
Quân đội Trung Quốc và Lào sau khi hoàn thành giai đoạn bắn đạn thật chung toàn diện tại một thao trường ở Lào vào ngày 26 tháng 5 năm 2023. Ảnh: Ảnh chụp màn h́nh từ tài khoản WeChat của Bộ Tư lệnh Chiến khu Nam, Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc
Đối với hầu hết các nhà phân tích, câu hỏi về việc Trung Quốc xâm lược Đài Loan và hậu quả là chiến tranh với Hoa Kỳ không phải là liệu có hay không, mà là khi nào. Tiến sĩ Gregory J. Moore, Giáo sư Chính phủ tại Đại học Patrick Henry và Nghiên cứu viên Cao cấp tại Viện Nghiên cứu Răn đe Quốc gia, đă tŕnh bày một đánh giá cho Đại học Không quân Hoa Kỳ, trong đó ông lập luận rằng quyết định của Tập Cận B́nh về thời điểm xâm lược Đài Loan và nguy cơ chiến tranh với Hoa Kỳ phụ thuộc vào 13 yếu tố quan trọng, cùng với bốn điều kiện lâu dài khác.
Dựa trên phân tích của Tiến sĩ Moore, phép tính của Tập dựa trên 13 yếu tố chính: (1) mức độ sẵn sàng quân sự của Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA), (2) nền kinh tế đang gặp khó khăn của Trung Quốc, (3) bản sắc của Đài Loan ngày càng xa rời Trung Quốc đại lục, (4) sự suy giảm dân số của Trung Quốc, (5) tầm quan trọng của ngành công nghiệp bán dẫn của Đài Loan, (6) tầm quan trọng ngày càng tăng của chất bán dẫn đối với Trung Quốc trong bối cảnh bị cô lập về công nghệ, (7) cam kết ngày càng mở rộng của Hoa Kỳ đối với Đài Loan, (8) hiện tại thiếu các cuộc tập trận chung và khả năng tương tác giữa Hoa Kỳ và Đài Loan, (9) lợi thế hiện tại của Trung Quốc về vũ khí siêu thanh diệt hạm, (10) nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm phát triển vũ khí và hệ thống pḥng thủ siêu thanh, (11) t́nh trạng quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc không tốt, (12) nhận thức của Tập về ư định ngày càng thù địch của Hoa Kỳ và (13) chiến thắng năm 2024 của Đảng Dân chủ Tiến bộ ủng hộ độc lập của Đài Loan.
Trong số 13 yếu tố này, 11 yếu tố cho thấy một cuộc xâm lược có thể sắp xảy ra, trong khi chỉ có hai yếu tố ủng hộ việc tŕ hoăn. Tuy nhiên, việc tŕ hoăn sẽ làm xói ṃn những lợi thế mà 11 yếu tố vốn đă có lợi cho Bắc Kinh mang lại. Hai yếu tố cho thấy cần phải chờ đợi là sự chuẩn bị quân sự của Quân Giải phóng Nhân dân (PLA) và nền kinh tế đang gặp khó khăn của Trung Quốc.
Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) vẫn c̣n nhiều thiếu sót về huấn luyện , hậu cần và năng lực, và sẽ được hưởng lợi nếu có thêm thời gian để hiện đại hóa. Nền kinh tế Trung Quốc cũng đang đối mặt với nhiều trở ngại: số liệu tăng trưởng gây tranh căi, thị trường nhà đất sụp đổ, tỷ lệ thất nghiệp trong giới trẻ vượt quá 21%, giảm phát do chiến tranh thương mại với Hoa Kỳ, xuất khẩu chậm lại và sự cô lập ngày càng tăng khi các quốc gia theo đuổi chiến lược "giảm rủi ro" và "tách rời".
11 chỉ số c̣n lại ủng hộ hành động sớm hơn. Bản sắc dân tộc của Đài Loan tiếp tục rời xa Trung Quốc, với các cuộc khảo sát cho thấy chỉ 3,6% người Đài Loan tự nhận ḿnh là người Trung Quốc vào năm 2022, so với 61% tự nhận ḿnh là người Đài Loan. Sự suy giảm dân số của Trung Quốc đe dọa việc tuyển quân trong tương lai, gia tăng áp lực phải hành động trước khi t́nh trạng thiếu hụt nhân lực trầm trọng hơn.
Sự thống trị của Đài Loan trong lĩnh vực bán dẫn tiên tiến, chủ yếu thông qua TSMC, vẫn là một lợi thế hấp dẫn, nhưng có thể suy giảm khi sản xuất được đa dạng hóa sang Arizona, Đức và Nhật Bản. Với việc Mỹ thắt chặt kiểm soát xuất khẩu, việc Bắc Kinh bị cô lập khỏi các nhà máy chip tiên tiến khiến các nhà máy của Đài Loan càng trở nên giá trị hơn.
Động lực quân sự càng làm thay đổi cán cân. Trung Quốc hiện đang nắm giữ lợi thế về vũ khí diệt hạm và siêu thanh, đặc biệt là hệ thống DF-17, trong khi Mỹ thiếu các biện pháp đối phó đáng tin cậy. Tuy nhiên, lợi thế này sẽ không kéo dài khi Washington đang đẩy nhanh quá tŕnh phát triển vũ khí siêu thanh và hệ thống pḥng thủ của riêng ḿnh.
Cam kết của Hoa Kỳ đối với Đài Loan cũng tăng trưởng đều đặn thông qua việc bán vũ khí, viện trợ quân sự và sự ủng hộ chính trị mạnh mẽ hơn, và có thể sẽ c̣n sâu sắc hơn theo thời gian. Hiện tại, Đài Loan và Hoa Kỳ thiếu các cuộc tập trận chung và khả năng tương tác như với các đồng minh hiệp ước như Nhật Bản hoặc Hàn Quốc, nhưng khoảng cách đó sẽ được thu hẹp nếu Tập Cận B́nh tŕ hoăn.
Các yếu tố ngoại giao và chính trị cũng thúc đẩy Tập Cận B́nh hành động. Quan hệ Mỹ-Trung hiện đang ở mức thấp, làm giảm bớt chi phí cho việc tiếp tục xấu đi. Bản thân Tập Cận B́nh đă mô tả chiến lược của Mỹ là “kiềm chế toàn diện, bao vây và đàn áp”, củng cố nhận thức của ông về sự thù địch của Mỹ và niềm tin rằng Washington sẽ ngày càng sử dụng Đài Loan như một công cụ để làm suy yếu Trung Quốc.
Cuối cùng, cuộc bầu cử Đài Loan năm 2024, mang lại chiến thắng cho Đảng Dân chủ Tiến bộ ủng hộ độc lập, đă dập tắt hy vọng về mối quan hệ nồng ấm hơn giữa hai bờ eo biển và củng cố quỹ đạo xa rời Bắc Kinh của Đài Loan.
Ngoài những chỉ số trên bảng điều khiển, Moore c̣n chỉ ra bốn điều kiện lâu dài làm tăng thêm tính cấp bách. Thứ nhất, “cam kết thiêng liêng” của ĐCSTQ đối với Đài Loan là nền tảng cho hệ tư tưởng toàn vẹn lănh thổ và bản sắc dân tộc của Bắc Kinh. Thứ hai, việc ra quyết định độc đoán tạo ra những sai lệch, v́ Tập Cận B́nh có thể không nhận được những đánh giá trung thực về mức độ sẵn sàng của PLA do các cuộc thanh trừng quân sự và văn hóa sợ hăi.
Thứ ba, động cơ chính trị cá nhân của Tập Cận B́nh thúc đẩy sự cấp bách: việc giành lại Đài Loan sẽ củng cố di sản của ông và củng cố vị thế của ông tại Đại hội Đảng năm 2027, nơi nhiệm kỳ thứ tư của ông sẽ được quyết định. Cuối cùng, chỉ thị của Tập Cận B́nh rằng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) phải sẵn sàng vào năm 2027, được Giám đốc CIA William Burns công khai xác nhận, đặt ra một mốc thời gian khó khăn cho việc chuẩn bị.
Moore kết luận rằng một cuộc xâm lược Đài Loan của Trung Quốc trong ṿng một đến ba năm, có thể là trước Đại hội Đảng tháng 10 năm 2027, phải được coi là một kịch bản khả thi. Mặc dù sự chuẩn bị quân sự thiên về tŕ hoăn, nhưng sức nặng của các chỉ số khác, cùng với sự bóp méo của quá tŕnh ra quyết định độc đoán, khiến việc hành động sớm hơn ngày càng có khả năng xảy ra. Việc bỏ qua những thực tế này có nguy cơ khiến Hoa Kỳ và các đồng minh không được chuẩn bị cho những ǵ có thể trở thành điểm nóng bất ổn nhất trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ.