LTS: Bài phỏng vấn dưới đây được đăng trên Tuần Việt Nam ngày 29-4-2011, nhưng sang ngày 1-5 thì bị gỡ bỏ, nay xin đăng lại ở đây.
36 năm sau ngày chiến thắng 30.4.1975, kết thúc chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, người áp giải Tổng thống chính quyền Sài Gòn ra Đài phát thanh tuyên bố đầu hàng quân cách mạng, Đại úy Phạm Xuân Thệ ngày ấy, bây giờ là Trung tướng Phạm Xuân Thệ, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, đã có một cuộc đối thoại thú vị với VietNamNet.
Trung tướng Phạm Xuân Thệ
Ngày 14.4.2011, theo quyết định số 541, do Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết ký, phong tặng Trung tướng Phạm Xuân Thệ danh hiệu Anh hùng lưc lượng vũ trang nhân dân thời kỳ chống Mỹ.
Thưa ông, cảm xúc khi nhận được quyết định phong tặng danh hiệu cao quý của Nhà nước cho một quân nhân?
Rất xúc động. Được Đảng, Nhà nước cùng đồng chí đồng đội trao tặng phần thưởng cao quý mang lại vinh dự cho bản thân tôi, gia đình, quê hương và nhất là những đồng đội đã cùng tôi sát cánh trong chiến trận, cả người còn sống và người đã hy sinh.

Phạm Xuân Thệ cùng ban chỉ huy E66 bàn phương áng đánh vào Sài Gòn
Lúc nào tôi cũng nghĩ những người còn sống qua cuộc chiến tranh như chúng tôi, là đang sống cả phần cuộc đời của những đồng đội đã hy sinh. Vâng, theo như trong suy nghĩ của tôi, tất cả những người như chúng tôi trực tiếp cầm súng, trực diện chiến đấu trên trận tuyến đánh quân thù đều là anh hùng.
Trận đánh đầu tiên và trận đánh cuối cùng
Thưa ông, khi nhập ngũ và là một tân binh mang quân hàm binh nhì, ông có nghĩ cuộc đời binh nghiệp sẽ mang ông đến vị trí một vị tướng trận?
Tôi nhập ngũ vào ngày 5.8.1967, lúc đó ước mơ trở thành một sĩ quan đã là một ước mơ lớn, làm chỉ huy là ước mơ không dám mơ..Nhưng rồi qua chiến trận, qua sự trưởng thành thử thách trong chiến đấu, dần dần tôi đã được cấp trên tín nhiệm giao cho các vị trí chỉ huy lần lượt từ cấp trung đội (B phó) lên dần Đại đội (C trưởng), rồi Trung đoàn (E phó E.66), Sư đoàn (F trưởng F.304), Tư lênh Quân đoàn 2, và Tư lệnh Quân Khu 1.
Trận đánh đầu tiên trong ký ức của ông như thế nào?
Khi đó tôi mới nhập ngũ, được tăng cường vào C11, D9. Trận đánh đầu tiên vào ngày 2.5.1968, với nhiệm vụ tập kích đại đội lính Mỹ ở điểm cao 425, phía tây Khe Sanh. Đơn vị tôi sau khi tiêu diệt địch đã làm chủ trận địa, một số đơn vị rút về phía sau, riêng trung đội của tôi thì được lệnh chốt giữ. Và 2 ngày đêm ác chiến sau đó thật dữ dội vì bộ binh Mỹ tấn công hòng chiếm lại cao điểm.
Lần đâu ra trận tôi cũng rất sợ, không biết khi thấy kẻ địch mình sẽ như thế nào. Nhưng rồi khi tiếng sung vang lên khai hỏa trận chiến thì tôi không cảm thấy sợ, mà chỉ nghĩ hãy nhanh chóng phát hiện kẻ địch và tiêu diệt.

Phạm Xuân Thệ gặp Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh tại bậc cầu thang Dinh Độc Lập
Được biết ông có một biệt danh “Cơn lốc động Cô Tiên”?
À, đó là anh em trong đơn vị vui đùa và yêu mến đặt cho biệt danh. Nhưng đó cũng là một kỷ niệm chiến trận: Lần đầu tôi bị thương khắp người ở vai, cổ, tay… do đạn cối cá nhân của đối phương. Nhưng đó là trận đánh tôi không thể quên.
Ngày 2,6.1970, tiểu đoàn của tôi đã đánh tan 1 tiểu đoàn và sở chỉ huy của E56 quân Sài Gòn vừa nhảy dù xuống động Cô Tiên, bác Quảng Trị. Có thể do lúc đó ở vị trí chỉ huy, tôi đưa ra cách đánh xông xáo, táo bạo, dũng cảm và lần đầu tiên một tiểu đoàn của ta tiêu diệt gọn một tiểu đoàn của địch.. được Bộ Tư lệnh QK Trị Thiên công nhận, nên đồng đội đặt cho biệt danh.
Thế còn trận chọc thủng “Mắt ngọc” Thượng Đức?
Đây là trận đánh lớn nhất của tôi cho tới lúc bấy giờ. Tôi ở vị trí Tiểu đoàn trưởng D9. Khoảng tháng 6-7.1974, E66, F304 nhận được lệnh từ BTL Quân đoàn 2 vào mặt trận Quảng Đà, cùng các đơn vị thuộc Quân khu 5 tiến đánh và giải phóng quận lỵ Thượng Đức ở phía Tây TP Đà Nẵng (nay là huyện Đại Lộc, Quảng Nam). Thượng Đức lúc đó được Tỉnh trưởng Quảng Nam mệnh danh là “Cánh cửa thép” của Đà Nẵng, còn Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu của chính phủ Sài Gòn thì ví căn cứ này là “Mắt ngọc của đầu rồng”. 10 ngày chiến đấu kiên cường và ác liệt, từ 5.30 giờ ngày 29.7.1974 đến 8.30 giờ ngày 7.8.1974, ta đã làm chủ Thượng Đức. Nhưng cái giá phải trả cũng khá đắt, địch bị tiêu diệt 2000 quân, bên ta hy sinh 1.028 đồng chí.
Khuấy đục Nước Trong có phải là trận đánh cuối cùng?
Chính xác là trận đánh căn cứ Nước Trong, Long Bình là trận đánh lớn cuối cùng. Vì sau trận này, đơn vị chúng tôi tiến quân áp sát Sài Gòn, chỉ đánh lẻ tẻ trên đường. Ngày 21.4.1975, E66 được lệnh đánh chiếm cứ điểm này. Tôi được lệnh trực tiếp chỉ huy D8, đánh cầu Bình Tuy thọc vào thị xã Hàm Tân, sau 2 giờ giao tranh, ta làm chủ thị xã. Sáng 23.4.1975 đến đồn điền cao su Ông Quế cách Sài Gòn 60km, lúc này tôi mới biết đơn vị đang tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng Sài Gòn.

E phó Phạm Xuân Thệ đưa TT Dương Văn Minh ra xe đến Đài phát thanh Sài Gòn
Theo kế hoạch tác chiến của chiến dịch, để tiến đánh Sài Gòn từ phía Đông, Quân đoàn 2 cần thành lập một binh đoàn thọc sâu, E66 cùng các đơn vị tiến đánh căn cứ Nước Trong và tổng kho Long Bình. Khi các E9, E24 đánh xong trận Nước Trong, một phần tổng kho Long Bình thì cùng E66 tiến thẳng vào nội đô TP Sài Gòn. Đích cuối cùng là Đài phát thanh Sài Gòn, Bộ Tư lệnh Hải quân quân đội Sài Gòn và Dinh Độc lập.
Chiều 27.4.1975, tôi chỉ huy D9 bộ binh lên tăng cường cho E9 tiếp tục đánh chiếm căn cứ Nước Trong. Đến trưa 28.4.1975 quân ta hoàn toàn làm chủ căn cứ Nước Trong. Đây là trận đánh quan trọng góp phần đưa các binh đoàn của ta triệt tiêu sinh lực địch, áp sát Sài Gòn.
Tiếp đó, ngày 29.4.1975, binh đoàn thọc sâu của Quân đoàn 2 gồm E66, Lữ đoàn xe tăng 203, pháo binh, công binh, đặc công và các binh chủng phục vụ chuẩn bị tiến đánh vào Sài Gòn. 17giờ ngày 29.4.1975, 400 xe của binh đoàn hành quân vào nội đô.
Sáng 30.4.1975, binh đoàn thọc sâu chiến đấu một trận ác liệt tại cầu Sài Gòn, cửa ngõ của nội đô. 11 giờ 30 phút, cờ quân giải phóng tung bay trên nóc dinh Độc lập báo hiệu phút đầu tiên của hòa bình.
Những chuyện bây giờ mới kể
Thưa ông, trong một số tài liệu tổng kết chiến dịch Hồ chí Minh có ý kiến cho rằng một số trận đánh của ta là không cần thiết, như đánh Xuân Lộc, đánh cầu Rạch Chiếc… thương vong của ta rất nhiều, mà không cần phải chiếm giữ những nơi đó ta vẫn vào Sài Gòn được. Ý kiến ông như thế nào?
Thật ra đây là vấn đề thuộc cấp cao hơn cho ý kiến vì còn nhiều vấn đề tranh cãi do cách nhìn nhận khác nhau trận đánh. Nhưng theo ý riêng của tôi, thì lúc đó, dù có 5 mũi đánh vào Sài Gòn, không mũi này thì mũi kia, song không chỉ huy cánh quân nào chịu “lùi” hay “dừng” nhường cho cánh quân khác vào Sài Gòn. Vì tất cả chiến dịch tập trung vào một mục tiêu là Sài Gòn, cũng là trận quyết chiến cuối cùng để dành toàn thắng. Ai cũng muốn vào Sài Gòn nên bất kỳ gì cản trở cho mũi tấn công của mình là phải đánh chiếm nhằm giải phóng đường tiến quân.
Lúc đó thế lực của ta đều mạnh nhưng sao lại hy sinh nhiều thế ở 2 trận chiến đó?
Ở Xuân Lộc do công tác trinh sát thiếu sót nên không báo cáo đầy đủ hỏa lực địch. Đây là nơi mà cho tới lúc đó tập trung gần như sức mạnh vũ khí của quân đội Sài Gòn và lực lượng quân đội Sài Gòn ở đây thì quyết tâm tử thủ.
Còn trận đánh cầu Rạch Chiếc, theo tôi là quân Sài Gòn đã bị dồn tới đường cùng, bất chấp lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh không được bắn nhau với quân giải phóng. Nên chúng điên cuồng chống trả, quyết giữ cây cầu vào Sài Gòn nên mới xảy ra giao tranh dữ dội ở đây với đơn vị giữ cầu.
Khi ngồi trên chiếc xe Jeep lao vào dinh Độc Lập, khi bước vào phòng khánh tiết để bắt gọn toàn bộ nội các chính quyền Sài Gòn, khi áp giải Tổng thống chính quyền Sài Gòn ra Đài phát thanh, khi có mặt và giám sát lúc Tổng thống Dương Văn Minh đọc lời tuyên bố đầu hàng…ông có nghĩ lúc đó mình đã trở thành nhân vật gắn với sự kiện lịch sử kết thúc chiến tranh Việt Nam?
Không, lúc đó tôi chẳng nghĩ gì ngoài việc làm đúng nhiệm vụ cấp trên đã quán triệt khi vào chiến dịch. Trong tôi chỉ nghĩ làm sao nhanh nhất đưa được Tổng thống chính quyền Sài Gòn ra Đài phát thanh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện quân cách mạng.
Chính vì thế mà tôi không ý thức được việc phải giũ lại “vật chứng” là mảnh giấy thảo lời tuyên bố đầu hàng để Tổng thông Dương Văn Minh đọc, gây ra nhiều tranh cãi về sự kiện đó sau này. Vâng, chiều đó tôi đã tắm giặt (sau bao nhiêu ngày không được tắm), mảnh giấy nhét trong túi áo đã bị vò nát.
Ngay cả chiếc xe Jeep chiến lợi phẩm lấy ở sân bay Đà Nẵng, chở Tổng thống Dương Văn Minh ra Đài phát thanh Sài Gòn trưa 30.4.1975, sau đó mang ra Hà Nội, rồi bị hỏng, và thành đống sắt vụn bán phế liệu. Cái trong bảo tàng bây giờ chỉ là xe “phiên bản”.

Trung đoàn phó Phạm Xuân Thệ áp giải TT Dương Văn Minh ra Đài phát thanh Sài Gòn trưa 30.4.1975
Kỷ niệm nào ông nhớ nhất mà bây giờ mới kể vào ngày 30.4.1975?
Một kỷ niệm mà cho tới lúc này tôi cũng không hiểu tại sao lúc đó tôi lại bị mắng té tát, thậm chí bị dọa đưa ra tòa án binh. Vâng, sau khi đưa Tổng thống chính quyền Sài Gòn trở lại Dinh Độc Lập, thì lúc đó toàn bộ ban chỉ huy, bộ tư lệnh Quân đoàn 2 có mặt gồm các tướng Nguyễn Hữu An, tướng Hoàng Đan, Phó chính ủy Quân đoàn Công Trang.
Phó Chính ủy Công Trang khi thấy tôi đã quát thẳng vào mặt: “Anh ở đâu? Anh ở đơn vị nào? Ai cho phép anh tự ý đưa Tổng thống Dương Văn Minh đến Đài phát thanh? Nếu anh làm sai tôi cách chức anh, bỏ tù anh…”. Tôi tức cũng quát lại (vì không biết ông ta là ai, hồi đó không phải lính nào cũng biết mặt các chỉ huy cấp trên): “Tôi đưa Tổng thống Dương Văn Minh đi đọc tuyên bố đầu hàng, anh làm gì mà nhắng lên”. Lúc đó tôi nhìn thấy mặt ông ta rất tức giận.
May mà có sư trưởng trực tiếp của tôi là Nguyễn Ân (F.304) nói: “Nó là thằng Thệ, E phó E66. Sai đâu để sau. Cho nó về chỉ huy đơn vị”. Thế là tôi chạy một mạch ra chiếc xe Jeep, chạy thẳng về đơn vị đang đóng quân ở quân cảng Sài Gòn.
Thế rồi câu chuyện ra sao?
Tối đó, chúng tôi được ăn rất ngon, có thịt gà tươi, rượu champagne, nhưng đêm đó tôi không thể ngủ được dù rất mệt. Tôi nghĩ lại vụ buổi chiều, lo lắng không biết cấp trên xử ra sao. Sáng hôm sau, Sư trưởng Nguyễn Ân cho tôi hay, ban chỉ huy và cấp trên cho ý kiến việc tôi xử lý như vậy rất tốt. Thế là tôi thở phào, yên tâm.
Tôi vẫn chọn binh nghiệp
Có một câu nói: “Người lính nào đi qua chiến tranh cũng có một nỗi buồn”. Riêng ông có nỗi buồn nào không khi đã gần như đạt được mọi ước mơ của cuộc đời binh nghiệp?
Nỗi buồn trong tôi chính là khi nghĩ về đồng đội. Nghĩ về những trận chiến mà mình chỉ huy đã không tốt để đồng đội thương vong nhiều. Ví dụ như trận Thượng Đức, khi tôi trở lại nơi đây năm 2010, tôi đã cúi đầu tạ lỗi trước vong linh đồng đội hy sinh nơi này.
Trong chiến tranh điều gì ông cho là quan trọng nhất?
Tinh thần và sự chấp hành quân lệnh.
Với con mắt của một tướng trận, theo ông sức mạnh của một đội quân là ở đâu?
Vũ khí là quan trọng. Con người là quyết định.

Tổng thống Dương Văn Minh đọc tuyên bố đầu hàng tại Đài phát thanh trưa 30.4.1975
36 năm chiến tranh đã lùi xa, có khi nào trong ông không còn nghĩ gì về chiến tranh?
Không, tôi vẫn luôn nghĩ về chiến tranh. Vì Việt Namlà một đất nước có vị trí chiến lược quan trọng trong khu vực, luôn ở vị thế đầu sóng ngọn gió. Vì đất nước ta đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh trong lịch sử, nên không thể không nghĩ về chiến tranh. Và hiện giờ trên thế giới, vẫn có nhiều cuộc chiến tranh đang diễn ra dù dưới nhiều hình thức khác nhau hay mục đích gì.
Nếu như Việt Nam xảy ra chiến tranh trong tương lai?
Cũng phải tùy thuộc vào đối tượng tác chiến, tùy vào thời điểm, quy mô mà ta có hình thức đáp trả. Nhưng điều quan trọng nhất đã được đúc kết từ lịch sử và trải qua thực tế hai cuộc chiến tranh chống Pháp- Mỹ, nghệ thuật quân sự của ta chính là chiến tranh nhân dân. Chính điều này kiến tạo nên chiến thắng và sẽ chiến thắng bất kể kẻ nào dù có mạnh đến đâu.
Ông có thể nói một điều gì với những đồng đội thế hệ trẻ?
Lúc nào cũng phải sẵn sàng chiến đấu, luôn cảnh giác, không được mơ hồ ảo tưởng vào hòa bình. Phải biết vận dụng khoa học kỹ thuật, làm chủ phương tiện vũ khí hiện đại, làm chủ chiến trận, khả năng tác chiến cao, giành thế chủ động trong mọi tình huống. Luôn học tập phát huy truyền thống bảo vệ tổ quốc của cha ông các thế hệ đi trước.
Nhà báo Đậu Ngọc Đản và Trung tướng Phạm Xuân Thệ.
Nếu cho chọn lưa lại, ông sẽ chọn nghề gì?
Vẫn chọn binh nghiệp. Dù đất nước hòa bình thì vẫn cần phải bảo vệ nền hòa bình ấy thật bền vững. Vẫn cần những người lính như chúng tôi.
Ông thích được gọi là “Tướng trận” hay ..?
Tôi thích được gọi là “Cựu chiến binh”. Dù là tướng thì cũng vẫn là người lính của Quân đội Nhân dân ViệtNam.
Cảm ơn ông về cuộc đối thoại này. Chúc ông sức khỏe và chúc mừng ông được phong tặng danh hiệu anh hùng LLVTND nhân dịp kỷ niệm ngày 30.4.2011, ngày chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, Việt Nam hòa bình thống nhất./.
Hoài Hương thực hiện
Theo:
VSK.