưng không dễ gì phai nhoà những hình ảnh phũ phàng mà họ từng chứng kiến. Trong tình yêu, có người bị người tình, người phối ngẫu phản bội, dù không chủ trương thù hằn, nhưng mỗi khi có ai vô tình hay cố ý nhắc đến, thì lòng họ quặn đau… Văn chương Việt Nam gọi đó là “vết thương lòng”. Trong sinh hoạt chính trị, xã hội, có người bị các chế độ độc tài đàn áp, giam cầm, tra tấn một cách vô cớ nhiều năm tháng, đến khi được tự do, dù không chủ trương báo oán những kẻ từng hành hạ mình, nhưng hễ có ai nhắc đến chuyện cũ là lòng căm phẫn của họ sống dậy…. Đây là phản ứng hết sức bình thường từ những con người bình thường ở trần gian này.
Làm sao có thể quên?: Một con người còn liêm sỉ và lòng tự trọng không thể quên được hình ảnh thân nhân của mình bị mang ra đấu tố, chôn sống trong cái gọi là cải cách ruộng đất năm 1954 tại miền Bắc, hoặc bị quân VC tàn sát trong biến cố tết Mậu Thân 1968. Làm sao mà quên được những năm tháng dài, bị hành hạ, bị tra tấn, bị đối xử như một con vật trong các nhà tù mà chế độ VC gọi là trại “cải tạo”. Làm sao mà quên được khi con em, chồng cha của họ bị giam cầm hằng chục năm trong tù, hay phải gục ngã ở những vùng rừng thiêng nước độc, trong khi nhà cửa bị tịch thu, tài sản bị chế độ VC cướp giựt một cách công khai, khiến cho họ phải sống lê la trên vỉa hè hay những vùng kinh tế mới dành cho những người của “chế độ cũ”.
Những người đàn bà Việt Nam có chồng bị tù, phải nuôi cha mẹ mình, cha mẹ chồng và đàn con dại, chịu những bất công ngược đãi của công an khu vực; sự tàn bạo, nhẫn tâm của những tên cai tù tại các trại giam chồng của họ, thì làm sao mà quên được? Làm sao những phụ nữ Việt Nam yếu đuối có thể quên được cảnh bị hải tặc Thái Lan hãm hiếp trên đường vượt biên, vượt biển, vì không thể tiếp tục sống với chế độ VC độc tài? Làm sao những người con gái thời xuân sắc phải bấm bụng bán thân để nuôi đàn em nhỏ dại đang cần được no lòng khi cha mẹ bị cầm tù, có thể quên được những quá khứ tủi nhục đó? Làm sao những người được trưởng thành trong đau khổ, từng bị ngược đãi, khinh miệt, có thể quên được quá khứ đau thương của họ?
Tôi xin phép lạc đề một chút: Truyện danh nhân Trung Hoa có nhắc đến nhân vật Câu Tiễn trong điển tích “nằm gai nếm mật”. Nhân vật Câu Tiễn có mối thù chung của đất nước cần phải trả. Vì ông sợ mình hài lòng với địa vị và cuộc sống sung túc mà ông đang có, rồi ngày qua ngày lại quên đi “nợ nước, thù nhà” nên ông đã tự khắt khe với chính bản thân mình bằng cách ngày nào cũng vậy; trước khi ăn ông nếm mật đắng, khi ngủ thì nằm trên đống củi gai để dặn lòng mình không quên mối thù chung…
Tôi nhắc đến câu truyện của Câu Tiễn và thành ngữ “nằm gai nếm mật” không phải để kêu gọi người khác nuôi lòng hận thù, hay trả hận theo lẽ thông thường, nhưng tôi xin mọi người đừng vội quên tội ác của VC. Bằng chứng cho thấy, có nhiều người từng bị VC giam cầm tra tấn trong tù, từng làm nhục họ, từng cướp giật tài sản của họ và làm cho gia đình họ ly tán v.v… Nhưng khi được sống đời tự do, cơm no áo ấm, có chút địa vị hay danh hảo tại xứ người… Thì họ lại quên tội ác của VC ngày xưa và nay. Có người còn muối mặt quay về Việt Nam móc ngoặc là ăn với kẻ thù VC qua nhiều vỏ bọc khác nhau. Họ ngang nhiên ngồi chung bàn, ăn chung mâm với phường gian ác. Tại hải ngoại, có kẻ còn nhậu nhẹt với bọn VC, Việt gian, nhưng lúc nào cũng trân tráo hô hào chống cộng và “đấu tranh cho một Việt Nam tự do dân chủ” để lừa những người “không thích chuyện chính trị” hay thích được an thân và luôn làm thinh trước điều quấy.
Trí thức và thiêng liêng: Có kẻ nhận mình là “trí thức”, thích sử dụng ngòi bút của mình để bênh vực VC và Việt gian và còn có lời lẽ hay hành động xúc phạm Cờ Vàng, biểu tượng của người Quốc Gia chân chính. Thành phần này còn lên giọng thầy đời là khuyên người khác hãy “thức thời”; hoặc có nhận xét thiếu công bằng khi đồng hoá những bài viết mà bọn VC hay bọn tay sai của chúng chửi rủa những người Quốc Gia một cách tàn độc và bẩn thỉu, với những bài viết do người tử tế tố cáo tội ác VC và Việt gian, rồi cho rằng “người Quốc Gia chửi nhau”… Tôi cũng nhắc lại câu truyện này để muốn nói rằng: Người Việt Nam tỵ nạn VC cần xét lại vị trí của mình. Chúng ta là người tỵ nạn VC chứ không phải là thành phần “xấu xa” trong xã hội bỏ nước ra đi như bọn VC từng nhục mạ chúng ta. Chúng ta tìm cách vượt thoát khỏi Việt Nam là vì không thể sống chung với bọn VC gian ác. Xin đừng ai thờ ơ trước tình trạng của đất nước Việt Nam ngày nay. Xin đừng ai cố tình làm lu mờ ý nghĩa của ngày Quốc Hận 30-4. Xin đừng ai quên Tháng Tư Đen của đất nước Việt Nam vào năm 1975. Xin đừng ai xem việc tưởng niệm ngày đau thương của dân tộc là “làm chính trị”. Xin đừng ai thiêng liêng nửa vời để rồi tự mình đánh mất quê hương trần gian, mà Quê Hương Trên Trời cũng không vào được, chỉ vì bản chất đạo đức giả thay thiêng liêng nửa vời của mình.
Trở lại tiêu đề của bài viết: Chẳng những chúng ta không quên những đau thương mà người khác tạo ra, nhưng còn phải nhớ để dặn chính mình đừng bao giờ phạm những điều ấy. Nhắc đến những tội ác không phải để thù hằn, nhưng để giúp mọi người hiểu rõ sự thật và để thế hệ mai sau biết mà tránh. Cơ Đốc Nhân phải góp phần ngăn chận tội ác bằng những lời cầu nguyện và những hành động cụ thể. Cơ Đốc Nhân không thể hối lộ kẻ gian để được yên thân còn ai chết mặc ai. Cơ Đốc Nhân không thể làm chứng dối về những điều “thật nhưng không thật”, về những ưu đãi mà kẻ gian dành cho mình để mờ mắt người nhẹ dạ, che đậy những tội ác mà họ đối với anh em mình, với đồng bào mình. Cơ Đốc Nhân không cường điệu trong lời làm chứng, hay làm cho người khác hiểu sai giữa kịch tính, và ơn phước thật của Chúa…
Kết luận: Ngày nào những bất công còn, chúng ta còn nói đến những điều đó. Ngày nào nhà thờ, thánh đường, chùa chiền, thánh thất còn bị đóng cửa, bị cào sập, con dân Chúa hay đồng bào còn bị VC đàn áp thì ngày đó chúng ta còn kêu gọi thế giới can thiệp. Ngày nào đồng bào Việt Nam chúng ta còn sống trong cảnh đói nghèo và lạc hậu hoặc bị bỏ tù vì bày tỏ lòng yêu nước thì ngày đó chúng ta còn tranh đấu và còn nhớ đến tội ác của VC… nhưng không phải để thù hằn như đã nói. Chúng ta không nhớ để rủa sả, hay nhớ bằng cử chỉ hít hà, tắc lưởi theo kiểu giả hình, nhưng nhớ để góp phần chấm dứt những khổ đau tại Việt Nam. Vậy thì, nếu đồng bào ta, anh em ta vẫn còn bị chế độ VC đoạ đày thì chúng ta sẽ không “làm sao quên được”? Bằng mọi cách, chúng ta phải nhắc cho thế hệ con cháu chúng ta biết rõ ngày “Quốc Hận 30-4” là gì? Và tại sao chúng ta cần ghi nhớ ngày tang thương đó.
Việt Nam đang trở thành thiên đường của tự do. Đây là nơi mà một người có thể tự do đâm chết bạn gái trước sự chứng kiến của cảnh sát. Đây là nơi học sinh không chỉ được tự do đánh nhau mà có thể đánh thầy. Đây là nơi người ta có thể tự do cưỡng hiếp trẻ em mà không bị vào tù…
Khi đi chợ, bạn tùy ý mua bất cứ gì bạn thích và người bán thì tự do bơm bất kỳ gì vào thực phẩm mà không bao giờ sợ bị “quản lý thị trường” phạt. Khi vào bệnh viện, bạn được tự do nằm ở bất cứ nơi nào có thể, từ gầm giường đến hành lang. Con của bạn cũng được tự do biến thành “vật thí nghiệm” cho các loại vắcxin gây chết người mà chẳng ai chịu trách nhiệm. Trong thế giới tự do này, ý thức trách nhiệm được thả bay bổng tự do hoàn toàn. Ở Việt Nam, trẻ đến tuổi đến trường vẫn có thể được tự do nghỉ học đi bán vé số. Khi đi học, con của bạn được tự do chửi thề, tự do đánh nhau; thầy cô cũng được quyền tự do tra tấn hành hung con bạn. Nếu không thích những điều đó, bạn có toàn quyền tự do chuyển sang trường khác, miễn bạn có đủ tiền để “chạy”. Không chỉ chạy trường, bạn cũng có thể chạy điểm mà không bao giờ lo danh tánh bạn hoặc con bạn bị tiết lộ. Chạy chức còn tự do làm được thì chạy trường hoặc chạy điểm chẳng phải là chuyện lớn.
Ở Việt Nam, bạn có thể ăn thoải mái thú rừng và tự do chặt phá rừng. Các công ty cũng tự do gây ô nhiễm nguồn nước hoặc môi trường nói chung mà chẳng hề bị sờ gáy. Việt Nam tự do mở cửa đón rước những “nhà thầu bẩn” và tự do nhập rác thải của thế giới. Ở các thành phố lớn, bạn được tự do hít bụi những ngày nắng và tự do “bơi” trên đường phố ngập lụt vào những ngày mưa. Cũng ở vài thành phố lớn, bạn được tự do xả rác nhưng muốn gom rác thì phải xin phép chính quyền. Bạn có thể ngủ nghỉ bất cứ nơi nào trên đất nước này nhưng chính quyền cũng có quyền tự do tước mất mảnh đất cắm dùi của bạn. Bạn có thể đi lại bất cứ nơi nào bạn muốn trên đất nước này nhưng chính quyền cũng có quyền tự do tịch thu thông hành của bạn, trong khi viên chức cấp cao tham nhũng được tự do trốn đi nước ngoài. Khi con bạn bị đánh, bạn có thể khuyên nó nên hành xử tử tế bằng cách “trình báo” ban giám hiệu nhưng khi chính bạn bị công an đánh thì bạn biết bạn sẽ đối mặt với thái độ “tự do im lặng” của nhà cầm quyền. Ở đất nước này, bạn cũng có quyền tự do hối lộ, tự do lo lót, tự do chạy án, tự do đấm mõm những kẻ hùng hồn luôn to mồm nói về “sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”. Ở Việt Nam, một tên đảng viên can tội sàm sỡ trẻ con vẫn được bao che bằng những ngôn từ như thể đó là “quyền tự do riêng tư”.
Ở Việt Nam, bạn có thể bị lên án vì “nói nhiều”, bởi “nói thế để làm gì” nhưng sau đó người ta lại than thở “xã hội ngày càng vô cảm”. Ở Việt Nam, người ta không thích bạn “chửi” chính quyền nhưng người ta quên rằng chính quyền là nguồn gốc của nhiều thứ bất công. Dù thế nào, Việt Nam vẫn là thiên đường tự do. Ở Việt Nam, người dân được tự do chỉ trích quan chức nhưng công an cũng tự do bắt tù bất kỳ ai. Chính quyền cũng được quyền tự do nói bất kỳ gì mà họ thích dù đôi khi họ không hiểu họ nói gì, trong khi người dân luôn hiểu điều gì khiến mình trở nên giận dữ. Việt Nam cũng là quốc gia hiếm hoi mà người bị bắt tự do chết trong đồn cảnh sát. Ở Việt Nam, người ta có thể tự do tư túi hàng triệu đôla vẫn không hề hấn gì trong khi bạn có thể gặp rắc rối với chính quyền vì bị gán tội nhận “300.000 đồng” để “đi biểu tình”. Trên đất nước này, giang hồ được tự do thay mặt chính quyền làm “công tác xã hội”. Chính quyền đôi khi cũng tự do đóng vai “đầu gấu”, trong các vụ cưỡng chế đất đai, trong các vụ trấn át người biểu tình, trong các vụ dàn cảnh đánh người tại các điểm BOT giao thông…
Ở Việt Nam, truyền thông luôn được tự do. Báo chí và truyền hình được quyền tự do phát tán văn hóa khiêu dâm. Ở Việt Nam, bạn có thể tự do làm bất kỳ công việc gì, miễn đừng làm nhà dân chủ, nhà đấu tranh hoặc thậm chí nhà bảo vệ môi trường. Bạn được tự do tranh cử Quốc hội nhưng hãy tỉnh táo nhận ra thực tế rằng đó là một quyền tự do chỉ tồn tại trên lý thuyết. Ở đất nước này, bạn được tự do “mở” chùa chiền nhưng bạn hãy cân nhắc “biên độ tự do” nếu có ý định lập một diễn đàn xã hội dân sự chỉ để phụng sự nhu cầu khai trí. Nói về “biên độ tự do”, những kẻ thuộc hệ thống Đảng được hưởng nhiều tự do hơn hết. Họ được tự do tàn phá trong khi người dân được tự do hứng chịu.
Việt Nam và “hạn mức” tự do của nó đã phát triển đến mức cao nhất? Chưa. Còn nhiều “loại” tự do chưa xuất hiện. Sẽ có những “thứ” tự do gây bất ngờ hơn. Có nhiều khái niệm tự do méo mó khác đang trong quá trình định hình. Sự hỗn loạn chưa kết thúc. Đạo đức, cùng nhiều giá trị khác, tiếp tục rơi tự do. Chẳng có “lực ma sát” nào để giảm đà rơi tự do này, khi mà các giá trị căn bản trong giáo dục con người đã bị mài đến mức mòn nhẵn. Đất nước đang “hưởng” nhiều tự do. Nhưng là một sự tự do tật nguyền.
Nhiều người nhạy cảm với vị cay, một số khác ăn cay từ nhỏ nên hình thành thói quen này.
Khảo sát năm 2017 của tiến sĩ Kalsec cho thấy đến 90% người Mỹ thích ăn đồ cay nóng. Thực phẩm cay ngày càng tăng để đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng, tuy nhiên gây ra các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng.
Khi ăn đồ cay, chứng ợ nóng xảy ra do axit dạ dày trào ngược vào ống thức ăn, gây cảm giác nóng rát ở ngực. Một số loại ớt cay, cà ri... tác động mạnh hơn cả. Nhiều loại thực phẩm cay nóng có chứa hợp chất capsaicin, làm chậm lại quá trình tiêu hóa. Khi đó, thức ăn cay ở trong dạ dày lâu hơn, kích thích nước bọt và dịch dạ dày, làm tăng nguy cơ ợ nóng, gây khó chịu. Nguy hiểm hơn còn có thể viêm dạ dày.
Muốn giảm tác dụng của capaicin, bạn có thể uống sữa, ăn bánh mì, bơ gạo. Trên thực tế, bất kỳ món ăn từ sữa kết hợp với thực phẩm cay có thể làm dịu mát khẩu vị. Nước uống không giúp làm mất tác dụng của gia vị cay như nhiều người vẫn nghĩ. Ngược lại, nó còn làm lây lan các phân tử ớt trong miệng.
Bác sĩ da liễu ở La Grange Park cho biết, thành phần cay còn là chất gây kích ứng da nghiêm trọng. Sau khi ăn cay, nhiệt độ cơ thể tăng lên và kích thích tuyến mồ hôi tiết ra, khiến da đổ dầu nhiều hơn. Bụi bẩn và vi khuẩn dễ bám lại trên dầu ở da gây mụn, thậm chí là tạo thành vết chàm.
Các nghiên cứu cũng cho thấy ăn cay gây chứng hôi miệng. Khi bạn ợ nóng, thức ăn trong dạ dày trào ngược lên thực quản, điều này có thể gây ra mùi hôi phát ra từ miệng. Một số trường hợp dây thanh âm bị viêm, khiến bạn khàn giọng. Đặc biệt khi bạn vừa ăn cay đã nằm ngủ, các axit trong dạ dày trào ngược trở lại, đốt cháy niêm mạc thực quản gây khó ngủ.
Một số nghiên cứu phát hiện thực phẩm cay có thể hạn chế sự thèm ăn. Với một số người muốn giảm cân, đây có thể là một cách hữu hiệu. Tuy nhiên, các nhà khoa học không ủng hộ ăn cay hàng ngày, bởi nó làm mất cảm giác ngon miệng và có thể khiến sự chán ăn trở thành vấn đề nghiêm trọng.
Trên thế giới, nhiều trường hợp đã được ghi nhận tử vong vì ăn quá nhiều ớt ma, loại ớt cay nhất thế giới.
Tại sao mọi người lại thích ăn cay?
Bất chấp tất cả, nhiều người thực sự thích đồ ăn cay, họ có thể chịu đựng được sự cay nóng hơn những người khác gấp nhiều lần. Tiến sĩ Maya Feller giải thích, cơ thể mỗi người có sự nhận thức cảm tính khác nhau. Ăn thức ăn có độ cay khác nhau dựa trên chỉ số nhiệt vị giác cá nhân. Một số người cực kỳ nhạy cảm với khẩu vị này. Một số người có xu hướng tăng dần cấp độ cay của mình lên.
Kèm theo đó, ảnh hưởng văn hóa cũng đóng một vai trò quan trọng. Nhiều người có cơ hội tiếp cận và thưởng thức những thực phẩm cay nóng thường xuyên từ khi còn trẻ, nên sớm hình thành thói quen ăn cay. Nghiên cứu cho thấy chỉ số vị giác cay được hình thành ngay từ khi còn trong bụng mẹ, biểu hiện bằng việc mẹ bầu ăn cay khi đang mang thai và cho con bú, từ đó trẻ nhỏ và trẻ sơ sinh bị ảnh hưởng.
Học Thuyết: Cứ Ăn Đi Rồi Uống Thuốc - FB Chu Mộng Long
Học Thuyết: Cứ Ăn Đi Rồi Uống Thuốc - FB Chu Mộng Long
Giám đốc Bệnh viện Nhiệt đới trung ương rồi đến lượt Bí thư tỉnh ủy Bắc Ninh tuyên bố:
1) Sán lợn không có gì nguy hiểm. Đã có phác đồ và thuốc điều trị sán lợn.
2) Không phải ai ăn lợn gạo đều nhiễm sán lợn. Số người ăn lợn gạo bị nhiễm sán lợn luôn ở “tỉ lệ cho phép”.
3) Suy ra, mọi người cứ ăn lợn gạo đi rồi đến bệnh viện xét nghiệm và điều trị.
Với tam đoạn luận trên, tôi khẳng định đó là một học thuyết, học thuyết “cứ ăn đi rồi uống thuốc”. Bởi vì với cách suy luận đó, một là nó có cơ sở lý luận vững chắc, hai là có tính hệ thống nhất quán rút ra từ kinh nghiệm thực tiễn.
Nhưng ai sẽ là người giữ bản quyền cái học thuyết này?
Tôi khẳng định, không phải ông Giám đốc Bệnh viện Nhiệt đới trung ương, cũng không phải ông Bí thư tỉnh ủy Bắc Ninh.
Thời tôi còn trẻ con, những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội với mô hình hợp tác xã bất hủ, học thuyết này đã thịnh hành. Đói khát triền miên, đám trẻ con chúng tôi chỉ được ăn một bữa thịt no vào ngày 30 Tết cúng tất niên hoặc trong ngày làng cúng Thanh minh.
Thời ấy, hợp tác xã chỉ cho phép mỗi gia đình nuôi một con heo để ăn Tết. Nuôi từ con thứ hai trở lên là hợp tác xã mậu dịch thu mua để bán lại cho dân. Hợp tác xã ưu tiên bán thịt ngon cho cán bộ, gia đình có công, các gia đình bình thường thì phải xếp hàng và may mắn thì chỉ mua được thứ thịt bầy nhầy thải ra.
Một lần mẹ tôi mua được vài lạng thịt bầy nhầy, về nhà phát hiện đó là lợn gạo, mẹ tôi định vứt. Bác tôi, cán bộ tập kết, cản lại, bảo đừng tư duy theo lối tư sản, cứ ăn đi rồi uống thuốc. Vậy là bác mang về nhà bác mà ăn. Sau đó cả nhà bác mặt ai cũng nổi u trắng vằn vện trông gớm chết…
Nói thêm, thời ấy, các loại bò dịch, heo dịch, gà dịch đều không có chuyện tiêu hủy như sau này. Cứ ăn rồi uống thuốc. Học thuyết này ăn sâu vào trong từng gia đình, từng người, kể cả những gia đình sang chảnh bị quy là đầu óc tư sản. Đói thì tư sản cũng phải bò ra ăn bẩn mà không cần mất công nhà nước cải tạo.
Tôi vẫn còn ám ảnh mỗi năm vào dịp Tết, nhà làm con heo. Chiều ba mươi lấy cái đầu và nọng heo, một ít máu heo làm tiết canh. Cúng tất niên xong, lũ trẻ chúng tôi ngồi bóc thịt, da và xương ra gặm. Cả năm đói và thèm thịt, cứ thế ăn tộ vào đến cứng bụng.
Mẹ bảo coi chừng bội thực rồi ỉa chảy đấy. Nhưng bố bảo “cứ ăn đi rồi uống thuốc”. Bố tôi ảnh hưởng bác tôi lúc nào không biết. Mà không ảnh hưởng không được, vì đói quá. Thế là rạng sáng mồng một cả nhà vác đít chạy ra đồng. Chạy không kịp thì bắn ra quần hoặc bắn ngay trong vườn. Một ngày chạy đến vài ba lượt.
Mà không chỉ nhà tôi. Cả làng chạy như chạy giặc. Quanh nhà, quanh làng bấy giờ bốc mùi chua chua thủm thủm… trong tỉ lệ cho phép. Uống thuốc gì nhỉ? Đơn giản là mấy cây ổi bị vặt trụi lá. Cứ vơ lá ổi non lẫn ổi già nhai ngấu nghiến và nuốt. Sau một ngày, không biết nhờ lá ổi hay nhờ chạy nhiều lần đến rỗng ruột mà hết chảy.
Làng tôi có tục lệ cúng Thanh minh vào tháng ba. Làng có con bò già hay đau bệnh gì đó là bán cho đội xẻ thịt để cúng cô hồn. Sáng người lớn đi tảo mấy cái mộ vô chủ, trưa thì dọn mâm ra cúng và tụ tập cả làng ở sân kho đội để ăn. Bọn trẻ chúng tôi tờ mờ sáng đã đến sân kho để xem mấy ông chọc tiết bò và xẻ thịt. Hãi nhất là khi chọc tiết bò, khi con bò bị dao đâm vào cổ, nó rống lên, máu nó phụt ra tung tóe, có mấy ông thi nhau hứng và uống máu sống. Khung cảnh không khác thổ dân làm hội ăn thề chiến tranh. Họ bảo cách uống máu tươi sống này rất bổ.
Bây giờ hình dung lại, nếu là bò bệnh thì sao? Thì có lẽ vẫn theo học thuyết “cứ ăn đi rồi uống thuốc”! Thiên đường xã hội chủ nghĩa thuốc gì chẳng có? Cứ bước ra vườn hay ra bãi là có thuốc. Từ cỏ cây cho đến đất cát đều thành thuốc. Đến mức bị ghẻ lở và ủ dòi (quê tôi gọi là chùm bao) bọn Tây từng bó tay, dân ta cũng có thuốc đặc trị. Cứ cho chó liếm hay rịt đất vào đó lâu dần đến lúc nếu không chết thì cũng khỏi!
Bây giờ thì nói chuyện trẻ con chúng tôi ăn Thanh minh. Không có mâm bát gì cả, trừ mâm dành cho các quan đội và hợp tác xã được dọn riêng. Cả làng ngồi bệt xuống đất. Trước mặt là một dãy dài lót toàn lá chuối. Thịt bò nấu với chuối cây thái nhỏ. Độn thật nhiều chuối cây vào mới đủ cho cả làng ăn. Sau khi gõ kẻng ba hồi chín tiếng, cả làng già trẻ gái trai ngồi xổm vào “mâm”, nhiều đứa trẻ quần rách đáy chim lòng thòng, bướm tô hô. Cứ thế thi nhau bốc ăn.
Lựa thịt bốc ăn trước. Thường cuối cùng chỉ còn lại toàn chuối, ngốn thịt hết rồi mới thi nhau ngốn đến chuối. Thịt bò già, toàn gân, nhai trệu trạo rồi lo nuốt nhanh vì sợ hết phần. Nhiều đứa nuốt vội quá, miếng thịt nhùng nhoằng nuốt lỡ nửa trong nửa ngoài cuống họng buộc phải kéo ra rồi nhai lại. Bây giờ nghĩ lại thấy gớm chết chứ hồi đó là bình thường. Những miếng thịt nuốt vào rồi kéo ra nhùng nhoằng, nhễ nhại rớt dãi mà vẫn bỏ vào mồm nhai lại ngon ơ. Có khi miếng thịt do rớt dãi nhơn nhớt mà bị tuột tay rơi xuống đất vẫn phải bốc lên phủi phủi đất cát rồi ăn vì tiếc.
Chết sao sống vậy. Cô hồn cả năm làm ma đói nay được bữa no thì dân cũng được bữa no.
Hiển nhiên, cuộc cúng cô hồn nào cũng để lại hậu quả là cả làng làm quân Tào Tháo… trong tỉ lệ cho phép. Nhưng không sao, “cứ ăn rồi uống thuốc”. Đất Bình Định nhờ những cuộc ra quân theo binh pháp Tào Tháo mà đẻ ra thứ thuốc đặc hiệu Berberin làm vang danh xứ nẫu.
Thời đó, dân chết đói thì ít, nhưng chết vì dịch bệnh thì nhiều, nhưng vẫn nằm trong tỉ lệ cho phép.
Tóm lại, học thuyết “cứ ăn rồi uống thuốc” là sáng tạo vĩ đại của người bình dân vô học trong hoàn cảnh đói khát. Bây giờ khi lên làm giám đốc một bệnh viện lớn trung ương như Bệnh viện Nhiệt đới và làm bí thư một tỉnh có truyền thống văn hóa lâu đời như tỉnh Bắc Ninh, mấy ông này quyết tâm bảo tồn và phát triển học thuyết này để đảm bảo tính truyền thống và tính hiện đại của nó. Đó là học thuyết rất ích nước lợi dân, ít ra là có lợi cho thị trường ẩm thực và có lợi cho ngành y tế, kể cả ngành bán quan tài và dịch vụ tang lễ.
Chuyện tôi kể là sự thật 100%. Không phải huyền thoại. Nhưng là một đại tự sự, một học thuyết đang thống trị, bắt đầu từ sáng tạo của người bình dân vô học rồi lây nhiễm sang não của những kẻ tai to mặt lớn.
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.