Bắt đầu hành tŕnh, mỗi tàu không số đều được gắn thuốc nổ, khi chiến đấu với địch và nhận thấy không thể vượt qua, thuyền trưởng sẽ cho mở kíp nổ phá hủy tàu, đảm bảo bí mật và không để vũ khí rơi vào tay kẻ thù.
Nguyên là trưởng tiểu ban tác chiến, huấn luyện, người làm kế hoạch tác chiến cho tàu không số đi vào 19 bến thuộc các tỉnh Nam Bộ, ông Nguyễn Hữu Tuần cho hay, để giữ bí mật tuyệt đối, tất cả các khâu đều được bảo mật. Những vùng xây dựng cầu cảng, bến băi phải di dân, khoanh vùng nhưng cả chính quyền và người dân đều không biết bên trong dùng làm ǵ. Riêng đội đóng tàu được tuyển chọn kỹ, đóng tàu hai đáy và cũng không biết tàu đó được giao cho ai, chở ǵ.
“Thuyền trưởng và thủy thủ tàu không số không được tiết lộ nhiệm vụ với gia đ́nh. Trước mỗi hành tŕnh, họ phải gửi lại giấy tờ, ghi địa chỉ quê quán, người thân, chụp ảnh để lưu lại trong hồ sơ. Chúng tôi ngầm hiểu với nhau đó là những lần truy điệu sống để không may hy sinh c̣n có thông tin gửi về địa phương. Thế nhưng ai cũng quyết tâm chiến đấu v́ đất nước, có thủy thủ không được đi đă bật khóc”, ông Tuần kể.
Vị chỉ huy kế hoạch tác chiến cho hay, mỗi chiếc tàu rời bến đều được gắn thuốc nổ xung quanh. Khi chiến đấu với kẻ thù và cảm thấy không thể vượt qua, thuyền sẽ được phá huỷ để đảm bảo bí mật và không để vũ khí rơi vào tay địch. Mọi giấy tờ, căn cước chiến sĩ mang theo cũng được làm giả, tàu đi đến địa phận nào tùy t́nh h́nh mà thay biển số cho hợp lư, đề pḥng địch kiểm tra, phát hiện.
|
Trung tá Hồ Đắc Thạnh, nguyên thuyền trưởng tàu 41. Ảnh: Trọng Thiết. |
Giọng bùi ngùi, trung tá Hồ Đắc Thạnh, nguyên thuyền trưởng tàu 41 cho hay, ông và đồng đội nhiều lần đối mặt với kẻ thù, chiến đấu anh dũng, nhưng cuối cùng phải cho nổ tàu v́ không đủ sức đánh lại địch với lực lượng hùng mạnh. Ông kể, tàu 41 là tàu vỏ sắt đầu tiên được lựa chọn vận chuyển vũ khí vào bến khu 5. Tàu do ông làm thuyền trưởng, ông Trần Hoàng Chiều làm chính trị viên cùng 19 thủy thủ và 3 người là quân giải phóng được tỉnh ủy Phú Yên cử ra miền Bắc xin vũ khí.
Đêm 14/11/1964, tàu rời bến Băi Cháy, 12 ngày sau th́ vượt qua giới tuyến tạm thời trên biển. Sáng 27/11, đột ngột có máy bay địch từ đất liền bay đến lượn trên tàu nhiều lần. Sau khi hội ư, ông lệnh cho thuỷ thủ mang cờ của chính quyền Việt Nam cộng ḥa kéo lên đỉnh cột buồm, đồng thời mang cá, mực đă chuẩn bị sẵn giả vờ tụ tập ngồi nhậu.
Chiếc máy bay tiếp tục bay lượn kiểm tra, hai tàu khác của địch từ đất liền tiến ra áp mạn song song với tàu 41. Một chiếc sau đó tách đội h́nh, các khẩu pháo trên tàu địch đều được mở bạt che, hướng ṇng súng về phía tàu ta sẵn sàng nhả đạn. “Chúng tôi vẫn giả vờ ngồi nhậu, mặt khác bí mật chuẩn bị các loại súng B40, B41, lựu đạn chống tăng, bộc phá… sẵn sàng chiến đấu. Trong trường hợp cần thiết sẽ lao về phía tàu địch và cho nổ tung”, thuyền trưởng Thạnh kể.
Tuy nhiên, sau hai giờ theo dơi không phát hiện nghi vấn, địch cho tàu tăng tốc chạy vào bờ. Tàu 41 thẳng tiến đến đích và khi cách khoảng một hải lư, tàu thả trôi chờ tín hiệu của bến. “Khi phía bờ có ánh đèn pin chớp lên rồi vụt tắt, chúng tôi sung sướng v́ từ đó chúng ta đă có thêm một bến mới, bến Vũng Rô”, trung tá Thạnh hồ hởi nói.
Ông cho hay, tàu 41 dường như có duyên với những cái mới. Năm 1966, khi Mỹ tổ chức lực lượng đặc nhiệm ken dày chốt các cửa sông, tàu được giao nhiệm vụ vận chuyển vũ khí vào chiến trường khu 5, vào băi ngang Đức Phổ, Quảng Ngăi. Đây là lần đầu tiên sử dụng phương pháp thả hàng xuống biển, đánh dấu để bến vớt lên dần.
|
Con tàu mang số hiệu 41 (nay được đổi là HQ 671) là tàu không số duy nhất c̣n lại hiện nay. Ảnh: Trọng Thiết. |
Trước chuyến đi, để làm quen với địa h́nh nơi tàu đến, thủy thủ tàu 41 có gần nửa tháng luyện tập với đặc công nước ở băi biển Đa Lạt (Thái B́nh). Đêm 19/11/1966 tàu rời bến. 8 ngày sau th́ đến đúng địa điểm nhưng không nhận được tín hiệu hiệp đồng. Hai thủy thủ thông thạo nghề biển, bơi giỏi, mang áo phao và vũ khí cá nhân nhận nhiệm vụ bơi vào bờ bắt liên lạc với bến, lực lượng c̣n lại tập trung thả hàng.
“Lúc đó, có hai tàu địch đang theo dơi chúng tôi, thi thoảng lại dùng đèn tín hiệu liên lạc với nhau. Thả được 1/3 lượng hàng th́ nhận được tín hiệu trong bờ, không khí làm việc khẩn trương hơn nhưng do sóng thuỷ triều lớn đă làm chân vịt bị cong không thể cơ động xa được”, ông Thạnh kể.
Trước t́nh thế nguy cấp, ông Thạch quyết định đưa người vào bờ, c̣n thuyền trưởng, máy trưởng ở lại chuẩn bị điểm hoả bộc phá hủy tàu rồi bơi vào bờ sau. Con tàu nổ tung cũng là lúc các cỡ pháo trên tàu địch bắn tới tấp vào bờ chặn đường rút lui của thủy thủ ta. Hai người đă hy sinh, số c̣n lại vượt đường Trường Sơn, ba tháng sau mới về đến miền Bắc.
Trong kư ức của nguyên thuyền trưởng tàu 41, có những người đồng đội đă hy sinh mà đến giờ ông vẫn c̣n đau xót. Đó là những thủy thủ tàu 165 chở hàng vào bến Vàm Lũng (Cà Mau) năm 1968 do Nguyễn Chánh Tâm làm thuyền trưởng, Nguyễn Ngọc Lương là chính trị viên cùng 18 thủy thủ. Tàu chở 64 tấn vũ khí, xuất phát ngày 25/2. Đến 18h ngày 29/2, sau bức điện cuối cùng, tàu mất hoàn toàn liên lạc. Biết tàu gặp địch nên mấy ngày sau đó anh em ở bến cử người đi dọc bờ biển t́m dấu vết. “Cả người và thuyền đều không thấy, đồng đội chỉ t́m được nhiều mảnh gỗ có vết đạn nham nhở trôi dạt vào bờ”, ông Thạnh kể.
Cũng trong năm 1968, tàu 235 chở vũ khí vào bến Ḥn Hèo (Khánh Ḥa) do Nguyễn Phan Vinh làm thuyền trưởng và Nguyễn Tương làm chính trị viên cùng 20 cán bộ, thủy thủ. Ngày 6/2/1968 tàu xuất phát. Ngày 29/2, khi qua vùng biển Nha Trang th́ máy bay địch phát hiện. 20h cùng ngày, thuyền trưởng quyết định chuyển hướng vào bờ. Lúc này, hải quân vùng 2 duyên hải của địch đă điều động nhiều tàu chiến đến bao vây với ư định bắt sống tàu ta.
Một khó khăn cho tàu 235 là khi quay vào bờ không gặp bến đón. Trong lúc nguy cấp, thuyền trưởng chỉ đạo thủy thủ thả hàng xuống biển, sau này bến vớt lên. Khi thả được 2/3 số hàng th́ thuyền trưởng cho ngưng và đưa tàu chạy ven bờ xa nơi thả hàng. Tàu chiến địch lập tức đuổi theo và một cuộc chiến không cân sức đă diễn ra khiến thuyền trưởng và máy trưởng bị thương, máy tàu hỏng nặng không thể cơ động xa.
“Lúc này anh Vinh đă cho tàu vào gần bờ để những người bị thương sơ tán lên, c̣n anh và thợ máy ở lại chuẩn bị điểm hỏa bộc phá tàu rồi bơi vào bờ sau. Tiếng nổ của con tàu khiến địch điên cuồng bắn phá ven biển nhằm dọn đường cho bộ binh vây bắt thủy thủ. Anh Vinh và thợ máy Ngô Văn Thứ đă chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và hy sinh”, thuyền trưởng Thạnh ngậm ngùi.
Mái tóc đă bạc nhưng giọng nói c̣n sang sảng, đại tá Trần Phong, nguyên quyền đoàn trưởng đoàn 125 Hải quân tâm sự, thời đại của thế hệ ông với tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết sinh đă làm nên huyền thoại đường không dấu, tàu không số, trí - hiếu - trung - dũng - anh hùng. "Ngày nay, ta có trời, có biển th́ phải biết giữ ǵn. Nếu tổ quốc cần chúng tôi, các anh cứ gọi. Chúng tôi luôn sẵn sàng”, ông dặn ḍ thế hệ lănh đạo hải quân tiếp nối.
Hoàng Thùy