Ủy Ban Nhân dân thành phố Hà Nội đang đề xuất cấm bán, chế biến, ăn thịt chó mèo trên địa bàn Hà Nội đã gặp nhiều ý kiến phản đối cho rằng “ Thịt Chó là món ăn truyền thống của dân tộc Việt nam”, lập luận cho rằng thịt Chó là món ăn truyền thống dân tộc thuần túy chỉ dựa trên cảm tính vì hàng trăm năm qua Dân Việt, nhất là người ở miền Bắc Việt Nam thường ăn thịt Chó. Vậy sự thật lịch sử là thế nào?

“Khoảng thập niên 1930, Hà Nội chỉ mới có 4 hay 5 quán thịt chó. Trong khi đó ở Nam Bộ Việt Nam không có quán nào, gần như không mấy người biết ăn. Nguyên nhân là là vì miền Nam lệ thuộc nhiều vào văn hóa Pháp, họ rất thương chó, dĩ nhiên là họ có đủ mọi phương tiện luật pháp để ngăn cấm. (Nhưng cũng có thể là do chưa có ai bày cách làm thịt chó, nhất là cách dùng các thứ gia vị!). Cũng theo nhà văn này, ở trong Nam, tương tự như món Phở, chỉ biết thưởng thức món thịt chó từ sau phong trào “di cư” 1954 của dân miền Bắc. Trước 1975, tại một vài xóm đạo, chợ Ông Tạ, giáo xứ Tân Hương ở Tân Bình và Thủ Đức,… những “tông đồ” có thể tìm cho mình những thứ khoái khẩu, “nguyên zin” với cách pha chế được bê nguyên từ phương Bắc vào.

Như vậy từ cách ăn thịt chó chưa trở thành trào lưu, phong tục, có thể đoán là thịt chó chỉ phổ biến và thịnh hành trong dân gian ở miền Bắc vào khoảng thập niên 1910-1920. Thời điểm này trùng hợp với tình trạng chiến tranh và loạn sứ quân bên Trung Quốc sau Cách mạng Tân Hợi (1911), phải chăng sự thiếu thốn là lý do đầu tiên đưa đến việc nhiều người phải dùng đến món thịt chó như bên Trung Quốc, và từ đó mới phổ biến lan sang tới Việt Nam.
Như vậy có thể đoán là thịt chó chỉ phổ biến và thịnh hành trong dân gian ở miền Bắc vào khoảng thập niên 1910-1920. Thời điểm này trùng hợp với tình trạng chiến tranh và loạn sứ quân bên Trung Quốc sau Cách mạng Tân Hợi (1911), phải chăng sự thiếu thốn là lý do đầu tiên đưa đến việc nhiều người phải dùng đến món thịt chó như bên Trung Quốc, và từ đó mới phổ biến lan sang tới Việt Nam, Trung Quốc, thì thế nào cũng lan truyền qua Việt Nam theo đường biên giới. Điều này có thể kiểm chứng được bằng dữ kiện cho thấy, đa số cư dân ở các vùng ven biển từ Móng Cái- Lạng Sơn chạy dọc theo bờ biển về đến Hải Phòng đều biết ăn và làm thịt Cầy ( có người cho rằng, từ Cầy có lẽ xuất phát từ chữ Cẩu nhưng được đọc âm khác đi vì kiêng cữ, sợ nói thành “thịt Cậu” chăng ?),…”

Người dân bản địa Sài Gòn có nhận xét: “ Những quán thịt chó chỉ xuất hiện lần đầu tiên tại Sài Gòn là vào những năm 30-40 của thế kỷ trước, và cũng chỉ bó hẹp trong cộng đồng những người Bắc vào Nam lập nghiệp. Trước 1975, tại một vài xóm đạo, chợ Ông Tạ, giáo xứ Tân Hương ở Tân Bình và Thủ Đức,… những “tông đồ” có thể tìm cho mình những thứ khoái khẩu, “nguyên zin” với cách pha chế được bê nguyên từ phương Bắc vào.”
Việc ăn thịt chó tại miền Bắc Việt Nam xuất hiện khi người Trung Quốc chạy sang cư ngụ ở Bắc bộ Việt Nam từ loạn Bạch Liên giáo ở Trung Quốc thời kỳ vua Gia Khánh (1796 – 1820) đến các triều đại Hàm Phong, Đồng trị Nhà Thanh đến loạn Thái Bình Thiên quốc, Thiên địa Hội, loạn Người Mèo và Giáo phái ở Quý Châu, lại còn có Hồng Hiệu, Thanh Hiệu, Bạch hiệu,… mỗi cuộc biến loạn tập hợp được từ vài vạn đến hàng mấy chục vạn quân vì “ Dân thù quan binh hơn thù giặc” . Thêm vào đó các Giáo phái Hồi, Hán, Di đều kêu gọi “ Phản Thanh, Phục Minh”. Lúc đó Trung Quốc thành một chảo lửa khổng lồ, bên trong thì nội chiến, bên ngoài Liên quân năm nước Anh, Đức, Pháp, Nga, Nhật Bản bao vây xâm chiếm. Nạn xâm lăng Trung Quốc mở đầu bằng cuộc chiến Nha Phiến 1838 của Anh với triều đình Mãn Thanh làm Trung Quốc thua trận đầu hàng ký Hiệp ước Nam Kinh 1842, cùng lúc cuộc khởi nghĩa của Thái Bình Thiên Quốc đã làm cho hơn 30 triệu người thương vong. Vùng lãnh thổ trù phú rộng lớn phía nam Trung Quốc trở thành hoang vu. Rất có thể tục ăn thịt chó ở Nam Trung Quốc đã truyền vào miền Bắc Việt Nam thời kỳ loạn lạc, đói kém khủng khiếp này, khi mà ở Trung Quốc có ghi ăn cả thịt người. Thịt Chó do Người Hán chạy loạn sang Bắc Việt được các Giáo sỹ Pháp đã ghi lại trong tự chuyện của họ về sự buôn bán thịt chó ở Thăng Long – Hà Nội.

Ngay ở Nhật Bản, sự truyền bá các giáo lý của Phật giáo Đại thừa, Thiền giáo, Thần đạo nên người Nhật hạn chế ăn thịt chó. Không vì thế mà người Nhật không ăn, thịt chó rất phổ biến ở Nhật-bản Năm 675 sau CN. Chỉ từ khi Hoàng đế Temmu ra chiếu chỉ cấm ăn thịt chó từ tháng 4 cho đến tháng 9 hàng năm vì Temmu khi ra trận thường có chó đi theo. Ngày 17/6/2014 Chính phủ Nhật Bản ban hành Luật về việc cấm ăn thịt chó vì ở đất nước Nhật Bản chó là một con vật linh thiêng và được tôn thờ. Tuy nhiên đến nay giữa phong tục và luật pháp chưa thể triệt để, theo số liệu thống kê năm 2008 Nhật bản vẫn nhập khẩu 5 tấn thịt chó từ Trung quốc, trong khi nhập khẩu thịt bò là 4, 714. Thông tin Du lịch Nhật Bản cho biết: “ Có một nhà hàng tại Ikebukuro, Tokyo có tên là Fun Fun Shop và món ăn Trung Quốc nhưng lại phục vụ khách hàng bằng 7 món thịt chó khác nhau với giá khá cao. Một nồi lẩu thịt chó thịnh soạn [Nhỏ] 3.800 yên (US$47) [Lớn] 5.000 yên (US$62).Thịt chó rán 2.000 yên (US$25).Súp thịt chó 1.100 yên (US$13).Thịt chó được làm tươi 1.680 yên (US$21).Lẩu thịt chó và đậu hũ 1.600 yên (US$20).Một suất thịt chó 1.800 yên (US$22). Không rõ xuất xứ của những chú chó đến từ đâu. Một vài nguồn tin cho rằng thịt chó được nhập khẩu đông lạnh từ Trung Quốc.”

Theo cố Giáo sư Trần Quốc Vượng, cội nguồn ăn thịt chó bắt đầu từ lễ hiến tế chó trong tín ngưỡng dân gian. Kết quả khảo cứu thực tiễn hơn 37 năm lại cho thấy trong tất cả các Lễ Hội dân gian cũng như thư tịch cổ ở miền Bắc Việt Nam chưa từng có mâm Lễ nào có món thịt chó, đến ngay mâm cúng giỗ Gia tiên cũng tuyệt đối không có thịt chó. Tra cứu các Giáo lý truyền kỳ mấy nghìn năm thì thịt chó là một trong các điều cấm kỵ của của Đạo Thánh Mẫu Việt. Khi tra cứu về khảo sát Dân tộc học cũng như thư tịch cổ đều không rõ Gs Trần Quốc Vượng căn cứ vào đâu để đưa ra nhận định như vậy? Sau này có nhiều báo chí, bài viết chỉ copy một cách vô thức, đã không đối chiếu khoa học cứ chép nguyên như vậy là một sai lầm tai hại.
Học giả Hoàng Xuân Hãn khi phát hiện sách cổ có ghi các món ăn xưa của người Việt được viết bằng chữ Nôm gọi là Cảo . Cảo ghi chép những món ăn cùng với cách làm các món ăn cách đây hơn 250 năm. Sách được viết vào khoảng đầu đời vua Cảnh Hưng nhà Lê (1744). Cảo ấy mang tên “Thực vật tất khảo tường kí lục”, nghĩa là “ Sách ghi rõ những phép phải khảo khi làm các món ăn”. Nội dung sách cổ này không thấy đề cập gì đến món thịt chó. Theo Bách Khoa Toàn thư mở Wikipia, hiện nay vẫn có 11 vùng lãnh thổ trên thế giới ăn thịt chó, bao gồm: Trung Quốc, Indonesia, Hàn Quốc, México, Philippines, Polynesia, Đài Loan, Việt Nam, Bắc Cực, Nam Cực, và Thụy Sĩ.
“ Lịch sử Dân tộc Việt rất coi trọng Con Chó, vì thế căn cứ vào Sử liệu thì tục ăn Thịt Chó mới chỉ xuất hiện ở miền Bắc Việt nam khoảng những năm 1780 Thế kỷ 18 do một bộ phận Người Hán ở phía Nam Trung Quốc chạy loạn đưa vào” .

Dã Sử và truyền thuyết thời cổ nói rằng các Đội quân Việt khi đánh quân xâm lược thì trong các Đoàn quân Việt thường nuôi hàng trăm con chó, được huấn luyện để canh gác nơi đóng quân cũng như được đưa ra xung trận đầu tiên làm rối loạn hàng ngũ quân giặc rồi quân Việt mới tiến công. Sự việc nuôi chó trong quân Việt đã được ghi lại trong sách Đại Nam nhất thống chí về việc Tướng quân Nguyễn Xí huấn luyện hàng trăm con chó trong quân khởi nghĩa của Lê Lợi chống Nhà Minh. Trong các di vật Khảo cổ Văn hóa Hòa Bình đến Văn hóa Đông Sơn có nhiều chứng tích về thuần dưỡng chó và sự quý mến của Người Việt với con chó nhà.
Trong bài viết: “ Quan hệ nhân – khuyển qua minh chứng của Khảo cổ học” ngày 07/03/2018 của Học giả – Tiến sỹ Nguyễn Việt đã chứng minh nhiều sự vật minh chứng cho Người Việt đã thuần hóa và nuôi chó cách đây vài chục nghìn năm – xin lược trích có biên tập dưới đây:
“ Trong số xương cốt động vật mà E. Patte, nhà khảo cổ học người Pháp khai quật tại cồn sò điệp Đa Bút (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) từ những năm 30 thế kỷ XX, đã có xuất hiện một số mảnh xương hàm chó. Những mảnh xương đó được các nhà khoa học xác nhận thuộc một loài chó nhà gần với loài chó Phú Quốc. Địa điểm khảo cổ học Đa Bút có niên đại carbon phóng xạ C14 có niên đại 7000 năm cách ngày nay được coi như niên đại sớm nhất thuần dưỡng chó ở Việt Nam. Năm 2004 khai quật khảo cổ mộ bó xương người có niên đại gần 20 ngàn năm khai quật tại mái đá Đú Sáng (Kim Bôi, Hòa Bình) thuộc Văn hóa Hòa Bình cũng đã phát hiện một cặp hàm trên và hàm dưới của một loài chó. Cặp hàm này thuộc một cá thể chó trưởng thành được chôn như vật tùy táng trong ngôi mộ, có thể thấy đây phải là vật nuôi thân thiết với con người khi còn sống.

Trong các di vật đồ đồng Văn hóa Đông Sơn thời kỳ 2,500 năm Tr.CN đến thế kỷ trước và sau Công Nguyên. Con Chó được thể hiện rất nhiều trong sinh hoạt, chiến trận của Người Việt. Hình ảnh chạm khắc, tượng chó giúp người săn hươu là hình ảnh tiêu biểu trên hàng trăm rìu chiến hình mũi hài Đông Sơn. Ở đây, những chú chó luôn chặn đầu đàn hươu đang chạy, đối diện phía bên kia là những thợ săn giương cung, vung rìu trên các con thuyền độc mộc. Trên những tang trống hay thân thạp đồng có trang trí thuyền chúng ta thấy chó còn được đưa lên thuyền chiến đi cùng các chiến binh hóa trang tham dự lễ xuất quân hoặc lễ khải hoàn chiến thắng. Chó cũng từng thấy gắn bó với cảnh sinh hoạt của một nhóm người Đông Sơn hành lễ được đúc trên một cán dao găm bằng đồng và được đúc trên các vật trang trí gắn trên đồ gỗ hay trang phục, đầu tóc quý tộc Đông Sơn. Nhưng có lẽ bức tượng người bằng đồng đứng thẳng trong tư thế hai tay thân thiện đặt trên lưng hai con chó được khai quật trong khu mộ thân cây khoét rỗng Phú Lương (Hà Đông, Hà Nội) là hình ảnh tiêu biểu và sinh động nhất về quan hệ giữa người Đông Sơn và “loài khuyển” đáng quý này. Cho đến nay đã phát hiện được hai khối tượng như vậy. Nghệ nhân đúc đồng đã thể hiện một người đàn ông búi tó cao khoảng 8cm với cặp chó như sinh đôi ở hai bên đứng cao tới trên thắt lưng của người đàn ông đó. Hai tay người đàn ông đặt ngang lưng hai con chó, rất khoan thai, thân thiết.
Trải qua trên 7000 năm gắn bó Nhân – Khuyển, chó càng trở thành người bạn không thể thiếu trong đời sống người Việt. Chó được trân trọng đặt canh cổng trong các kiến trúc tâm linh như: đền, miếu, lăng mộ… và có lẽ đã được gia nhập linh vật Việt dưới dạng Nghê thần. Thậm chí chó còn được lập đền thờ cúng như một Linh Cẩu. Đặc biệt, từ hơn hai ngàn năm trước, chó còn được chọn đặt trong số 12 con vật tượng trưng cho mùa màng, cho số phận của con người và trời đất: Cứ mười hai năm lại quay một vòng trở về với Tuất.

Có thể vì thế mà con chó được Người Việt tôn thờ làm Linh vật Chó Đá canh giữ cổng đền, chùa hay trước cổng những gia đình khá giả ở xã thôn miền Bắc, ở trước nhiều ngôi mộ cổ, lăng, … Nhiều nơi dưới chân tượng chó đá thường có một bát hương để thắp lễ vào các ngày Rằm, Mùng Một, ngày Tết Nguyên Đán,… Trong đời sống tâm linh người Việt, đặc biệt là người dân ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ, ở các tỉnh như Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nội, Hà Nam, Thái Bình, Hải Dương thì người ta tin rằng con chó đá để ở ngoài cổng có thể đuổi được tà ma. Dân gian có câu: “ Mèo đến nhà thì khó, Chó đến nhà thì sang” là ý coi trọng con chó đã được người Việt thuần hóa, gắn bó từ hàng vạn năm. Con Mèo là một gia súc tự thuần hóa vì thấy nơi ở của con người nhiều chuột, sẵn thức ăn, vậy nên bản tính hoang dã của con mèo cao hơn con chó.
Tiến sĩ Dương Văn Sáu, Trưởng khoa Văn hóa Du lịch – Đại học Văn hóa Hà Nội có nhận xét ý nghĩa của tục thờ chó đá tại những làng quê Bắc bộ Việt Nam xưa:“Con chó rất quan trọng trong đời sống người dân nên người ta đã linh thiêng hóa hình ảnh của nó và đưa nó thành chó đá để thờ và ra đời phong tục thờ Chó Đá. Bởi vì đá là một vật rất cứng rắn, trường tồn, thấm đẫm linh vị của trời đất, âm dương, vũ trụ nên con chó lại được tạc hình bằng đá là để mong muốn cái sự vững chãi, trường tồn, bền vững cùng với thời gian và gắn với việc xua đuổi, trừ tà, trừ ma cho con người. Hình tượng chó đá thường được đặt trước cửa nhà dân, những nhà giàu có, quyền quý, những lăng mộ của người giàu sang, các cổng đình đền, để bảo vệ cho thân chủ, cho làng quê được bình yên. Tục chó đá xuất phát từ cuộc sống như vậy”.
Những năm đầu thế kỷ XX trở về trước, ở nhiều nơi cổng thôn, cổng làng người Việt ở Bắc Bộ đều có tượng chó đá. Chó đá canh giữ cho nơi thờ này thể hiện sự tôn nghiêm về mặt tâm linh. Chẳng hạn, tại di tích Đình làng Địch Vĩ, xã Phương Đình – Đan Phượng – Hà Nội, có thờ nhóm tượng chó đá. Nhóm tượng này gồm nhiều con, làm bằng đá xanh, có kích cỡ nhỏ khoảng 50 đến 60 cm, ước đoán được tạc thế kỉ XVIII. Tại đình và chùa ở Làng Phù Trung (nay là Trung Hiền) , Hà Nội, trong khuôn viên di tích có tượng chó đá. Tượng chó đá đặt trên bệ thờ bên trái sân đình. Bệ thờ xây bằng gạch, trát xi măng, giữa đặt một hòn đá tảng chân cột của ngôi đình cũ. Tượng Chó cao một mét tạc bằng đá xanh ở tư thế ngồi, hai chân sau áp sát xuống đất. Trước tượng để bát hương, lễ vật đặt vào chân đá tảng hình tròn như cái mâm. Dân làng gọi là quan Hoàng Thạch.
Phủ thờ quận công Nguyễn Ngọc Trì ở làng Hát Môn, xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, Hà Nội, có 4 con chó đá, 2 con nghê đá, toàn bộ bằng đá xanh nguyên khối. Bốn con chó đá đặt trước và sau phủ gọi là Thạch cẩu, hai chân trước đứng, chân sau gập lại ở tư thế ngồi, trước tượng có bát hương thờ. Trong đình làng Ngọc Canh, xã Tam Canh, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc có bức chạm gỗ hình đoàn người, ngựa đi săn trở về có đòn gánh buộc một con nai. Một con chó săn chạy đầu đoàn người về làng diễn tả niềm vui săn bắn. Sách Đại Nam nhất thống chí ghi Lăng Ngải Sơn còn có tên gọi là An Lăng, hiện nay còn ở chân đồi khu Ao Bèo, thôn Trại Lốc, xã An Sinh, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh nằm trong Khu di tích nhà Trần ở Đông Triều có một tượng chó đá dài khoảng 60cm, nằm khoanh tròn chân, thu vào trong lòng, đầu gục xuống, đuôi cong xuống. Tại hai làng Phổ Trung, Phổ Đông thuộc xã Phú Thượng, huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên Huế có chó đá cũng được thờ có mái che, đặt ngay đầu xóm. Trước tượng chó đá có đĩa hương, đèn để thờ phụng. Dân hai làng ở đây cung kính gọi hai bức tượng chó đá là ngài “Thiên cẩu”. Những ngày rằm, mùng một người dân thường đến thắp nhang và cầu khấn.

Chùa Cầu ở Hội An, Quảng Nam ở miền Trung được xây dựng vào thế kỷ 17 có bảng câu đối chữ Hán có nhắc đến Chó là Thiên Cẩu – là một linh vật, Nhà Văn hóa Dân gian Nguyễn Bội Liên (1911-1996) có dịch và giải nghĩa câu đối chữ Hán ở phía cửa đông cầu:
“Thiên cẩu song tinh an cấn thổ,
Tử vi lưỡng tỉnh định khôn thân”.
Dịch là:
“Hai sao thiên cẩu ở yên nơi đất cấn
Hai tướng tử vi định được chốn quẻ khôn”.
Đôi câu đối chữ Hán ở cửa phía tây của cầu:
“Ngoạn nguyệt khách du châu vĩ điện,
Khán hoa nhân đáo mã đề lôi”
Dịch là:
“Khách ngắm trăng thuyền nhanh như chớp
Người xem hoa vó ngựa sấm vang”
Ở Hà Nội, gần sát đoạn lên dốc đường Thanh Niên, trên hồ Trúc Bạch có một gò đất nhỏ nổi lên, xưa có một ngôi miếu nhỏ, hoang phế gọi là Đền Cẩu Nhi. Thời kỳ 1980 – 1990 trong giới học giả Văn hóa đã từng có nhiều tranh luận về có hay không tục thờ Chó của người Việt, người phản đối tục thờ chó gay gắt nhất lúc đó là cố Giáo sư Đỗ Văn Ninh, ông là một Học giả uyên thâm, rất giỏi Hán văn và Pháp văn lại là một trong những học giả hàng đầu về khảo cổ học, sử học,…Tuy nhiên cuộc tranh luận cũng không phân thắng bại. Sau những năm 1995 – 2005, chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng đã phục hồi nhiều nghi lễ thờ phụng cổ truyền trong dân gian. Sau khi được xã hội hóa cho phép phục dựng lại ngôi miếu hoang phế thành đền đã được khánh thành tháng 08/2017, trên cửa đền có biển là Thủy Trung Tiên. Sách Tây Hồ Chí có ghi lại sự tích đền Cẩu Nhi có liên quan đến cuộc định đô Thăng Long của vua Lý Công Uẩn. Thời Hậu Lê, đền có tên là Thủy Tiên Từ. Theo một số tài liệu và bài viết về lịch sử ngôi đền Cẩu Nhi có dẫn tài liệu của Thư viện Quốc gia về một tấm ảnh chụp ở đây khoảng cuối thế kỷ 19 thấy có tấm hoành của miếu cũ ghi chữ Thủy Tiên Từ.
Nghiên cứu Dân tộc học đã cho thấy Con Chó được coi là Vật Tổ ( Totem) trong tín ngưỡng của người Cơ Tu. Truyền thuyết kể rằng, thuở xưa có một trận đại hồng thuỷ tiêu diệt muôn loài. Chỉ còn một cô gái và một con chó sống sót nhờ trốn vào một chiếc trống. Cô gái sống cùng với con chó như vợ chồng, sinh ra hai người con, một trai, một gái. Lớn lên, người con trai xuống đồng bằng, người con gái ở lại miền núi. Cuối cùng hai người lại gặp lại và lấy nhau, sinh ra một quả bầu. Từ quả bầu đó, người Cơ Tu, người Bru, người Tà Oi, người Việt…ra đời.
Truyền thuyết về ông Tổ Chó cũng còn thấy ở nhiều dân tộc khác ở Việt Nam như Chăm, Xê Đăng, Lô Lô, S’tiêng, Giẻ Triêng, Dao, … Người Dao có truyền thuyết và phong tục thờ ông Tổ Chó. Truyền thuyết kể rằng: “Xưa kia có ông vua của người Dao không có con trai chỉ sinh được 12 người con gái. Một ngày giặc sang xâm lược, vua liền truyền rằng ai đánh thắng giặc vua sẽ gả cả cho 12 cô con gái, vua cầu khấn Trời để xin. Rồi xuất hiện một Long Khuyển ngũ sắc, đầu Chó, mình Rồng, lông ngũ sắc, lại có 12 cái đuôi, đến xin vua cho đánh giặc. Long Khuyển ra trận diệt hết giặc rồi trở về gặp Vua. Nhà vua liền gả các con gái cho Long Khuyển được vua truyền ngôi báu”. Để nhớ ơn con Long Khuyển đã có công dẹp giặc cứu dân nên người Dao thêu hình con chó với bốn chân chó ở sau áo.
Văn học dân gian có tác phẩm Lục súc tranh công (khuyết danh) viết bằng chữ Nôm, xuất hiện khoảng đầu TK XX, con chó có mặt để nói về công trạng của mình:
“Đêm năm canh con mắt như chong:
Đứa đạo tặc nép oai khủng động.
Ngày sáu khắc, lỗ tai bằng trống,
Đứa gian tham thấy bóng cũng kinh.
Lại đến ngày kỵ lạp tiên sinh,
Cũng ra sức săn chồn, đuổi sóc.
Bao quản chui gai, lước góc,
Chi này múa mỏ, lòn hang…”
“Khi sống thì giữ gìn của đời,
Khi thác xuống giữ cầu âm giải,
Người có phước, muông đưa ra khỏi,
Ai vô nhân, qua chẳng đặng đâu!
Chủ có lòng suy trước, xét sau,
Khi lâm tử gạo tiền tống táng.
Chủ đã có công dày ngãi rộng,
Muông dễ không tiếp rước đãi đưa…”
Trước thời điểm ra đời của Lục súc tranh công, có lẽ dân Việt chỉ biết chó qua văn chương Hán học. Khi được coi là Linh vật, chó đá được đục khắc một hình hài oai nghiêm tĩnh lặng đặt hai bên trước cổng đền, chùa, miếu. Trong nghệ thuật tín ngưỡng Việt, từ hình ảnh Chó – một gia súc, qua sáng tạo, thần hóa thành Chó Đá, rồi để tăng thêm sự linh thiêng, quyền uy trấn giữ ma quỷ nhưng vẫn gần gũi với đời sống người Việt thì Chó Đá biến thành Con Nghê, với tư thế bốn chân ngồi canh giữ giống chó đá, nhưng về hình thức lại biến hóa có vây, có vẩy, dáng ngồi như chó, thân hình lại như rồng mà không phải là rồng.
Tra chữ Nghê trong Từ điển Hán Việt từ nguyên của Bửu Kế, tại trang 1213 có ghi chú giải chữ Nghê là Ráng Trời, viết bộ Võ, nghĩa là: “Trời mây sắc đỏ”. Không rõ chữ “ Nghê” là một danh từ thuần Việt, không có trong Hán tự, hay là chữ Nôm? Khác chó đá ở hình thái linh vật bên ngoài, Con Nghê có lúc được đưa lên cao hơn khi Chó Đá chỉ ngồi ở dưới đất. Nhiều tượng Con Nghê được đặt trên đỉnh trụ tam quan, trên mái đền, chùa ở khắp các vùng Bắc bộ Việt Nam. Con Nghê còn được dùng để trang trí trong các ngôi đình cổ ở Việt Nam. Hình tượng Con Nghê được chạm xà bẩy từ cột ra để đỡ xà dọc ở mái ngoài, được gắn trên đầu đao đình, chùa, đền, phủ.
Về chữ “Cẩu” có thể được dùng đầu tiên của Cao Bá Quát làm bài thơ tả hai ông quan chửi nhau vào thời vua Tự Đức (1847-1883). Các danh từ về chó có trong thơ văn như Khuyễn mã hay Sài lang, là nói về giống Chó Rừng hung dữ, xấu xí đáng ghét, không phải là loài chó nhà hiền lành thông minh, có hình dáng, lông sắc phong phú như sau này. Trong các sách truyện đời xưa, khi dùng từ “quân cẩu trệ” là muốn ám chỉ sự nhục mạ đối tượng. Đây là mặt trái, xấu bẩn và ác của “Con” chó cũng như phần xấu, ác trong “ Con” của Người.

Trong đời sống hàng ngày, chó là con vật thông minh, trung thành nhất trong các gia súc. Nhiều tác phẩm văn học đã ví tình yêu trung thủy, sự trung thành như: “ Con Chó”. Có nhiều chuyện về sự trung thành, chí tình của con chó với chủ nuôi. Dân gian có câu: “ Chó không chê chủ khó, Con không chê bố mẹ nghèo”. Trong hồi ký “ Những năm tháng ấy” của Nhà văn Vũ Ngọc Phan có viết chuyện cảm động về một con chó vàng, lùn đặt tên là Con Vịt rất khôn, khi chủ chết, nó bỏ ăn năm dưới gầm gường cũ của chủ, rồi chết: “ Bà ngoại tôi có nuôi một con chó thấp lè lè tè đặt tên là Vịt. Khi nhà có giỗ, bà ngoại tôi bảo con Vịt rằng: “ Hôm nay nhà có giỗ đấy. Vịt lên Hàng Bồ mà ăn cỗ” Thế là Vịt ta ve vẩy cái đuôi, tỏ ra đã hiểu, một lát sau nó từ Hàng Gai chạy lên Hàng Bồ một mình, ăn cỗ xong, nó lại trở về Hàng Gia là nơi ông bà ngoại tôi ở. Sau khi ông ngoại tôi mất, con vịt cứ nằm dưới gầm gường ông ngoại tôi, nhịn ăn, rồi chết” .
Chính tác giả viết sách này cũng thích nuôi chó, cũng chỉ nuôi chó ta. Những năm 1990 ở Triệu Việt Vương, Hà Nội nhà tôi ở có sân vườn cũng đã nuôi hàng chục lần chó. Khi tôi đi các nơi đều chăm chú hỏi kinh nghiệm chọn chó ta thế nào là khôn. Tuy nhiên chọn được con chó ta khôn rất khó. Chó ta khôn thì sự hiểu của nó gần như đứa bé dưới 10 tuổi, không cần ra hiệu chỉ nói cũng biết làm theo lệnh chủ. Tôi (tác giả) có một người bạn nuôi được con chó ta độ 3 tuổi, khôn, đang độ khỏe, lông mượt bóng. Một hôm bạn tôi đùa bảo: “ Tao cho mày vào nồi,…”, tưởng nó không hiểu, chỉ đùa, con chó hiểu sợ nhất định không ăn uống rồi chết. Sau lần ấy, bạn tôi ân hận mãi, rồi cũng không bao giờ chọn mua hay nuôi được con chó nào nữa, cứ mang về nuôi không chết thì bỏ nhà đi. Những người nuôi chó lâu năm nói: “ Bị con chó trước nó oán,…” .
Như vậy con chó là một trong những loài vật được Người Việt nuôi từ rất sớm, nếu không nói là một trong những Dân tộc đầu tiên thuần hóa Chó Rừng thành Chó Nhà trong buổi bình minh Nhân loại. Từ nhiều những chứng khoa học đã được công bố, xác minh, trong phong tục truyền thống Việt đã không ăn thịt chó.