Mười lăm năm trước, trong một đêm mưa tầm tă, anh ta bỏ nhà ra đi. Chị Thu đứng thẫn thờ dưới hiên nhà, tay bế đứa con trai mới lên ba, mắt nh́n theo bóng chồng ḿnh dắt tay một cô gái trẻ leo lên chiếc xe máy rồi khuất dần trong màn mưa. Anh ta không ngoảnh đầu lại. Không một lời từ biệt.
Kể từ hôm đó, cuộc sống của chị Thu bước sang một trang khác – một trang mà bất kỳ người phụ nữ nào cũng không mong phải viết nên bằng mồ hôi, nước mắt và cả máu.
Chồng đi biền biệt, không một cuộc gọi, không một lá thư, cũng không gửi về đồng nào. Hàng xóm dị nghị, lời ra tiếng vào. Chị chỉ biết cắn răng chịu đựng. Bởi bên trong căn nhà cũ kỹ ấy, ngoài đứa con thơ, c̣n có mẹ chồng đă ngoài 70, tai gần như điếc, chân đi lại phải chống gậy. Người phụ nữ từng cầm trịch cả đại gia đ́nh này giờ chỉ c̣n lại một thân già bệnh tật và kư ức về đứa con trai “bất hiếu”.
Chị Thu không bỏ đi. Dù chẳng ai giữ. Dù ai cũng bảo: “Dại ǵ mà ở lại nuôi mẹ chồng, thằng chồng th́ mất dạy như thế.”
Nhưng chị không bỏ. Không v́ t́nh nghĩa vợ chồng – cái đó đă chấm dứt từ đêm mưa năm ấy – mà v́ nhân nghĩa làm người.
Mẹ chồng chị, bà Năm, từng là người khó tính, xét nét, không mấy khi dành cho con dâu một lời tử tế. Thời chị mới về làm dâu, bà xét nét từng miếng ăn, từng cách lau bàn, rửa bát. Chị khóc thầm nhiều đêm. Nhưng sau khi con trai bà bỏ đi, bà đổ bệnh liên miên, đôi mắt già nua thường đỏ hoe. Không ai nói ra, nhưng có lẽ chính bà là người đau khổ nhất trong câu chuyện phản bội ấy.
Chị Thu đi làm thuê, làm mướn khắp làng trên xóm dưới. Sáng dậy từ 4 giờ để nấu cơm, giặt giũ, chăm mẹ chồng. Trưa về tranh thủ chạy về đút cháo, thay tă, lau người cho bà. Tối lại thức khuya vá áo, nhận may gia công thêm để kiếm tiền mua thuốc.
Mười lăm năm. Không một lời than văn. Không một lần buông bỏ. Con trai chị, nay đă học cấp ba, là một đứa trẻ ngoan, hiền lành và thương mẹ vô cùng.
Mùa đông năm đó, bà Năm trở bệnh nặng. Bác sĩ bảo chỉ c̣n sống được vài tháng. Chị Thu xin nghỉ làm, ở nhà chăm bà toàn thời gian. Những ngày cuối đời, bà nói không ra tiếng nữa, nhưng ánh mắt vẫn luôn dơi theo con dâu.
Rồi bà mất vào một sáng sớm, khi trời c̣n chưa kịp sáng. Chị Thu phát hiện bà đă tắt thở trên giường, khuôn mặt thanh thản. Chị khóc, lần đầu sau nhiều năm, khóc nấc như một đứa trẻ.
Tang lễ diễn ra đơn sơ. Họ hàng có về, nhưng thưa thớt. Lạ thay, đến buổi chiều hôm ấy, khi chị đang dọn dẹp th́ một cán bộ xă cùng công an khu vực đến nhà với một tờ giấy niêm phong.
– “Chị Thu, chúng tôi nhận được thông báo từ luật sư của bà Năm. Bà có để lại di chúc và yêu cầu mở vào đúng 24 giờ sau khi bà mất. Gia đ́nh có ai ở đây không?”
Chị Thu bàng hoàng. Mẹ chồng chị có… di chúc?
Lúc đó, bất ngờ hơn nữa, chồng cũ của chị – người đàn ông đă biến mất 15 năm trước – cũng có mặt. Anh ta bước vào, gương mặt không có lấy một nét xấu hổ, dẫn theo một người phụ nữ lạ mặt và một đứa bé gái nhỏ chừng 10 tuổi.
– “Tôi là con ruột của bà Năm. Tôi có mặt để nhận phần tài sản theo di chúc.”
Chị Thu chết lặng.
Trong pḥng khách chật hẹp, trước sự chứng kiến của chính quyền địa phương và họ hàng hai bên, luật sư bắt đầu đọc di chúc.
Bản di chúc viết tay nhưng được công chứng cách đây 2 tháng. Giọng luật sư chậm răi, từng câu như khắc vào không khí ngột ngạt.
“Tôi – Nguyễn Thị Năm, sinh năm 1943, hiện cư trú tại số…, với đầy đủ minh mẫn, tự nguyện lập bản di chúc này như sau:
Toàn bộ tài sản bao gồm ngôi nhà đang ở, mảnh đất đứng tên tôi và số tiền tiết kiệm tại ngân hàng trị giá 860 triệu đồng, tôi để lại cho con dâu – Nguyễn Thị Thu, người đă chăm sóc tôi trong suốt 15 năm qua không một lời oán thán.
Con trai tôi – Nguyễn Văn Quân, do đă bỏ mặc mẹ già, vợ con, không quan tâm suốt thời gian dài, tôi tuyên bố truất quyền thừa kế theo Điều 621 Bộ luật Dân sự.
Nếu có bất kỳ ai phản đối di chúc này, tôi yêu cầu đưa ra pháp luật xử lư theo đúng quy định.”
Không khí lặng đi.
Chồng cũ chị Thu đứng bật dậy, đập bàn:
– “Không thể nào! Bà bị bà ta xúi giục viết như thế! Tôi là con ruột, tại sao bị truất quyền?!”
Luật sư b́nh thản:
– “Có camera ghi h́nh lúc bà Năm lập di chúc tại văn pḥng chúng tôi, có bác sĩ xác nhận sức khỏe bà hoàn toàn minh mẫn.”
Mọi ánh mắt đổ dồn về chị Thu. C̣n chị th́ bủn rủn tay chân. Suốt bao năm, chị chưa từng nghĩ đến tài sản. Chị chỉ muốn sống tử tế với lương tâm ḿnh. Vậy mà bà cụ… để lại tất cả cho chị.
Người đàn ông kia gào thét, đập phá đồ đạc, thậm chí lao tới xô đẩy chị Thu. Công an phải can thiệp ngay tại chỗ. Hắn bị khống chế và đưa về trụ sở v́ hành vi gây rối.
Vài ngày sau, một thông tin gây sốc được công bố: người chồng cũ của chị đă lén về quê vài tháng trước, t́m cách thuyết phục mẹ ḿnh chuyển tên sổ đỏ sang cho hắn. Khi bị từ chối, hắn đe dọa và có hành vi lén lút đổi sổ tiết kiệm giả. Bà Năm biết chuyện nhưng âm thầm chuyển toàn bộ tài sản sang tên người khác, đồng thời làm di chúc để bảo vệ con dâu.
Công an mở cuộc điều tra. Chị Thu trở thành người đại diện hợp pháp duy nhất của gia đ́nh theo di chúc. Căn nhà chị từng nghĩ ḿnh chỉ là “người ở tạm”, giờ thực sự là mái ấm của mẹ con chị.
Sau tất cả, chị Thu không hả hê. Chị chỉ cảm thấy nhẹ ḷng. Bà Năm đă ra đi nhưng để lại một sự công bằng – không phải bằng tiền, mà bằng sự thừa nhận công lao, sự hy sinh thầm lặng của một người phụ nữ không mang ḍng máu ruột thịt, nhưng sống đầy t́nh nghĩa.
Tấm bia trên mộ bà Năm có khắc ḍng chữ nhỏ phía sau – do chính bà yêu cầu trước khi mất:
“Cảm ơn con dâu – người con gái mà mẹ nợ một đời tử tế.”
VietBF@ sưu tập
|
|