Đêm Bắc Kinh thất thủ năm 1644, Sùng Trinh đế cầm súng chờ binh cứu viện nhưng đội quân Cẩm y vệ 150.000 người lại biến mất không một dấu vết.
Đêm 18/3/1644, Lư Tự Thành công phá Bắc Kinh. Trong Tử Cấm Thành, Sùng Trinh đế vẫn nuôi hy vọng triệu tập lực lượng thân tín để phản công. Nhưng câu nói lạnh lùng của thái giám Vương Thừa Ân đă dập tắt mọi ảo tưởng: "Bệ hạ lấy đâu ra binh?"
Đội quân Cẩm y vệ vốn là biểu tượng của quyền lực hoàng đế, nỗi ám ảnh của bá quan đă biến mất hoàn toàn đúng vào thời khắc triều đ́nh cần họ nhất.
Đêm nhà Minh sụp đổ, 150.000 Cẩm y vệ từng khiến bá quan khiếp vía bỗng
Đội quân Cẩm y vệ vốn là biểu tượng của quyền lực hoàng đế, nỗi ám ảnh của bá quan đă biến mất hoàn toàn đúng vào thời khắc Sùng Trinh đế cần họ nhất. (Ảnh: Sohu)
Trên danh nghĩa, cuối thời Minh, Cẩm y vệ có tới 150.000 người. Nhưng trên thực tế, số có thể chiến đấu chỉ khoảng 3–5 vạn. Phần lớn Cẩm y vệ chỉ làm nhiệm vụ thu thập tin tức, với đủ thành phần trà trộn trong dân gian như thợ cạo, tiểu nhị quán trọ, gia nhân trong các phủ đệ. Không ít người trong số họ là con cháu thế tập, quen sống ăn chơi, khoác áo quan nhưng thiếu kỷ luật và năng lực.
Nghiêm trọng hơn, việc mua bán chức vị Cẩm y vệ đă trở nên phổ biến, cụ thể, chỉ cần bỏ ra vài trăm lượng bạc, có kẻ đă có thể mặc phi ngư phục, đeo tú xuân đao, được tự do đi lại khắp nơi. Thế nhưng, khi biến loạn ập đến, thứ mà họ mua được không phải quyền lực hay sự an toàn, mà chỉ là cái chết cận kề.

Trên danh nghĩa, cuối thời Minh, Cẩm y vệ có tới 150.000 người nhưng trên thực tế, số có thể chiến đấu chỉ khoảng 3–5 vạn. (Ảnh: Sohu)
Một vụ việc tại Tô Châu từng cho thấy rơ sự suy đồi ấy, khi một nhóm Cẩm y vệ lạm quyền, vơ vét quá mức, khiến dân chúng phẫn nộ đến mức đánh chết họ ngay giữa phố. Từ thời điểm đó, hào quang của danh xưng vệ binh hoàng gia đă không c̣n đủ sức che chở cho chính những kẻ từng dựa vào nó để ngang ngược với thiên hạ.
Từ "chó săn của thiên tử" đến công cụ bị bỏ rơi
Năm Hồng Vũ thứ 15 (1382), Chu Nguyên Chương chính thức lập ra Cẩm y vệ – một lực lượng đặc biệt chỉ trung thành với hoàng đế, chuyên giám sát bá quan. Vốn là người đa nghi, Minh Thái Tổ cần một "tai mắt" tuyệt đối tin cậy để kiểm soát triều đ́nh, và trong giai đoạn đầu, Cẩm y vệ thực sự đáng sợ.
Có quan viên vừa về nhà than phiền việc lên triều quá sớm, hôm sau Chu Nguyên Chương đă đọc lại nguyên văn từng chữ trước bá quan; có kẻ uống rượu múa may trong nhà, ngày hôm sau bị ném cho một bức phác họa giống hệt cảnh tượng đêm trước. Hai đại án chấn động triều Minh là Hồ Duy Dung và Lam Ngọc, với hơn 40.000 người bị liên lụy, đều do Cẩm y vệ trực tiếp điều tra và xử lư.
Đêm nhà Minh sụp đổ, 150.000 Cẩm y vệ từng khiến bá quan khiếp vía bỗng
Vốn là người đa nghi, Minh Thái Tổ cần một "tai mắt" tuyệt đối tin cậy để kiểm soát triều đ́nh, và trong giai đoạn đầu, Cẩm y vệ thực sự đáng sợ. (Ảnh: Sohu)
Thế nhưng, thịnh cực tất suy. Sau khi Chu Đệ đoạt ngôi, ông không c̣n tin tưởng Cẩm y vệ vốn là di sản của phụ hoàng và người tiền nhiệm nên lập ra Đông Xưởng, giao cho thái giám nắm quyền, nhằm kiềm chế lực lượng này. Từ đó, Cẩm y vệ dần mất vai tṛ độc lập, trở thành cánh tay phụ thuộc của Đông Xưởng.
Chưa dừng lại ở đó, chế độ thế tập càng đẩy lực lượng này vào con đường suy thoái: cha làm Cẩm y vệ th́ con cũng được vào, không cần khảo hạch hay tuyển chọn nghiêm ngặt khiến đội ngũ ngày càng kém chất lượng. Khi quyền lực vẫn c̣n nhưng năng lực đă mất, Cẩm y vệ dần trở thành biểu tượng của sự lạm quyền hơn là sức mạnh thực sự.
Quốc nạn ập đến: Cẩm y vệ chọn 3 con đường
Khi Bắc Kinh thất thủ năm 1644, lực lượng Cẩm y vệ từng khiến triều đ́nh khiếp sợ cũng đứng trước thời khắc định mệnh. Trước biến loạn, họ không c̣n là vệ binh hoàng gia, mà buộc phải tự chọn cho ḿnh một con đường sống hoặc chết.
Một bộ phận chọn đầu hàng. Tiêu biểu là Lạc Dưỡng Tính, Chỉ huy sứ Cẩm y vệ cuối cùng của nhà Minh. Sau khi kinh thành vỡ, ông ta nộp ba vạn lượng bạc để giữ mạng, trong khi hai người em v́ không có tiền chuộc bị đánh chết. Khi cục diện thay đổi, Lạc Dưỡng Tính lập tức đổi phe, quy thuận nhà Thanh và trở thành Tổng đốc Thiên Tân đầu tiên. Nhiều Cẩm y vệ khác cũng noi theo, quỳ gối cầu sinh để tiếp tục tồn tại trong triều đại mới.
Nhưng cũng có người chọn tuẫn quốc. Phó chỉ huy Cẩm y vệ Lư Nhược Liễn là trường hợp hiếm hoi. Ông nổi tiếng chấp pháp công chính, từng dám nói sự thật trong vụ án oan Viên Sùng Hoán dù bị giáng chức. Khi quân khởi nghĩa tràn vào Bắc Kinh, Lư Nhược Liễn tử thủ Sùng Văn Môn, cuối cùng tự sát tuẫn quốc, để lại câu tuyệt mệnh đầy bi tráng.
Đêm nhà Minh sụp đổ, 150.000 Cẩm y vệ từng khiến bá quan khiếp vía bỗng
Khi Bắc Kinh thất thủ năm 1644, lực lượng Cẩm y vệ từng khiến triều đ́nh khiếp sợ cũng đứng trước thời khắc định mệnh. (Ảnh: Sohu)
Con đường c̣n lại là bỏ trốn. Không ít Cẩm y vệ cởi bỏ quan phục, mang theo của cải rồi biến mất giữa ḍng người loạn lạc. Họ hiểu rơ, với quá nhiều máu trên tay, đầu hàng chưa chắc đă sống, chỉ có trốn chạy mới giữ được mạng. Sau khi Bắc Kinh thất thủ, Nam Minh vẫn cố duy tŕ danh xưng Cẩm y vệ, nhưng chỉ c̣n cái vỏ. Những biến động chính trị, đấu đá quyền lực và phản bội khiến lực lượng này tiếp tục suy tàn.
Năm 1661, tại Miến Điện, hơn 40 đại thần Nam Minh bị sát hại trong một "bữa tiệc" trá h́nh. Trong số những người chết, Cẩm y vệ chiếm gần một nửa. Đó cũng là lần cuối cùng danh xưng này xuất hiện trong sử sách.
Cẩm y vệ không bị tiêu diệt bởi kẻ thù, mà tan ră v́ tham nhũng, thế tập, lạm quyền và mất niềm tin của xă hội. Khi quốc gia sụp đổ, lực lượng từng gieo nỗi sợ cho người khác lại không c̣n đủ sức bảo vệ triều đ́nh hay chính bản thân họ.
Lịch sử nhà Minh khép lại, và cùng với nó, 290 năm tồn tại của Cẩm y vệ cũng biến mất, để lại một bài học về quyền lực không đi kèm thực lực và kỷ cương, sớm muộn cũng chỉ là chiếc áo rỗng.