1 – Tên do địa h́nh, địa thế:
Bắt đầu bằng một câu hát dân gian ở vùng Ba Tri, tỉnh Bến Tre:
“Gió đưa gió đẩy,
về rẫy ăn c̣ng,
về bưng ăn cá,
về giồng ăn dưa…”
Giồng
Giồng là chỗ đất cao hơn ruộng, trên đó nông dân cất nhà ở và trồng rau, đậu, khoai củ cùng một số loại cây ăn trái. Bởi vậy nên mới có bài hát: “trên đất giồng ḿnh trồng khoai lang…”
Một con giồng có thể bao gồm một hay nhiều xă. Ở Bến Tre, Giồng Trôm đă trở thành tên của một quận (huyện).
Lại nhắc đến một câu hát khác:
“Ai dźa Giồng Dứa qua truông
Gió rung bông sậy, bỏ buồn cho em…”
Giồng Dứa ở Mỹ Tho, khoảng từ chỗ qua khỏi ngă ba Trung Lương đến cầu Long Định, ở bên phải quốc lộ 4 là Giồng Dứa. Sở dĩ có tên như thế v́ vùng này ở hai bên bờ sông có nhiều cây dứa. (Dứa đây không phải là loại cây có trái mà người miền Nam gọi là thơm, khóm. Đây là loại cây có lá gai dáng như lá thơm nhưng to hơn và dày hơn, màu xanh mướt. Lá này vắt ra một thứ nước màu xanh, có mùi thơm dùng để làm bánh, đặc biệt là bánh da lợn).
Vừa rồi có nhắc đến truông, hồi xưa về Giồng Dứa th́ phải qua truông, vậy truông là ǵ?
Truông
Truông là đường xuyên ngang một khu rừng, lối đi có sẵn nhưng hai bên và phía trên đầu người đi đều có thân cây và cành lá bao phủ. Ở vùng Dĩ An có truông Sim. Ở miền Trung, thời trước có truông nhà Hồ.
“Thương em anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang.”
Tại sao lại có câu ca dao này?
Ngày xưa truông nhà Hồ thuộc vùng Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, c̣n gọi là Hồ Xá Lâm. Nơi đó địa h́nh trắc trở, thường có đạo tặc ẩn núp để cướp bóc nên ít người dám qua lại.
Phá
Phá là lạch biển, nơi hội ngộ của các con sông trước khi đổ ra biển nên nước xoáy, sóng nhiều thường gây nguy hiểm cho thuyền bè. Phá Tam Giang thuộc tỉnh Thừa Thiên, phía bắc của phá Tam Giang là sông Ô Lâu đổ ra biển, phía nam là sông Hương đổ ra cửa Thuận An.
Bàu
Bàu là nơi đất trũng, mùa mưa nước khá sâu nhưng mùa nắng chỉ c̣n những vũng nước nhỏ hay khô hẳn. Khác với đầm, v́ đầm có nước quanh năm. Ở Sài G̣n, qua khỏi Ngă Tư Bảy Hiền chừng 1 km về hướng Hóc Môn, phía bên trái có khu Bàu Cát. Bây giờ đường xá được mở rộng, nhà cửa xây rất đẹp nhưng mùa mưa vẫn thường bị ngập nước. Ở Long Khánh có Bàu Cá, Rạch Giá có Bàu C̣.
Đầm
Đầm là chỗ trũng có nước quanh năm, mùa mưa nước sâu hơn mùa nắng, thường là chỗ tận cùng của một ḍng nước đổ ra sông rạch hoặc chỗ một con sông lở bờ nước tràn ra hai bên nhưng gịng nước vẫn tiếp tục con đường của nó. Ở Cà Mau có Đầm Dơi, Đầm Cùn. Ở quận 11 Sài G̣n có Đầm Sen, bây giờ trở thành một trung tâm giải trí rất lớn.
Bưng
Bưng từ gốc Khmer là “Bâng,” chỉ chỗ đất trũng giữa một cánh đồng, mùa nắng không có nước đọng, nhưng mùa mưa th́ ngập khá sâu và có các thứ lác, đưng… mọc. Mùa mưa ở bưng thường có nhiều cá đồng.
“… về bưng ăn cá, về giồng ăn dưa.”
Ở Ba Tri, tỉnh Bến Tre, có hai bưng là Bưng Trôm và Bưng Cốc.
Láng
Láng chỗ đất thấp sát bên đường nước chảy nên do nước tràn lên làm ngập nước hoặc ẩm thấp quanh năm. Ở Đức Ḥa (giữa Long An và Sài G̣n) có Láng Le, được gọi như vậy v́ ở láng này có nhiều chim le le đến kiếm ăn và đẻ. Vùng Khánh Hội (quận 4 Sài G̣n) xưa kia được gọi là Láng Thọ v́ có những chỗ ngập do nước sông Sài G̣n tràn lên. Người Pháp phát âm Láng Thọ thành Lăng Tô, một địa danh rất phổ biến thời Pháp thuộc.
Trảng
Trảng là chỗ trống trải v́ không có cây mọc, ở giữa một khu rừng hay bên cạnh một khu rừng. Ở Tây Ninh có Trảng Bàng, địa danh xuất phát từ một cái trảng xưa kia có nhiều cỏ bàng v́ ở vùng ven Đồng Tháp Mười. Ở Biên Ḥa có Trảng Bom, Trảng Táo.
Đồng
Đồng là khoảng đất rất rộng lớn bằng phẳng, có thể gồm toàn ruộng, hoặc vừa ruộng vừa những vùng hoang chưa khai phá. Một vùng trên đường từ Gia Định đi Thủ Đức, qua khỏi ngă tư B́nh Ḥa, trước kia toàn là ruộng, gọi là Đồng Ông Cộ. Ra khỏi Sài G̣n chừng 10 km trên đường đi Lái Thiêu có Đồng Chó Ngáp, được gọi như thế v́ trước kia là vùng đất phèn không thuận tiện cho việc cày cấy, bị bỏ hoang và rất vắng vẻ, trống trải. Ở Củ Chi có Đồng Dù, v́ đă từng dược dùng làm nơi tập nhảy dù. Và to, rộng hơn rất nhiều là Đồng Tháp Mười.
Hố
Hố là chỗ đất trũng, mùa nắng khô ráo nhưng mùa mưa có nơi nước lấp xấp. Ở Củ Chi có Hố Ḅ, v́ ḅ nuôi trong vùng thường đến đó ăn cỏ. Biên Ḥa có Hố Nai, là nơi những người Bắc đạo Công Giáo di cư năm 1954 đến lập nghiệp, tạo thành một khu vực sầm uất.
2 – Tên bắt nguồn từ tiếng Khmer
Miền Nam, đặc biệt là khu vực đồng bằng sông Cửu Long, người Việt và người Khmer sống chung với nhau,văn hóa đă ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Điều đó biểu hiện rơ nét qua một số địa danh. Một số nơi, tên gọi nghe qua th́ rất Việt Nam nhưng lại bắt nguồn từ tiếng Khmer; người Việt đă Việt hóa một cách tài t́nh.
Cần Thơ
Khi đối chiếu địa danh Cần Thơ với tên Khmer nguyên thủy của vùng này là Prek Rusey (sông tre), không thấy có liên quan ǵ về ngữ âm, người nghiên cứu chưa thể vội vàng kết luận là Cần Thơ là một địa danh hoàn toàn Việt Nam và vội đi t́m hiểu căn cứ ở các nghĩa có thể hiểu được của hai chữ Hán Việt “Cần” và “Thơ.” Cần Thơ không phải là từ Hán Việt và không có nghĩa. Nếu ḍ t́m trong hướng các địa danh Việt hóa, người nghiên cứu có thể thấy ngữ âm của Cần Thơ rất gần với ngữ âm của từ Khmer “ḱntho,” là một loại cá hăy c̣n khá phổ biến ở Cần Thơ, thông thường được gọi là cá sặc rằn, nhưng người ở Bến Tre vẫn gọi là cá “ḷ tho.” Từ quan điểm vững chắc rằng “ḷ tho” là một danh từ được tạo thành bằng cách Việt hóa tiếng Khmer “ḱntho,”người nghiên cứu có thể sưu tầm các tài liệu về lịch sử dân tộc, về sinh hoạt của người Khmer xa xưa trong địa phương này, rồi đi đến kết luận là địa danh Cần Thơ xuất phát từ danh từ Khmer “ḱntho.”
Mỹ Tho
Trường hợp Mỹ Tho cũng tương tự. Sự kết hợp hai thành tố có ngữ âm hoàn toàn Việt Nam, “Mỹ” và “Tho,” không tạo nên một ư nghĩa nào theo cách hiểu trong tiếng Việt. Những tài liệu thích ứng về lịch sử và sinh hoạt của người Khmer trong vùng thời xa xưa đă xác định địa phương này có lúc đă được gọi là “Srock Mỳ Xó” (xứ nàng trắng). Ḿnh gọi là Mỹ Tho, đă bỏ đi chữ Srock, chỉ c̣n giữ lại “Mỳ Xó” thôi.
Sóc Trăng
Theo cố học giả Vương Hồng Sển, đúng ra phải gọi là Sốc Trăng. Sốc Trăng xuất phát từ tiếng Khmer “Srock Khléang.” Srock có nghĩa là xứ, cơi. Khléang là kho chứa vàng bạc của vua. Srock Khléang là xứ có kho vàng bạc nhà vua. Trước kia người Việt viết là Sốc Kha Lăng, sau nữa biến thành Sốc Trăng. Tên Sốc Trăng đă có những lần bị biến đổi hoàn toàn. Thời Minh Mạng, đă đổi lại là Nguyệt Giang tỉnh, có nghĩa là sông trăng (sốc thành sông, tiếng Hán Việt là Giang; trăng là Nguyệt). Đến thời ông Diệm, lại gọi là tỉnh Ba Xuyên, châu thành Khánh Hưng. Bây giờ trở lại là Sóc Trăng.
Băi Xàu
Băi Xàu là tên một quận thuộc tỉnh Sóc Trăng. Đây là một quận ven biển nên có một số người vội quyết đoán, cho rằng đây là một trường hợp sai chính tả, phải gọi là Băi Sau mới đúng. Thật ra, tuy là một vùng bờ biển nhưng Băi Xàu không có nghĩa là băi nào cả. Nó xuất phát từ tiếng Khmer “Bai xao” có nghĩa là cơm sống. Theo truyền thuyết của dân địa phương, có địa danh này là v́ nơi đây ngày trước, một lực lượng quân Khmer chống lại nhà Nguyễn đă phải ăn cơm chưa chín để chạy khi bị truy đuổi.
Kế Sách
Kế Sách cũng là một quận của Sóc Trăng. Kế Sách nằm ở gần cửa Ba Thắc (một cửa của sông Cửu Long), phần lớn đất đai là cát do phù sa sông Hậu, rất thích hợp cho việc trồng dừa và mía. Cát tiếng Khmer là “K’sach,” như vậy Kế Sách là sự Việt hóa tiếng Khmer “k’sach.”
Một số địa danh khác:
Cái Răng (thuộc Cần Thơ) là sự Việt hóa của “k’ran,” tức “cà ràn,” là một loại bếp ḷ nấu bằng củi, có thể trước kia đây là vùng sản xuất hoặc bán cà ràn.
Trà Vinh xuất phát từ “Prha Trapenh” có nghĩa là ao linh thiêng.
Sông Trà Cuông ở Sóc Trăng do tiếng Khmer “Prek Trakum,” là sông rau muống (Trakum là rau muống).
Sa Đéc xuất phát từ “Phsar Dek,” Phsar là chợ, Dek là sắt.
Tha La, một địa danh nổi tiếng ở Tây Ninh (Tha La xóm đạo), do tiếng Khmer “Srala,” là nhà nghỉ ngơi, tu dưỡng của tu sĩ Phật giáo.
Cà Mau là sự Việt hóa của tiếng Khmer “Tưck Khmau,” có nghĩa là nước đen.
3 – Địa danh do công dụng của một địa điểm hay do một khu vực sinh sống làm ăn.
Đây là trường hợp phổ biến nhất trong các địa danh.
Theo thói quen, khi muốn hướng dẫn hay diễn tả một nơi chốn nào đó mà thuở ban đầu chưa có tên gọi, người ta thường hay mượn một điểm nào khá phổ biến của nơi đó, như cái chợ cái cầu và thêm vào một vào đặc tính nữa của cái chợ cái cầu đó; lâu ngày rồi thành tên, có khi bao trùm cả một vùng rộng lớn hơn vị trí ban đầu.
Chợ
Phổ biến nhất của các địa danh về chợ là Chợ Cũ, Chợ Mới, xuất hiện ở rất nhiều nơi. Sài G̣n có một khu Chợ Cũ ở đường Hàm Nghi đă trở thành một địa danh quen thuộc. Chợ Mới cũng trở thành tên của một quận trong tỉnh An Giang. Kế bên Sài G̣n là Chợ Lớn, xa hơn chút nữa là Chợ Nhỏ ở Thủ Đức. Địa danh về chợ c̣n được phân biệt như sau:
– Theo loại hàng được bán nhiều nhất ở chợ đó từ lúc mới có chợ, như: Chợ Gạo ở Mỹ Tho, Chợ Búng (đáng lư là Bún) ở Lái Thiêu, Chợ Đệm ở Long An, Chợ Đũi ở Sài G̣n.
– Theo tên người sáng lập chợ hay chủ chợ (độc quyền thu thuế chợ), như: chợ Bà Chiểu, chợ Bà Hom, chợ Bà Quẹo , chợ Bà Rịa.
– Theo vị trí của chợ, như: chợ Giữa ở Mỹ Tho, chợ Cầu (v́ gần một cây cầu sắt) ở G̣ Vấp, chợ Cầu Ông Lănh ở Sài G̣n.
Xóm
Xóm là một chữ để phân biệt một khu vực trong làng hay một địa phương lớn hơn, về mục tiêu sản xuất, thương mại hay chỉ đơn thuần về vị trí.
Đơn thuần về vị trí, trong một làng chẳng hạn, có Xóm Trên, Xóm Dưới, Xóm Trong, Xóm Ngoài, Xóm Chùa, Xóm Đ́nh…
Về các mục tiêu sản xuất và thương mại, ngày nay cách phân biệt các xóm chỉ c̣n ở nông thôn mà không c̣n phổ biến ở thành thị.
Những địa danh c̣n sót lại về xóm ở khu vực Sài G̣n, Chợ Lớn: Vùng phụ cận chợ Bà Chiểu có Xóm Giá, Xóm Gà. G̣ Vấp có Xóm Thơm. Quận 4 có Xóm Chiếu. Chợ Lớn có Xóm Than, Xóm Củi, Xóm Vôi, Xóm Trĩ (Trĩ là những nhánh cây hay thân cây suôn sẻ to cỡ bằng ngón chân cái, dài chừng 2 mét, dùng để làm rào, làm lưới hay làm bủa để nuôi tằm).
Thủ
Thủ là danh từ chỉ đồn canh gác dọc theo các đường sông, v́ khá phổ biến thời trước nên “thủ” đă đi vào một số địa danh hiện nay hăy c̣n thông dụng, như: Thủ Đức, Thủ Thiêm, Thủ Ngữ (Sài G̣n), Thủ Thừa (Long An), Thủ Dầu Một (B́nh Dương). Đức, Thiêm, Ngữ, Thừa có lẽ là tên những viên chức được cử đến cai quản các thủ này và đă giữ chức vụ khá lâu nên tên của họ đă được người dân gắn liền với nơi làm việc của họ. C̣n Thủ Dầu Một th́ ở thủ đó ngày xưa có một cây dầu mọc lẻ loi.
Bến
Bến ban đầu là chỗ có đủ điều kiện thuận tiện cho thuyền ghe ghé vào bờ hoặc đậu lại do yêu cầu chuyên chở, lên xuống hàng. Sau này nghĩa rộng ra cho cả xe đ̣,xe hàng, xe lam…
Cũng như chợ, bến thường được phân biệt và đặt tên theo các loại hàng được cất lên nhiều nhất. Một số tên bến đặt theo cách này đă trở thành tên riêng của một số địa phương, như: Bến Cỏ, Bến Súc, Bến Củi ở B́nh Dương. Bến Đá ở Thủ Đức, Bến Gỗ ở Biên Ḥa.
Ngoài ra bến cũng c̣n có thể được đặt tên theo một đặc điểm nào ở đó, như một loại cây, cỏ nào mọc nhiều ở đó, và cũng trở thành tên của một địa phương, như:
Bến Tranh ở Mỹ Tho, Bến Lức ở Long An (đáng lư là lứt, là một loại cây nhỏ lá nhỏ, rễ dùng làm thuốc, đông y gọi là sài hồ).
4 – Một số trường hợp khác
Có một số địa danh được h́nh thành do vị trí liên hệ đến giao thông, như ngă năm, ngă bảy, cầu, rạch… thêm vào đặc điểm của vị trí đó, hoặc tên riêng của một nhân vật có tiếng ở tại vị trí đó. Ở Sài G̣n có rất nhiều địa danh được h́nh thành theo cách này: Ngă Tư Bảy Hiền, Ngă Năm Chuồng Chó, Ngă Ba Ông Tạ… Ở Trà Vinh có Cầu Ngang đă trở thành tên của một quận. Trường hợp h́nh thành của địa danh Nhà Bè khá đặc biệt, đó là vị trí ngă ba sông, nơi gặp nhau của 2 con sông Đồng Nai và Bến Nghé trước khi nhập lại thành sông Ḷng Tảo. Lúc ṛng, nước của hai con sông đổ ra rất mạnh thuyền bè không thể đi được, phải đậu lại đợi con nước lớn để nương theo sức nước mà về theo hai hướng Gia Định hoặc Đồng Nai.
“Nhà Bè nước chảy chia hai,
Ai về Gia Định, Đồng Nai th́ về.”
Tương truyền có ông Thủ Huồng là một viên chức cai quản “Thủ” ở vùng đó, tham nhũng nổi tiếng. Có lần nằm mơ thấy cảnh ḿnh chết bị xuống âm phủ phải đền trả những tội lỗi khi c̣n sống. Sau đó ông từ chức và bắt đầu làm phúc bố thí rất nhiều; một trong những việc làm phúc của ông là làm một cái bè lớn ở giữa sông trên đó làm nhà, để sẵn những lu nước và củi lửa. Những ghe thuyền đợi nước lớn có thể cặp đó lên bè để nấu cơm và nghỉ ngơi. Địa danh Nhà Bè bắt nguồn từ đó.
5- Lời Kết
Miền Nam là đất mới đối với người Việt Nam, những địa danh chỉ mới được h́nh thành trong vài thế kỷ trở lại đây nên những nhà nghiên cứu c̣n có thể truy nguyên ra nguồn gốc và ghi chép lại để lưu truyền. Cho đến nay th́ rất nhiều địa danh chỉ c̣n lại cái tên mà ư nghĩa hoặc dấu vết nguyên thủy đă biến mất theo thời gian.
Thí dụ:
Chợ Quán ở đường Trần Hưng Đạo, Sài G̣n, bây giờ chỉ biết có khu Chợ Quán, nhà thờ Chợ Quán, nhà thương Chợ Quán… chứ c̣n nói là “cái chợ có cái quán” th́ đố ai mà t́m cho ra được.
Hoặc Chợ Đũi (có một số người tưởng lầm là Chợ Đuổi v́ người buôn bán hay bị nhân viên công lực rượt đuổi) ban đầu chuyên bán đũi, là một thứ hàng dày dệt bằng tơ lớn sợi, bây giờ mặt hàng đó đă biến mất nhưng địa danh th́ vẫn c̣n.
Ngoài ra, đất Sài G̣n xưa sông rạch nhiều nên có nhiều cầu, sau này thành phố được xây dựng một số sông rạch bị lấp đi, cầu biến mất, nhưng người dân vẫn c̣n dùng tên cây cầu cũ ở nơi đó để gọi khu đó, như khu Cầu Muối. Và cũng có một số địa danh do phát âm sai nên ư nghĩa ban đầu đă bị biến đổi nhưng người ta đă quen với cái tên được phát âm sai đó nên khi ghi chép lại, vẫn giữ cái tên đă được đa số chấp nhận, như Bến Lức, chợ Búng (Lứt là tên đúng lúc ban đầu, v́ nơi đó có nhiều cây lứt; c̣n chợ Búng nguyên thủy chỉ bán mặt hàng bún, sau này bán đủ mặt hàng và cái tên được viết khác đi).
Tái bút: Bài viết này được h́nh thành theo các tài liệu từ một số sách cũ của các học giả miền Nam: Vương Hồng Sển, Sơn Nam và cuốn Nguồn Gốc Địa Danh Nam Bộ của Bùi Đức Tịnh, với mục đích chia sẻ những hiểu biết của các tiền bối về tên gọi một số địa phương trên quê hương ḿnh.
Trần Văn Giang (ghi lại)
|
|