Hầu hết nguyên nhân của
bệnh bị liệt mặt hay còn gọi là
liệt dây thần kinh số 7 đều do bị lạnh. Đông y gọi là bệnh này là
"khẩu nhãn oa tà" có nghĩa là miệng mắt bị méo lệch một bên.
Thông thường bệnh xảy ra khá đột ngột, khi soi gương sẽ thấy khuôn mặt bị biến dạng và lệch về một bên.

(Minh họa)
Để phát hiện bên bị liệt, chúng ta chỉ cần chú ý nhìn bên mặt bị lệch và bên không bị liệt do các cơ bắp không bị liệt kéo mạnh hơn. Rãnh nhân trung cũng bị kéo mạnh về bên lành. Bệnh nhân bị liệt mặt khi nhắm mắt, mắt bên bị liệt thường không nhắm kín hết được. Khi cười, nụ cười bị kéo xếch về bên lành. Rãnh mũi mép lằn sâu ở phía bên lành. Mắt bên lành có vẻ nhỏ hơn so với mắt bên bị liệt. Khi nhăn mặt, trán các vết nhăn ở trán bên lành sẽ có dấu hằn sâu hơn so với bên bị liệt. Rãnh nhân trung nhìn kỹ thấy rõ bị lệch về bên lành.
Cần xác định rõ bên bị liệt để có thể cho day bấm huyệt hoặc dán cao thuốc vào các huyệt bên bị liệt.
Khi bị bệnh, cần được nên cho điều trị kịp thời, đúng cách, nếu không bệnh có thể sẽ để lại di chứng bị liệt cứng, lúc đó việc điều trị sẽ rất khó khăn, ảnh hưởng đến sức khỏe và thẩm mỹ của người bệnh.
Một số nguyên nhân có thể gây ra liệt dây thần kinh số 7 như:
-
Liệt dây thần kinh số 7 do lạnh (thường gặp): làm phù nề các tổ chức trong xương đá, chèn ép dây 7 gây liệt mặt, nếu chèn ép lâu ngày sẽ để lại di chứng, làm co mạch gây thiểu năng tuần hoàn tại chỗ, không nuôi dưỡng được dây thần kinh, gây ra liệt mặt, méo miệng. Y học cổ truyền gọi đây là do phong hàn, bệnh do phong hàn xâm nhập vào mạch của 3 kinh dương mặt, làm cho sự lưu thông của kinh khí không bình thường, khí huyết không điều hòa, kinh cân thiếu dinh dưỡng không co lại được gây nên bệnh
-
Do bị nhiễm trùng: y học cổ truyền xếp do phong nhiệt làm khí huyết không điều hòa gây nên liệt, thường gặp trong viêm xương đá, viêm tai giữa, zona
-
Do bị chấn thương: y học cổ truyền gọi đây là nguyên nhân huyết ứ, làm bế tắc kinh lạc gây nên liệt, thường gặp do ngã làm vỡ xương đá, xương chũm, gây chèn ép vào dây thần kinh số 7 gây liệt, do mổ viêm tai xương chũm làm đứt dây thần kinh số 7, sưng phù nề chèn ép dây thần kinh gây liệt mặt.
Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh liệt dây thần kinh số 7 xuất hiện đột ngột và có thể bao gồm:
- Khởi phát nhanh chóng từ yếu đến liệt một bên mặt, xảy ra trong vài giờ đến vài ngày
- Mặt bị xệ xuống và khó thực hiện các biểu cảm trên khuôn mặt như nhắm mắt hoặc mỉm cười
- Chảy nước dãi
- Đau chung quanh hàm
- Đau đầu
- Mất vị giác
Trong một số trường hợp hiếm hoi, bệnh liệt dây thần kinh số 7 có thể ảnh hưởng đến các dây thần kinh ở cả hai bên mặt của bạn.
Đông y có đưa ra nhiều phương pháp điều trị bị liệt mặt do lạnh như cho châm cứu, day bấm huyệt, đắp thuốc. Bị liệt mặt trong 3 tháng đầu có thể cho điều trị tốt qua châm cứu, điện châm, thủy châm, cấy chỉ tự tiêu được xem là phương pháp điều trị tích cực. Trong bài viết này xin được giới thiệu cùng bạn đọc một số phương pháp đơn giản, nhằm giúp các bạn có thể cho kết hợp với thầy thuốc trong quá trình điều trị.
Huyệt dạo trên vùng mặt
Xoa bóp
- Dùng đầu ngón tay cái miết dọc hai bên sống mũi, từ khóe trong mắt lên đầu lông mày, miết cả 2 bên. Mỗi bên miết khoảng 10 lần.
- Miết từ
huyệt Ấn đường dọc theo lông mày ra
huyệt Thái dương khoảng 10 lần.
- Day quanh mắt khoảng 5-10 lần.
- Tiếp đó miết từ
huyệt Nghinh hương đến
huyệt Địa thương khoảng 10 lần.
- Day quanh môi khoảng 5-10 lần.
- Xoa xát cả 2 bên má, mỗi bên 10 lần.
Mỗi ngày xoa bóp, bấm huyệt khoảng 20 phút cho đến khi khỏi bệnh.
Bấm huyệt: Chọn ra một số huyệt thuộc vùng mặt:
1/ Giáp xa: Huyệt này ở trước góc hàm dưới khoảng chiều ngang 1 ngón tay, đè vào chỗ trũng có cảm giác ê tức.
2/ Tứ bạch: Dùng lòng ngón tay sờ lên vùng phía dưới con mắt, sẽ phát hiện ra có chỗ lõm trên xương hốc mắt ở ngay dưới mí mắt,
huyệt Tứ bạch nằm thẳng phía dưới chỗ lõm ấy chừng một đốt ngón tay. Dùng đầu ngón tay di chuyển qua lại hai bên vị trí huyệt đạo ấy thì sẽ cảm thấy mũi bị kích thích.
3/ Huyệt Nghinh hương nằm bên cạnh cánh mũi, trên rãnh mũi má, cách cánh mũi khoảng nửa thốn (tương đương 0,8 cm).
4/ Huyệt Địa thương: Là điểm gặp nhau của rãnh mũi mép và đường ngang qua 2 mép. Ở khóe miệng ngang ra khoảng 0,8 cm
5/ Huyệt Hợp cốc: Nằm ở khe chính giữa điểm kết nối của ngón tay cái và ngón tay trỏ. Khi mở rộng 2 ngón tay cái và ngón trỏ ra, bàn tay xòe rộng như miệng hổ, nên còn được gọi là hổ khẩu. Giơ bàn tay lên, sờ vào vùng lõm của điểm giao kết giữa ngón trỏ và ngón cái, phần lõm sâu sát với xương nối chính là
huyệt Hợp cốc.
6/ Huyệt Ấn đường: Nằm tại vị trí ở giao điểm đường thẳng nối hai đầu cung lông mày với đường chính trung đi qua sống mũi.
7/ Huyệt Ngư yêu: Huyệt nằm chính giữa cung lông mày.
8/ Huyệt Thái dương: Nó nằm giữa khoảng cách phía ngoài đuôi lông mày và phía ngoài đuôi mắt. Có thể dùng đầu ngón tay vuốt từ góc mí tóc ở trán đến đuôi mắt sẽ gặp một chỗ lõm đó là cơ sở để xác định ra
Huyệt Thái dương.
9/ Huyệt Ế phong: Phía sau tai, nơi chỗ lõm giữa góc hàm dưới và gai xương chũm, sau mỏm nhọn cao nhất của tai, sát bờ trước cơ ức đòn chũm.
10/ Huyệt Phong trì: Ở chỗ hõm sau gáy của bờ trong cơ ức đòn chũm và bờ ngoài cơ thang bám vào đáy hộp sọ, chỗ lõm nhất chính là huyệt.
Cách day bấm huyệt:
Dùng đầu ngón tay cái đối diện bên bị liệt tự day bấm các huyệt trên. Có thể chỉ cần day bấm bên liệt mà không nhất thiết day bấm bên lành.
Huyệt Hợp cốc chỉ cần bấm bên lành chứ không cần bấm bên bị liệt, mỗi huyệt nên xoa day bấm từ 1-3 phút.
Dán thuốc: Dùng các loại cao dán đã được bào chế sẵn để cho dán vào các huyệt nói trên.
Bạn có thể áp dụng cho phối hợp tất cả các biện pháp đơn giản trên đây để chữa bị liệt mặt cho chính mình hoặc người thân. Tuy nhiên cần lưu ý chỉ nên xem đây là biện pháp phối kết hợp. Bạn nên đi khám và điều trị theo chỉ định của thầy thuốc.
** Hôm nọ thấy có tay giang hồ đưa hình của TT Trump, cho thấy miệng bị lệch một bên, không biết có phải do bị lạnh như Đông Y chẩn đoán hay không. Đáng tiếc không dám vô hỏi thăm vi tay này còn dữ hơn cọp beo, nếu lỡ có ai đụng đến là sẽ giãy nãy như bị mắc kinh phong, trông thật dễ sợ lắm!!
Xem ảnh: