...muốn bán nhà ở Cali, chạy qua Texas kiếm việc cũng không được...
Thống kê Tháng Giêng vừa qua cho thấy t́nh h́nh công ăn việc làm vẫn không có tiến triển tốt đẹp ǵ cho lắm. Trong tháng, số người có việc gia tăng lên được 36.000. Dĩ nhiên là tốt hơn thống kê cho thấy hàng chục ngàn người mất việc. Nhưng thực tế là con số này không thấm thiá vào đâu so với nhu cầu giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Chỉ tính theo đà tăng trưởng của dân số Mỹ nói chung, mỗi tháng cần phải có tối thiểu 150.000 người có việc làm mới th́ mới duy tŕ được t́nh trạng thất nghiệp nguyên mức, hay là gần 9,8% hiện nay. Ít hơn th́ dĩ nhiên tỷ lệ thất nghiệp sẽ tiếp tục gia tăng.
Nói cách khác, con số người mới có việc trong Tháng Giêng chỉ mới bằng một phần tư nhu cầu để duy tŕ t́nh trạng “vũ như cẩn”, vẫn như cũ. Tức là tỷ lệ thất nghiệp trong Tháng Giêng đă không dậm chân tại chỗ, mà vẫn tiếp tục leo thang.
Thống kê chính thức cho thấy tỷ lệ thất nghiệp trong Tháng Giêng đă giảm từ 9,4% hồi Tháng Chạp xuống 9,0%. Tuy nhiên theo các chuyên gia, sự giảm sút này không phải là do nhiều người có việc làm hơn, mà là do nhiều người chán nản không ghi tên kiếm việc nữa thôi. Những người này theo cách tính thống kê của Mỹ đă không bị xếp hạng vào thành phần thất nghiệp. Một cách tính lạ lùng!
Các chuyên gia ước tính nội trong Tháng Giêng, đă có hơn 300.000 người bỏ cuộc. Nếu kể cả những người thất nghiệp nhưng không đi kiếm việc nữa th́ tỷ lệ thất nghiệp thực thụ ở Mỹ hiện nay là hơn 16%, tức là gần 14 triệu người, trong đó có khoảng sáu triệu rưởi người đă t́m không ra việc làm từ hơn 6 tháng. Ở cái xứ Mỹ này, chúng ta đều biết thất nghiệp trên sáu tháng coi như không c̣n hy vọng t́m ra việc tương đương hay cùng ngành với nghề cũ nữa. Chỉ c̣n nước thất nghiệp luôn hay đổi nghề hay chấp nhận qua mức lương thấp hơn nhiều.
Con số 36.000 việc mới này thấp hơn dự đoán của các chuyên gia. Trước đó, các chuyên gia kinh tế ước tính sẽ có thêm 145.000 việc mới trong tháng. Thực tế là khu vực tư tạo ra được 50.000 việc làm, nhưng khu vực công lại sa thải thêm 14.000 người.
Ảnh minh hoạ - Google
Trong Tháng Giêng, mức lương trung b́nh tính theo đầu người gia tăng chút đỉnh. Không phải các công ty có lời nhiều nên tăng lương nhân viên, mà chỉ phản ánh chuyện các công ty bắt nhân công đang làm phải làm nhiều giờ hơn, thay v́ đi thuê nhân công mới, hay thu nhận lại nhân công mới bị sa thải.
Không cần nh́n kỹ chi tiết thống kê, ta cũng biết phần lớn những người t́m không ra việc là những người không có tay nghề chuyên môn, hay không có bằng cấp cao học, và những người cở tuổi gần về hưu, khoảng tuổi 50. Thống kê Mỹ không có nghiên cứu t́nh h́nh dân tỵ nạn chúng ta nói riêng, nhưng hiển nhiên là đại đa số dân tỵ nạn thế hệ một đang hết sức chật vật, vừa lớn tuổi lại vừa không có bằng cấp Mỹ. Bù lại, tin vui hơn là dân tỵ nạn thế hệ thứ hai phần lớn là có học, cộng thêm vào óc thông minh và tính siêng năng, nên cũng tương đối không bị khó khăn như lớp cha anh.
Thống kê cho thấy các ngành có nhu cầu thuê người nhiều nhất hiện nay là công nghệ thông tin (information technology) và kỹ sư, là những ngành mà giới trẻ Việt Nam theo đuổi khá nhiều. Cũng là một tin tốt cho cộng đồng chúng ta.
Ngành bị mất việc nhiều nhất trong năm qua dĩ nhiên là xây cất, với ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng gia cư vẫn c̣n. Người ta ước đoán phải ít ra là hai năm nữa th́ ngành xây cất mới có cơ phục hồi được.
T́nh trạng thất nghiệp dai dẳng có vẻ như tréo cẳng ngỗng với các tin tức về phục hồi kinh tế.
Cách đây cả nửa năm, TT Obama đă quảng bá là khủng hoảng kinh tế đă được ngăn chặn lại từ giữa năm 2009, và từ đó đến nay, có thể nói là “kinh tế đă phục hồi”.
Các chỉ số kinh tế đúng ra đă cho thấy kinh tế đă thực sự phục hồi.
Theo tin tức báo chí, tiền lời của các đại công ty điện toán như IBM, Xerox,… đều đang đạt kỷ lục. Sinh hoạt trong các ngành chế biến đang ở mức cao nhất từ 2004. Một chỉ dấu quan trọng nữa là các chỉ số trên thị trường chứng khoán Dow Jones và Nasdaq, đang lên đến mức cao nhất từ ba năm nay, tức là đă trở về mức của thời trước khủng hoảng tài chánh cuối năm 2008.
Điều đáng nói là mặc dù kinh tế đă hồi phục, nhưng việc làm vẫn không thấy đâu.
Hơn hai năm sau khi TT Obama tung ra cả ngàn tỷ đô kích cầu kinh tế để gọi là tạo công ăn việc làm, tỷ lệ thất nghiệp vẫn hầu như đứng nguyên tại chỗ ở mức gần 10%. TT Obama và truyền thông cấp tiến loay hoay t́m câu giải thích cho sự thất bại, chỉ biết ca bài… đổ thừa cho Bush. Nếu lỗi tại Bush, tại sao TT Obama lại thay thế nguyên ê-kíp kinh tế mà chính ḿnh đă bổ nhiệm?
Ảnh minh hoạ - Google
Trong khi đó, khối bảo thủ quả quyết chương tŕnh kích cầu kinh tế của TT Obama ngay từ đầu đă không phải là một chính sách có mục đích tạo công ăn việc làm. Chương tŕnh kích cầu kinh tế nh́n chung không có tác dụng nhiều trong ngắn hạn, tất nhiên không thể giải quyết nạn thất nghiệp ngay bây giờ. V́ chương tŕnh đó thực sự ra là một chương tŕnh dài hạn nhằm mục đích tái phân phối lợi tức trong xă hội Mỹ, có thể nói là bị che lấp dưới chiêu bài tạo công ăn việc làm.
Thực tế như vậy th́ dĩ nhiên những chương tŕnh kích cầu kinh tế đă chẳng kích được ǵ và nạn thất nghiệp vẫn c̣n nguyên.
Đại đa số người dân Mỹ đă nh́n rơ sự thật và đi bỏ phiếu Tháng Mười Một vừa qua. Bây giờ th́ dường như TT Obama nghe được tiếng nói của dân và đang có khuynh hướng chú tâm nhiều hơn vào vấn đề thất nghiệp và thật sự t́m cách giải quyết.
Nhưng có ư định là một chuyện, đối phó với thực tế là chuyện khác. Thực tế có rất nhiều vấn đề.
Đầu tiên là nhiều ngành công kỹ nghệ Mỹ càng ngày càng cơ giới hóa, điện toán hóa, do đó càng ngày càng ít nhu cầu nhân sự. Cuộc khủng hoảng hai năm trước đă cho họ cơ hội thanh lọc thêm nhân sự, sa thải thêm người, và chú trọng hơn vào computer. Mặc dù sa thải người, nhưng cuối cùng th́ các công ty không những không thu rút nhỏ lại, mà lại vẫn tiếp tục bành trướng, mỗi ngày mỗi lời nhiều hơn. Bây giờ không có lư do ǵ họ lại đổi sách lược, trở về thuê các nhân công cũ.
Cũng trong thời gian gần đây, một số lớn các đại công ty cũng đă chuyển cơ sở họ ra nước ngoài, thi hành chính sách gia công cho các nước chậm tiến lương thấp như Việt Nam, Bangladesh,…. Từ đó, họ càng ngày bành trướng doanh thu, càng lời trong khi càng dùng ít nhân công Mỹ. Phần lớn doanh thu và tiền lời của các đại gia là tiền từ các cơ sở ở ngoài nước Mỹ. Họ chẳng có lư do ǵ đóng cửa các cơ sở ở các nước ngoài để mang các hăng xưởng của họ về Mỹ, mướn thêm nhân công Mỹ. Nhất là trong bối cảnh một chính quyền Obama suốt ngày đ̣i tăng thuế các “đại gia”.
Các chuyên gia đều có nhận định chung là chính quyền Obama là chính quyền ít thân thiện với giới kinh doanh nhất trong lịch sử cận đại Mỹ. Tuy TT Obama đưa ra vài thông điệp mới để chiêu dụ lại giới kinh doanh, chẳng hạn như bổ nhiệm tài phiệt Daley làm Chánh Văn Pḥng, đi gặp mặt Pḥng Thương Mại Mỹ, ca tụng chế độ kinh tế thị trường Mỹ, v.v…, nhưng dù sao th́ cũng vẫn c̣n là… thông điệp, chưa có ǵ cụ thể. Trái lại, trong diễn văn mới đây của TT Obama trước Pḥng Thương Mại, ông c̣n hô hào các doanh gia nên tự hỏi ḿnh có thể làm ǵ được cho nước Mỹ (“ask yourself what you can do for America”, bắt chước theo thông điệp nổi tiếng của TT Kennedy ngày xưa). Nói nôm na ra là ông đang trách các doanh gia Mỹ đă không chịu làm ǵ để tạo công ăn việc làm cho dân Mỹ, hoặc giả đang cố kích thích ḷng yêu nước của các doanh gia Mỹ. Làm như thể các doanh gia tài phiệt đều có thể v́ ḷng yêu nước, mang cơ sở ở nước ngoài trở về Mỹ để tạo công ăn việc làm cho dân Mỹ, đóng thuế nhiều hơn cho TT Obama, và cũng giúp ông đắc cử lại hai năm nữa. Không biết TT Obama có biết ông đă đ̣i hỏi quá nhiều không?
Một vấn đề nữa là việc di chuyển của dân Mỹ đi kiếm việc làm. Trong quá khứ, dân Mỹ nổi tiếng là loại dân phiêu bạt giang hồ, sẵn sàng bán nhà đổi tỉnh, đổi tiểu bang để đi t́m việc làm. Do đó, vấn đề thất nghiệp cao thường không kéo dài lâu, khác với t́nh trạng hiện tại. Bây giờ th́ sự di chuyển của lực lượng lao động Mỹ không c̣n dễ dàng như trước. Không phải nói “Cali không có việc làm, bán nhà đi Texas” là được ngay. V́ cùng với khủng hoảng kinh tế là cuộc khủng khoảng gia cư lớn nhất lịch sử Mỹ. Bây giờ thiên hạ có muốn bán nhà ở Cali, chạy qua Texas kiếm việc làm cũng không được, v́ nhà Cali không bán được dễ dàng nữa.
Một khúc mắc lớn nữa là chính sách vung tay quá trán, tiêu xài như nước trong hai năm đầu của TT Obama. Những chi tiêu quá mức đó đă tạo ra những lỗ thâm thủng ngân sách vĩ đại chưa từng thấy trong lịch sử Mỹ. Dưới thời TT Roosevelt thập niên ba mươi, cuộc khủng hoảng kinh tế và nạn thất nghiệp đă được Nhà Nước giải quyết bằng cách mau chóng tung ra hàng loạt chương tŕnh vĩ đại như xây đường xá, đập nước, đường xe lửa… để tạo công ăn việc làm. Ngày nay, trước những thâm thủng ngân sách đă quá lớn, TT Obama không thể nào lại tung thêm tiền tài trợ các dự án vĩ đại kiểu Roosevelt nữa. Cho dù có muốn làm liều nữa th́ ông cũng đă bị dân Mỹ khóa tay khi họ trao đa số kiểm soát Hạ Viện cho đảng Cộng Ḥa. Thông điệp của dân Mỹ: tiêu xài như vậy đă quá nhiều rồi tổng thống ơi! Bây giờ không có tiền th́ cũng khó tạo công ăn việc làm để giải quyết nạn thất nghiệp.
Nạn thất nghiệp cao hiện nay không có triệu chứng giảm sút ǵ trong tương lai gần. Nhiều người lạc quan nhất đă ước tính phải mất ít ra là 5 năm nữa, may ra tỷ lệ thất nghiệp mới xuống lại mức của thời TT Bush. Những người bi quan th́ ước đoán phải cần… 10 đến 15 năm. Đây là một tin không vui tư nào cho TT Obama. Hai năm nữa ông phải trực diện lại với dân Mỹ. Nếu tỷ lệ thất nghiệp vẫn lửng lơ ở mức 9%-10% hiện nay th́ sẽ khó cho ông giải thích với dân Mỹ. Bốn năm nữa mà ông vẫn… đổ thừa cho Bush th́ sẽ không ổn.
Dân Mỹ là dân không có kiên nhẫn, cũng không muốn nghe những lời phân trần. Họ chỉ muốn thấy kết quả cụ thể: làm được việc hay không làm được việc. Cuối tháng họ có tiền lương hay không, có bánh ḿ trên bàn ăn hay không. Không cần giải thích, mà cũng chẳng biết t́nh cảm là ǵ.
Phải chi TT Obama đặt ưu tiên thực sự cho việc giải quyết nạn thất nghiệp ngay từ đầu, ngay từ trong chương tŕnh kích cầu kinh tế năm 2009, th́ có lẽ t́nh trạng đă không khó khăn như ngày nay, lại có thể cứu văn được nhanh chóng, như TT Bush đă làm trong cuộc khủng hoảng dot.com năm 2000. Chỉ tiếc là giải quyết nạn thất nghiệp chưa hề là ưu tư của TT Obama trong suốt hai năm đầu của ông, cho đến cuộc bầu cử giữa mùa Tháng Mười Một vừa qua. Quá muộn.
Điều buồn cười là sau khi nắm đa số tại Hạ Viện trong 4 năm (từ 2006) mà chỉ thấy tỷ lệ thất nghiệp leo thang vùn vụt, đảng Dân Chủ bây giờ tung ra chiến dịch hạch hỏi đảng Cộng Ḥa “việc làm đâu?” ngay sau khi Cộng Ḥa vừa chiếm được đa số chưa tới một tháng rưỡi. C̣n treo bảng ở Hạ Viện đếm ngày Cộng Ḥa nắm đa số mà không giải quyết được nạn thất nghiệp: 40 ngày! Ai dám nói chính khách đều không c̣n là trẻ con nữa? Hay họ coi chúng ta là con nít ?
Vu Linh-Viet Bao