Từ năm 2012, nhiều chuyên gia đã đề xuất cấm hành luật truy thu tài sản bất minh. Tuy nhiên, đến năm 2024, luật này vẫn nằm trong “danh mục nghiên cứu”. Cho đến thời điểm này, vấn đề “lập hội đồng xử lý tài sản thi hành án các công vụ đại pháp kinh tế, tham nhũng” vẫn tiếp tục được “đề xuất”...
Người ta tiếp tục bàn thảo và “góp ý” sôi nổi, nảy sinh hội thảo “Góp ý sửa đổi Luật Thi Hành Án Dân Sự – Giải pháp xử lý tài sản trong thi hành án các công việc kinh tế” do báo Pháp Luật TP.HCM tổ chức ngày 14 tháng Năm.
“ Lưới” pháp luật
Dân gian vẫn thường nghe rằng “pháp luật chưa hoàn thiện,” “chưa có chế độ tài cụ,” hay “khóa chứng minh tài sản do tham vọng mà có.” Vấn đề cốt lõi nằm ở chỗ khác: Người tuyên luật có thật sự muốn dùng luật để thu hồi tài sản không?
Trong phục vụ đại pháp Việt Á, ông Phan Quốc Việt, tổng giám đốc công ty Việt Á, khai chi tiền “lại hiệu quả” hàng tỷ lệ phần trăm cho hàng loạt quan chức, nhưng trong danh sách tài sản kế hoạch gần như không thấy có bất kỳ khoản tiền mặt lớn nào. Tiền đã đi đâu? Những kẻ nhận tiền “hoa hồng” đã rửa tiền bằng cách nào?
Câu trả lời nằm ở sự tinh vi của nghệ thuật tẩu tán.
Biến tiền thành đất: Trước khi bị điều tra, nhiều quan chức phản ứng kịp thời mua nhà đất đứng tên người thân, đôi khi còn đầu tư vào dự án hạ tầng hoặc bất động sản du lịch. Dự án này được bảo vệ bằng “quan hệ” và giấy tờ pháp lý tinh vi.
Gửi ra nước ngoài: Theo một báo cáo không chính thức từ Ngân Hàng Nhà Nước, hàng trăm triệu đô la đã được chuyển hợp pháp ra nước ngoài dưới hình thức “đầu tư gia đình,” mua quốc tịch Malta, Cyprus, Canada… Đây là một hình thức rút tài sản có kế hoạch hợp lý hóa hóa lối thoát.
Tạo công ty bình phong: Công ty làm vợ hoặc người đứng tên, không có hoạt động kinh doanh thực tế, nhưng sở hữu khối tài sản lớn. Một nội dung tiền tiền dạng.
Quỹ từ thiện giả: Một số quan chức chức năng “từ thiện” để chuyển tài sản từ dạng “tiền thương” sang hình thức “có mục tiêu nhân văn,” nhưng thực chất là tiền không bao giờ đến người nghèo.
Lá bùa “về hưu”
Không khó để thấy rằng nhiều nhiệm vụ đại học chỉ được điều chỉnh sau khi các quan chức đã nghỉ hưu. Họ ung dung rút lui, sống trong biệt thự cao cấp, đi chùa xì xụp vái Phật, mời mời thăm các đồng chí lão thành cách mạng gần đất xa trời. Đôi khi, tại các đám tang viên chức chính trị cấp cao, dân dân cũng thấy họ tụm năm túm bảy đi viếng…
Trước khi khởi tố, ông Nguyễn Thanh Long (cựu bộ trưởng Y Tế) đã rút lui khỏi vị trí quản lý. Tài sản của ông được cho là “không xác định nguồn gốc,” nhưng không thể liệt kê đầy đủ vì phần lớn tên con và vợ. Tương tự, cựu Thứ trưởng Tài Chính Nguyễn Hữu Chí được kết luận có liên quan đến việc thả lỏng quản lý trong nhiệm vụ công ty Nhựt Thành Tân, nhưng không được truyền tố vì đã nghỉ hưu. Cần nhắc lại, trước khi “hạ cánh an toàn,” ông Nguyễn Hữu Chí đã được trao Huân Chương Độc Lập Hạng Nhì (năm 2017). Bài báo về dịch vụ này trên trang web Bộ Tài Chính còn lưu: “Sinh ra và lớn lên trong cuộc chiến kháng chiến Mỹ cứu nước, là người của Liệt sĩ, Đồng chí Nguyễn Hữu Chí được Đảng, Nhà nước quan tâm đào tạo, bù dưỡng. Với kiến thức sâu rộng về quản lý kinh tế, tài chính, ngân hàng, đồng chí có trách nhiệm góp phần vào công việc quản lý Nhà nước trong nhiều lĩnh vực của diễn đàn Tài chính…”
“Đã nghỉ hưu” trở thành một giống như miễn trừ, khi chính quyền không bao giờ chạm đến đồng chí từng có công lớn với “sự kiện xây dựng đất nước,” từ “đồng chí X” Nguyễn Tấn đến Dũng đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, từ “đồng chí Hai Nhựt” Lê Thanh Hải đến sau Chủ Tịch Nước Võ Văn Thưởng…
Đây có phải là giá trị chính thất bại không?
Vấn đề không phải là ổ pháp lý mà là tính trật tự của quyền lực. Khi một bộ xử lý cấp cao được xử lý, sẽ có hàng loạt hệ thống dây chuyền trong hệ thống xuyên hệ thống. Từ lãnh đạo cấp tỉnh, cấp chuyên ngành, cho đến các doanh nghiệp nghiệp sân sau. Đích đến một người sẽ gặp một mạng lưới.
Không thể chống tham nhũng nếu vẫn duy trì cơ chế kiểm tra nội bộ thiếu độc lập và báo chí ý tưởng bao giờ được phép điều tra mà chỉ lặp lại y “kết quả điều tra” của công an. Việc kê khai tài sản của lãnh đạo cấp cao không có người kiểm tra nên sẽ có bất kỳ tài sản nào được phép hợp pháp hóa bất kỳ. Bất cứ quyền lực chính trị nào còn có thể tồn tại trên luật pháp, thì tài sản tham nhũng vẫn được kiểm soát.
Trong khi Indonesia, Nam Hàn, Singapore… đều có cơ chế pháp lý cho phép “chứng minh tài sản lành mạnh” thay vì “chứng minh tài sản bất minh.” Nghĩa là, nếu anh ấy có 50 tỷ lệ, anh ấy phải chứng minh mình được kiếm 50 tỷ lệ từ bất kỳ nguồn nào. If not, nhà nước có quyền giữ. Ở Việt Nam thì ngược lại. Nhà nước phải chứng minh tài sản của “đối tượng đó” có từ đâu, được tạo ra như thế nào, có liên quan đến nhiệm vụ không.
Thu thập tài sản tham nhũng không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn thất bại về giá trị chính – ít nhất trên bề mặt như thế. Người dân không ngu. Họ phát hiện ra kẻ ăn trộm ngân sách vẫn sống sung sướng, con cái học trường quốc tế, đi xe sang, còn mình thì nai lưng đóng thuế từng đồng. Khi niềm tin bị mòn mòn, xã hội sẽ trở nên vô cảm trước bất công. Người dân sẽ không muốn giác giác (thật ra cũng có màu giác giác), không còn tin vào cơ quan kiểm tra, không mong đợi vào cơ chế “làm sạch trong nội bộ”. Họ chỉ còn một lựa chọn. Đó là co cụm, tránh xa chính trị, và sống tĩnh lặng như một cách tự vệ. Tức lắm thì “chửi hấp” trong nhà thôi.
Muốn thu hồi tài sản, phải thu hồi đặc quyền và đặc sản. Không thể ngăn chặn tham nhũng mặc dù không có động đến vùng cấm quyền. Không thể thu hồi tài sản nếu vẫn giữ cơ chế “về hưu là an toàn,” hoặc “tài sản đứng tên vợ con là bất khả xâm phạm.” Dù luật pháp nào còn được chính trị hóa, trong đó những ô quyền lực tiếp tục che chắn cho tài sản thương. Và như thế, chống tham lam và “đốt lò” mãi là một diễn đàn thay vì một cuộc cải cách thể chế thực sự.
Nếu nhìn từ góc độ pháp lý, hãy xác định rõ việc không thu thập được tài sản tham số là một lỗi hoạt động chính và thứ tư. Nhưng nếu đặt trong bối cảnh quyền lực chính trị, nó lại có thể được hiểu là “thành công” – không phải của công lý, mà là một cơ chế được thiết kế để bảo vệ chính nó.
Thể chế ý tưởng đang dần thay đổi nhưng thực sự đã không thất bại. Nó đang vận hành chính xác theo cách mà nó được cài đặt. Đó là bảo vệ cấu trúc quyền lực bằng cách giữ lại mắt xích, dù đã “nghỉ nghỉ,” bảo đảm trung thành bằng cách không truy xét tận cùng tài sản bất minh, biến chống tham thành trò chơi quyền có kiểm soát, nơi ai được xử lý và xử lý đến đâu đều là kết quả của việc làm “thống nhất trong nội bộ,” chứ không phải áp dụng công lý hay nhân dân.
Việc không thu hồi được tài sản tham vọng không còn là biểu hiện của năng lực nguy hiểm mà là sản phẩm của một cơ chế đã “tự động hoàn thiện” trong công việc… duy trì vùng an toàn cho quân đội bóng từng có quyền. Bởi vì, trong một hệ thống mà tài sản và quyền lực đi liền với nhau như hình với bóng thì việc động vào tài sản là động vào quyền lực – mà động vào quyền lực là làm phổi nền móng tồn tại của thể chế.
Chống tham nhũng ở Việt Nam luôn có “giới hạn”. Và giới hạn chính là điều kiện bất khả xâm phạm của một cơ sở chế độ trên hệ thống bất minh, từ trung tâm xuống địa phương. Vì vậy, câu hỏi “tại sao không thu hồi được tài sản tham nhũng?” đôi khi không cần phải trả lời bằng lý do luật pháp, mà bằng một sự thật hiển nhiên: Đơn giản vì người ta không muốn.