Vào trung tuần tháng 11/2011, Tổng thống Mỹ, Barack Obama, đă thực hiện một chuyên công du đến châu Á. Tại đây, ông tham dự hội nghị thượng đỉnh APEC ở Hawaii, hội nghị thượng đỉnh ASEAN, rồi với các nước Đông Nam A tại Bali (Inđônêxia).
Lịch tŕnh đặc biệt dày đặc trong chuyến đi này của Tổng thống Obama, theo đánh giá của giới quan sát, cho thấy đây không phải là một chuyến đi mang ư nghĩa kinh tế và hữu nghị đơn thuần với các nước trong vùng mà là biểu trưng cho việc tái xác lập lợi ích của Mỹ ở châu Á cũng như gia tăng sự ḱnh địch với Trung Quốc.
Nhà phân tích Nikolas Jucha của tạp chí “Phát thanh” gần đây cho rằng quăng thời gian đó tuy ngắn ngủi song cũng đủ để mối quan hệ Mỹ- Trung thu hút mọi sự chú ư của dư luận quốc tế, bộn bề giữa những bất đồng về tiền tệ liên quan đến vấn đề đồng nhân đân tệ và sự ḱnh địch địa chiến lược ngày càng rơ nét.
Một xu hướng đặc biệt rơ nét xuất hiện liên quan đến vấn đề đồng nhân dân tệ. Từ năm 2005, đồng tiền của Trung Quốc được định giá vào khoảng 18-20% so với đồng USD. Đây cũng là một sự định giá lại có ư nghĩa nhưng được cho là chưa đủ đối với Mỹ. Việc Mỹ không châp nhận mức chênh lệch đó trên thực tế thể hiện trong các tuyên bố chính thức của Nhà Trắng yêu cầu Trung Quốc phải tiếp tục có những nỗ lực theo hướng này.
Theo ông Philip Golub, chuyên gia về Mỹ thuộc trường Đại học Pari VIII (Pháp), mất cân đối thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc nảy sinh do đồng nhân dân tệ yếu, đối với Tổng thống Obama, là một việc nằm trong khuôn khổ chính sách đối nội. Điều chắc chắn là Tổng thống Obama tính toán đến cuộc bầu cử tổng thống vào năm 2012, khi ông thúc ép Bắc Kinh phải định giá lại đồng nhân dân tệ, đồng thời phải hành xử như một “nền kinh tế đă chín muồi” và “tôn trọng luật lệ” của cuộc chơi. Báo chí chính thức của Trung Quốc như vậy đă không nhầm khi cáo buộc Tổng thống Mỹ “có dụng ư lợi dụng bầu cử” khi ông công khai tấn công Bắc Kinh về vấn đề đồng nhân dân tệ. Nhưng đối với chuyên gia Philip Golub, đó là tất cả những ǵ mà Tổng thống Obama sẽ tiếp tục làm trong năm tới với cuộc bầu cử tổng thống.
Liên quan đến t́nh thế mới trong vùng châu Á-Thái B́nh Dương, Tổng thống Obama nói rơ rằng Mỹ đă kư hiệp định hợp tác quân sự với Ôxtrâylia. Việc “tái xác định vị thế” của Mỹ trong vùng, như chuyên gia Andrew Jones nhận định, chắc chắn xuất phát từ việc vùng châu Á-Thái B́nh Dương hiện nay là vùng năng động nhất thế giới về tăng trưởng kinh tế. Dự án trao đổi mậu dịch tự do của Mỹ đối với vùng này cũng nằm trong lôgích đó. Mỹ tận dụng các cuộc gặp cấp cao trong khuân khổ APEC, ASEAN và với các nước Đông Nam Á nói trên để nắm bắt cơ hội kinh tế, từ đó đưa ra một kế hoạch hợp tác kinh tế xuyên Thái B́nh Dương (TPP) có thể sẽ bao gồm 12 nước.
Đề xuất này khiến Trung Quốc lo ngại. Trong khi nước này hy vọng thành lập một khu trao đổi mậu dịch tự do “cấp vùng”, việc Oasinhtơn đưa ra những con bài của ḿnh ở vùng này không phải là để thúc đẩy kế hoạch của Bắc Kinh. Biện pháp này có thể nhằm ngăn chặn việc Bắc Kinh tiếp tục thực hiện chính sách bảo hộ tiền tệ và thương mại cũng như tiếp tục phớt lờ quyền sở hữu trí tuệ.
Nhưng chuyến đi châu Á của Tổng thống Obama không đơn thuần chỉ nhằm mục đích thúc ép Trung Quốc trong vấn đề đồng nhân dân tệ. Khi tham dự hội nghị cấp cao APEC ở Hawaii, ḥn đảo nơi ông sinh trưởng, Tổng thống Obama đă làm thay đổi t́nh thế khi ông công bố trọng tâm chiến lược của Mỹ sẽ được đưa trở lại châu Á-Thái B́nh Dương. Qua chuyến công du của Tổng thống Obama, Mỹ đă khẳng định quyết tâm tái xác lập lại lợi ích chiến lược của ḿnh: Châu Á và Thái B́nh Dương là một trọng tâm chiến lược cốt lơi cả trong lĩnh vực kinh tế (điểm tiếp nối tăng trưởng) lẫn trên phương diện chính trị (sự lớn mạnh của Trung Quốc).
Các hội nghị cấp cao APEC và ASEAN là nguyên nhân dẫn đến một số lo ngại về phía Trung Quốc. Vào một thời điểm nào đó, nước này dường như đă nắm được trong tay tất cả các con bài ở châu Á-Thái B́nh Dương. Trung Quốc đă hất chân Nhật Bản để đoạt lấy vị trí nền kinh tế thứ hai thế giới, mua chiếc tàu sân bay đầu tiên và trở thành cường quốc chính ở biển Nam Trung Hoa (Biển Đông), về phần ḿnh, Mỹ gây được sự chú ư bằng thái độ và lập trường trong vụ bán vũ khí cho Đài Loan.
Châu Á-Thái B́nh Dương là nơi nảy sinh nhiều vấn đề về an ninh. Thế giới đă thấy ư định tăng cường sức mạnh hải quân của Trung Quốc là như thế nào.
Cũng như cựu Tổng thống Georges.w.Bush trước đây, Tổng thống Obama cũng đă thấy được khả năng xoay xở của ḿnh trước Trung Quôc suy giảm do khó khăn kinh tế ở trong nước. T́nh thế đó buộc ông Obama một mặt phải tính tới dư luận và áp lực trong Quốc hội hiện nằm trong tay phái Cộng ḥa, mặt khác phải duy tŕ áp lực đối với Trung Quốc.
Đối với Oasinhtơn, vấn đề dường như là Mỹ muốn ngăn chặn tham vọng bá quyền của Trung Quốc trong vùng. Chính v́ vậy, người ta có thể hiểu việc Mỹ tái triển khai lực lượng quân sự ở Thái B́nh Dương. Theo chuyên gia Andrew Jones, phía Mỹ định tận dụng các mối lo ngại mà Trung Quốc gây ra cho các nước láng giềng (Việt Nam, Philíppin, Hàn Quốc, Nhật Bản, thậm chí cả Ôxtrâylia…) để xích lại gần hơn các nước này.
Trung Quốc lo ngại khi thấy ư đồ bá quyền của ḿnh bị cản trở. Trong khi phản ứng của Mỹ có thể được nh́n nhận như một hành động chiến thuật để ngăn cản sức mạnh đang lên của Trung Quốc th́ Bắc Kinh tức giận coi đó như một sự can thiệp vào công việc nội bộ của ḿnh. Để đáp trả lại các kế hoạch của Mỹ, Bắc Kinh cảnh báo sự can dự của Mỹ vào công việc trong vùng sẽ không phải là điều tốt lành cho các nước trong vùng và cũng không tốt cho chính nền kinh tế Mỹ.
Tuy nhiên, nhà phân tích Nikolas Jucha cho rằng trong mối quan hệ Mỹ-Trung, thời thế đă thay đổi ở vùng châu Á-Thái B́nh Dương. Chuyến công du của Tổng thống Obama là biểu tượng cho những vấn đề ưu tiên mới của Mỹ ở châu Á. Tất cả đều không có ǵ bất ngờ trừ một thứ: đó là Thái B́nh Dương đang trở thành một mối ưu tiên đối với Oasinhtơn vào thời điểm Bắc Kinh muốn biến đại dương đó thành chiếc ao nhà. Cũng có thể nói rằng gió đă đổi chiều ở vùng châu Á-Thái B́nh Dương và Trung Quốc không c̣n được tự do hành động như trước nữa.
Một quân át chủ bài khác của Mỹ trong cuộc chơi với Trung Quốc là Mianma. Bắc Kinh kêu gọi Mỹ và châu Âu chấm dứt trừng phạt đối với Mianma để thúc đẩy phát triển và ổn định trong vùng. Phản ứng này được đưa ra trong lúc Ngoại trưởng Mỹ, Hillary Clinton, đang ở thăm nước này. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc, Hồng Lỗi, nói rằng Trung Quốc hoan nghênh mối quan hệ giữa Mỹ và Mianma đang có vẻ “ấm lên” với biểu tượng là chuyến thăm của Ngoại trưởng Mỹ. Mianma và Trung Quốc đă phát triển mối quan hệ rất chặt chẽ, chủ yếu là do lệnh cấm vận của phương Tây đối với Mianma. Hồng Lỗi kêu gọi các nước có liên quan băi bỏ cấm vận chống Mianma nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự ổn định và phát triển.
T́nh h́nh chính trị ở Mianma có thay đổi trong thời gian gần đây, với quyền tự do đượe chính quyền mở rộng hơn. Việc trả lại tự do cho nhà hoạt động dân chủ Aung San Suu Kyi là một hành động theo hướng này. Đồng thời, mối quan hệ giữa Trung Quốc và Mianma cũng thay đổi. Năm 2011, Mianma đă ngừng dự án xây đập được Trung Quốc tài trợ khoảng 4 tỷ USD, mặc dù họ phụ thuộc vào đầu tư và hỗ trợ chính trị cũng như thương mại của Trung Quốc.
Theo nhà phân tích Nikolas Jucha, Bắc Kinh dường như sợ việc đến với Mianma trở thành phương tiện giúp Mỹ làm suy giảm ảnh hưởng của ḿnh trong vùng. “Thời báo hoàn cầu”, một tờ báo theo xu hướng dân tộc chủ nghĩa thường viết với giọng điệu hùng hổ, nói rằng Trung Quốc sẽ không chấp nhận lợi ích của ḿnh “bị chà đạp”, nhưng lại không thấy có vấn đề ǵ nếu Mianma cải thiện mối quan hệ với phương Tây.
Những tiến triển mới nhất trong t́nh h́nh ở châu Á-Thái B́nh Dương được đánh giá là thuận lợi cho ư định của Mỹ tăng cường sự có mặt và ảnh hưởng của ḿnh ở trong vùng. Mỹ cũng đang bắt đầu một chiến dịch tái lập vị thế chiến lược ở châu Á-Thái B́nh Dương và cũng vừa mới kư hiệp định quân sự với Ôxtrâylia. Nhiều nhà quan sát không ngần ngại nói rằng Mỹ đă bắt đầu “thực sự vào cuộc”.
Ước muốn của Lầu Năm Góc ở châu Á
Trong năm 2010, sau nhiều lần nhắc đi nhắc lại rằng Hải quân Mỹ cũng như các chiến dịch tuần tra và hoạt động của tàu chiến Mỹ không được hoan nghênh ở vùng Tây Thái B́nh Dương, Trung Quốc đang quan sát việc Mỹ tái bố trí lực lượng ở vùng này, dù không thực sự ngạc nhiên, song với vẻ khó chịu xen lẫn lo ngại. Trong lúc đó, Nhà Trắng vừa chính thức thông báo rút quân vĩnh viễn khỏi Irắc và theo kế hoạch sẽ rút quân khỏi Ápganixtan vào năm 2014.
Sự đảo chiều đó, được hỗ trợ bởi sức mạnh kinh tế và quân sự của Mỹ như chuyên gia Franoois Danjou phân tích trên tạp chí Trung Hoa ngày nay”, rơ ràng cho thấy nhăn quan mới trong hoạt động của Oasinhtơn tự cho ḿnh là ngọn cờ đầu của nhũng giá trị dân chủ và nhân quyền. Sáng kiến này của Mỹ một mặt cho thấy đây là một phản ứng mạnh về quân sự và an ninh, mặt khác tận dụng được bối cảnh thuận lợi khi t́nh h́nh xấu đi ở Đông Nam Á do những mưu đồ quá đáng của Trung Quốc ở biển Nam Trung Hoa (Biển Đông), gây ra.
Trước việc Mỹ tái khẳng định ḿnh vẫn là người chủ tṛ ở châu Á, Trung Quốc lúc này ở vào thế pḥng ngự, ra sức trấn an các đối tác của ḿnh trong ASEAN bằng những lời hứa hẹn đối thoại song phương liên quan đến các vùng tranh chấp và cả viễn cảnh can dự sâu rộng hơn về kinh tê. Sự can dự đó sẽ được thúc đẩy với việc đi vào thực hiện hiệp ước trao đổi mậu dịch tự do kư với các nước Đông Nam Á (vào tháng 1/2010 với 6 nước sáng lập ASEAN và vào thảng 1/2015 với Mianma, Việt Nam, Lào và Campuchia).
Trong thời gian tới, t́nh h́nh xấu đi xung quanh sự ḱnh địch giữa Mỹ và Trung Quốc có nguy cơ trở thành một cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa hai nước này để t́m kiếm đồng minh. Cuộc cạnh tranh này sẽ không có lợi cho sự phát triển hài ḥa trong vùng, đặc biệt và nhất là nếu xuất hiện mối đe dọa leo thang quân sự tự nhiên nhuốm màu chủ nghĩa dân tộc lo âu và có khả năng gây khó khăn về ngân sách và ổn định kinh tế của các bên có liên quan.
Cuộc tiến công của Mỹ, được phát động như để bác bỏ ư nghĩ cho rằng Mỹ đang suy tàn, được bắt đầu bằng một bài viết dài của Ngoại trưởng nước này, bà Hillary Clinton, trong số tháng 11/2011 của tạp chí “Foreign Affairs”. Bài viết này có nhan đề “Thế kỷ Thái B́nh Dương của Mỹ” (Americas Pacific Century) đă điểm qua những ư định cũng như phương thức hành động của Mỹ ở vùng này. Chi tiết về bức ảnh minh họa bài viết cho thấy một chiếc tàu chiến Mỹ đang vào cảng Đà Nằng của Việt Nam, không phải là không đáng quan tâm.
Nội dung bài biết cho thấy sự can dự của Oasinhtơn ở châu Á cũng giống như khi Mỹ can dự vào châu Âu sau chiển tranh và xác định các đối tác ưu đăi mới của Mỹ ngoài các đối tác cũ (Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Philíppin, Ôxtrâylia). Bà Hillary Clinton cũng nói đến Ấn Độ, nước được Mỹ coi là “ván cá cược chiến lược”, và Inđônêxia, nước được Mỹ đánh giá là “nền dân chủ thứ ba trên thế giới và nước đông dân nhất trong các nước Hồi giáo”, là những nước nằm trong sự lựa chọn của Mỹ. Theo bà Hillary Clinton, mục tiêu của Mỹ là xây dựng một mạng lưới đồng minh và thể chế phù hợp với lợi ích của nước Mỹ và có hiệu quả như mạng lưới hợp tác xuyên Đại Tây Dương.
Trong tổng thể các nước bạn bè của Mỹ, Trung Quốc được coi là một mối quan hệ bắt buộc “đặt ra những thách thức lớn nhất về chính sách đối ngoại chưa bao giờ được đặt ra với Oasinhtơn” và “phải được cải cách”. Quả thực là Ngoại trưởng Mỹ ngay sau đó nói thêm rằng “cái được mất ở Trung Quốc khiến không được để mối quan hệ này sa lầy”.
Bài viết cũng 7 lần – trung b́nh mỗi trang một lần – nêu lên vấn đề Biển Nam Trung Hoa và quyền tự do hảng hải ở vùng biển này cũng như mối đe dọa của việc thu thập các dữ liệu nhạy cảm bằng cách “thâm nhập qua mạng”.
Nh́n chung, dấu ấn quân phiệt trong bài viết là mạnh mẽ và nổi lên gần như qua từng đoạn văn, hoặc với việc nhắc đến các liên minh truyền thống, hoặc bằng cách nói đến việc phải hiện đại hóa các liên minh đó, trong một bối cảnh sức mạnh quân sự được xem như một trong các yếu tố chứa đựng những giá trị tổng ḥa: “Sức mạnh quân sự của chúng ta và sức mạnh của nền kinh tế chúng ta là những thế mạnh chắc chắn nhất để bảo vệ dân chủ và nhân quyền”. Cuối cùng, cuộc tiến công rất ngoạn mục ở chỗ gia tăng các góc độ tiếp cận mới, cộng với các dấu ấn cũ của Mỹ ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan và Philíppin.
Các góc độ tiếp cận nói trên thể hiện từ dự án thương mại “Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên B́nh Dương (TPP)” – trong đó loại trừ Trung Quốc do nước này không tôn trọng quy định về sự minh bạch kinh tế và dân chủ đển việc thiết lập căn cứ thủy quân lục chiến ở Ôxtrâylia và đưa tàu tuần tra đến đóng ở Xinhgapo, hay viện trợ kinh tế cho các nước vùng hạ lưu sông Mê Công (được khởi động năm 2009), một đối trọng với ảnh hưởng của Trung Quốc khi các kỹ sư của nước này bất chấp ư kiến của các nhà sinh thái và ngư dân ở vùng hạ lưu, tăng cường xây đập ở thượng lưu con sông này. Cuộc tiến công mới nhất là việc Oasinhtơn trở lại khu vực sân sau của Đông Dương với chính sách cởi mở về chính trị đối với Mianma, khu vườn cấm của Bắc Kinh.
Tất cả các cuộc tiến công nói trên được bổ sung bằng ư định duy tŕ một căn cứ quân sự ở Trung Á, ở bên sườn Tây của Trung Quốc, kể cả sau khi đă rút quân khỏi Apganixtan. Đây là chưa nói đến thương vụ bán 24 chiếc máy bay tiêm kích F-16 cho Inđônêxia, sau khi nước này đă mua của Nga 6 chiếc SU-30. Trong bối cảnh đó, rơ ràng là mục tiêu chiến lược của Trung Quốc ở Đông Á và Nam Á không phải là Nhật Bản, cũng không phải là Ấn Độ nữa, mà là Mỹ, với sự có mặt trong vùng là một trở ngại lớn cho việc Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng.
Việc Mỹ xen vào như vậy lại càng làm Bắc Kinh khó chịu v́ tính hợp pháp chiến lược của Oasinhtơn, vốn có cội rễ sâu xa trong lịch sử cuộc chiến tranh chống Nhật Bản và Bắc Triều Tiên, nay dựa vào h́nh ảnh mới của Mỹ như người bảo vệ quyền lợi về biển và lănh thố của các nước nhỏ trong ASEAN đang bị đe dọa bởi những yêu sách lố bịch của Bắc Kinh. Thêm vào đó là đầu tư của Mỹ vào Đông Nam Á vẫn cao hơn của Trung Quốc (chiếm 8,5% tổng lượng đầu tư, đứng thứ 3, sau Liên minh châu Âu và Nhật Bản, so với chỉ 2,4% của Trung Quốc).
Lúc đầu, Trung Quốc chỉ ra tuyên bố miệng để phản ứng trước t́nh h́nh mới mà các chiến lược gia của nước này đă dự đoán. Hăng thông tấn Tân Hoa Xă cáo buộc Oasinhtơn “muốn áp đặt sự lănh đạo của ḿnh ở châu Á, xen vào lợi ích của nước khác, gây căng thẳng và duy tŕ tư duy chiến tranh lạnh”. Rồi Thủ tướng Trung Quốc, Ôn Gia Bảo, nói thêm rằng “các cường quốc ngoài vùng không nên can dự vào dưới bất kỳ cái cớ nào”.
Cụ thể hơn, Bắc Kinh phải trấn an các nước ASEAN về ư định của ḿnh. Đó là điều mà Thủ tướng Ôn Gia Bảo bắt đầu làm khi ông nhắc lại rằng các bất đồng về lănh thổ ở biển Nam Trung Hoa sẽ được giải quyết theo Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông năm 2002, nhưng các điều khoản của văn bản này vẫn không mang tính bắt buộc về mặt pháp lư. Để khẳng định ảnh hưởng của ḿnh trong vùng, Trung Quốc cũng có một thứ vũ khí thương mại: đó là các hiệp định trao đối mậu dịch tự do kư với tất cả các nước ASEAN.
Đó là một đối trọng đáng kể với dự án TPP được đưa ra chậm hơn nhiều, và lại được Bắc Kinh hứa hẹn sẽ bổ sung thêm bằng tăng đầu tư vào vùng này. Cuối cùng, có thể Trung Quốc sẽ tiếp tục sử dụng áp lực trực tiếp đối với một số nước. Một số báo của Trung Quốc đă coi Philíppin là vật hy sinh, là mục tiêu đầu tiên của chiến lược đe dọa và chia rẽ cô lỗ sĩ.
Cuộc điều chỉnh mang tính ganh đua này không chắc có lợi cho Trung Quốc bởi lẽ nhờ đó sẽ có thêm triển vọng cho vai tṛ đối trọng về an ninh mà Nhà Trắng muốn có và lại được phần lớn các nước đón nhận với tâm trạng nhẹ nhơm. Vụ một thuyền trưởng tàu đánh cá Trung Quốc sát hại một sĩ quan lực lượng bảo vệ bờ biển Hàn Quốc xảy ra mới đây ở biển Hoàng Hải, sau vụ một tàu cá Trung Quốc hung hăn đâm vào một tàu tuần tra của Nhật Bản ở biển Hoa Đông vào mùa Thu năm 2010, là không thuận để xoa dịu nỗi lo ngại của các nước trong vùng trước thái độ hiếu chiến của Trung Quốc. Hơn nữa, các nước này đang lo ngại theo dơi các vụ thử nghiệm chiếc tàu sân bay đầu tiên của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc.
Nhưng muốn lùi lại trước sự ḱnh địch sức mạnh đó, Oasinhtơn cần tự hỏi có cần thiết phải xác lập vị thế như vậy không, v́ làm như vậy, Nhà Trắng đang bị cuốn vào một chiến lược nhằm vào Trung Quốc, nước muốn nói ǵ th́ nói đang trở thành tiêu điểm trong chính sách của Mỹ ở châu Á. Điều đó sẽ làm giảm khả năng xoay xở của Mỹ. Thêm vào đó là trách nhiệm ngày càng nặng nề phải bảo đảm an ninh của toàn vùng trong khi viễn cảnh cắt giảm mạnh ngân sách đang đè nặng lên Lầu Năm Góc.
Quốc hội Mỹ đă có những dấu hiệu cho thấy có thể sẽ có sự chuyển hướng chống Trung Quốc trái ngược với các chiến lược hợp tác trước đây với Bắc Kinh. Theo định hướng mới, có thể Trung Quốc không phải là một đổi tác vừa khó chơi vừa bắt buộc nữa, mà có thể là một địch thủ có những ưu tiên đi ngược lại lợi ích của Oasinhtơn. Mặc dù nói ra th́ dễ nhưng làm th́ khó, song chiến lược đó chỉ hoàn toàn nhằm mục đích tách Trung Quốc khỏi các nguồn cung ứng và các đối tác thương mại chính của nước này, đồng thời qua đó thậm chí đe dọa sự tăng trưởng vốn là nguồn chính tạo ra tính hợp pháp của quyền lực.
Ở Mỹ và Ôxtrâylia, có một số tiếng nói lẻ tẻ phê phán trực tiếp lập trường của ngành ngoại giao Mỹ. Ông Kenneth Lieberthal, một người gần gũi với Trung Quốc và trước là cố vấn về châu Á trong Hội đồng an ninh quốc gia dưới thời Tổng thống Clinton, mới đây giải thích rằng lối nói của Mỹ có tính khiêu khích không cần thiết.
Đầu tháng 12/2011, Pacific Center of Hawai đăng một bài báo của một nhà nghiên cứu Ôxtrâylia nhấn mạnh đến những rủi ro trong quan hệ ḱnh địch giữa Mỹ và Trung Quốc vốn được coi như tiêu chuẩn duy nhất cho ổn định và tiến bộ ở Thái B́nh Dương. Quan điểm này bỏ qua tầm quan trọng của t́nh h́nh nội bộ ở các nước – dù đó là nước nào – vai tṛ trong tương lai cửa Nhật Bản, Ấn Độ, và của các cường quốc trung b́nh ở Đông Nam Á, như Inđônêxia và Việt Nam. Bài viết đó không quan tâm nhiều đến số phận của bán đảo Triều Tiên hay vai tṛ của các thể chế trong ASEAN hiện vẫn chưa rơ ràng.
Khi điểm qua tính đa dạng của châu Á, trái ngược với cách tiếp cận hai chiều, bài báo trên có vẻ quá lư tưởng hóa, kết luận: “Châu Á th́ quá đa dạng, song cực không tồn tại ở châu Á và nay lại càng có ít chỗ đứng ở đây hơn. Các nước trong vùng có thể phải cố gắng thoát khỏi lôgích song cực bó buộc đó. Trung Quốc và Mỹ có thách thức nội tại của họ và đang nhảy vào ṿng hứa hẹn. Đối với các nước khác, đă đến lúc phải khích lệ một cách tiếp tận đa phương về cơ cấu an ninh ở châu Á.”
Trong khung cảnh căng thẳng gia tăng vẫn có một số dấu mốc có tính trấn an trong quan hệ Trung-Mỹ. Đúng là Trung Quốc càng mở rộng sức mạnh mới th́ mối quan hệ đó ngày càng gặp nhiều trở ngại. Nhưng mối quan hệ đó cũng được đánh dấu bằng sự phụ thuộc lẫn nhau nhiều về kinh tế và thương mại, được giới hạn bởi các hành động qua lại ở cập cao nhất, như đối thoại kinh tế và chiến lược hay trao đổi giữa các cơ quan quốc pḥng, với phiên họp mới nhất vừa diễn ra ngày 7/12/2011 tại Bắc Kinh.
Các kênh tiếp xúc đó lại càng cần thiết v́ Bắc Kinh dường như không có khả năng thoát khỏi những lệch lạc mang tính dân tộc chủ nghĩa đi kèm với giấc mộng đế chế ở biển Nam Trung Hoa, vốn là một thứ thay thế cho tính hợp pháp đang lung lay ở trong nước. Trong khi đó, phản ứng của Oasinhtơn hỗ trợ cho phát triển kinh tế, trao đổi thương mại tự do, luật pháp quốc tế, sự lănh đặo tốt và nhân quyền, cũng làm cơ sở cho quyết tâm khước từ sự suy tàn của Mỹ, rất dân tộc chủ nghĩa nhưng cũng rất xúc cảm.