Tháng 10/1075, dưới sự chỉ huy của Thái úy Lý Thường Kiệt, quân Đại Việt bất ngờ vượt biên, đánh thẳng vào Ung Châu – căn cứ kiên cố của nhà Tống. Đòn tập kích táo bạo, thần tốc và đầy mưu lược ấy không chỉ làm rung chuyển biên giới phương Bắc, mà còn đi vào lịch sử như một mẫu mực của nghệ thuật “tiên phát chế nhân”.
Cùng với việc xây dựng một chính quyền quân chủ tập trung, các vương triều Lý, Trần, Hồ đã phải đối phó chống lại những cuộc xâm lược của các vương triều phong kiến Trung Hoa phương Bắc. Âm mưu chung của các đế chế phương Bắc khi tiến hành xâm lược Đại Việt xuất phát từ một chủ nghĩa bành trướng nước lớn đối với một quốc gia nhỏ bé ở phương Nam không chịu thần phục họ và vẫn bị coi là những tộc người man di trước đây vốn là thuộc quốc của Trung Quốc Hoa Hạ, với tên gọi mang tính miệt thị là “An Nam”.

Tượng Vệ Quốc Công Lý Thường Kiệt tại Đại Nam Quốc Tự (Thủ Dầu Một, Bình Dương).
Mặt khác, xâm lược Đại Việt cũng là một biện pháp để giải quyết tình trạng nguy ngập về tài chính, kinh tế của bản thân Trung Quốc. Âm mưu tấn công Đại Việt của nhà Tống lần thứ hai (1076) cũng nhằm vượt qua tình trạng nguy ngập về tài chính, kinh tế do những biện pháp cải cách của Vương An Thạch, cũng như làm giảm bớt sự uy hiếp của các tộc Liêu, Hạ phương Bắc.
Đánh nước ta lần này, nhà Tống tuy lực có mạnh nhưng thế không mạnh. Nhà Lý chuẩn bị kháng chiến rất chủ động, vừa lo ổn định vững chắc tình hình trong nước, vừa tăng cường khả năng quốc phòng.
Sau những năm 1070, nhà Tống càng ráo riết chuẩn bị xâm lược. Quân Tống thường xuyên xâm nhập biên giới quấy nhiễu và do thám. Thời điểm nổ ra chiến tranh đã gần kề. Lý Thường Kiệt nói: “Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của chúng”. Ông chủ trương tiến công để tự vệ, xuất quân tập kích tiêu diệt các căn cứ xâm lược trên đất Tống rồi nhanh chóng rút quân về tổ chức phòng thủ đất nước.
Năm 1075, trước những âm mưu khiêu khích đe dọa xâm lược của nhà Tống, vua Lý Nhân Tông và Lý Thường Kiệt đã chủ động đối phó bằng những biện pháp tích cực. Nhà Lý đã liên kết các tù trưởng các tộc người thiểu số ở vùng rừng núi phía bắc phối hợp chống giặc. Trước đó, nhà Lý đã đập tan sự uy hiếp từ phía nam bằng cách chủ động tấn công Chămpa.
Ngày 17/10/1075, hơn 10 vạn quân Đại Việt chia làm hai đạo nhanh chóng bất ngờ vượt biên giới đánh vào đất Tống. Một đạo quân gồm binh lính địa phương vùng biên giới do các tướng lĩnh người dân tộc thiểu số: Tông Đản, Lưu Kỷ, Hoàng Kim Mãn, Thân Cảnh Phúc, Vi Thủ An, chỉ huy tiến công các đồn trại quân Tống ở biên giới rồi tiến về Ung Châu.
Đạo quan chủ lực do Lý Thường Kiệt chỉ huy tập trung ở Vĩnh An (Móng Cái, Quảng Ninh) dùng thuyền vượt biển đánh chiếm Khâm Châu, Liêm Châu tiến đến hợp quân với đạo quân đi đường bộ vây đánh thành Ung Châu. Đến lúc này, triều Tống mới được tin báo, vội cho một vạn quân xuống ứng cứu nhưng đến ải Côn Lôn (phía bắc Ung Châu) đã bị quân Đại Việt do Lý Thường Kiệt mai phục sẵn ở đây tiêu diệt.

Lý Thường Kiệt chỉ huy quân và dân Đại Việt đánh phủ đầu tiêu diệt các căn cứ xâm lược trên đất Tống. (Ảnh minh họa)
Sau 42 ngày vây hãm, chiến đấu gan dạ, mưu trí, ngày 1/3/1076, quân ta đã chiếm được Ung Châu, căn cứ chính rất kiên cố của quân Tống. Quân ta đốt phá kho tàng, phá hủy thành lũy, lấy đá lấp sông để ngăn chặn đường thủy của địch. Mục tiêu tiến công đã hoàn toàn thắng lợi. Trong khi triều Tống đang lúng túng chưa kịp phản ứng thì tháng 4/1076, quân ta đã chủ động nhanh chóng rút quân về nước.
Sau khi rút quân về nước, Lý Thường kiệt dàn thế trận kháng chiến, ông đoán biết rằng quân xâm lược sẽ vào theo hướng bắc và đông bắc rồi tiến đến mục tiêu chính là chiếm thành Thăng Long. Trên những con đường tiến quân của địch, ông bố trí các lực lượng quân địa phương cùng dân binh làm nhiệm vụ kiềm chế và tiêu hao địch. Tại bờ nam sông Như Nguyệt, ông cho xây dựng một phòng tuyến vững chắc, chặn đứng mọi đường tiến quân của địch xuống Thăng Long.
Đại quân do Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy đóng phía sau chiến lũy, vùng Từ Sơn (Bắc Ninh) chỉ huy, tiếp ứng và công thủ trên cả hai hướng thủy, bộ. Toàn bộ chủ lực quân, thủy bộ của ta trên chiến tuyến Như Nguyệt có thể và trên 6 vạn. Lý Thường Kiệt đã kết hợp địa hình tự nhiên, bãi chướng ngại vật với quân đội mà bố trí lực lượng có trọng điểm để vừa có thể kiểm soát, bảo vệ được toàn chiến tuyến vừa có thể nhanh chóng tập trung đánh lại có hiệu quả những mũi đột phá của địch và tổ chức phản công khi có thời cơ.
Quân Tống bắt đầu cuộc xâm lược nước ta vào mùa thu năm 1076. Tháng 7 âm lịch (năm Bính Thìn), 30 vạn bộ binh và kỵ binh, trong đó có 1 vạn kỵ binh và một đạo thủy quân do Quách Quỳ làm chủ tướng và Triệu Tiết làm phó tướng xuất quân đánh nước ta, với lực lượng mạnh, quân Tống đã vượt qua các lực lượng đánh ngăn chặn của quân ta vùng biên giới, nhanh chóng tiến đến bờ bắc sông Như Nguyệt. Bị phòng tuyến Như Nguyệt chặn lại, quân Tống rải quân đóng trên trận tuyến dài 30 km từ bến đò Như Nguyệt đến chân núi Nham Biền (Việt Yên, Bắc Giang).
Đầu năm 1077, Quách Quỳ cho bắc cầu phao tổ chức vượt sông đột phá phòng tuyến quân ta ở bến đò Như Nguyệt nhưng bị đánh bại. Quách Quỳ chờ thủy quân đến có phương tiện vượt sông và phối hợp thủy bộ tiến công nhưng đạo thủy quân Tống đến bờ biển Quảng Ninh đã bị thủy quân ta do tướng Lý Kế Nguyên đánh cho tan tác, số tàn quân phải nằm lại ngoài đảo. Chờ thủy quân không được, Quách Quỳ ra lệnh đóng bè chở quân đổ bộ sang bờ nam sông Như Nguyệt nhưng bị quân ta từ trên lũy cao đánh xuống, số quân Tống vượt sông bị tiêu diệt hoàn toàn. Cuộc tiến công lần thứ hai thất bại thảm hại. Quách Quỳ phải ra lệnh: “Ai bàn đánh sẽ bị chém”.
Từ trận đột kích Ung Châu đến trận tập kích Như Nguyệt, 30 vạn lính và phu của nhà Tống bị tiêu diệt. Trong lần xuất chinh năm 1076- 1077 của nhà Tống, thì 10 vạn quân ra đi, khi về còn lại hơn 2 vạn (23.400), tám trong số 20 vạn phu đã bỏ mạng. Toàn bộ chi phí chiến tranh được người nhà Tống tính ra là 5.100.000 lạng vàng, ý chí xâm lược của nhà Tống tiêu tan, 200 năm sau nhà Tống còn tồn tại nhưng không dám nói đến việc xâm lược nước ta một lần nữa.
VietBF@ sưu tập