Trong khi đó tướng LeHue gởi một đại đội Thủy quân Lục chiến do Đạị úy Gordon Batcheller chỉ huy có trang bị 4 dàn súng đại liên 12 ly 7 từ Phú Bài theo quốc lộ 1 lên Huế. Đại úy Batcheller được lệnh tiến qua thành phố liên lạc với tiểu đoàn Việt Nam Cộng Ḥa từ phiá Bắc tiến vào. Trên đường tiến quân đại úy Batcheller gặp đơn vị tiếp tế có 4 xe thiết giáp hộ tống của Trung Tá LaMontagne đang trên đường tiếp tế định kỳ cho sư Đoàn 3 Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ ở vùng giới tuyến. Gần An Cựu hai đơn vị này gặp chi đoàn thiết giáp của Trung Tá Chí đang bị hỏa lực của cộng quân không tiến lên được. Ba đơn vị – hai Mỹ, một Việt – phối hợp sức mạnh dùng hỏa lực áp đảo băng qua cầu An Cựu tiến về MACV Huế .
Chi đ̣an của Trung Tá Chí dẫn đầu chọc thủng hỏa lực của cộng quân băng qua cánh đồng trống nối liền chợ An Cựu với Tiểu khu Thừa Thiên (bên cạnh MACV). Khi đến trước Ty Cảnh Sát thiết giáp của Trung Tá Chí bị bắn hạ, Trung Tá Chí tử thương. Hai xạ thủ trên thiết giáp của Đại Úy Thương cũng bị thương. Đại úy Thương lái thiết giáp chạy ra ngỏ nhà hàng Chaffanjon, ra đường Lê Lợi rồi chạy về Tiểu khu an ṭan. Trên đường từ An Cựu tiến vào thành phố Đại úy Batcheller bị thương nặng. Được tin tướng LaHue gởi một tiểu đoàn do Trung tá Gravel chỉ huy từ Phú Bài lên tiếp viện. Đến 3 giờ chiều đơn vị của Gravel và LaMontagne tiến vào được MACV, sau khi đă cho tản thương đại úy Bacheller và các binh sĩ khác về Phú Bài.
Đến MACV Trung tá Gravel được lệnh tiến qua Thành Nội. Nhưng với tổn thất nặng nề ông rút về MACV.
Sau nỗ lực giải tỏa không thành và nhiều tổn thất này, tướng Hoàng Xuân Lăm Tư lệnh Quân khu 1 và tướng Cushman, Tư lệnh Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ vùng giới tuyến chia trách nhiệm. Hoa Kỳ giải tỏa khu hành chánh hữu ngạn. Quân đội Việt Nam Cộng Ḥa giải tỏa khu tả ngạn.
Đại tá Hughes chỉ huy trưởng Trung đ̣an 1 Thủy quân Lục chiến được giao trách nhiệm giải tỏa hữu ngạn Huế. Trong khi đó vào mồng 4 Tết, Sư đoàn Kỵ binh không vận Hoa Kỳ bắt đầu triển khai quân phong tỏa đường tiếp vận của cộng sản từ A Sao vào thành phố Huế.
Từ MACV ở đầu cầu Trường Tiền theo đường Lê Lợi lên đến cầu Ga chỉ dài chừng 2 km và có 11 khu phố (block), hai tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ của Dại Tá Hughes đă mất 11 ngày đánh chiếm từng khu vườn, từng căn nhà với tổn thất cao. Cộng quân biến mỗi khu phố thành một pháo đài và quyết bám trụ.
Đánh suốt 24 giờ trong ngày mồng 5 để chiếm lại Kho Bạc và nhà Bưu Điện. Ngày mồng 6 chiếm lại khu thể thao thành phố (Sport center), Bệnh viện Huế và Thư viện đại học. Sau 2 ngày cam go khác, mồng 8, một đại đội của đại úy Ron Christmas chiếm lại khu hành chánh Huế. Trong cuộc tiến quân Hoa Kỳ đă dùng thiết giáp bắn trực xạ vào các khu nhà cộng quân cố thủ. Đến ngày 11 Tết quân đội Hoa Kỳ kiểm soát sân vận động, nhà thờ Phú Cam và ngày 13 Tết Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ tiến đến cầu Ga, và 2 ngày sau vượt qua sông An cựu (sông An Cựu là sông đào cùng với sông Hương và quốc lộ 1 lập thành tam giác chính của phố hữu ngạn). Mục tiêu của Trung đoàn 1 Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ là bắt tay với các đơn vị của Sư đoàn Không vận đang bao vây và tảo thanh các đơn vị cộng quân ở ngoài. Đến ngày 16, Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ kiểm soát trọn khu hữu ngạn sông Hương, và phải mất 10 ngày nữa mới tảo thanh hết các toán du kích lẻ tẻ c̣n lại. Tổn thất của Hoa Kỳ giải tỏa hữu ngạn gồm 88 tử thương và 320 bị thương. Cộng quân tử thương hơn 1000 người.
Theo phân nhiệm, ngày mồng 4 tướng Trưởng chuyển quân giải tỏa thành nội Huế. Ông điều động 3 tiểu đoàn Dù số 2, số 7 và số 9 và một chi đoàn thiết giáp. Một tiểu đoàn Dù khác từ Quảng Trị được trực thăng vận vào Mang Cá để đánh ra góc đông-bắc Thành Nội. Đến ngày mồng 5 quân Dù chiếm lại được góc thành An Ḥa và một phần sân bay Tây Lộc. Nhưng trong ngày kế tiếp quân Dù không tiến được bước nào trước sự cố thủ của quân Bắc việt vẫn được tiếp thêm người và vũ khí đạn được từ phía Tây qua cửa Chánh Tây.
Ngày mồng 9 Tướng Trưởng yêu cầu Hoa Kỳ giúp. Ngày 12 Tết tướng LaHue cho tiểu đoàn của Thiếu Tá Thompson dùng tàu hải quân đổ lên Bao Vinh vào Thành Nội bằng Cửa Hậu rồi tiến đánh ngược dọc theo tường thành Đông Bắc có cửa Đông Ba. Tiểu đoàn Thiếu tá Thompson tổn thất nặng và được tăng cường bởi 1 đại đội Thủy quân Lục chiến khác. Lúc này lệnh hạn chế hỏa lực đă được hủy bỏ nên quân đội Hoa Kỳ dùng máy bay ném bom, hải pháo, xe tăng, súng đại bác trực xạ để phá hủy các ụ pḥng thủ của cộng quân trong bức thành đất.
Ngày 16 Tết, thời tiết quang đản hơn trên thành phố Huế, cuộc phản công giành lại Huế bắt đầu. Thành Nội được chia thành 6 khu (xem bản đồ)
Khu A, là khu an toàn năm cạnh đồn Mang Cá giữ Cửa Hậu làm cửa chuyển quân tiếp sức và quân dụng.
Khu B quân Dù đă tảo thanh, nhưng cộng quân vẫn giữ cửa Đông Ba
Khu C là khu có sân bay Tây Lộc do Trung đoàn 3 bộ của Trung Tá Phan Bá Ḥa tảo thanh. Cộng quân vẫn c̣n bám cửa Chánh Tây.
Khu D nằm dưới khu B gíáp cửa Thượng Tứ và bức thành phía đông Đại Nội do một tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ của Thiếu Tá Thompson tảo thanh. Tiểu đ̣an nầy mạnh nhất trong các đơn vị tham chiến, gồm 1000 quân nhân và trang bị vũ khí nặng và được yểm trợ hỏa lực bằng máy bay, hải pháo và đại bác trực xạ .
Khu E là khu Đại Nội, mục tiêu cuối cùng của các mũi dùi chung quanh. Khu E do cộng quân kiếm soát cho đến phút chót.
Khu F là góc tây nam Thành Nội do Chiến đoàn đoàn A Thủy quân Lục chiến từ Sài g̣n ra do Trung Tá Hoàng Thông chỉ huy có một Chi đoàn Thiết giáp yểm trợ hỏa lực. Chiến đoàn có Thiếu Tá Phan Văn Thắng chỉ huy Tiểu đoàn 1 đánh phía đông sát thành Đại nội tiến chiếm Cửa Nhà Đồ, và Thiếu Tá Phạm Văn Nhă chỉ huy Tiểu đoàn 5 đánh phía Tây, chiếm Cửa Hữu tiến xuống bắt tay với Tiểu đoàn 1. Sau đó bắt tay với Tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ sau khi tiểu đoàn nàychiếm cửa Thượng Tứ. Rồi cùng hợp lực chiếm lại cột cờ.
Sau 10 ngày đánh nhau gay go trên từng đường phố, trong từng g̣ đất Thành Nội, sức kháng cự của cộng quân vào các ngày 25, 26 Tết suy giảm hẵn. Trước đó, vào ngày 23 Tết đưa ông Táo về trời Bộ Chỉ huy Chiến dịch của cộng quân đóng tại làng Lai Chữ đă bị Sư đ̣an Kỵ binh Hoa Kỳ đánh tan và các đường tiếp tế đều bị cắt đứt. Ngày 25 Tết đoàn 6 cộng quân được lệnh rút lui.
Sáng tinh sương ngày 26 Tết quốc kỳ Việt Nam Cộng Ḥa đă được một số binh sĩ thuộc đại đội thám báo kéo lên trước sự chứng kiến của các đơn vị Thủy quân Lục chiến Việt Nam và Hoa Kỳ.
Vài giờ đồng hồ sau , Đại đội Thám báo đích thân do đại úy Trần Kiêm Huê chỉ huy cùng 300 quân nhân thuộc Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 3, Sư đoàn 1 tiến chiếm Đại Nội. Không có một sự kháng cự nào, cộng quân đă rút lui.
Ngày 26 Tết, Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ từ cửa Thượng Tứ tiến ra đă làm chủ cầu Trường Tiền thiết lập sự liên lạc giữa hữu và tả ngạn sông Hương. Qua ngày 27 Tết những cuộc đánh nhau lẻ tẻ diễn ra khi các đơn vị Biệt động quân Việt Nam hành quân chiếm lại khu Gia Hội, chợ Đông Ba và hoàn toàn giải phóng Huế.
Cộng quân rút lui và tiếp tục thi hành lệnh tàn sát thực hiện chưa xong . Ngoài những người bị giết trong các ngày đầu, có thêm ít nhất một ngàn quân nhân, công chức, cảnh sát, đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng, đảng Đại Việt bị giết vào những ngày sau khi cộng quân rút ra khỏi thành phố.
Huế được giải phóng. 40% nhà cửa bị sụp đổ do bom đạn. 116,000 người trong số 140.000 dân thành phố Huế mất nhà cửa. Trong số 5,800 người chết có khoảng 3000 người do cộng sản tàn
Tổn thất binh sĩ kha cao cho một trận đánh 30 ngày. Quân đội Việt Nam Cộng Ḥa chết 384 người, bị thương nặng nhẹ 1,800 người. Hoa Kỳ tổn thất 221 quân nhân (gồm 147 Thủy quân Lục chiến, 74 bộ binh) và 1364 binh sĩ bị thương (857 Thủy quân Lục chiến, 507 bộ binh). Tổn thất của cộng quân ước lượng 8000 người chết, 5000 trong nội thành, 3000 ngoài ṿng đai Huế (theo The Tet Offensive by James H. Willbanks, trang 54).
Việc cộng sản giết hàng ngàn người trong trận Mậu Thân 1968 tại Huế được giải thích “cộng sản vốn tàn ác và sẵn sàng giết lầm hơn bỏ sót”. Về mặt lịch sử, sự giải thích này quá đơn giản. Lịch sử chứng tỏ rằng các chủ thuyết quá khích đều có thể đưa lại sự phóng tay và tàn độc, như Stalin, Hitler, Mao Trạch Đông đă giết hằng triệu người (nếu chỉ nói những vụ tàn sát thời cận đại).
Nhưng đối với cộng sản việc giết đối phương không có vũ khí trong tay là một hành động chính trị. Và nếu đặt trong khung chính trị vào thời điểm đó không có ǵ biện minh cho hành động tàn sát của cộng sản trong dịp Mậu Thân. Nếu cộng sản tính tóan sẽ có một cuộc nổi dậy của nhân dân miền Nam cộng sản sẽ không giết bừa băi trong những ngày đầu tiên như vậy. C̣n nếu tấn công toàn quốc nhắm làm nản ḷng nhân dân Mỹ và thổi bùng ngọn lửa phản chiến tại Hoa Kỳ, cộng sản lại càng mua chuộc nhân dân bằng một bộ mặt hiền ḥa chờ cơ hội
Sau này khi vụ tàn sát Mậu Thân trở thành một vết nhơ cho chính quyền Hà Nội, cộng sản đă bố trí và mua chuộc một số “nhà nghiên cứu” đưa ra những giả thuyết chạy tội cho cộng sản. Có thể kể: Thứ nhất là anh thợ chụp h́nh Griffiths, một kư giả chiến trường, năm 1971 viết rằng “không có vụ tàn sát Mậu Thân. Những người chết là do bom đạn của quân đội Hoa Kỳ” (xem “Battle for Hue: Tet 1968” by Keith William Nolan 1983, Presido Press). Thứ hai là nhà báo Porter D. Gareth, trong hai bài viết, “Vietnam: the blood argument”, 1969 và “The 1968 Hue massacre”, 1974 khẳng định chẳng có vụ tàn sát nào cả (xem The Tet Offensive by James Willbanks trang 243). Những luận điệu chạy tội đó không đánh lừa được dư luận thế giới. Trong những tháng cuối cùng của năm Mậu Thân 1968, Huế trắng xóa khăn tang đi đào mồ tập thể t́m thân nhân do cộng sản lùa đi trong khi chiếm Huế hay khi rút lui đă là những bằng chứng quá rơ ràng trước lịch sử.
Vẫn c̣n một câu hỏi cần trả lời: Tại sao cộng sản Việt Nam thực hiện vụ tàn sát Mậu Thân? Nguyên nhân sâu xa có thể t́m thấy qua quá tŕnh đi làm “cách mạng” của ông Vơ Nguyên Giáp và món nợ máu người Pháp nợ gia đ́nh ông.
Ông Vơ Nguyên Giáp sinh năm 1911 tại Quảng B́nh, năm nay 100 tuổi, con bà Nguyễn Thị Kiên và ông Vơ Quang Nghiêm, một nhà nho từng theo phong trào Cần Vương chống Pháp. Ông là con thứ 6 trong một gia đ́nh có 8 người con. Năm 12 tuổi ông được gởi vào Huế ṭng học tại trường Quốc Học Huế .
Thời gian học tại Huế ông Giáp theo phong trào chống Pháp và thường đến thăm viếng cụ Phan bội Châu đang bị Pháp giam lỏng tại Bến Ngự. Sau một cuộc biểu t́nh chống một hành động độc tài của ông Hiệu trưởng người Pháp ông Giáp bị đuổi khỏi trường. Năm 1927 ông Giáp gia nhập đảng Tân Việt, một đảng có khuynh hướng Mác xít .
Năm 1930 Giáp bị công an Pháp bắt, và bị giam chung tại Huế với ông Đặng Thai Mại và Nguyễn Thị Quang Thái, 14 tuổi, em ruột Nguyễn Thị Minh Khai, một đảng viên ṇng cốt của đảng cộng sản Đông Dương. Bị kết án và cùng bị giam tại nhà tù Lao Băo, Giáp và cô Quang Thái yêu nhau. Hai năm sau Giáp và Quang Thái được Pháp trả tự do. Quang Thái trở về quê ở Vinh, sau đó Giáp cũng bỏ Huế ra Vinh để sống gần gia đ́nh Quang Thái. Năm 1933 khi ông Mại ra Hà Nội dạy học, Giáp theo ông Mại ra Bắc.
Tại Hà Nội, Trường Chinh và Phạm Văn Đồng thuyết phục Giáp gia nhập đảng cộng sản. Trở thành đảng viên năm 1937, ông Giáp tạo uy tín rất nhanh trong đảng cộng sản nhờ căn bản học vấn và khả năng làm việc.
Năm 1939 ông Giáp lập gia đ́nh với bà Quang Thái. Năm sau ông theo Phạm Văn Đồng qua Trung quốc gặp lănh tụ Hồ Chí Minh. Thời gian ông c̣n ở Trung quốc, Pháp đă bắt và xử bắn bà Minh Khai tại Sài g̣n năm 1941. Quang Thái bị Pháp bắt tại Vinh một tháng sau đó đưa ra giam và chết tại nhà lao Hỏa Ḷ ở Hà Nội v́ tra tấn. Trường Chinh biết tin dữ nhưng dấu không cho Giáp biết.
Lưu lạc 6 năm, năm 1945 Gíáp theo chân Hồ Chí Minh trở về nắm chính quyền tại Hà Nội. Năm sau (1946) khi ông Giáp trở về Quảng B́nh thăm cha ông Nghiêm không cho ông gặp cho rằng ông theo chủ nghĩa cộng sản là một chọn lựa sai lầm. Nhưng ông ủng hộ Giáp trong nổ lực chống Pháp giành độc lâp.
Hiệp định Hạ Long tháng 2/1946 cho phép Pháp đưa quân đến trú đóng tại một số thành phố tại Việt Nam trong đó có Sài g̣n, Huế, Đà Nẳng, Hải Pḥng, Hà nội. Tháng 12/1946 Hồ Chí Minh phát động cuộc tổng khởi nghĩa để đuổi quân Pháp ra khỏi Việt Nam. Pháp đưa quân chiếm tất cả các thành phố chính và chuẩn bị tái thiết lập chế độ đô hộ Việt Nam với một dàn chính quyền quốc gia do cựu ḥang Bảo Đại làm b́nh phong.
Giữa năm 1947 Pháp chiếm lại Huế và Quảng B́nh. Cán bộ cộng sản bố trí đưa bố mẹ và con gái ông Giáp (Vơ Thị Hồng Anh, lúc đó 7 tuổi) ra vùng kháng chiến. Nhưng ông Nghiêm không chịu đi. Tháng 8/1947 Pháp bắt ông Nghiêm đưa vào giam tại lao Thừa Thiên. Ông bị tra tấn buộc khai chỗ ở của ông Giáp trên Việt Bắc và ép ông lên đài phát thanh kêu gọi Giáp bỏ cuộc đấu tranh chống Pháp. Pháp đă dùng đến phương pháp cực kỳ dă man thời trung cổ như cột ông Nghiêm vào xe kéo lê trong sân nhà tù. Ông Nghiêm không thể biết Giáp ở đâu. C̣n lời kêu gọi trên đài không có tác dụng ǵ.
Khi ông Nghiêm quá yếu Pháp đưa ông vào bệnh viện Huế và mấy tháng sau ông chết tại đó như một người vô thừa nhận .Ông được chôn tại một nghĩa địa hoang dưới chân núi Ngự B́nh. Sau năm 1975, do yêu cầu của ông Giáp, chính quyền tỉnh Quảng B́nh đă lập ủy ban t́m mộ ông Nghiêm, cải táng đưa về chôn tại nghĩa trang liệt sĩ huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng B́nh. (theo Google – Wikipedia)
Sau này trong thời gian thương thuyết với ông Giáp người Pháp cảm thấy áy náy đă đối đăi tàn tệ với gia đ́nh ông giải thích rằng những người Việt trong bộ máy cảnh sát làm việc đó chứ không phải người Pháp. Năm 1982 sử gia Will Brownell, giám đốc chương tŕnh nghiên cứu Việt Nam thuộc đại học Columbia ở Hoa Kỳ phỏng vấn tướng Raoul Salan và hỏi ông về sự xác thực của việc bà Quang Thái vợ ông Giáp bị tra tấn chết tại nhà lao Hỏa Ḷ Hà Nội năm 1941 tướng Salan xác nhận điều đó có thật và tướng Salan ám chỉ rằng những sự tra tấn như vậy không do chính tay người Pháp làm (“Victory at any cost”, by Cecil B. Currey, nhà xuất bản Brassey’s Inc, 1997, trang 45)
Người Pháp chối bỏ trách nhiệm đă nhúng tay vào một việc giết người dơ bẩn không xứng đáng với một dân tộc có văn hóa, nhưng ông Giáp không quên thù cha.
Năm 1967, khi được Đảng giao trách nhiệm vạch kế hoạch tổng tấn công, có thể ông Gíap rắp tâm trả thù. Đối với người cộng sản Việt Nam, chế độ của người Pháp chuyển sang chính quyền ông Bảo Đại, rồi Việt Nam Cộng Ḥa cũng chỉ là một, và mối thù nhà do người Pháp gây ra ông Giáp đổ lên đầu viên chức chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa, nhất là viên chức thành phố Huế.
Mối thù 21 năm (1947 – 1968) đă được ông Giáp tính toán chi ly. Lấy ư của ông Giáp từ một văn kiện trung ương các cấp tỉnh đă chỉ thị cấp huyện, xă, phường chuẩn bị tổng tấn công kư ngày 1/11/1967. Chỉ thị có đoạn viết: “…Để chuẩn bị cuộc nổi dậy, các anh phải tận diệt bộ máy cai trị của địch …. Các anh cần lập danh sách của chúng và chỗ ở rồi dùng mọi phương tiện kể cả các toán đặc công cảm tử giết cho hết ….” (tài liệu lưu trữ tại Vietnam Archive, đại học Tech University, Lubock, Texas, theo “The Tet Offensive, a concise history” của James H. Willbanks trang 195, 196).
Chỉ thị tàn sát đă được thi hành một cách quy mô tại Huế. Một số vùng như Bến Tre, cộng quân kiểm soát khá lâu vẫn không có danh sách và tàn sát như ở Huế.
Thành phố Huế vốn là kinh đô của triều Nguyễn cho đến khi người Pháp chiếm Việt Nam vào cuối thế kỷ 19. Trước năm 1945 Huế vẫn c̣n là thủ phủ của Nam triều một cách h́nh thức. Nhưng chính yếu là nơi tọa lạc ṭa khâm sứ Pháp nắm quyền cai trị Trung kỳ qua các ṭa công sứ ở mỗi tỉnh và điều hành công việc hành chánh qua các vị tổng đốc, tuần vũ, tri phủ và tri huyện được đào tạo qua hệ thống giáo dục của Pháp. Sau cuộc cách mạng 19/8/1945 cũng như sau khi Pháp tái chiếm Huế năm 1947 Huế được tổ chức hành chánh giống như các tỉnh khác ṭan quốc (trừ Nam kỳ). Sau Hiệp định Geneve, và sau khi Việt Nam Cộng Ḥa ra đời Huế có ṭa cố vấn do ông Ngô Đ́nh Cẩn, em ruột của tổng thống Ngô Đ́nh Diệm giữ chức cố vấn miền Trung.
Sau cuộc đảo chánh năm 1963, Huế là trung tâm của phong trào đ̣i chấm dứt chiến tranh, đ̣i dân chủ hóa đất nước và các cải tổ xă hội khác. Phật giáo là lực lượng đ̣i hỏi chính. Do Phật giáo thiếu nhân sự lănh đạo trước một phong trào quần chúng bung ra ngoài tầm tay, cộng sản đă đột nhập và thao túng phong trào đ̣i chấm dứt chế độ quân nhân, thành lập đoàn sinh viên quyết tử để chống lại chính quyền trung ương tại Sài g̣n. T́nh h́nh Huế ổn định sau khi ban hành Hiến pháp Đệ nhị Cộng ḥa và Huế trở thành thành phố b́nh lặng nhất tại miền Trung.
Trong khi cuộc chiến tranh xâm lăng miền nam của cộng sản Hà Nội lên cao điểm với sự uy hiếp của quân đội cộng sản tại miền giới tuyến và Khe Sanh, Huế vẫn là một thành phố an b́nh với sông Hương, núi Ngự và sinh hoạt văn hoá sinh động của đại học Huế và trường Quốc Học.
Không ai có thể tưởng tượng thảm cảnh giết chóc sẽ xẩy ra khi tướng Vơ Nguyên Giáp đặt Huế trong ṿng nhắm trả thù cha khi ông hoạch định kế hoạch tổng tấn công. Kết quả là 3000 người bị giết do một chế độ bất nhân tṛng tréo với oan nghiệt của lịch sử.
Nếu việc tra tấn đưa đến cái chết của thân phụ của Giáp là một vết nhơ trong lịch sử xâm lăng của nước Pháp th́ vụ trả thù trong vụ Mậu thân cũng là một tội ác không dễ xóa nḥa trong lịch sử Việt Nam.