Nhiều người có thể cho rằng thu nhập bất chính sẽ không bị đánh thuế, nhưng thực tế ở Mỹ hoàn toàn ngược lại.
Việc truy tố tội phạm về tội Trốn thuế là điều phổ biến tại Mỹ. Tuy nhiên từng có thời điểm đây lại là sáng kiến mới mẻ của lực lượng chấp pháp trong cuộc đấu tranh chống tội phạm. Nguồn gốc của "công cụ pháp lư" này xuất phát từ án lệ United States v. Sullivan của ṭa tối cao liên bang vào năm 1927.
Trong thập niên 1920 của thời kỳ cấm rượu, những ông trùm buôn rượu lậu dường như ở vào thế bất khả xâm phạm. Chúng không thể bị khởi tố về tội Giết người hoặc tội danh nghiêm trọng khác v́ không có người dám ra làm chứng. Điều tra viên cũng không thể chứng minh các ông trùm có dính líu tới hoạt động kinh doanh bất hợp pháp v́ chúng không đề tên trên hợp đồng hoặc giấy tờ quan trọng.
Lúc này, Mabel Walker Willebrandt, phó tổng chưởng lư liên bang, để ư thấy rằng những tên trùm buôn rượu lậu thường sống xa hoa lộ liễu, dấu hiệu của thu nhập bất chính, nhưng không bao giờ nộp đơn khai báo thuế thu nhập. Nếu vậy, việc truy tố về tội Trốn thuế có thể sẽ dễ hơn việc trực tiếp truy tố tội vi phạm lệnh cấm rượu, giết người, và các tội danh liên quan tới buôn rượu lậu.
Cách này cho phép Willebrandt không cần người làm chứng về việc gây án cụ thể mà vẫn có thể truy tố thành công tội phạm.
Mabel Walker Willebrandt. Ảnh: Library of Congress.
Willebrandt thử chiến thuật mới với Manley Sullivan, kẻ buôn rượu lậu tại bang South Carolina. Việc truy tố ban đầu thành công tại ṭa sơ thẩm nhưng bản án trốn thuế thu nhập bị kháng cáo lên ṭa phúc thẩm liên bang.
Tại ṭa, luật sư của Sullivan lập luận rằng việc khai báo thu nhập bất chính với cơ quan thuế sẽ vi phạm vào quyền không phải tự làm chứng chống lại chính ḿnh vốn được quy định trong Hiến pháp Mỹ. Ngoài ra, luật sư c̣n cho rằng việc chính quyền lấy một phần trong khoản thu nhập bất chính cũng tương đương hành vi tiếp tay cho tội phạm. Lập luận này thuyết phục được ṭa phúc thẩm, dẫn tới việc bản án bị hủy.
Nhưng niềm vui mừng của ông trùm Sullivan không kéo dài lâu v́ bản án sau đó đă được ṭa tối cao liên bang giữ nguyên hiệu lực vào ngày 16/5/1927. Ṭa tối cao nhận định theo câu chữ của luật thuế hiện hành, người dân phải khai báo thu nhập từ "mọi hoạt động kinh doanh" bất kể tính hợp pháp. "Không có lư ǵ để cho rằng hoạt động kinh doanh phi pháp sẽ được miễn thuế v́ thu nhập từ hoạt động ấy vẫn sẽ chịu thuế nếu hợp pháp", thẩm phán Oliver Holmes viết.
Ṭa cũng bác bỏ lập luận Sullivan không phải làm chứng chống lại chính ḿnh v́ nếu không muốn khai báo, ông ta có thể để trống mục nguồn gốc thu nhập nhưng không được từ chối nộp đơn khai báo thuế.
Phán quyết của ṭa tối cao liên bang đă trở thành công cụ quan trọng giúp truy tố và hạ bệ thành công nhiều tên trùm tội phạm khét tiếng của thời bấy giờ, trong đó có Al Capone. Năm 1994, Aldrich Ames, kẻ bán tài liệu mật của Mỹ, bị kết án về tội Trốn thuế v́ không khai báo khoản tiền hai triệu USD có được từ việc gây án. Ames cũng cố kháng cáo dựa trên quyền không phải tự làm chứng chống lại chính ḿnh nhưng không thành công.
Cho tới nay, quy định số 17 của Sở Thuế vụ Mỹ vẫn quy định người dân phải tiết lộ thu nhập phi pháp trong đơn khai báo, như tiền có được từ việc buôn ma túy trái phép.