Các nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu mất ḷng tin tại địa điểm nhiều hứa hẹn này giữa lúc cải cách vẫn c̣n quá chậm chạp và tham nhũng vẫn tiếp tục gia tăng.
Điều ǵ đó đă bị chệnh hướng tại Việt Nam. Việt Nam không c̣n là nơi lư tưởng đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Trong ba năm liên tiếp, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại nước này đă không đạt được mục tiêu đề ra và các bộ trưởng tại đây đánh giá rằng chính phủ hiện trong t́nh trạng rất lo lắng. Nếu tiếp tục sụt giảm, họ sợ rằng việc này sẽ tác động xấu đến tăng trưởng kinh tế, và nếu tăng trưởng kinh tế chao đảo th́ các nhà đầu tư có thể trở nên do dự.
Việc này tạo thành một ṿng luẩn quẩn, và nếu bị rơi vào t́nh trạng đó th́ Việt Nam không thể đổ lỗi cho ai khác ngoài bản thân họ. Việt Nam nghĩ rằng họ đặc biệt bởi v́ quá khứ của họ, và thế giới sẽ ve văn họ bất chấp chuyện ǵ xảy ra. Nhưng kinh doanh th́ không bao giờ chờ đợi quá lâu, nếu bạn không sẵn sàng th́ các nhà đầu tư sẽ t́m những đồng cỏ xanh tươi khác. Đó là chính xác những ǵ đang xảy ra trong trường hợp của Việt Nam. Trong khi Việt Nam đang kéo đôi chân của ḿnh trong việc thúc đẩy hoặc nâng cấp cải cách th́ các đối thủ cạnh tranh cũ của họ cũng đang sửa đổi các hành vi cần thiết để qua mặt và những đối thủ mới đang đến để phân chia cổ phần trên thị trường.
Không phải là các nhà đầu tư nước ngoài không tiếp tục vào Việt Nam nhưng những cam kết mới chắc chắn sẽ chậm lại giữa lúc những dự án cũ vẫn c̣n đóng băng. Năm ngoái, ngược với mục tiêu 15-17 tỷ USD, cam kết FDI mới đă giảm 13 tỷ USD, ít hơn dự kiến 14,7 tỉ USD so với một năm trước đó. Xa hơn nữa, cam kết này thậm chí c̣n ít hơn nhiều so với 18,1 tỷ USD trong năm 2010. Theo Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD), ngay cả ở giá trị hối đoái hiện nay, ḍng vốn FDI đổ vào Miến Điện đă tăng 90% và Cambodia gia tăng 104,3% trong năm ngoái so với năm trước đó. Tất nhiên, cả hai nước này vẫn c̣n đứng phía sau Việt Nam, nhưng vấn đề chính là tỷ lệ tăng trưởng và sự gia tăng hồi năm ngoái tại Myanmar đă lên đến 100% trong năm 2011.
Nhật Bản là nhà đầu tư lớn nhất của Việt Nam, cho đến nay đă đăng kư 1.859 dự án với cam kết tổng số tiền đầu tư lên đến 29 tỷ USD. Nhưng hiện nay họ đang quan tâm nhiều hơn trong việc mở rộng đầu tư đến các quốc gia khác như Miến Điện, In-đô-nê-xi-a và Ma-lay-xi-a, bởi v́ họ tin rằng, Việt Nam không c̣n sức cạnh tranh như những nước khác. Nền kinh tế ổn định, lạm phát được kiểm soát, hệ thống ngân hàng được tổ chức tốt hơn so với trước đây, nhưng những nỗ lực vẫn không “đủ tốt” và tham nhũng đang ngày càng gia tăng. Trong khi đó, có những vấn đề mà làm nhiều nhà đầu tư lo lắng như tăng lương, việc t́m kiếm nguyên liệu, thiếu hụt công nhân lành nghề, thủ tục hải quan phức tạp, và cơ sở hạ tầng không đầy đủ, trong đó điểm chính là chính phủ vẫn không có câu trả lời đáng tin cậy. Việt Nam thậm chí c̣n thiếu ngay cả các dịch vụ cơ bản như thu hồi đất đai và thanh toán bù trừ các địa điểm thực hiện dự án.
Trường hợp kỳ lạ của Tatas là một ví dụ tốt về những điều sai trái xảy ra tại Việt Nam. Năm năm trước, tháng Năm năm 2008, Tata Steel đă kư thỏa thuận với Tổng công ty Thép Việt Nam để xây dựng một nhà máy trị giá 5 tỷ USD, có công suất 4,5 triệu tấn một năm, nằm trong Khu kinh tế Vũng Áng thuộc tỉnh Hà Tĩnh. Năm năm sau, dự án vẫn c̣n đó mà phía Việt Nam không đưa ra được một địa điểm cụ thể nào, trong khi trước đó vị trí cũ đă được giao cho một đối thủ cạnh tranh khác.
Câu chuyện thực sự c̣n kỳ quái hơn. Tata cần khoảng 4.000 mẫu Anh [khoảng 1.619 hec] để xây nhà máy, trong đó chính quyền tỉnh ước tính sẽ cần khoảng 200 triệu USD để sẵn sàng cho việc xây dựng. Nhưng họ nói rằng họ không có tiền và muốn Tata trả số tiền ấy. Tất nhiên, Tata đă từ chối v́ theo quy định pháp luật của Việt Nam th́ việc giải phóng mặt bằng là công việc của chính phủ. Tata đă kư một bản ghi nhớ khác với Tổng công ty Thép Việt Nam để thiết lập một nhà máy cán nguội trong cùng một tỉnh. Cả hai dự án đă được phân chia thành giai đoạn cho hơn 10 năm. Tuy nhiên, mặc dù Việt Nam tiếp tục nói rằng họ muốn dự án đầu tư của Tata nhưng không ai biết những ǵ đang xảy ra với số phận của dự án này.
Việc sáp nhập và giải phóng mặt bằng các địa điểm là một trong những vấn đề lớn nhất làm chậm lại tốc độ FDI tại Việt Nam trong thời gian gần đây. Bên cạnh đó, có những câu hỏi lớn về tính minh bạch pháp lư và quyền sở hữu trí tuệ. Các nhà đầu tư muốn làm ăn trong một môi trường kinh doanh minh bạch, luật lệ rơ ràng về cách đối phó với các t́nh trạng phá sản, và các chính sách quyết định nhanh gọn. Họ c̣n hoài nghi về khuynh hướng ngày càng tăng của chính phủ đối với đầu tư vào mảng công nghệ cao ngay cả khi những yêu cầu cơ bản vẫn chưa được hoàn toàn đáp ứng. Các phương tiện truyền thông tại Việt Nam đă nhiều lần lên tiếng về tốc độ lập pháp chậm như sên rùa. Chính phủ không thể lúc nào cũng điều hành bằng các nghị định, và Quốc hội th́ thường rất hiếm khi hiểu về ư nghĩa cấp bách của những vấn đề này.
Điều này thật là không may, khi Châu Á vẫn là điểm đến yêu thích của các nhà đầu tư nước ngoài mặc dù kinh tế toàn cầu vẫn c̣n trong t́nh trạng suy thoái. Các con số từ UNCTAD cho thấy có tổng cộng 1,311 ngh́n tỷ USD vốn FDI toàn cầu (18,3% thấp hơn so với năm trước), trong đó các nền kinh tế đang phát triển đă thu hút 680 tỷ USD, và châu Á chiếm 399 tỷ USD trong tổng số nước đang phát triển. Quan trọng hơn, phần lớn tổng số vốn ở châu Á được đầu tư tại các nước Đông Á (213.1 tỷ USD, bao gồm 120 tỷ USD riêng tại Trung Quốc) và Đông Nam Á (106.5 tỷ USD). Trong trường hợp này, việc Việt Nam bị kéo chân lại là một điều lạ. Ai đó có thể nghĩ rằng Việt Nam sẽ lo lắng để bảo tồn những thành tích khởi đầu mà họ đạt được và cải thiện chúng trong khi đối mặt với các đối thủ cạnh tranh khác.