
(Minh họa)
Đại đa số người Việt ở Mỹ có số lượng vitamin D trong máu rất thấp. Tình trạng thiếu vitamin D xảy ra trên đa số người Mỹ nhất là người da màu và người lớn tuổi. Vì đời sống văn minh và trù phú, người Mỹ thường sống trong nhà với máy điều hoà không khí, di chuyển trên xe hơi với máy lạnh. Thỉnh thoảng khi họ đi ra ngoài trời thì lại cho bôi kem ngăn tử ngoại tuyến (UV) để ngừa ung thư da, nên số lượng vitamin D được tổng hợp từ tia sáng Mặt trời khi tiếp xúc với da trở thành không đáng kể, nhất là vào mùa lạnh.
Người da màu ở vùng ôn đới tại Bắc Bán Cầu càng bị thiệt thòi hơn vì sắc tố trên da làm giảm sự tiếp xúc với UV một cách tự nhiên. Vì vậy nguồn vitamin D chính của người Mỹ đến từ thực phẩm như sữa, phó mát (cheese), yogurt, cá hồi (salmon), cá ngừ (tuna). Nhiều người Việt do không tiêu hóa được lactose trong sữa nên sẽ càng thiếu vitamin D hơn các sắc dân khác tại Mỹ, do họ không uống sữa được.
Trong thập niên gần đây, khảo cứu về y khoa đã cho thấy rằng vitamin D đóng vai trò rất quan trọng cho sức khoẻ và tuổi thọ ngoài việc giúp hấp thụ calcium để giữ cho xương khớp được cứng cáp. Nhiều cuộc khảo cứu còn cho thấy vai trò quan trọng của vitamin D cho sức khoẻ về tim mạch, ngăn ngừa nhồi máu cơ tim và đột quỵ; giúp cho hệ thống miễn nhiễm và ngăn ngừa các chứng ung thư ruột già và tụy tạng… và ngừa tiểu đường loại 2, ngừa chứng bị sưng khớp xương, v... v…
Mặc dù
Institute of Medicine (IOM) có khuyến cáo nên tăng số lượng vitamin D cho mỗi cá nhân một ngày (RDA) lên đến 600 IU, con số đó có vẻ vẫn không đủ cho người Mỹ, nhất là các nhóm với màu da sậm vì họ sẽ cần ít nhất từ 1000 đến 2000 IU vitamin D mỗi ngày để bảo vệ cho sức khoẻ. Uống vitamin D dưới dạng phụ gia như vitamin D3 là phương pháp thực tế nhất cho người Việt tại Mỹ để có đầy đủ vitamin D trong cơ thể.
Trong mấy năm trở lại đây, các dược phòng và siêu thị ở Mỹ bán nhan nhản các viên thuốc phụ gia tổng hợp calcium và vitamin D, ban đầu để đáp ứng nhu cầu của phụ nữ ngăn ngừa chứng bị rỗng xương (
osteoporosis) nhưng bây giờ lại bán cho nam giới nữa vì khá tiện lợi là chỉ cần uống một viên thuốc mà có được hai thứ phụ gia cần thiết, vì nhiều người đàn ông và bác sĩ của họ tin rằng khi uống calcium phụ gia có lợi như làm hạ huyết áp, giúp bắp thịt săn chắc và tốt cho xương, v.v..… và hoàn toàn vô hại cho cơ thể.
Thế nhưng, trong năm vừa qua có nhiều bằng chứng khoa học lại cho thấy rằng uống calcium phụ gia có thể gây nguy hiểm cho sức khoẻ của phái nam. Gần đây nhất là trong số tháng Hai 2013 của
JAMA Internal Medicine có đề cập đến một cuộc khảo cứu lớn khi theo dõi 388,229 người cả nam lẫn nữ tuổi từ 50 đến 71, trong thời gian 12 năm đã cho thấy uống calcium phụ gia đã làm tăng tỷ lệ tử vong vì bệnh tim mạch của đàn ông, có lẽ do calcium đóng vào thành mạch máu quá nhiều.
Tóm lại, nam giới nên uống vitamin D phụ gia nhưng không nên uống thêm calcium. Hấp thụ calcium từ thực phẩm như sữa, yogurt, broccoli, v...v… là cách an toàn nhất thay vì uống thêm bất cứ viên vitamin calcium nào.
Cũng xin nói thêm là các vị cao tuổi do suy yếu hay bị té, nhưng sẽ ít bị té hơn sau khi uống vitamin D phụ gia được vài ngày theo các khảo cứu khoa học, có thể vì tác dụng lợi ích của vitamin D trên bắp thịt.
Quá nhiều vitamin D trong máu cũng có thể hại cho sức khỏe vì số lượng calcium trong máu sẽ lên rất cao, vì thế sau khi uống vitamin D phụ gia khoảng 2 hay 3 tháng, chúng ta nên đi thử máu lại để chắc chắn có lượng vitamin D ở mức bình thường (25 OH vitamin D từ 50-100) ng/ml.
Sinh tố K2 rất quan trọng để phòng ngừa và chữa trị nhiều chứng bệnh của người già
Từ hậu bán thế kỷ thứ 20 cho đến nay, tuổi thọ của con người đã tăng vọt, trung bình bây giờ là ở Hoa Kỳ sống trên 80 tuổi. Với tuổi thọ gia tăng, các thứ bệnh như 3 Cao (Cao Mỡ, Cao Máu, Cao Đường loại 2), bệnh Suy Thận Mãn Tính, bệnh Tim Mạch, bệnh Xốp Xương và các bệnh Ung Thư cũng tăng theo.
Y học tiến bộ mang đến các thuốc công hiệu giúp bệnh nhân sống lâu hơn như Statins cho Cao Mỡ, thuốc chống angiotensin cho Cao Máu, thuốc Metformin cho Cao Đường loại 2, v...v.. Tuy nhiên, các chứng 3 Cao về lâu về dài vẫn gây ra suy thận mãn tính khiến một số không ít bệnh nhân phải cần đến giải phẫu cho ghép thận hay lọc máu (dialysis) để sống còn. Bất kể phương pháp điều trị tinh vi và cẩn thận bởi các bác sĩ chuyên về thận đến đâu, nhiều bệnh nhân vẫn bị bệnh mạch vành tim sau khi đã được lọc máu hay ghép thận vài năm mà nguyên nhân vẫn chưa có ai được biết rõ.
Trong khi đó, các bà sau tuổi tắt kinh bắt đầu mất dần calcium trong người đưa đến chứng bị xốp xương. Dùng hoóc-môn estrogen có thể làm chậm sự lão hóa ấy nhưng có thể tăng nguy cơ bị ung thư vú. Quý bà được bác sĩ khuyên uống thêm calcium và sinh tố D để làm chậm sự tiến triển của xốp xương. Nhưng uống nhiều calcium là một con dao hai lưỡi: ngoài việc gây ra sạn thận, quá nhiều calcium khiến cho thành mạch máu bị đóng vôi, gây ra bệnh tim mạch và tăng mức tử vong, trước đây tưởng chỉ gặp ở đàn ông uống calcium, nhưng gần đây cho thấy phụ nữ cũng bị giống như vậy.
May thay, trong những năm gần đây khảo cứu cho thấy có một loại sinh tố K, gọi là
K2, có thể giúp phòng ngừa và chữa việc Calcium đi lầm chỗ, đóng trên thành mạch máu gây ra tắc nghẽn, thay vì đóng lên xương giúp cho xương bớt bị xốp và loãng.
Sinh Tố K2 là gì? Nguồn từ đâu mà ra?
Từ lâu, chúng ta đã biết sinh tố K đóng vai trò quan trọng trong việc cho cầm máu và làm đông máu. Thật ra có hai loại sinh tố K: sinh tố
K1 (Phylloquinone) chiếm đến 90% thành phần, là loại cần thiết cho máu đông lại, có nhiều trong các loại rau xanh như rau dền; 10% còn lại là sinh tố
K2 (Menaquinone) đóng vai trò quan trọng trong việc vận chuyển calcium từ máu đến đúng mục tiêu ở xương và răng thay vì cho phân phối bừa bãi khắp nơi gây ra các chứng bệnh được đề cập trong phần dẫn đầu của bài này. Sinh tố
K2 được tổng hợp một số ít từ vi trùng trong ruột nhưng đa số đến từ thịt, sữa, lòng đỏ trứng gà, bơ và phó mát. Vì sinh tố K dễ hòa tan trong mỡ, sữa và phó mát, nếu bị lấy mất mỡ sẽ không còn sinh tố K2 nữa.
Hai loại thực phẩm có nhiều sinh tố K2 nhất là gan bò và món đậu nành lên men của người Nhật gọi là Natto. Sinh tố
K2 có side chain isoprenoid từ MK-4 (chuỗi ngắn) đến MK-14 (chuỗi dài). Chuỗi trung bình
MK-7 là loại thông dụng nhất vì dễ được hấp thụ qua đường ruột.

(Minh họa)
Trong các quốc gia kỹ nghệ, số lượng sinh tố K2 từ thực phẩm chế biến ngày càng giảm thiểu bắt đầu từ thập niên 1950 và cho đến nay hầu như 100% người Mỹ không ăn đủ sinh tố K2 (trong lúc cần tối thiểu là khoảng 32 mcg mỗi ngày). Những người Nhật khi ăn đều món natto là nhóm dân duy nhất không thiếu chất K2 và họ sống lâu hơn, mạnh khỏe hơn với ít chứng bệnh lão suy hơn người Âu Mỹ.
Tác dụng của sinh tố K2
Trên xương, sinh tố
K2 tác động chất osteocalcin từ tế bào tạo ra xương osteoblast giúp điều động calcium kết với khoáng hydroxyapatite khiến cho xương thêm chắc và cứng, ngừa được chứng bị xốp xương ở tuổi già.
Trong mạch máu, sinh tố
K2 có tác dụng vào chất đạm trên thành mạch máu Matrix GLA Protein (MGP), chống lại sự kết tụ của chất vôi trong mạch máu gây ra bệnh xơ cứng làm nghẽn tuần hoàn máu, đồng thời chống lại kết tụ calcium trong các mô mềm.
Chúng ta có thể ví sinh tố
K2 giống như cảnh sát lưu thông, giúp vận chuyển calcium trong máu đến đúng chỗ ở xương và răng thay vì đi lạc vào thành mạch máu và các mô mềm. Nhờ vậy mà răng và nướu răng cũng sẽ phát triển tốt hơn với sinh tố
K2 này.

(Minh họa)
Bệnh nhân bị suy thận mãn tính khi uống sinh tố K2 phụ gia mỗi ngày được giảm cả suy thận lẫn bệnh tim mạch có lẽ do việc tuần hoàn máu đến thận tốt hơn. Tác động của MGP khiến cho máu lưu thông đến da tốt giúp làm giảm các biến chứng ngoài da của người bị bệnh thận. Bệnh nhân tim mạch dùng K2 phụ gia sau hai năm thì số lượng calcium đóng trong thành mạch máu cũng được thuyên giảm đáng kể.
Ngoài ra, sinh tố K2 còn có thể chống viêm sưng, chống kháng insulin, và, mặc dù chưa có kết quả lâm sàng, trên lý thuyết có thể giúp ngừa và chữa Tiểu Đường loại 2.

(Minh họa)
Gần đây nhất, sinh tố K2 cho thấy có khả năng chống ung thư, nhất là ung thư ở gan, một chứng bệnh không hiếm trên người già gốc Việt. Sinh tố K2 trên lý thuyết có tiềm năng kết hợp với hệ vi sinh vật ở ruột giúp ngừa các bệnh thoái hóa não bộ như Parkinson và Alzheimer nữa.

(Minh họa)
Cách giản tiện nhất ở Mỹ để bảo đảm có đủ sinh tố K2 mỗi ngày là uống một viên từ
50 mcg (micrograms) đến 100 mcg Vitamin K2 MK-7 mỗi ngày, được bán trên thị trường mà không cần toa bác sĩ.
Sinh tố K2 cùng với sinh tố D3 là hai phụ gia không thể thiếu để bảo đảm sức khỏe cho tuổi già. Nên bắt đầu dùng từ tuổi 50 trở lên (tuổi trung bình của phụ nữ tắt kinh). Các bệnh nhân bị xốp xương, bị bệnh tim mạch hay suy thận mãn tính nên uống sinh tố K2 ít nhất 100 mcg mỗi ngày để trị bệnh thay vì chỉ ngừa bệnh. Sinh tố K2 không làm giảm ảnh hưởng của thuốc chống đông máu trên các cụ có bệnh tim hay nghẽn mạch máu não.
Trong những năm tới, chúng ta sẽ biết nhiều hơn về các lợi ích khác của sinh tố K2 trong tuổi già.
B/s Phạm Hiếu Liêm