" SỰ PHẢN BỘI CỦA HENRY KISSIGER LÀ NGUYÊN CHÍNH KHIẾN VIỆT NAM CỘNG HÒA BỊ SỤP ĐỔ !"
Dường như Henry Kissinger đã làm theo câu nói nổi tiếng của sử gia Thucydides :
- "The strong do what they can, the weak suffer what they must", tác giả Stephen B. Young bình luận với BBC News Tiếng Việt.
'' Kissinger's Betrayal : How America Lost the Vietnam War '' là quyển sách mới nhất của tác giả Stephen B. Young cho thấy cách nhà ngoại giao hàng đầu của Mỹ, Henry Kissinger đã phản bội Việt Nam Cộng hòa (VNCH) thế nào qua những thỏa thuận bí mật với Liên Xô, Bắc Việt và Trung Quốc.
Ông Henry Kissinger, 99 tuổi là Ngoại trưởng Mỹ từ năm 1973 đến 1977, và trợ lý cho Tổng thống Mỹ Richard Nixon, sau đó là Tổng thống Gerald Ford trong các vấn đề an ninh quốc gia từ năm 1969 đến tháng 11/1975.
Quyển sách đề cập đến động cơ sâu xa Henry Kissinger, từ sự không tin tưởng vào một chiến thắng cho Mỹ ở Việt Nam ngay từ ban đầu, không xem Việt Nam Cộng hòa có chủ nghĩa dân tộc.
Nguyên nhân gốc rễ là từ ảnh hưởng tư tưởng của Jean Sainteny, Đặc ủy Cộng Hòa Pháp tại Bắc Bộ từ năm 1946 đến 1962, theo Giáo sư Stephen B. Young.
Trả lời phỏng vấn BBC News Tiếng Việt từ Minnesota (Hoa Kỳ) ngày 27/03, cựu phó khoa luật Đại học Harvard cho rằng :
- Nền hòa bình mang lại sau Hiệp định Paris ký ngày 27/01/1973 là "không có danh dự" như Tổng thống Nixon từng mong muốn.
BBC :
Ông có thể nói về quá trình viết sách 'Kissinger's Betrayal:
How America Lost the Vietnam War' ?
Có thể nói đây là quyển sách đầu tiên về sự phản bội của Henry Kissinger đối với Việt Nam Cộng hòa ?
Giáo sư Stephen B. Young :
Đúng như vậy. Mọi chuyện xảy đến với tôi theo một cách tình cờ.
Tôi đã tìm kiếm tài liệu viết quyển sách này trong hơn 40 năm qua. Nhiều câu chuyện, mà tôi có thể nói theo Tiếng Việt, phải gọi là "phước của Trời ".
Tôi có quen biết cựu Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn, ông Ellsworth Bunker trong quãng thời gian tôi làm việc tại đó. Bunker về hưu năm 1980, và ông ấy mời tôi cùng gia đình đến thăm quê ông ấy ở Vermont.
Khi đó, Bunker đã kể rất nhiều câu chuyện thú vị về Việt Nam như về Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu... Khi đó tôi đặt câu hỏi cho ông ấy :
- " Ngài Đại sứ, tôi muốn viết sách, người dân Mỹ cần phải biết những câu chuyện này. Đây là những câu chuyện hay, rất thú vị mà lại không ai biết về chúng." Và rồi ông ấy đồng ý.
Lá thư Henry Kissinger gửi cho Ellsworth Bunker vào ngày 25/05/1971 (phải), có đoạn :
- " On your point VI we will say that peoples of Indochina should discuss this question among themselves but we not set date."
Và một biên bản từ Nhà Trắng vào ngày 25/05/1971, Sainteny và vợ ăn trưa với Henry Kissinger, và Sainteny truyền đi thông điệp từ Hà Nội (trái)
Khi cùng làm việc với nhau, tôi đã có điều kiện tiếp cận với những tài liệu mật của Bunker ở Bộ Ngoại giao Mỹ.
Khi nhìn vào một tủ hồ sơ, tôi phát hiện những lá thư mật giữa Ellsworth Bunker và Henry Kissinger.
Và tôi thấy thông điệp rất sốc của Kissinger vào ngày 25/05/1971, mang nội dung nói một cách gián tiếp [indirectly] với Bunker rằng :
- " Mỹ sẽ để Hà Nội duy trì hiện diện quân sự ở miền Nam Việt Nam sau hiệp định hòa bình Paris. Nói một cách khác, Kissinger sẽ bỏ rơi những người Việt Nam theo chủ nghĩa dân tộc. Nhưng tôi chỉ có một tài liệu đó.
Vào năm 1971, Đại sứ Bunker không hiểu những gì Kissinger nói, ông ấy vẫn còn nghĩ rằng :
Kissinger vẫn còn ủng hộ người theo chủ nghĩa dân tộc ở Sài Gòn và do đó, Bunker đã không làm gì.
Và khi tôi đưa bức thư đó cho Bunker xem thì ông ấy rất thất vọng vì nghĩ rằng lẽ ra mình đã phải nhận ra ngay vấn đề vào thời điểm đó.
Chính câu chuyện này đã cho tôi một chỉ dấu cho thấy Kissinger đã có một kế hoạch cá nhân cho cuộc chiến tranh Việt Nam. Và tôi đã dành rất nhiều năm để xem thêm tài liệu khác để viết nên quyển sách này.
Ông Ellsworth Bunker là Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Cộng hòa nhiệm kỳ 1967-1973
Tôi cũng tiếp cận Tổng thống Nixon. Kết bạn với Nixon vốn là chuyện không dễ dàng vì tôi phải mất đến 4 đến 5 năm.
Lần đầu tôi gặp Nixon là vào khoảng năm 1981. Vào khoảng năm 1989, khi nghĩ ông ấy đã tin tưởng mình, tôi hỏi ông ấy ở New Jersey :
- " Có phải ông đã ủy quyền cho Henry Kissinger bỏ rơi Việt Nam Cộng hòa hay không ?", và khi đó ông ấy bị sốc, mặt trắng bệch, ông ấy nói không nên lời.
Ông ấy nói mình không biết Kissinger thật sự làm gì vào năm 1971.
Một yếu tố khác là từ quyển sách :
- " Các Cuộc Thương Lượng Lê Đức Thọ - Kissinger Tại Paris " của tác giả Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ, những nhà ngoại giao cùng với ông Lê Đức Thọ trong quá trình đàm phán Hiệp định Paris.
Trong quyển sách đó, hai tác giả viết rằng :
- Vào cuối tháng Giêng năm 1971, Đại sứ Liên Xô tại Hà Nội có cuộc họp với Thủ tướng Phạm Văn Đồng.
Khi đó Đại sứ Liên Xô cho biết Kissinger vừa mới nói với Đại sứ Liên Xô tại Washington, Anatoly Dobrynin là :
- " Nước Mỹ sẽ rời khỏi Việt Nam và không bao giờ trở lại, Mỹ sẽ không yêu cầu Hà Nội rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Câu chuyện này trùng khớp với tài liệu mà tôi có được từ tập hồ sơ mật của Bunker.
Rồi sau đó tôi nhớ lại trong quyển tự truyện của Kissinger, ông ấy nêu vào ngày 09/01/1971 đã có cuộc gặp với Đại sứ Liên Xô, Dobrynin ở Washington, và chấm hết.
Đó là tất cả những gì Kissinger viết.
Như vậy chúng ta có thể thấy, chi tiết gặp Đại sứ Liên Xô tại Washington từ hai tác giả Việt Nam và tự truyện của Kissinger có sự liên quan với nhau.
Tổng thống Richard Nixon và Ngoại trưởng Henry Kissinger trong cuộc gặp với Đại sứ Liên Xô Anatoly Dobrynin tại Nhà Trắng vào ngày 26/12/1973
Tổng thống Richard Nixon và Ngoại trưởng Henry Kissinger trong cuộc gặp với Đại sứ Liên Xô Anatoly Dobrynin tại Nhà Trắng vào ngày 26/12/1973
Cách đây hai năm, tôi hỏi một người bạn của tôi ở Moscow, một giáo sư người Nga chuyên về lịch sử Liên Xô gửi cho tôi chi tiết về thông điệp mà Đại sứ Dobrynin gửi cho Moscow về cuộc gặp giữa ông ấy với Kissinger hay không nhưng
ông ấy không giúp được.
Nhưng một người bạn khác của tôi từ Đại học Harvard, chuyên nghiên cứu về lịch sử Liên Xô và Nga thì cho biết biên bản cuộc họp ngày 09/01/1971 đó đã được dịch sang Tiếng Anh và giúp tôi có được bản sao biên bản đó, dài khoảng sáu trang, năm trang về chạy đua vũ trang, vũ khí hạt nhân... trang thứ sáu là về Việt Nam.
Và trong biên bản này thì Kissinger đã đề xuất Hà Nội có thể để binh sĩ ở lại miền Nam Việt Nam, lính Mỹ có thể về nhà, chuyện gì xảy ra thì cứ để xảy ra.
Một câu chuyện thứ ba là khi tôi xem tài liệu tại thư Viện Gerald R. Ford ở Michigan, người thủ thư mang cho tôi hai hộp hồ sơ và nói :
- " Steve à, tôi nghĩ ông nên xem chúng".
Và tập hồ sơ có tên là ''Mr. S file '' và tôi thấy thật thú vị.
Khi đó tôi thấy một cái tên Pháp, Jean Sainteny , một nhân vật rất quan trọng trong lịch sử Việt Nam vì là người chọn Hồ Chí Minh vào tháng 03/1946.
Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp chính trị gia người Pháp Jean Sainteny, Cao ủy Cộng Hòa Pháp tại Bắc Bộ vào năm 1946
Và tôi ngỡ ngàng khi đây là hồ sơ về những cuộc trao đổi giữa Henry Kissinger là Jean Sainteny.
Và tôi thấy một biên bản từ Nhà Trắng vào ngày 25/05/1971 , Sainteny và vợ ăn trưa với Henry Kissinger, và Sainteny truyền đi thông điệp từ Hà Nội.
Sainteny nói với Kissinger rằng :
- " Nếu Mỹ đem quân về nước, để Bắc Việt duy trì binh lính tại miền Nam Việt Nam , Hà Nội sẽ ký hiệp ước hòa bình, trao trả tù binh chiến tranh và để Việt Nam Cộng Hòa sống thêm hai, ba năm nữa.
Cùng ngày này, 25/05/1971, Kissinger gửi thư đến Bunker, có thể là sau cuộc gặp với Jean Sainteny với nội dung không nói thẳng là Mỹ sẽ không yêu cầu Hà Nội rút quân khỏi miền Nam Việt Nam.
BBC :
Như vậy, Tổng thống Richard Nixon khi đó thật sự đã không biết gì về kế hoạch bỏ rơi Việt Nam Cộng hòa của Henry Kissinger ?
Giáo sư Stephen B. Young :
Chúng ta cần phải chính xác ở điểm này. Điều mà Tổng thống Nixon không biết là Kissinger đã đưa ra đề xuất này cho Cộng sản Bắc Việt vào năm 1971.
Trong khoảng năm 1971 và 1972 đã diễn ra những cuộc thương thảo bí mật giữa Kissinger và Lê Đức Thọ.
Vào tháng 10/1972, Kissinger đã có một bản thảo về thỏa thuận, không bao gồm điều khoản Hà Nội phải rút quân khỏi Việt Nam Cộng hòa.
Rồi sau đó Kissinger đến Sài Gòn và đưa thỏa thuận này cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và ông Thiệu khi đó bị sốc, rất giận dữ, đặt câu hỏi làm sao Mỹ có thể để Bắc Việt để khoảng 250 ngàn binh sĩ ở miền Nam Việt Nam.
Cũng vào năm 1972, sau cuộc phản công 'Mùa hè đỏ lửa' và cuối cùng Cộng sản thất bại, Hà Nội dù đã huy động 13-14 sư đoàn ở miền Nam Việt Nam để chống lại những người theo chủ nghĩa dân tộc sau ba cuộc chiến tại Quảng Trị, Kon Tum (Pleiku), An Lộc.
Khi đó Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cảm thấy được tiếp thêm sức mạnh và giờ thì Kissinger nói để quân Bắc Việt ở miền Nam Việt Nam sau tất cả sự hy sinh của miền Nam Việt Nam.
Ông Thiệu đã bác bỏ thỏa thuận và vào thời điểm đó , Nixon biết Kissinger đã làm gì nhưng lại nghĩ chuyện đó xảy ra vào tháng 10/1972.
Sau khi Nixon quyết định ném bom Hà Nội, Hải Phòng, Lê Đức Thọ đưa ra thỏa hiệp.
Vào tháng 01/1973, Hiệp định Paris được ký kết, theo đó Hà Nội không phải rút quân khỏi miền Nam Việt Nam.
Nhìn lại sự việc, Lê Đức Thọ từng nói đó là điều khoản vô cùng quan trọng cho Hà Nội bởi vì Bắc Việt không quan tâm đến hòa bình vì chỉ muốn chiếm Việt Nam Cộng hòa.
Vì khi Mỹ rút quân về nước, Bắc Việt rõ ràng có thể đưa thêm quân, nhận thêm xe tăng từ Liên Xô... và sau hai năm vào năm 1975, đúng như những gì Hà Nội đã nói với Henry Kissinger, Lê Duẩn đưa ra lệnh tiến hành cuộc tổng tiến công.
STEPHEN B.YOUNG : " SỰ PHẢN BỘI CỦA HENRY KISSIGER LÀ NGUYÊN CHÍNH KHIẾN VIỆT NAM CỘNG HÒA BỊ SỤP ĐỔ !"
BBC :
Trong sách, ông viết rằng nguyên nhân sâu xa cho việc Henry Kissinger âm thầm lên kế hoạch bỏ rơi Việt Nam Cộng hòa vì ngay từ đầu không tin Mỹ có thể chiến thắng trong cuộc chiến và cả từ định kiến bị ảnh hưởng từ chính trị gia người Pháp Jean Sainteny?
Tổng thống Mỹ Richard Nixon (trái) trong cuộc gặp với Cố vấn An ninh Quốc gia Henry Kissinger (phải) tại Nhà Trắng vào ngày 16/09/1972
Giáo sư Stephen B. Young :
Trước hết chúng ta hãy nói về mối quan hệ giữa Jean Sainteny và Henry Kissinger.
Người vợ thứ hai của Jean Sainteny, bà Claude Dulong-Sainteny, từng tham gia seminar của Kissinger tại Đại học Harvard khi Kissinger đang theo học tiến sĩ vào 1953.
Và thông qua bà ấy, Kissinger đã quen biết Jean Sainteny.
Vào năm 1966, khi Kissinger tìm cách đạt được thỏa thuận hòa bình giữa Tổng thống Lyndon Johnson với Hà Nội, ông ta đã gặp Sainteny ở Paris. Sự thật này đã được lưu trong các hồ sơ.
Và cũng theo hồi ký của Henry Kissinger, ông ta đã lắng nghe Jean Sainteny về Việt Nam và ông ấy viết Sainteny chỉ nói với mình hai điều.
Thứ nhất, những người theo chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam Cộng hòa là vô giá trị, không thể tạo dựng quốc gia, tham nhũng, không phải là người tốt...
Thứ hai, người Mỹ không bao giờ có thể chiến thắng trong cuộc chiến này khi hậu thuẫn cho những người ở Việt Nam Cộng hòa, vô tổ chức, vô kỷ luật, tham nhũng, lười chiến đấu...
Và tôi suy đoán là còn có một ý thứ ba, đó là chỉ có Hồ Chí Minh là người Cộng sản, người Việt Nam tốt.
Chúng ta hãy cùng xem lại lý do tại sao Sainteny tin vào điều này.
Sainteny đã viết quyển sách "Histoire D'une Paix Manquée Indochine 1945-1947" , ông ấy đã viết về người Pháp đã phạm một sai lầm thế nào khi không hậu thuẫn cho Hồ Chí Minh, xem đây ông Hồ là một người Việt Nam tốt đẹp nhất.
HCM ngồi trên tàu Dumont d’Urville hơn một tháng để về Việt Nam. Trong tư thế chuẩn bị chiến tranh với Pháp, nhưng ông ta vẫn mong níu kéo một cơ hội cuối cùng.
Sưu tầm
Một quyển sách khác được viết vào đầu những năm 1952 mang tên "Viet-Nam Sociologie D'une Guerre" của tác giả Paul Mus, có luận điểm :
- Người Việt Nam thật sự là người Trung Quốc, với cụm từ "con rồng nhỏ hơn" (smaller dragon), và nền văn hóa Việt Nam bắt nguồn từ Trung Quốc, và Việt Nam không có chủ nghĩa dân tộc.
Sách của Paul Mus nói giới tinh hoa cách mạng của Việt Nam chuyển từ Khổng Tử sang chủ nghĩa Marx.
Cần nói thêm chút về người vợ đầu của Jean Sainteny.
Bà ấy là con gái của cựu Toàn quyền Đông Dương vào những năm 1920, cựu Thủ tướng Pháp Albert Sarraut.
Chính sách của Albert Sarraut là áp dụng chương trình giáo dục của Pháp cho con cái những gia đình quan lại chuyên học tiếng Hoa.
Ý tưởng của Pháp khi đó là chỉ những người được học trường Pháp mới trở thành nhà lãnh đạo tốt được.
Hầu hết giới cai trị thực dân Pháp đều không hiểu về văn hóa Việt Nam, hay nói Tiếng Việt. Không hiểu về người Việt, Jean Sainteny cho rằng :
- Hồ Chí Minh
- Võ Nguyên Giáp
- Phạm Văn Đồng
- Lê Duẩn
- Lê Đức Thọ... những người hưởng nền giáo dục của Pháp đều học được lý thuyết Marx - Lenin từ Paris.
Jean Sainteny được đưa trở lại Việt Nam vào năm 1945 để với sứ mệnh phục hồi lại sức ảnh hưởng của thực dân Pháp ở Việt Nam, Lào, Campuchia sau Thế chiến lần Khi đó Jean Sainteny không có quân đội Pháp, mà phải hợp tác với lực lượng quân đội Việt Nam.
Trong quyển sách "Histoire D'une Paix Manquée Indochine 1945-1947" , Jean Sainteny viết người duy nhất cùng hợp tác với ông ấy là Hồ Chí Minh.
Vua Bảo Đại khi đó cũng không muốn gặp Jean Sainteny.
CÂU HỎI ĐẶT RA LÀ : TẠI SAO HỒ CHÍ MINH MUỐN HỢP TÁC VỚI PHÁP ?
Một lý do là Pháp xem Hồ Chí Minh có hưởng nền giáo dục Phương Tây. Còn Hồ Chí Minh thì cần ai đó chọn ông ấy trở thành lãnh đạo và công nhận chính phủ của ông ấy.
Jean Sainteny sau đó kể câu chuyện này với Henry Kissinger. Và Kissinger thì không có người bạn Việt Nam nào, không nói Tiếng Việt, Kissinger chọn tin vào chính trị gia người Pháp hơn.
Đó là lý do tôi đưa ra lập luận Kissinger đã chọn bỏ rơi Việt Nam Cộng hòa bởi vì ông ta không biết về con người, văn hóa, những điều tốt đẹp về đất nước này.
BBC :
Tổng thống Nixon từng muốn Hiệp định hòa bình Paris là "Hòa bình trong danh dự" (peace with honor).
Sau tất cả những kế hoạch của Henry Kissinger, ông bình luận như thế nào về hiệp định này ?
Giáo sư Stephen B. Young :
Cụm từ "Peace with honor' là của Tổng thống Nixon.
Bầu cử Tổng thống Mỹ năm 1968 có thể thấy rõ hai phe, một phe ủng hộ Việt Nam Cộng hòa, một phe là muốn bỏ rơi.
Nixon và phe Cộng hòa thì muốn giúp VNCH. Phe Dân chủ thì muốn bỏ rơi VNCH.
Nixon thật sự không biết làm sao, vì vậy ông ấy nghĩ ra slogan "peace with honor" , có nghĩa chiến tranh sẽ kết thúc trong danh dự, nhưng điều đó có nghĩa Mỹ sẽ không bỏ rơi Việt Nam Cộng hòa.
Sau đó vào năm 1969, với sự ảnh hưởng của Đại sứ Bunker, Tổng thống Nixon tiến hành Việt Nam hóa chiến tranh, có nghĩa quân đội Mỹ rút đi còn quân lực Việt Nam Cộng hòa sẽ ngày càng mạnh lên.
Sự phản bội của Kissinger nằm ở chỗ đã mang đến "một nền hòa bình không có danh dự".
Kissinger mang lại hòa bình theo Hiệp định Paris, Việt Nam Cộng hòa được độc lập, tự do, nhưng tất cả chỉ là trên giấy tờ.
Hà Nội được duy trì binh lính ở miền Nam Việt Nam.
Và hai năm sau đó, Hà Nội đã vi phạm hiệp định hòa bình này và Kissinger thừa biết là Bắc Việt sẽ thực hiện điều đó.
Đó là lý do tại sao lại là "nền hòa bình không có danh dự", bởi vì hiệp ước hòa bình lại không mang lại hòa bình thật sự, chỉ là một 'sự giả tưởng về hòa bình' [fiction of peace].
Ông đánh giá thế nào về tầm quan trọng của sự phản bội của Henry Kissinger trong sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hòa ? Như vậy có thể nói, Việt Nam Cộng hòa đã không tự bại trận như nhiều phân tích và bình luận trước đây ?
Các nhân tố quan trọng khác không thể không nhắc đến đó chính là phong trào phản chiến tranh Việt Nam tại Mỹ.
Thế nhưng sự phản bội của Henry Kissinger là nguyên nhân chính khiến Việt Nam Cộng hòa sụp đổ.
Bởi vì nếu chúng ta nhìn kỹ vào tình hình quân sự hai phe Nam, Bắc vào thời điểm Hiệp định Paris được ký kết, khi đó văn phòng tình báo tại Đại sứ quán Mỹ ước tínhsố lính Việt Cộng ở miền Nam Việt Nam là khoảng 25 ngàn người.
Khi đó quân lính Việt Nam Cộng hòa là hơn một triệu. Ở mọi ngôi làng ở Nam Việt Nam không còn bóng dáng Mặt trận Giải phóng Dân tộc gì hết.
Thế rồi Mỹ cắt viện trợ chính qyền Nguyễn Văn Thiệu và binh sĩ cạn súng, đạn, máy bay, xe tăng...
Cùng lúc đó, Liên Xô và Trung Quốc lại bơm vũ khí cho Bắc Việt.
Về Tổng thống Thiệu, một thông tin rất quan trọng là vào tháng 11/1972, Tổng thống Nixon gửi cho ông ấy lá thư riêng, nêu rằng :
- Ông Thiệu nên ký Hiệp định Paris, trong trường hợp Hà Nội vi phạm hiệp định thì Nixon sẽ điều máy bay B-52 vào ném bom miền Bắc.
Thế nhưng sau khi ông Nixon từ chức sau vụ bê bối Watergate, người kế nhiệm ông ấy là Gerald Ford (1974 - 1977) lại không thấy mặn mà thực thi nghĩa vụ đó, còn phe Dân chủ trong Quốc hội Mỹ thì lại cắt viện trợ, và thông qua đạo luật có nội dung vị tổng thống không thể tự mình quyết định cử máy bay B-52 đến Việt Nam.
Như vậy chúng ta có thể thấy tình thế đã xoay chuyển. Lê Duẩn đã đưa ra quyết định vào tháng 01/1975 khi thấy thời cơ đã đến.
Riêng về mặt quân sự, phần lớn các loại vũ khí của Quân Giải phóng đều do Liên Xô và Trung Quốc viện trợ , trong đó chỉ tính riêng vơi súng bộ binh, tổng số lượng viện trợ của các nước đồng minh Xã hội Chủ nghĩa đã lên tới hơn 3,5 triệu khẩu
Việt Nam Cộng hòa lại không có đủ quân lính chốt chặn tại các vị trí dọc đường ranh giới.
Hà Nội có thể tận dụng những điểm yếu đó như Buôn Mê Thuột... huy động hai đến ba sư đoàn chống lại một số lượng binh lính ít ỏi của Nam Việt Nam và chiến thắng.
Nếu Mỹ cử B-52 đến thì có lẽ Việt Nam Cộng hòa vẫn còn sống được.
Và chiến tranh Việt Nam cũng là cuộc chiến đầu tiên mà người Mỹ thất bại, để lại những cảm xúc nặng nề, chúng tôi bị mất đi sự kiêu hãnh vì thất bại.
Theo quan điểm của tôi, những hành động của Henry Kissinger là nguyên nhân chính [principal cause] cho sự bại trận của Việt Nam Cộng hòa bởi vì đã tạo sự chuyển biến về thế trận, quyền lực, khiến Việt Nam Cộng hòa bị bất lợi.
Nếu Kissinger vùng lên với nắm đấm, thì khi ấy Việt Nam Cộng hòa còn hơn một triệu binh lính cùng nhuệ khí, nền kinh tế phát triển... trong khi mặt trận giải phóng thì đã rút thì tình hình đã khác.
Một yếu tố khác theo tôi suy đoán, là khi ấy đã có một thỏa thuận hòa bình nên tâm lý của nhiều người Mỹ là chiến tranh đã kết thúc, nước Mỹ không cần làm điều gì nữa.
Nước Mỹ đã không hiểu hết về Việt Nam, về Lê Duẩn hay Lê Đức Thọ... Bắc Việt đã không hứa để giữ lời hứa [They don't promise to keep promises].
Ông có nghĩ rằng Kissinger là một người yêu nước, chỉ muốn làm điều tốt nhất cho lợi ích quốc gia của nước Mỹ
Giáo sư Stephen B. Young :
Ai đó có thể nghĩ như vậy nhưng tôi thì không.
Đọc rất nhiều về Henry Kissinger và đây là cảm xúc cá nhân của tôi, tôi không có tài liệu minh chứng điều này. Khi tôi kể cho mọi người và khi họ đọc sách của tôi thì đều đặt câu hỏi :
- " Tại sao ông ta lại làm chuyện đó ?", phản bội tổng thống, phản bội đồng minh. Trong lịch sử nước Mỹ, chưa ai từng làm chuyện này.
Tôi nghĩ Kissinger nghĩ mình có phẩm chất vượt trội hơn người khác, Tiếng Anh gọi là ''grandiosity '' , ông ấy nghĩ mình giỏi hơn, thông minh hơn hết thảy những người khác và đã tự quyết định, tự kết luận là :
- "Mỹ không thể chiến thắng và nước Mỹ hãy thoát ra khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam."
Tôi nghĩ ông ta là người theo chủ nghĩa hiện thực [realist], phe yếu thì không nên tấn công phe mạnh hơn.
Và như chúng ta cũng thấy trong cuộc chiến Ukraine, Kissinger cũng gợi ý người dân Ukraine nên rút lui vì Nga mạnh hơn.
Và xét về phương diện này thì ông ta có suy nghĩ rất giống Lê Duẩn.
Nhà sử gia Thucydides có câu nói nổi tiếng :
- "The strong do what they can, the weak suffer what they must" và dường như Henry Kissinger đã theo câu nói này.
Kissinger đã hành động một mình mà không nói với ai.
Ông ta che giấu tài liệu, không trung thực và công khai.
Nếu các bạn đọc cuộc trao đổi của ông ta với Nixon trong thời gian 1971 đến 1972 đều được ghi âm lại, đều thấy Kissinger đã không nói đầy đủ với Nixon là mình đang làm gì.
Tôi đã phát hiện các tài liệu mà chưa có nhà sử học nào tìm ra như tôi đã trình bày về quá trình viết sách.
Kissinger đều rất khéo chọn từ ngữ, để che giấu dụng ý thật sự của ông ấy.
Điều tôi học được từ Kissinger là khi đọc gì của ông ta thì nên đặt câu hỏi về những gì ông ta không đề cập tới.
Bởi vì đối với tôi, đó lại là những ý quan trọng nhất.
Đối với tôi, Kissinger đã lạm dụng quyền lực cùng sự thất bại trong thể chế, khi một người đàn ông tự ra quyết định một mình mà không báo cáo với tổng thống, bộ trưởng quốc phòng, ngoại trưởng, hội đồng an ninh quốc gia, quốc hội vào năm 1971.
Nếu có danh dự, lẽ ra ông ta nói thẳng với tổng thống :
- " Tôi nghĩ chúng ta không thể chiến thắng cuộc chiến tranh Việt Nam, chúng ta phải rút quân, 58 ngàn binh sĩ đã bỏ mạng, tôi ủng hộ phong trào phản chiến", giả sử Nixon không đồng ý thế là Kissinger nộp đơn từ chức.
Thế nhưng Kissinger vẫn trung thành với Nixon về một nền hòa bình với danh dự, để rồi tạo ra một nền hòa bình "không danh dự".
BBC :
Trong sách ông viết là Thượng Nghị sĩ J. William Fulbright, người ủng hộ phong trào phản chiến, từng nói với Tổng thống Lyndon Johnson là cuộc chiến Việt Nam không có giá trị bởi vì người Việt Nam "không phải dạng của chúng ta" [are not our kind].
Sau tất cả, theo ông thì nước Mỹ vẫn là một đối tác đáng tin cậy ?
Giáo sư Stephen B. Young :
Nước Mỹ đã bỏ rơi người dân Afghanistan, dựa vào chính sách hay cách thức thương lượng của Kissinger trong chiến tranh Việt Nam.
Hãy tưởng tượng quý vị thương lượng với kẻ thù của bạn mình, sau đó lại bỏ rơi người bạn ấy. Nước Mỹ đã thất bại trong hai cuộc chiến, và bỏ rơi người dân hai lần.
Tôi thành thật có suy nghĩ, và thật khó để phải nói ra điều này.
Đối với những quốc gia châu Á ngày nay lo ngại về sự thống lĩnh của Trung Quốc, hãy đừng quá phụ thuộc vào nước Mỹ [Don't count on America].
Quốc gia của quý vị phải tự bảo vệ chính mình, quý vị chỉ có thể phụ thuộc Mỹ tới mức độ nào đó mà thôi.
Bởi vì quý vị luôn phải tự đặt câu hỏi là liệu có một Kissinger nào khác nữa hay là không.
HOA KỲ BỎ RƠI ĐỒNG MINH VIỆT NAM CỘNG HÒA : TRÁCH NHIỆM THUỘC VỀ AI ?
Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đã bị khai tử vào trưa ngày 30-4-1975. Điều này người Việt Nam ai cũng biết rõ. Và người Việt Nam ai cũng biết rõ là VNCH đã thua trận vì đã bị Hoa Kỳ bỏ rơi.
Nhiều năm qua, không ít người Việt Nam đã oán hận Tổng Thống Hoa Kỳ Richard M. Nixon và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia (sau là Bộ Trưởng Ngoại Giao) Henry A. Kissinger vì cho rằng hai vị này đã bán đứng và đâm sau lưng VNCH qua Hiệp Định Paris ký kết ngày 27-1-1973.
Bài viết này cố gắng tìm hiểu cho thật đúng việc Hoa Kỳ bỏ rơi VNCH để có thể quy rõ trách nhiệm thuộc về ai.
Cuộc Chiến Giữa Hành Pháp và Lập Pháp Hoa Kỳ 1973-1975
Sau cuộc bầu cử tổng thống và quốc hội ngày 7-11-1972, vào đầu năm 1973, sau khi Tổng Thống Richard M. Nixon tuyên thệ nhậm chức nhiệm kỳ 2 vào ngày 20-1-1973, tình hình chính trị của Hoa Kỳ ở vào thế cực kỳ mâu thuẫn :
Hành pháp :
Tổng Thống Nixon thuộc Đảng Cộng Hòa đã thắng rất lớn (a big landslide) , đánh bại đối thủ thuộc Đảng Dân Chủ là Thượng Nghị Sĩ George McGovern của tiểu bang South Dakota như sau :
Về phiếu bầu của dân chúng (Popular vote) :
- Nixon chiếm 47, 1 triệu (60.7%)
- McGovern chỉ được 29,1 triệu phiếu (37.5%)
- Về phiếu cử tri đoàn (Electoral vote):
- Nixon được 520 phiếu (Nixon thắng tại 49 tiểu bang, kể cả tiểu bang quê nhà của McGovern là South Dakota)
- McGovern chỉ được có 17 phiếu cử tri đoàn (McGovern chỉ thắng được một tiểu bang duy nhứt là Massachusetts và thủ đô Washington, D.C. mà thôi [1]
Trong bầu không khí chính trị căng thẳng và chia rẽ trầm trọng tại Hoa Kỳ do cuộc Chiến Tranh Việt Nam tạo ra, kết quả bầu cử của năm 1972 cho thấy rõ ràng là người dân Mỹ mong muốn hai điều như sau được thực hiện:
1/ Chính phủ Cộng Hòa, với Tổng Thống Nixon vừa được tái cử với một đa số tuyệt đối, sẽ thành công trong việc thương thuyết để chấm đứt cuộc chiến
2/ Quốc Hội Dân Chủ, với đa số tuyệt đối ở cả 2 viện, sẽ thành công trong việc bảo đãm không để cho Hoa Kỳ bị lôi cuốn vào một cuộc chiến tương tự
Trong hoàn cảnh như thế, cả hai phía hành pháp và lập pháp đều thấy rằng mình đã có được một căn bản rất vững chắc để có thể tư cho rằng mình đã được dân chúng trao cho sứ mạng (Mandate) để thực hiện cho được cái điều mà dân chúng mong muốn.
Đồng thời, cả hai phía cũng đều hiểu rất rõ sự han chế của cái ”sứ mạng” của mình vì phía bên kia cũng có “sứ mạng” của họ..
Về phía hành pháp, Tổng Thống Nixon, trong cuốn hồi ký của mình, đã nhận định như sau, trong đêm 7-11-1972, khi các kết quả bầu cử đang được báo cáo:
“In state after state we were winning big. Texas, for example, was going to be ours by more than a million votes. But there was also bad news: we were not picking up enough congressional seats to provide the legislative support my own New Majority mandate would need.” [3]
[3] Nixon, Richard M. The Memoirs of Richard Nixon. New York: Grosset & Dunlap, 1978. 715.
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau :
Hết tiểu bang này đến tiểu bang khác, chúng tôi đều thắng lớn.
Thí du : chúng tôi cũng sẽ dành được tiểu bang Texas, thắng đồi phương hơn một triệu phiếu. Nhưng cũng có tin xấu :
Chúng tôi không chiếm đủ ghế tại quốc hội để có thể có được sự ủng hộ về lập pháp mà sứ mạng Tân Đa Số của chính tôi sẽ cần đến).
Để thuyết phục Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đồng ý ký Hiệp Định Paris, Tổng Thống Nixon đã nhiều lần cam kết trong các mật thư gửi cho ông Thiệu là Hoa Kỳ sẽ trả đủa nếu Bắc Việt vi phạm hiệp định.
Lời cam kết đó đã được lập lại trong mật thư của Tổng Thống Nixon gửi Tổng Thống Thiệu ngày 5-1-1973 như sau :
“ … we will respond with full force should the settlement be violated by North Vietnam.” [4]
[4]Nguyễn Tiến Hưng. Khi Đồng Minh tháo chạy. San Jose, Calif.: Cơ sở xuất bản Hứa Chấn minh, 2005. 548.
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau : Chúng tôi sẽ dốc toàn lực đối phó nếu Bắc Việt vi phạm thỏa ước này).
Các mật thư đó đều do Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Tiến sĩ Henry A. Kissinger soạn thảo cho Tổng Thống Nixon ký.
Tuy nhiên, ông Kissinger không bao giờ hở môi về các mật thư này.
Hơn nữa, vì biết rõ phía lập pháp sẽ chống đối việc tái diễn Chiến Tranh Việt Nam, sau khi Hiệp Định Paris đã được ký kết, ông luôn luôn tìm cách tránh né không trả lời thẳng khi được các kỳ giả Mỹ hỏi liệu Hoa Kỳ có sẽ gửi quân trở lại Việt Nam hay không nếu Bắc Việt vi phạm hiệp định.
Tác giả Walter Isaacson, trong tác phẩm “Kissinger: a biography,” đã ghi lại như sau:
“Asked at a news conference in early 1973 if the U.S. “would ever again send troops into Vietnam” if the accord was violated, he responded:” I don’t want to comment on a hypothetical situation that we don’t expect to arise.” [5]
[5]Isaacson, Walter. Kissinger: a biography. New York: Simon & Schuster, 1992. 487.
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau :
Khi được hỏi tại một cuộc họp báo vào đầu năm 1973 là liệu Hoa Kỳ có sẽ gửi quân trở lại Việt Nam hay không nếu hiệp định [Paris] bị vi phạm, ông ta [chỉ Kissingder] đã trả lời như sau :
“ Tôi không muốn bình luận về một tình huống giả định mà chúng tôi không nghĩ là sẽ xảy ra”).
HOA KỲ BỎ RƠI ĐỒNG MINH VIỆT NAM CỘNG HÒA : TRÁCH NHIỆM THUỘC VỀ AI ?
Về phía Lập Pháp Hoa Kỳ, các Dân Biểu và Thượng Nghị Sĩ Đảng Dân Chủ đã thấy rõ chủ trương của Nixon và Kissinger qua chính sách “Việt-Nam-Hóa Chiến Tranh” (Vietnamization of the War, thường được giới truyền thông gọi tắt gọn là Vietnamization), tiếp tục viện trợ, đồng thời chuyển giao căn cứ quân sự và chiến cụ cho QLVNCH từ 1969 song song với việc rút quân Mỹ ra khỏi Việt Nam.
Việc tăng cường khả năng chiến đấu cho QLVNCH này đạt đến cực điểm qua hai chương trình gọi là:
- Enhance (tháng 5-1972) và Enhance Plus (tháng 10-1972).
Hai chương trình này đã chuyễn giao cho QLVNCH, trong một thời gian thật ngắn, một số lượng vũ khí lớn chưa từng có như sau :
Sau hai đợt chuyển giao chiến cụ này, Không Quân của QLVNCH đã trở thành không quân đứng hạng 4 trên thế giới về số lượng phi cơ (sau Hoa Kỳ, Liên Xô, và Trung Cộng).
Do đó Quốc Hội Hoa Kỳ, dưới sự kiểm soát của Đảng Dân Chủ, đã tìm mọi cách ngăn chận trước, không để cho khả năng tái diễn Chiến Tranh Việt Nam có thể xảy ra.
Để có thể thực hiện được điều này, các dân biểu và nghị sĩ Dân Chủ tin rằng họ cần phải tạo ra một đạo luật để giới hạn quyền mang quân ra nước ngoài của tổng thống.
Đó là lý do ra đời của đạo luật War Powers Act do Dân Biểu Clement J. Zablocki (Dân Chủ – Tiểu Bang Wisconsin) đệ trình tại Hạ Viện ngày 3-5-1973.
Đạo luật được Hạ Viện thông qua ngày 10-7-1973 và Thượng Viện thông qua ngày 20-7-1973 nhưng sau đó đã bị Tổng Thống Nixon phủ quyết ngày 24-10-1973.
Quốc Hội tái xét và đánh bại phủ quyết của Tổng Thống Nixon vào ngày 7-11-1973 với đa số tuyệt đối là 284-135 tại Hạ Viện và 75-18 tại Thương Viện.[7]
Đạo luật War Powers Act đòi hỏi Tổng Thống phải thông báo cho Quốc Hội trong vòng 48 giờ việc gửi quân ra nước ngoài và cấm không cho sử dụng quân lực hơn 60 ngày nếu không có sự cho phép của Quốc Hội, trừ phi đã có sự tuyên chiến của Quốc Hội Hoa Kỳ.
Ý NGHĨA VÀ VAI TRÒ CỦA HIỆP ĐỊNH PARIS
Hai phe đối đầu trong chính phủ Hoa Kỳ, một bên là Tổng Thống Nixon và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Kissinger (về sau, kể từ ngày 22-9-1973, trở thành Bộ Trưởng Ngoại Giao), một bên là các dân biểu và nghị sị thuộc Đảng Dân Chủ trong Quốc Hội đã liên tục tranh chấp với nhau trong vấn đề chính sách đối với VNCH sau khi Hiệp Định Paris được ký kết vào ngày 27-1-1973.
Ngay từ khi bắt đầu cuộc đàm phán với Bắc Việt, Nixon và Kissinger đã có chủ trương rất rõ rệt với 3 mục tiêu như sau :
1) Bằng mọi giá phải đạt được việc ngưng bắn, nghĩa là giải quyết cuộc chiến thuần túy về mặt quân sư để Hoa Kỳ có thể hoàn tất việc rút quân ra khỏi Việt Nam, và mang được hết tất cả tù binh Hoa Kỳ bị Bắc Việt giam giữ tại Hà Nội về nước .
2) Việc giải quyết cuộc chiến về mặt chính trị sẽ để cho các phe Việt Nam liên hệ giải quyết với nhau;
3) Tiếp tục viện trợ để VNCH có thể tồn tại.
Chính vì mục tiêu số 1 nói trên, Hoa Kỳ đã chấp nhận đồng ý ngay cả việc quân Bắc Việt được phép ở lại Miền Nam trong khi Hoa Kỳ rút tất cả quân về nước.
Và cũng chính vì mục tiêu số 1 đó, Tổng Thống Nixon, bất chấp việc Quốc Hội và dân chúng Mỹ kịch liệt phản đối, đã ra lệnh oanh tạc Hà Nội trong thời gian Lễ Giáng Sinh năm 1972 để buộc Bắc Việt phải trở lại bàn hội nghị để ký Hiệp Định Paris.
HOA KỲ BỎ RƠI ĐỒNG MINH VIỆT NAM CỘNG HÒA : TRÁCH NHIỆM THUỘC VỀ AI ?
Và cũng chính vì mục tiêu số 1 đó, Tổng Thống Nixon, trong mật thư ngày 20-1-1973 gửi cho Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu , đã nói thẳng ra là ngay cả nếu VNCH không chịu ký, Hoa Kỳ vẫn sẽ đơn phương ký Hiệp Định Paris, nguyên văn như sau :
“I must meet with key Congressional leaders Sunday evening, January 21, to inform them in general terms of our course. If you cannot give me a positive answer by then, I shall inform them that I am authorizing Dr. Kissinger to initial the Agreement even without the concurrence of your Government. In that case, even if you should decide to join us later, the possibility of continued Congressional assistance will be severely reduced.
[8]Nguyễn Phú Đức. The Viet-Nam peace negotiations: Saigon’s side of the story / edited by Arthur J. Dommen. Christianburg, Va.: Dalley Book Service, 2005, tr. 373.
[8] (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau :
Tôi phải họp với các vị lãnh đạo Quốc Hội vào tối Chú Nhựt, 21 Tháng Giêng, để thông báo cho họ một cách tổng quat về công việc của chúng ta.
Nếu đến lúc đó mà ông vẫn không thể trả lời thuận với tôi, tôi sẽ thông báo với họ là tôi sẽ cho phép Tiến sĩ Kissinger ký tắt bản Thỏa Ước ngay cả không có sự đồng thuận của Chánh phủ của ông.
Trong trường hợp này, ngay cả nếu sau này ông quyết định đi cùng chúng tôi, khả năng của việc tiếp tục giúp đở của Quốc Hội sẽ bị cắt giảm một cách nghiêm trọng).
Tại sao Nixon và Kissinger đã quá coi nặng sự cần thiết phải ký Hiệp Định Paris như vậy ?
Đây là một trọng điểm trong chiến lược giải quyết Chiến Tranh Việt Nam của hai ông mà chúng ta cần tìm hiểu cho thật rõ ràng.
Khi ra tranh cử chức vụ tổng thống Hoa Kỳ vào năm 1968, ông Nixon đã nhìn thấy rõ là Chiến Tranh Việt Nam đã trở thành nguyên nhân tạo ra sự chia rẽ vô cùng trầm trọng trong nội bộ dân chúng Mỹ và nó phải được chấm dứt càng sớm càng tốt.
Ông đã tranh cử với lời hứa là sẽ thương thuyết để chấm dứt cuộc chiến đó , và ông đã thắng đối phương, ứng cử viên của Đảng Dân Chủ là đương kim Phó Tổng Thống Hubert H. Humphrey, nhưng thắng một cách chật vật, với một tỷ số phiếu rất khích khao .
(Nixon: 31.783.783 phiếu hay 43.4%; Humphrey: 31.271.839 phiếu hay 42.7%)
Ông cũng nhận ra rằng người dân Mỹ đã chống Chiến Tranh Việt Nam vì đó là một cuộc chiến không có một căn bản pháp lý nào cả.
Trong trận Thế Chiến II, kéo dài chỉ có 4 năm (1941-1945), Hoa Kỳ đã có gần nửa triệu binh sĩ tử trận (416.800), nhưng được dân chúng ủng hộ 100%, hoàn toàn không có chống đối gì cả.
Tại sao vậy ? Vì đó là một cuộc chiến tranh đã được Quốc Hội Hoa Kỳ tuyên chiến vào ngày 8-12-1941 sau cuộc tấn công của Nhật Bản tại Trân Châu Cảng vào một ngày trước đó.
Cả 2 ông Nixon và Kissinger đều không có một ảo tưởng nào cả về việc Bắc Việt sẽ tôn trọng và tuân thủ Hiệp Định Paris .
Cả hai ông đều nghĩ và tin chắc là Bắc Việt sẽ vi phạm Hiệp Định, tấn công VNCH để hoàn thành mục tiêu thống nhứt Việt Nam của họ.
Và chính vì tin như vậy, hai ông cần có một căn bản pháp lý vững chắc để trả đủa các vi phạm đó mà không sợ sẽ gặp sự chống đối.
Hiệp Định Paris sẽ là căn bản pháp lý vững chắc đó.
Ông Kissinger đã nói rõ chiến lược này như sau tại buổi họp vào đầu tháng 1-1973 với ông Bùi Diễm, Đại Sứ lưu động của Tổng Thống Thiệu, và ông Trần Kim Phượng, Đại Sứ VNCH tại Hoa Kỳ :
“We thought that if we could end the war honorably, with your government in office and with clear obligations in the agreement, that we would have so much authority afterwards that if we said that North Vietnam was violating the agreement, we could bomb them and no one would challenge us. …
Who knows today about the armistice was all about in Korea? If Korea is attacked, we would defend it. Why should we do this in Korea and not in Vietnam ?
There is no reason. … With an army of over a million and controlling a large part of the territory, we think you can handle a ceasefire, at least for a long enough period until there are violations of the agreement. …
We thought in that the name of an agreement we would be better able to help than in the name of war. That is our cold-blooded appraisal. … The only use of provisions is to give us a pretext to act. … The agreement buys time.”[10]
[10]Kadura, Johannes. The War after the War: the struggle for credibility during America’s exit from Vietnam. Ithaca, N.Y.: Cornell University Press, 2016. Tr, 16-17.
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau :
Chúng tôi nghĩ rằng nếu chúng ta có thể kết thúc cuộc chiến một cách danh dự, với chánh phủ của quý vị vẫn tại chức và với những ràng buộc rõ ràng trong thỏa ước, thì sau đó chúng tôi sẽ có được nhiều thẩm quyền đến mức là nếu chúng tôi nói rằng Bắc Việt đã vi phạm thỏa ước, thì chúng tôi có thể dội bom họ mà sẽ không có ai có thể thách đố chúng tôi. …
Hiện nay ai biết hiệp định đình chiến là cái gì đối với Triều Tiên ? Nếu Triều Tiên [chỉ Nam Triều Tiên, tức Nam Hàn] bị tấn công, chúng ta sẽ bảo vệ ho. Tại sao chúng ta làm được chuyện đó ở Triều Tiên mà không làm được tại Việt Nam ?
Không có lý do nào cả. … Với một quân đội trên một triệu quân và với sự kiểm soát một phần lớn lãnh thổ, chúng tôi nghĩ rằng quý vị có thể giữ vững được một cuộc ngưng bắn, ít nhứt cũng là đủ lâu trước khi đối phương vi phạm thỏa ước. …
Chúng tôi nghĩ rằng nhân danh thỏa ước đó, chúng tôi sẽ có thể giúp đở quý vị rất dễ dàng hơn là nhân danh một cuộc chiến.
Đó là cách đánh giá lạnh lùng của chúng tôi. … Việc sử dụng duy nhứt các điều khoản [của thỏa ước] là cho chúng ta một cái cớ để ra tay. … Thỏa thước là để giúp chúng ta mua được thời gian).
Nhận định này hoàn toàn phù hợp với sự cam kết của Tổng Thống Nixon trong mật thư gửi Tổng Thống Thiệu ngày 5-1-1973 như đã trình bày bên trên.
Sau khi Hiệp Định Paris đã được ký kết vào ngày 27-1-1973, Hoa Kỳ tiếp tục vận động để cộng đồng quốc tế ủng hộ Hiệp Định.
Kết quả là một hội nghị quốc tế đã được triệu tập tại Paris vào ngày 2-3-1973, gồm 9 nước là :
- Hoa Kỳ
- Anh
- Pháp
- Canada
- Trung Quốc
- Liên Xô
- Nam Dương
- Hung Gia Lợi
- Ba Lan, và ba phe liên hệ tại Việt Nam là :
- VNCH
- Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (tức Bắc Việt) và Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (tức Việt Cộng hay Mặt Trận Giải Phóng), với sự hiện diện của Ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, đã ký kết một thông cáo chung công nhận Hiệp Định Paris bảo đãm cho nền hòa bình tại Đông Dương.[11]
VIETNAM-BATTLE OF QUANG TRI-EASTER OFFENSIVE OF 1972
A south Vietnamese soldier shows a portrait of former President of the Democratic Republic of Vietnam Ho Chi Minh, on July 9, 1972 in a devasted house of Quang Tri, South Vietnam during the North Vietnamese offensive of 1972.
Nixon's National Security Advisor, Henry Kissinger and North Vietnam's Lê Duc Tho reach an agreement in October 1972 and the Paris Peace Accords officially put an end to the Vietnam War. (Photo by Ennio IACOBUCCI / AFP) (Photo by ENNIO IACOBUCCI/AFP via Getty Images)
“Chúng tôi sẽ không bao giờ quên các bạn” : cuộc rút quân đầu tiên của quân đội Mỹ khỏi miền Nam Việt Nam năm 1969, chỉ là một cử chỉ tượng trưng.
Nguồn: Der Spiegel Số 50, 1979, trang 208
Để có thể thực hiện những lời cam kết của Tổng Thống Nixon là sẽ trả đũa dữ dội nếu Bắc Việt vi phạm Hiệp Định Paris, Hoa Kỳ đã có nhiều sự chuẩn bị rất cụ thể.
Vì biết trước chắc chắn là việc gửi quân bộ chiến trở lại Việt Nam là hoàn toàn vô khả thi , Nixon và Kissinger chỉ có thể trả đủa các vụ vi phạm Hiệp Định Paris của Bắc Việt bằng Không Quân mà thôi.
Và bằng Không Quân có nghĩa là sẽ sử dụng phản lực cơ oanh tạc chiến lược B-52 để giảm thiểu thiệt hại bởi hệ thống phòng không của Bắc Việt.
Trong các chuẩn bị đó, việc thiết lập một đơn vị không quân đặc biệt sau đây tại Thái Lan là quan trọng nhứt.
Đó là Bộ Tư Lệnh của Lực Lượng Yểm Trợ / Sư Đoàn 7 Không Quân (United States Support Activities Group / Seventh Air Force, viết tắt là USSAG/7AF) đặt tại Nakhon Phanom, Đông Bắc Thái Lan, với sứ mạng như sau:
“USSAG/7AF, Thailand, will plan for resumption of an effective air campaign in Laos, Cambodia, RVN and NVN as directed by CINCPAC; …” [12]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau :
USSAG/7AF, Thái Lan, sẽ lên kế hoạch cho việc thực hiện trở lại một chiến dịch oanh tạc có hiệu quả tại Lào, Cao Miên, VNCH, và Bắc Việt theo chỉ thị của CINCPAC; …) [CINCPAC = Commander-In-Chief PACIFIC = Tổng Tư Lệnh Lực Lượng Thái Bình Dương]
Một tài liệu khác của Phòng Quân Sử, Bộ Tư Lệnh Không Quân Hoa Kỳ cũng xác nhận điều này như sau :
“… The U.S. Support Activities Group/Seventh Air Force (USSAG/7AF) command allowed the United States to retain a full military position, not in South Vietnam, but in Thailand.
Its considerable forces, in conjunction with Strategic Air Command (SAC) forces and the U.S. Seventh Fleet, were intended primarily as a deterrent and warning to North Vietnam not to overrun South Vietnam.
There is no doubt that President Nixon believed he would be able to use American air power in Thailand to keep his promises to protect South Vietnam against North Vietnamese cease-fire violations.”[13]
[13] Hartsook, E.H. The Air Force in South East Asia: the end of the U.S. involvement in Vietnam, 1973-1975. Washington, D.C.: Office of Air Force History, Headquarters, USAF, 1980.
Tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây:
… Bộ Tư lệnh của USSAG/7AF giúp Hoa Kỳ duy trì được toàn bộ vị thế quân sự, không phải ở Nam Việt Nam mà ở Thái Lan.
Lực lượng rất đáng kể của nó, trong sự phối hợp với các lực lượng Không Quân Chiến Lược [ám chỉ các phi đoàn oanh tạc cơ chiến lược B-52] và Đệ Thất Hạm Đội [ám chỉ các hàng không mẫu hạm với hàng trăm phi cơ phản lực khu trục và oanh tạc đủ loại], đã được thành lập với dụng ý chính là cảnh báo Bắc Việt không nên đánh chiếm Nam Việt Nam.
Không có một nghi ngờ nào là Tổng Thống Nixon tin rằng ông có thể sử dụng sức mạnh của không quân tại Thái Lan để giữ lời hứa của ông là sẽ bảo vệ Nam Việt Nam chống lại các vi phạm ngưng bắn của Bắc Việt).
Trên thực tế , trước những vi phạm nghiêm trọng của Bắc Việt, thí dụ như :
- Tiếp tục cho quân Trên thực tế, trước những vi phạm nghiêm trọng của Bắc Việt, thí dụ như :
- Tiếp tục cho quân xâm nhập vào Miền Nam qua đường mòn Hồ Chí Minh , Hoa Kỳ đã có những cảnh báo rất rõ ràng.
Sau đây là chi tiết về cảnh báo đó được ghi lại trong cùng tài liệu vừa kể trên :
“On April 1, on the Meet The Press television program, Defense Secretary Richardson warned Hanoi that failure to comply with the cease-fire agreement could result in a resumption of US mining and bombing of North Vietnamese heartland. A few days later, Deputy Secretary of Defense William P. Clements said the President had asked for and received a list of possible military actions to back up his warning. Clements said he didn’t think “the President has any intention of letting this situation go down the drain.”[14]
[14] Hartsook, tài liệu vừa dẫn bên trên
Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau :
Vào ngày 1 Tháng Tư, trên chương trình truyền hình Meet The Press, Bộ Trưởng Quốc Phòng Richardson đã cảnh báo Hà Nội là :
Việc họ không tuân thủ thỏa ước ngưng bắn sẽ đưa đến việc Hoa Kỳ sẽ tái diễn việc gài mìn [ám chỉ việc gài mìn phong tỏa cảng Hải Phòng] và oanh tạc nội địa Bắc Việt [ám chỉ oanh tạc Hà Nội bằng máy bay B-52].
Một vài ngày sau, Thứ Trường Quốc Phòng William P. Clements đã nói rằng :
- " Tổng Thống [Nixon] đã yêu cầu và được cung cấp một danh sách những hành động quân sự để bảo đãm cho cảnh báo của ông. "
Ông Clements nói thêm là ông không nghĩ là :
“Tổng Thống có ý định bỏ trôi luôn tình hình này”).
“President Nixon had decided to resume bombing in March ‘73, when the infiltration started. And he and I had a little debate whether to do it while we still had prisoners there, or whether to wait until all the prisoners were out, and he decided to do it after the last prisoner was out, early in April.” [15]
[15] The Paris Agreement on Vietnam:
Twenty-five years later; Conference transcript, The Nixon Center, Washington, DC, April 1998, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây:
TổngThống Nixon đã quyết định tái oanh tạc vào tháng Ba 1973 khi việc xâm nhập tái diễn.
Và ông ấy và tôi đã có một cuộc tranh cải nhỏ về việc có nên làm ngay trong khi vẫn còn tù binh ở đó hay là nên chờ cho đến khi tất cả tù binh đã được trao trả , và ông ấy đã quyết định làm chuyện đó sau khi người tù binh cuối cùng đã được trao trả, vào đầu tháng Tư).
Không may, ngay tại thời điểm này, tháng 4-1973 , vụ Watergate [16] bùng nổ và Tổng Thống Nixon không còn có thì giờ và tinh thần để thực hiện các cuộc oanh kích Bắc Việt như Hoa Kỳ đã cảnh báo nữa.
[16]Watergate là vụ án đã đưa đến sự kiện ông Richard M. Nixon phải từ chức Tổng Thống Hoa Kỳ vào ngày 8-8-1974. Mọi việc khởi sự vào ngày 17-6-1972 khi cảnh sát bắt giữ một nhóm 5 người độn nhập bất hợp pháp vào văn phòng của Ủy Ban Vận Động Bầu Cử của Đảng Dân Chủ trong khách sạn Watergate ở thủ đô Washington, D.C., với mục tiêu là đặt máy nghe lén các cuộc điện đàm của Ùy Ban này.
Tổng Thống Nixon và các cộng sự viên thân cận của ông tìm mọi cách che dầu sự thật (cover up) nên nội vụ càng ngày càng trở nên nghiêm trọng.
Sau cùng, trước nguy cơ có thể bị Quốc Hội truất phế (impeached), Tổng Thống Nixon đành phải từ chức.
Phó Tổng Thống Gerald Ford lên kế nhiệm đã ân xá cho ông Nixon.
Chi tiết đầy đủ về vụ án quan trọng này được trình bày trong tài liệu trực tuyến Watergate scandal tại địa chỉ Internet sau đây:
Tác giả Tiến sĩ Larry Berman, trong tác phẩm của ông :
- “No peace, no honor : Nixon, Kissinger, and betrayal in Vietnam,” đã trích dẫn một bài báo của ký giả William F. Buckley, Jr., đăng trong The Wall Street Journal, số ra ngày 27-4-1975, với những thông tin như sau :
“ … that Watergate had derailed the president’s plan to pulverize Hanoi … My own information is that it was planned, sometime in April, to pulverize Hanoi and Haiphong.” [17]
[17] Berman, Larry. No peace, no honor: Nixon, Kissinger, and betrayal in Vietnam. New York: Free Press, 2001. 261-262. Tác giả Berman đã ghi ngày của bài báo là 27-4-1975, chi tiết này không đúng, rất có thể là một lỗi của nhà xuất bản, mà phải là một ngày nào khác của tháng 4-1975, vì báo The Wall Street Journal không có ra ngày 27-4-1975.
(Xin tạm dich sang Việt ngữ như sau :
… vụ Watergate đã làm hõng kế hoạch nghiền nát Hà Nội của tổng thống … Thông tin riêng của tôi là việc đó đã được lên kế hoạch, thời gian nào đó trong tháng Tư, để nghiền nát Hà Nội và Hải Phòng).
Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu chính thức viếng thăm Hoa Kỳ từ ngày 2 đến ngày 4-4-1973.
Tổng Thống Nixon đã tiếp Tổng Thống Thiệu tại San Clemente, California (Nixon quyết định không tiếp ông Thiệu tại Washington, D.C. vì lo ngại các vụ biểu tình phản chiến lại bùng phát), và đã lập lại những cam kết tiếp tục ủng hộ VNCH cũng như sẽ phản ứng mạnh nếu Bắc Việt vi phạm Hiệp Định Paris.
Sau cuộc hội đàm, trong Thông Cáo Chung (Joint Communique) ngày 3-4-1973, có một đoạn nói rõ như sau :
“Both Presidents, while acknowledging that progress was being made toward military and political settlements in South Vietnam, nevertheless viewed with great concern infiltrations of men and weapons in sizable numbers from North Vietnam into South Vietnam in violation of the agreement on ending the war, and considered that actions which would threaten the basis of the agreement would call for appropriate vigorous reactions.” [18]
Cả hai vị Tổng Thống, trong khi cộng nhận rằng đã có tiến triển trong việc giải quyết các vấn đề quân sự và chính trị tại Nam Việt Nam, vẫn rất lo ngại đối với việc xâm nhập người và vũ khí với số lượng lớn từ Bắc Việt vào Nam Việt Nam vi phạm thỏa ước chấm dứt chiến tranh, và cả hai vị đều cho rằng những hoạt động đe dọa nền tảng của thỏa ước sẽ đưa đến những phản ứng mãnh liệt cần phải có).
[18]Text of Joint Communique issued after Nixon-Thieu talks, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây:
HOA KỲ BỎ RƠI ĐỒNG MINH VIỆT NAM CỘNG HÒA : TRÁCH NHIỆM THUỘC VỀ AI ?
KẺ PHẢN BỘI VIỆT NAM CỘNG HÒA :
QUỐC HỘI HOA KỲ DO ĐẢNG DÂN CHỦ KIỂM SOÁT
Trong khi Tổng Thống Nixon và các cộng sự viên của ông tích cực hoạt động để buộc Hà Nội phải tuân thủ Hiệp Định Paris thì Quốc Hội Hoa Kỳ lại tích cực hoạt đông theo chiều hướng hoàn toàn ngược lại.
Việc đầu tiên, như đã trình bày bên trên, là Quốc Hội Khóa 93, do Đảng Dân Chủ nắm đa số tại cả hai viện, đã thông qua đạo luật War Powers Act nhằm trói tay Hành Pháp là chính phủ Nixon trong việc sử dụng lực lượng quân sự .
Trong bối cảnh chính trị nội bộ như vậy, hai ông Nixon và Kissinger lại phạm một lỗi lầm lớn là không đệ trình Hiệp Định Paris cho Quốc Hội để phê chuẩn vì hai ông nghĩ là khó đạt được sự phê chuẩn của Thượng Viện.
Tại hội nghị “The Paris Agreement on Vietnam : twenty-five years later” đã đề cập đến bên trên, một tham dự viên, Đại Tướng Không Quân hồi hưu Charles Graham Boyd (Tướng Boyd là người duy nhứt trong số phi công tù binh Hoa Kỳ bị giam giữ tại Hỏa Lò Hà Nội sau đó đã lên đến cấp đại tướng 4 sao của Không Quân Hoa Kỳ) đã phát biểu như sau:
“I believe that had the Paris Peace Accords been brought back and presented to the Congress of the United States for ratification that we would have been able to sustain the support necessary to honor the commitment to the government of South Vietnam.
… it seems to me that it would have been very difficult for the Congress of the United States to have refused at that point to support a document knowing that it would not lead to withdrawal of troops and a repatriation of the prisoners if they did not do so. It would have made them stakeholders in that process, making it impossible to pull the rug out from under the Paris Peace Accords the following year. …”
19 The Paris Agreement on Vietnam …, tài liệu đã dẫn bên trên.
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau :
Tôi tin rằng nếu Hiệp Định Paris đã được mang về và đệ trình cho Quốc Hội phê chuẩn thì chúng ta đã có thể có được sự hỗ trợ cần thiết để giữ được sự cam kết của chúng ta đối với chính phủ Nam Việt Nam. … theo tôi thấy Quốc Hội Hoa Kỳ khó có thể từ chối lúc đó không ủng hộ một văn kiện đã dẫn đến việc rút quân và mang về nước được tất cả tù binh.
Nó sẽ giúp cho Quốc Hội trở thành những thành viên trong tiến trình đó, làm cho Quốc Hội không thể phá hoại Hiệp Định Paris vào năm sau …) l
Lời phát biểu trên của Tướng Boyd có thể đúng.
Thượng Viện Hoa Kỳ, mặc dù lúc đó do Đảng Dân Chủ chiếm đa số (điều lo ngai của Nixon và Kissinger), vẫn có thể đã phê chuẩn Hiệp Định Paris vì một cuộc thăm dò dư luận vào cuối 1-1973 , ngay sau khi Hiệp Định Paris được ký kết, cho thấy tỷ lệ dân chúng Hoa Kỳ ủng hộ Hiệp Định rất cao :
“Gallup polls in January 1973 showed that 80 percent were satisfied with the Paris Agreement, 58 percent believed that it was indeed a “peace with honor,” [20]
20 Kadura, Johannes, sđd, tr. 60.
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau :
Cuộc thăm dò dư luận Gallup vào tháng Giêng 1973 cho thấy rằng 80 phần trăm thỏa mãn với Hiệp Định Paris, 58 phần trăm tin rằng đây quả đúng là một “nền hòa bình trong danh dự”).
Thấy rõ ý định của chính phủ Nixon sẽ trả đủa các vi phạm Hiệp Định Paris của phe Cộng sản bằng cách tái oanh tạc Bắc Việt, và từ đó, có thể làm cho Chiến Tranh Việt Nam tái phát, Quốc Hội Hoa Kỳ đã tìm cách ngăn chận trước bằng cách cắt giảm ngân sách viện trợ cho VNCH.
HOA KỲ BỎ RƠI ĐỒNG MINH VIỆT NAM CỘNG HÒA : TRÁCH NHIỆM THUỘC VỀ AI ?
Đúng ngay thời điểm này, vụ Watergate bùng nổ.
Các tờ báo lớn của Hoa Kỳ như:
- Time
- New York Times và đặc biệt là tờ Washington Post, với hai kỳ giả Bob Woodward và Carl Bernstein, bắt đầu phanh phui nội vụ, cho thấy vụ độn nhập vào văn phòng của Ủy Ban Bầu Cử của Đảng Dân Chủ tại tòa nhà Watergate, và sau đó là việc tìm cách che đậy vụ đó có dính líu đến các giới chức cao cấp của Bộ Tư Pháp, các cơ quan an ninh như CIA, FBI, và cả Tòa Bạch Ốc luôn.
Uy tín của Tổng Thống Nixon bắt đầu tuột dốc một cách thê thảm: [21]
Kohut, Andrew. From the archives: how the Watergate crisis eroded public support for Richard Nixon, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://www.pewresearch.org/fact-tan...richard-nixon/
Tháng 1-1973 : sau khi tái đắc cử nhiệm kỳ 2, và Hiệp Định Paris được ký kết, thăm dò dư luận Gallup cho thấy ông được sự ủng hộ của 68% dân chúng
Tháng 4-1973 : chỉ còn 48%
Tháng 8-1973: chỉ còn 31%
[b][size=4][color=red][i]
Từ giữa tháng 4-1973, trước việc Bắc Việt tiếp tục cho quân xâm nhập vào Miền nam, một sự vi phạm rõ rệt Hiệp Định Paris , Kissinger nhiều lần khuyến cáo Nixon tiến hành việc trả đủa nhưng Nixon chỉ bàn cho qua chuyện nhưng không ra lệnh tiến hành tái oanh tạc vì ông quá bận với việc đối phó với vụ Watergate.
Tác giả Kadura, trong tác phẩm The War after the War, ghi lại rõ như sau:
“Kissinger reasoned, “Whatever the cost may be, in my judgment it will be far less than the cost which we will have to pay if, because of our inaction now, the Agreement completely fails as a result of major North Vietnamese actions in the coming months.” Nixon, however, did not make the hard decision, favored by Haig and Kissinger, to extensively bomb the Ho Chi Minh Trail and (possibly) infiltration routes across the Demilitarized Zone. … Confronted with the increasingly unsettling domestic crisis, Nixon did not have the nerve to raise the stakes in Indochina.” [22]
[22] Kadura, Johannes, sđd, tr. 65.
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau :
Kissinger lý luận :
- “ Dù cho với giá nào đi nữa, theo sự đánh giá của tôi, thì nó cũng sẽ thấp hơn rất nhiều so với cái giá mà chúng ta sẽ phải trả, nếu vì sự bất động của chúng ta hiện nay, mà Thỏa Ước [ám chỉ Hiệp Định Paris] thất bại hoàn toàn do những hành động lớn lao của Bắc Việt trong những tháng sắp tới.”
Tuy nhiên, Nixon đã không dám thực hiện quyết định táo báo đó, đã được cả Haig [Tướng Alexander Haig, lúc đó là Phụ Tá của Kissinger] và Kissinger ủng hộ, là oanh tạc dữ dội Đường Mòn Hồ Chí Minh và (cò lẽ luôn cả) những đường xâm nhập xuyên qua Khu Phi Quân Sự. …
Lúc đó đang phải dương đầu với cuộc khủng hoảng quốc nội không lối thoát [ám chỉ vụ Watergate], Nixon đã không có đủ nghị lực để làm mạnh tại Đông Dương).
Thấy rõ sự chùn bước của Nixon, Quốc Hội do Đảng Dân Chủ nắm đa số, bắt đầu tiến hành mạnh chính sách chống chiến tranh của họ.
Như trên đã có nói, Dân Biểu Zablocki đệ trình dự luật War Powers Act tại Hạ Viện ngày 3-5-1973.
Kế tiếp, họ tìm cách giới hạn sự can thiệp của Hoa Kỳ ở Cao Miên.
Từ lâu, Cao Miên, dưới sự lãnh đạo của Quốc Trưởng Thái Tử Norodom Sihanouk, đã để cho phe Công sản (Bắc Việt và Việt Cộng) đặt căn cứ trên lãnh thổ của họ.
Tháng 3-1970, trong lúc Sihanouk công du tại Pháp, Thủ Tướng Lon Nol đảo chánh thành công, loại bỏ Sihanouk.
Cao Miên tái lập bang giao với Hoa Kỳ.
Tháng 4-1970, QLVNCH, có sự phối hợp với quân đội Mỹ, vượt biên giới Cao Miên, tấn công và phá hủy các căn cứ của Cộng quân.
Chiến Tranh Việt Nam được mở rộng sang cả Cao Miên.
Sau khi Hiệp Định Paris được ký kết, ngày 27-1-1973 , Tướng Lon Nol cũng tuyên bố đơn phương ngưng bắn tại Cao Miên.
Phe Khmer Đỏ (Cộng sản Cao Miên) không thỏa thuận ngưng chiến, vẫn tiếp tục đánh phá, và vào tháng 4-1973 , lực lượng Khmer Đỏ đã tiến sát và bao vây thủ đô Nam Vang.
Nixon đã ra lệnh cho Sư Đoàn 7 Không Quân Hoa Kỳ oanh tạc dữ dội vào các vị trí của quân Khmer Đỏ và phá vở cuộc bao vây Nam Vang đó.
Ngày 25-6-1973, Hạ Viện thông qua một đạo luật, xuất phát và đã được thông qua tại Thượng Viện, cắt bỏ hết ngân sách dành cho việc Không Quân Hoa Kỳ oanh tạc tại Cao Miên vào ngày 30-6-1973.
Dĩ nhiên, Tổng Thống Nixon đã lập tức phủ quyết đạo luật này.
Ngay tại thời điểm này, với sự khai báo của John Dean [23] trước Ủy Ban Điều Tra của Thượng Viện,[24] cho thấy chính Nixon cũng có liên can tới vụ Watergat, uy tín của Nixon càng sụt giảm thêm.
[23] Ông John Wesley Dean, III, là luật sư cố vấn pháp luật của phủ tổng thống (White House Counsel) dưới thời Tổng Thống Nixon từ năm 1970.
Ông có đóng góp một phần vào việc che dấu sự thật trong vụ Watergate.
Cuối tháng 4-1973, ông bị Tổng Thống Nixon giải nhiệm, cùng lúc với hai cố vấn thân cận của Nixon là John D. Ehrlichman, Phụ Tá Tổng Thống Đặc Trách Nội Vụ (Assistant to the President for Domestic Affairs) và Harry Robbins “Bob” Halderman, Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống (White House Chief of Staff).
Ông Richard G. Kleindienst, Bộ Trưởng Tư Pháp (Attorney General) cũng từ chức trong cùng ngày này. [color=green]
Cuối tháng 6-1973, [/0clor]khi ra diều trần trước Ủy Ban Điều Tra của Thương Viện, ông Dean đã nói rõ việc cản trở công lý (obstruction of justice) nhằm che dấu việc liên can đến vụ Watergate của các viên chức cao cấp tại Tòa Bạch Ốc, trong đó có bản thân ông, và cả Tổng Thống Nixon.
Ông Dean đã đọc bản tự thú dài 245 trang của ông trong gần 7 tiếng đồng hồ. Ông bị kết án 4 tháng tù về tôi cản trở công lý.
Về sau, ông có viết 2 cuốn sách kể lại những việc ông đã làm trong vụ Watergate, Blind ambition:
- The White House years (do nhà xuất bản Simon & Schuster xuất bản năm 1976) và Lost honor (do nhà xuất bản Stratford Press xuất bản năm 1982).
Hai ông John Ehrlichman và Bob Halderman đều bị xử 18 tháng tù.
[24]Ủy Ban Điều Tra của Thượng Viện này về vụ Watergate có tên chính thức là Select Committee on Presidential Campaign Activities, được Thượng Viện Hoa Kỳ thành lập vào ngày 7-2-1973, do Thượng Nghị Sĩ Sam Ervin (Đảng Dân Chủ, tiểu bang North Carolina) làm Chủ Tịch.
Ủy Ban này giải tán ngày 27-6-1974 sau khi nộp báo cáo cho Thượng Viện
Mặc dù không đủ số phiếu để đánh bại phủ quyết của Tổng Thống Nixon, Quốc Hội vẫn tiếp tục đề nghị dự luật, và Thượng Nghị Sĩ Mike Mansfield, Thủ Lãnh Phe Đa Số tại Thương Viện tuyên bố sẽ tiếp tục mãi cho tới khi nào được thông qua mới thôi.
Nguyên văn lời tuyên bố của ông Mansfield như sau :
“ Again, again and again until the will of the people prevails.” [25]
[25] Kadura, Johannes, sđd, tr. 77.
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau :
Làm lại, làm nữa, làm hoài cho đến khi nào ý muốn của dân chúng thắng mới thôi).
Tổng Thống Nixon nhận thấy không thể nào thắng được nên đành phải nhượng bộ và chấp nhận một sự thỏa hiệp với Quốc Hội :
Cho đạo luật thông qua, với hai sửa đổi :
1) ngày chấm dứt oanh tạc ở Cao Miên là ngày 15-8-1973 thay vì 30-6-1973 như trong dự luật
2) thêm vào sắc luật là áp dụng cho cả Bắc và Nam Việt Nam luôn.
Đạo luật này mang tên là Supplemental Appropriations Act for FY (viết tắt cho Fiscal Year) 1973 (Luật về Các Khoản Chi Phụ Thêm cho Tài Khóa 1973) có một điều khoản ghi rõ như sau:
“None of the funds herein appropriated under this act may be expended to support directly or indirectly combat activities in or over Cambodia, Laos, North Vietnam, and South Vietnam by United States forces, and after August 15, 1973, no other funds heretofore appropriated under any other act may be expended for such purpose.” [26]
[26] Kadura, Johannes, sđd, tr. 78.
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau :
Không có bất cứ ngân khoản nào đã được chuẩn chi trong đạo luật này được sử dụng để hổ trợ trực tiếp hay gián tiếp các hoạt động tác chiến của quân lực Hoa Kỳ trong hay trên lãnh thổ của Cao Miên, Lào, Bắc Việt, và Nam Việt , và sau ngày 15 Tháng Tám 1973, không có bất cứ ngân khoản nào đã được chuẩn chi trước đây trong bất cứ đạo luật nào có thể được sử dụng cho các mục đích như thế).
HOA KỲ BỎ RƠI ĐỒNG MINH VIỆT NAM CỘNG HÒA : TRÁCH NHIỆM THUỘC VỀ AI ?
Sau khi đạo luật này được Tổng Thống Nixon ký ban hành, Ông Kissinger đã than thở như sau:
- “It is getting impossible to do anything in Indochina. … That finishes us.” [27]
[27] Kudura, Johannes, sđd, cùng tr. 78.
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau :
Sẽ không thể nào làm được cái gì nữa hết ở Đông Dương. … Chúng ta coi như xong rồi).
Từ cuối tháng 6-1973 trở đi, đối với các giới chức Mỹ tại thủ đô Washington, D.C., vấn đề sụp đổ của VNCH được coi như chỉ còn là một vấn đề thời gian mà thôi.
Rất có thể từ lúc này trở đi, chính ông Kissinger cũng có suy nghĩ về một một thời gian coi cho được (decent interval) như tác giả Frank Snepp, chuyên gia phân tích tình báo (Intelligence Analyst) của CIA tại Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn, có mặt tại đây cho đến ngày 29-4-1975, đề cập đến trong tác phẩm nổi tiếng của ông Decent interval:
An insider’s account of Saigon’s indecent end, do nhà xuất bản Random House xuất bản năm 1977.
Theo quan điểm này, chính phủ Hoa Kỳ phải tìm cách để giúp cho VNCH có thể kéo dài sự sống còn trong một khoảng thời gian nào đó, coi cho được, có lẽ vào khoảng 2 hay 3 năm, [để cho Hoa Kỳ khỏi bị mang tiếng là bỏ rơi đồng minh VNCH.
Điều nay có thể đúng vì chính ông Kissinger, trong một tác phẩm của ông, cũng đã có viết ra suy nghĩ của ông như sau :
“As for Indochina, I observed it with the melancholy shown toward a terminally ill relative, hoping for a long respite and a miracle cure I was unable to describe.”
[28]Kissinger, Henry. Ending the Vietnam War: a history of America’s involvement in and extrication from the Vietnam War. New York: Simon & Schuster, 2003. 493.
(Xin tam dịch sang Việt ngữ như sau :
Về vấn đề Đông Dương, tôi đã quan sát nó với nổi buồn đau như trước một thân nhân sắp chết, hy vọng kéo dài được một thời gian và có một cách cứu chửa nào đó như phép lạ mà tôi không thể diễn tả được).
Trong thời gian 1973-1974, về mặt quốc nội của Hoa Kỳ, vụ Watergate càng ngày càng thêm trầm trọng, Tổng Thống Nixon phải dành rất nhiều thời gian của ông để chống đở, trong lúc đó, về mặt quốc ngoại, lại xảy ra rất nhiều biến cố quốc tế quan trọng, như :
- Đảo chánh Tổng Thống Salvador Allende tại Chile (11-9-1973)
- Chiến Tranh Trung Đông Yom Kippur (từ ngày 6 đến ngày 25-10-1973, giữa Do Thái và 1 liên minh Á Rập do 2 nước Ai Cập và Syria lãnh đạo), vụ khoảng hoảng dầu hỏa hè 1973.
Trong bối cảnh đó, vấn đề Việt Nam có phần bị chìm đi.
Trước kia, trong nhiệm kỳ I, Tổng Thống Nixon luôn luôn xem nặng vấn đề ngoại giao và hành xử như chính ông là Bộ Trưởng Ngoại Giao (vai trò Ngoại Trưởng của ông William P. Rogers rất là lu mờ; gần như mọi chuyện về đối ngoại Nixon đều chỉ thảo luận với Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Kissinger mà thôi).
Bây giờ, trước tình hình cuộc khủng hoảng quốc nội, do vụ Watergate gây nên, ngày càng trầm trọng, Tổng Thống Nixon cảm thấy không còn có thể lo chuyện quốc ngoại nhiều như trước được nữa, ông quyết định cử ông Kissinger thay thế ông Rogers làm Bộ Trưởng Ngoại Giao từ ngày 22-9-1973.
HOA KỲ BỎ RƠI ĐỒNG MINH VIỆT NAM CỘNG HÒA : TRÁCH NHIỆM THUỘC VỀ AI ?
Người xưa có nói “họa vô đơn chí,” giữa lúc chính phủ Nixon đang điên đầu trong việc chống đở các cơn bảo táp do vụ Watergate gây ra, Phó Tổng Thống Spiro Agnew, cựu Thống Đốc tiểu bang Maryland, bị báo chí phanh phui về tội tham nhũng trong thời gian còn làm Thống Đốc Maryland, bị đưa ra tòa và nhận tội, phải từ chức vào ngày 10-10-1973.
Tổng Thống Nixon phải cử người thay thế, và đó là Dân Biểu Gerald R. Ford, Thủ Lãnh Thiểu Số Cộng Hòa tại Hạ Viện.
Đến cuối tháng 10-1973, vụ Watergate bước sang một giai đoạn mới, trầm trọng hơn rất nhiều khi Tổng Thống Nixon quyết định cách chức Công Tố Viên Đặc Biệt (Special Prosecutor) Archibald Cox khi ông này nhiều lần đòi hỏi Tòa Bạch Ốc phải giao ra cuốn băng ghi âm các cuộc nói chuyện giữa Nixon và các cố vấn quan trọng của ông trong văn phòng tổng thống.
Nixon ra lệnh cho Bộ Trưởng Tư Pháp Elliot Richardson cách chức Cox, nhưng Richardson từ chối không chịu làm và sau đó từ chức.
Nixon đích thân cách chức Cox và giải tán Văn Phòng Công Tố Viên Đặc Biệt.
Vụ này làm bùng nổ ra một cơn bảo phản đối Nixon dữ dội từ công chúng và Quốc Hội. Nixon phải chịu lùi bước, bổ nhiệm một công tố viên mới và hứa sẽ giao ra các băng ghi âm đó.
Trước sự sụp đổ của uy tín chính trị của Tổng Thống Nixon, Quốc Hội đề xuất trở lại dự luật War Powers Act, trước đó đã bị Nixon phủ quyết vào ngày 24-10-1973, và lần này Quốc Hội đã đánh bại phủ quyết của Tổng Thống Nixon vào ngày 7-11-1973 với đa số tuyệt đối ở cả hai viện :
- 284-135 tại Hạ Viện và 75-18 tại Thương Viện.
Chính phủ Nixon đã bị trói tay về vấn đề trực tiếp sử dụng lực lượng không quân Hoa Kỳ USSAG/7AF (đã thiết lập sẳn tại Thái Lan như đã trình bày bên trên) để trả đủa những vi phạm Hiệp Định Paris của Bắc Việt.
Tuy nhiên, Nixon và Kissinger vẫn còn có cách khác để ngăn chận Bắc Việt tấn công cưỡng chiếm Miền Nam.
Ngay từ khi khởi sự hòa đàm với Bắc Việt, Nixon và Kissinger đã có chủ trương rất rõ rệt với 2 kế hoạch như sau :
- 1) Kế hoạch A (Plan A) là làm mọi cách tạo ra thế quân bình tại Việt Nam (Equilibrium strategy) bằng cách hỗ trợ tối đa VNCH để có thể chống trả bất cứ cuộc tấn công nào từ Miền Bắc, trên cơ sở đó sẽ tiến đến việc ngưng bắn, cho phép Hoa Kỳ rút hết quân về cũng như mang được hết tất cả tù binh về nước
- 2) Kế hoạch B (Plan B) là một hợp đồng bảo hiểm (Insurance policy) sẽ sử dụng trong trường hợp không thể thực thi được Kế hoạch A, nghĩa là không còn có thể hỗ trợ VNCH được nữa, sẽ gồm 2 phần :
- 1) Sử dụng mối quan hệ tay ba Hoa Kỳ – Liên Xô -Trung Quốc để cố gắng ngăn trở Miền Bắc trong quyết tâm cưỡng chiếm Miền Nam
2) Nếu vẫn không thực hiện được phần 1, nghĩa là không ngăn chận được sự sụp đổ của Miền Nam, thì cố gắng giảm thiểu tối đa thiệt hại cho uy tín của Chính phủ Hoa Kỳ trong cộng đồng quốc tế.
[29] Kadura, Johannes, sđd, tr. 3-4.
Ngay sau khi Quốc Hội thông qua đạo luật Supplemental Appropriations Act for FY 1973, cắt bỏ toàn bộ các ngân khoản đã được chuẩn chi cho Đông Dương, vào cuối tháng 6-1973, cho thấy Kế hoạch A không thể thực hiện được .
Nixon và Kissinger chuyển ngay sang việc thực hiện Phần 1 của Kế hoạch B . Kissinger đã có một buổi họp với Đại Sứ Nga tại Hoa Kỳ là Anatoly Dobrynin vào tháng 7-1973 để nhắc nhở về chủ trương “détente” (giảm bớt căng thẳng để tránh đụng độ) giữa Hoa Kỳ và Liên Xô, và cho biết ý định của Hoa Kỳ là sẽ rút khỏi Cao Miên, với dụng ý khuyến nhủ Liên Xô cũng nên gây ảnh hưởng đối với Bác Việt theo cùng chiều hướng “détente” đó.
Tháng 11-1973, Kissinger lại đi Bắc Kinh họp với Chu Ân Lai, Thủ Tướng của Trung Quốc.
Cả hai công tác này nhằm sử dụng mối quan hệ tay ba Hoa Kỳ – Liên Xô – Trung Quốc đều không mang lại kết quả gì cả.
Nixon và Kissinger không còn lối thoát nào ngoài việc chuyển sang thực hiện Phần 2 của Kế Hoạch B, cố gắng cho thấy là Hoa Kỳ đã làm tất cả mọi chuyện có thể làm để giúp VNCH.
Từ cuối tháng 6-1973, Nixon đã đồng ý khi Kissinger nói với ông như sau:
“I think if we have to go down, the record must show that we did everything.”
[30] (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau :
Nếu chúng ta phải thua, hồ sơ ghi lại phải cho thấy rằng chúng ta đã làm hết tất cả mọi việc có thể làm).
Kadura, Johannes, sđd, tr. 90.
Cố gắng thực hiện Phần 2 của Kế Hoạch B cũng có thêm một mục tiêu thứ hai là cho cả thế giới thấy rằng :
- Trách nhiệm làm mất Miền Nam Việt Nam vào tay Cộng sản không thuộc về Hành Pháp Hoa Kỳ (tức là Chính phủ Nixon, và sau đó là Chính phủ Ford) mà hoàn toàn là trách nhiệm của Quốc Hội Hoa Kỳ.
Và lịch sử, sau đó, đã chứng minh đúng như thế.
Quốc Hội Hoa Kỳ đã không ngần ngại mà, trái lại, còn tích cực đãm nhận vai trò làm kẻ phản bội, bỏ rơi VNCH bằng cách :
- Cắt giảm và sau cùng chấm dứt quân viện cho VNCH trong khi Bắc Việt ngang nhiên xé bỏ Hiệp Định Paris, tái diễn chiến tranh, tấn công Miền Nam với sự viện trợ lớn lao của Liên Xô và Trung Quốc, đưa đến sự sụp đổ vô cùng nhanh chóng của VNCH, nhanh hơn cả dự liệu của Bắc Việt.
HOA KỲ BỎ RƠI ĐỒNG MINH VIỆT NAM CỘNG HÒA : TRÁCH NHIỆM THUỘC VỀ AI ?
Quốc Hội Hoa Kỳ dưới sự điều khiển của Đảng Dân Chủ đã cắt giảm ngân sách viện trợ cho VNCH như sau :
Tài Khóa 1974 (1-7-1973 cho đến 30-6-1974) :
Chính phủ Nixon đề nghị một ngân khoản viện trợ cho VNCH là 1,6 tỷ đô la nhưng Quốc Hội cắt còn có 1,126 tỷ đô la [31]
[31] Willbanks, James H. Abandoning Vietnam: how America left and South Vietnam lost its war. Lawrence: University Press of Kansas, 2004. 196
Tài Khóa 1975 (1-7-1974 cho đến 30-6-1975) :
Chính phủ Nixon đề nghị, vào ngày 24-4-1974, một ngân khoản viện trợ cho VNCH là 1,45 tỷ đô la nhưng Quốc Hội cắt còn có 700 triệu đô la [32]
[32] Willbanks, James H., sđd, tr. 215-216.
Trong khi Quốc Hội còn trong giai đoạn thảo luận ngân sách Tài Khóa 1975, trong tháng 6 và 7-1974, Chính phủ Nixon đã đệ trình cho Quốc Hội một báo cáo nghiên cứu tình hình quân sự tại VNCH do một ủy ban hỗn hợp Việt-Mỹ thực hiên.
Báo cáo nói rõ nếu ngân khoản viện trợ giảm xuống dưới mức 1,126 tỷ đô la của Tài Khóa 1974 sẽ ảnh nghiêm trọng đến tinh thần cũng như khả năng chiến đấu của QLVNCH.
Trong lúc điều trần trước Quốc Hội, khi được hỏi là chuyện gì sẽ xảy ra nếu số đạn dược cung cấp cho QLVNCH bị cắt giảm nhiều do quân viện cho VNCH bị cắt giảm, Bộ Trưởng Quốc Phòng James Schlesinger đã trả lời như sau :
“The ability of the [South Vietnamese] government to survive would be severely compromised.
As you recall, at the time of the cutoff of the tactical air support last summer, there was some question whether the government could survive.
It pulled itself together, but it is dependent upon its own forces and the munitions that are supplied to these forces.
Without such munitions, it is hard to see how it could survive.” [33]
[33] Willbanks, James H., sđd, tr. 215.
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau :
Khả năng sống còn của chính phủ [Nam Việt Nam] sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Như quý vị còn nhớ, vào lúc việc không trợ chiến thuật bị cắt bỏ hồi hè năm rồi , cũng đã có câu hỏi được đăt ra là liệu chính phủ [Nam Việt Nam] có thể sống còn không.
Họ đã cố gắng hết sức, nhưng việc đó tùy thuộc vào chính lực lương của họ và đạn được được tiếp tế cho các lực lượng đó.
Không có đạn dược như vậy, khó biết được làm sao họ có thể sống còn).
Trong tác phẩm The Final collapse [34] của ông, Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng của QLVNCH, đã trình bày cho độc giả thấy rõ một cách không thể chối cải được việc cắt giảm ngân khoản viện trợ cho VNCH của Quốc Hội Hoa Kỳ đã tạo ra những hậu quả nghiêm trong cho QLVNCH như sau :
[34] Cao Văn Viên. The Final collapse. Washington, D.C.: U.S. Army Center for Military History, 1985. (Indochina Monographs). Chương 4, tr. [42]-57.
Cuốn sách này đã được tác giả Nguyễn Kỳ Phong dịch sang Việt ngữ với nhan đề Những ngày cuối của Việt Nam Cộng Hòa và được nhà xuất bản VietnamBibliography tại Centreville, Virginia, Hoa Kỳ, xuất bản năm 2003. Chương 4, tr. [75]-98.
Tổng số ngân khoản chuẩn chi 700 triệu đô la là gồm cả phần chi cho DAO [35] là 46 triệu đô la ; do đó, trên thực tế, quân viện cho QLVNCH chỉ còn có 654 triệu đô la, phân phối như sau :
DAO là chữ viết tắt cho cơ quan Defense Attache Office (Văn Phòng Tùy Viên Quân Sự) của Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn, được thiêt lập với nhiệm vụ phối hợp mọi hoạt động yểm trợ quân sự cho VNCH sau khi Hiệp Định Paris đã được ký kết.
Nó gần như là thay thế cho MACV (United States Military Assistance Command, Vietnam = Bộ Tư Lệnh Viện Trợ Quân Sự của Hoa Kỳ tại Việt Nam).
Văn phòng chánh của DAO đặt tại căn cứ Tân Sơn Nhứt với rất nhiều văn phòng phụ ở khắp 4 Vùng Chiến Thuật của VNCH.
Đây là văn phòng tùy viên quân sự lớn nhứt trên thế giới của Hoa Kỳ, nhân viên lên đến hàng ngàn người. Chỉ huy trưởng cuôi cùng là Thiếu Tướng (Major-General) Homer D. Smith, một tướng lãnh chuyên về tiếp vận (Logistics).
Trên thực tế, quân viện cho QLVNCH chỉ còn có 654 triệu đô la , phân phối như sau :
Quân Chủng Nhu Cầu Tối Thiểu Chuẩn Chi Tỷ Lệ
- Không Quân : 414 183 44%
Lục Quân 841 458 54%
Linh Tinh 30 13 43%
Tổng cộng 1285 654 51%
Với ngân sách chuẩn chi bị cắt giảm trầm trọng như vậy, Không Quân VNCH đã phải :
Ngưng hoạt động hơn 200 phi cơ đủ loại (trong đó có toàn bộ các phi cơ khu trục A-1 Skyraider của các Phi Đoàn 514, 518 ở Biên Hòa, và 530 ở Pleiku) [36]
[36] Nguyễn Hữu Thiện. Ngành khu trục trong Không Lực Việt Nam Cộng Hòa, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây :
- “ Về phi cơ, do tình trạng thiếu bom đạn, thiếu nhiên liệu, thiếu phụ tùng thay thế, vào tháng 9/1974, KQVN đã phải cho đình động (đình chỉ hoạt động) 224 phi cơ, trong số này có :
- Toàn bộ lực lượng khu trục cánh quạt, gồm :
- 61 chiếc A-1 Skyraider của PĐ-514, PĐ-518 ở Biên Hòa, và PĐ-530 ở Pleiku.”
Chấm dứt chương trình thay thế các phi cơ khu trục phản lực F-5A bằng phi cơ F-5E
Gọi về nước tất cả 400 sinh viên sĩ quan phi công đang học lái máy bay trực thăng và phản lực tại Hoa Kỳ
Hủy bỏ chương trình đào tạo khoảng 1000 chuyên viên cho Không Quân và chuyển họ sang Bộ Binh
Giảm số giờ bay huấn luyện và yểm trợ; Không Quân chỉ còn cung ứng được 50% c ác phi vụ yểm trợ hỏa lực, và 58% ]các phi vụ quan sát, thám thính
Giảm đến 70% các phi vụ vận chuyển bằng trực thăng khiến cho việc tản thương bị ảnh hưởng nghiêm trọng
Giảm đến 50% các phi vụ vận chuyển bằng các loại phi cơ cánh quạt ; trong số 32 chiếc máy bay vận tải 4 động cơ khổng lồ Lockheed Hercules chỉ còn được 4-8 chiếc có thể sử dụng được hàng ngày
Hoạt động của Hải Quân cũng bị cắt giảm đến 50%; riêng các Giang Đoàn chỉ còn hoạt động được 28% mà thôi, khiến cho khả năng kiểm soát của Hải Quân về mặt sông ngòi, nhứt là ở Vùng 4, bị giảm sút rất nghiêm trọng
HOA KỲ BỎ RƠI ĐỒNG MINH VIỆT NAM CỘNG HÒA : TRÁCH NHIỆM THUỘC VỀ AI ?
QLVNCH chỉ còn giữ được 33% khả năng thay thế chiến cụ ; việc bảo trì và sửa chửa chiến cụ và vũ khí cũng gặp rất nhiều trở ngại :
Cần sửa chửa :
- Thiết-vận-xa M-113 : 80-85%
- Thiết-giáp-xa M-48 : 75-80%
- Đại bác 105 và 155 ly : 90-95%
- Đại bác 175 ly : 60-75 %
- Súng phóng lưu M-79 : 80%
- Quân xa loại 2,5 tấn : 80-85%
- Xe cần trục loại 5 tấn : 70-75%
- Máy truyền tin : 90%
QLVNCH cũng bị thiếu hụt nhiên liệu và đạn dược rất nghiêm trọng :
Nhiên liệu :
Ngay từ năm 1974, mức tiêu thụ nhiên liệu đã bị sụt giảm 30% so với năm 1973; với đà cắt giảm ngân sách này, QLVNCH sẽ không còn đủ nhiên liệu để sử dụng từ tháng 5-1975
Đạn dược :
- Trong số 458 triệu đô la dành cho Lục Quân :
- 239 triệu là để mua đạn dược, con số này chỉ đáp ứng được 56% nhu cầu thật sự của Lục Quân về đạn được .
Theo tính toán của Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, đến tháng 2-1975, số đạn dược tồn kho sẽ chỉ còn đủ dùng như sau :
Trong thời gian 8 tháng tiếp theo đó, Chính phủ Nixon đã đệ trình Quốc Hội một loạt đề nghị bổ sung ngân sách quân viện cho VNCH nhưng tất cả đều bị Quốc Hội bác bỏ hết.
Ngày 9-8-1974, sau khi thấy không còn hy vọng gì thoát khỏi bị truất phế (impeached), Tổng Thống Nixon đã từ chức và Phó Tổng Thống Gerald Ford lên thay thế ông.
Tình hình chính trị của Hoa Kỳ, trong bối cảnh kình chống nhau giữa hành pháp và lập pháp, càng tệ hại hơn cho phía hành pháp.
Ông Ford là vị Tổng Thống Hoa Kỳ đầu tiên trong lịch sử không do dân bầu ra nên không có một sứ mệnh (mandate) nào cả.
Thế lực của riêng bản thân ông lại quá yếu vì ông chỉ là một Dân Biểu của Hạ Viện chớ không phải là một Thượng Nghị Sĩ của Thượng Viện hay một Thống Đốc của một tiểu bang.
Do đó ông rất bị lép vế trước Quốc Hội.
Hơn nữa, trong cuộc bầu cử lại Quốc Hội vào Mùa Thu 1974, Đảng Dân Chủ lại thắng thêm ghế, và tỷ lệ càng nghiêng thêm về phía họ như sau :
- 291/144 tại Hạ Viện, và 61/39 tại Thượng Viện.
[37]Willbanks, James H., sđd, tr. 218.
Sau cuộc triệt thoái tại hại ở Vùng II, và tình hình trở nên nghiêm trọng ở Vùng I, cuối tháng 3-1975 , Tổng Thống Ford cử Đại Tướng Frederick C. Weyand, Tham Mưu Trưởng Lục Quân Hoa Kỳ, sang duyệt xét tình hình tại VNCH.
Sau khi trở về Hoa Kỳ, ngày 2-4-1975 , Tướng Weyand đệ trình báo cáo lên Tổng Thống Ford, với đề nghị tăng viện ngay cho VNCH 722 triệu đô la để cung cấp cho QLVNCH :
- 744 trọng pháo
- 446 thiết giáp
- 000 súng trường
- 5,000 súng đại liên
- 000 súng phóng lựu
- 000 tấn bom và đan dược
- 000 xe vận tải
Weyand tin rằng số chiến cụ này sẽ đủ để tái trang bị 8 sư đoàn bộ binh và biệt động quân và 28 trung đoàn biệt lập thành lập từ các lực lượng địa phương quân vẫn còn, bù đắp lại cho những mất mát tại Vùng I và Vùng II.
[38] Willbanks, James H., sđd, tr. 260.
Tổng Thống Ford chuyển đề nghị này của Tướng Weyand đến Quốc Hội.
Ngày 17-4-1975, Ủy Ban Quân Lực của Thượng Viện (Senate Armed Forces Committee) bỏ phiếu bác bỏ toàn bộ đề nghị này.
[39]Willbanks, James H., sđd, tr. 267.
Thay Lời Kết
Khoảng hai tuần lễ sau, ngày 30-4-1975 , QLVNCH phải đầu hàng và VNCH bị xóa sổ.
Hoa Kỳ đã bị dằn vật bởi Triệu Chứng Việt Nam (Vietnam Syndrome) trong mấy chục năm qua.
Quốc Hội Hoa Kỳ dưới sự kiểm soát tuyệt đối của Đảng Dân Chủ, Khóa 93 (1973-75) và Khóa 94 (1975-77), phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về sự phản bội này đối với Đồng Minh VNCH.
Các đảng viên Đảng Dân Chủ trong hai khóa Quốc Hội đó đã hành động một cách vô liêm sĩ, hoàn toàn không đếm xỉa gì đến việc 55.000 binh sĩ Hoa Kỳ và hơn 200.000 binh sĩ QLVNCH đã hy sinh trong cuộc chiến.
Tổng Thống Ford, trong một cuộc họp báo sau khi yêu cầu Quốc Hội tăng viện khẩn cấp cho VNCH vào tháng 4-1975, đã nhắc lại việc hy sinh của 55.000 binh sĩ Hoa Kỳ, và ông kết luận:
“I think it is up to the American people to pass judgment on who was at fault and where the blame may rest.”
[40] Willbanks, James H., sđd, tr. 260-261.
(Xin tạm dịch sang Viêt ngữ như sau :
Tôi nghĩ là xin để cho nhân dân Hoa Kỳ phán xét ai làm sai và trách nhiệm là ở đâu).
" SỰ PHẢN BỘI CỦA HENRY KISSIGER LÀ NGUYÊN CHÍNH KHIẾN VIỆT NAM CỘNG HÒA BỊ SỤP ĐỔ !"
Dường như Henry Kissinger đã làm theo câu nói nổi tiếng của sử gia Thucydides :
- "The strong do what they can, the weak suffer what they must", tác giả Stephen B. Young bình luận với BBC News Tiếng Việt.
'' Kissinger's Betrayal : How America Lost the Vietnam War '' là quyển sách mới nhất của tác giả Stephen B. Young cho thấy cách nhà ngoại giao hàng đầu của Mỹ, Henry Kissinger đã phản bội Việt Nam Cộng hòa (VNCH) thế nào qua những thỏa thuận bí mật với Liên Xô, Bắc Việt và Trung Quốc.
Ông Henry Kissinger, 99 tuổi là Ngoại trưởng Mỹ từ năm 1973 đến 1977, và trợ lý cho Tổng thống Mỹ Richard Nixon, sau đó là Tổng thống Gerald Ford trong các vấn đề an ninh quốc gia từ năm 1969 đến tháng 11/1975.
Quyển sách đề cập đến động cơ sâu xa Henry Kissinger, từ sự không tin tưởng vào một chiến thắng cho Mỹ ở Việt Nam ngay từ ban đầu, không xem Việt Nam Cộng hòa có chủ nghĩa dân tộc.
Nguyên nhân gốc rễ là từ ảnh hưởng tư tưởng của Jean Sainteny, Đặc ủy Cộng Hòa Pháp tại Bắc Bộ từ năm 1946 đến 1962, theo Giáo sư Stephen B. Young.
Trả lời phỏng vấn BBC News Tiếng Việt từ Minnesota (Hoa Kỳ) ngày 27/03, cựu phó khoa luật Đại học Harvard cho rằng :
- Nền hòa bình mang lại sau Hiệp định Paris ký ngày 27/01/1973 là "không có danh dự" như Tổng thống Nixon từng mong muốn.
BBC :
Ông có thể nói về quá trình viết sách 'Kissinger's Betrayal:
How America Lost the Vietnam War' ?
Có thể nói đây là quyển sách đầu tiên về sự phản bội của Henry Kissinger đối với Việt Nam Cộng hòa ?
Giáo sư Stephen B. Young :
Đúng như vậy. Mọi chuyện xảy đến với tôi theo một cách tình cờ.
Tôi đã tìm kiếm tài liệu viết quyển sách này trong hơn 40 năm qua. Nhiều câu chuyện, mà tôi có thể nói theo Tiếng Việt, phải gọi là "phước của Trời ".
Tôi có quen biết cựu Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn, ông Ellsworth Bunker trong quãng thời gian tôi làm việc tại đó. Bunker về hưu năm 1980, và ông ấy mời tôi cùng gia đình đến thăm quê ông ấy ở Vermont.
Khi đó, Bunker đã kể rất nhiều câu chuyện thú vị về Việt Nam như về Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu... Khi đó tôi đặt câu hỏi cho ông ấy :
- " Ngài Đại sứ, tôi muốn viết sách, người dân Mỹ cần phải biết những câu chuyện này. Đây là những câu chuyện hay, rất thú vị mà lại không ai biết về chúng." Và rồi ông ấy đồng ý.
Lá thư Henry Kissinger gửi cho Ellsworth Bunker vào ngày 25/05/1971 (phải), có đoạn :
- " On your point VI we will say that peoples of Indochina should discuss this question among themselves but we not set date."
Và một biên bản từ Nhà Trắng vào ngày 25/05/1971, Sainteny và vợ ăn trưa với Henry Kissinger, và Sainteny truyền đi thông điệp từ Hà Nội (trái)
Khi cùng làm việc với nhau, tôi đã có điều kiện tiếp cận với những tài liệu mật của Bunker ở Bộ Ngoại giao Mỹ.
Khi nhìn vào một tủ hồ sơ, tôi phát hiện những lá thư mật giữa Ellsworth Bunker và Henry Kissinger.
Và tôi thấy thông điệp rất sốc của Kissinger vào ngày 25/05/1971, mang nội dung nói một cách gián tiếp [indirectly] với Bunker rằng :
- " Mỹ sẽ để Hà Nội duy trì hiện diện quân sự ở miền Nam Việt Nam sau hiệp định hòa bình Paris. Nói một cách khác, Kissinger sẽ bỏ rơi những người Việt Nam theo chủ nghĩa dân tộc. Nhưng tôi chỉ có một tài liệu đó.
Vào năm 1971, Đại sứ Bunker không hiểu những gì Kissinger nói, ông ấy vẫn còn nghĩ rằng :
Kissinger vẫn còn ủng hộ người theo chủ nghĩa dân tộc ở Sài Gòn và do đó, Bunker đã không làm gì.
Và khi tôi đưa bức thư đó cho Bunker xem thì ông ấy rất thất vọng vì nghĩ rằng lẽ ra mình đã phải nhận ra ngay vấn đề vào thời điểm đó.
Chính câu chuyện này đã cho tôi một chỉ dấu cho thấy Kissinger đã có một kế hoạch cá nhân cho cuộc chiến tranh Việt Nam. Và tôi đã dành rất nhiều năm để xem thêm tài liệu khác để viết nên quyển sách này.
Ông Ellsworth Bunker là Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Cộng hòa nhiệm kỳ 1967-1973
Tôi cũng tiếp cận Tổng thống Nixon. Kết bạn với Nixon vốn là chuyện không dễ dàng vì tôi phải mất đến 4 đến 5 năm.
Lần đầu tôi gặp Nixon là vào khoảng năm 1981. Vào khoảng năm 1989, khi nghĩ ông ấy đã tin tưởng mình, tôi hỏi ông ấy ở New Jersey :
- " Có phải ông đã ủy quyền cho Henry Kissinger bỏ rơi Việt Nam Cộng hòa hay không ?", và khi đó ông ấy bị sốc, mặt trắng bệch, ông ấy nói không nên lời.
Ông ấy nói mình không biết Kissinger thật sự làm gì vào năm 1971.
Một yếu tố khác là từ quyển sách :
- " Các Cuộc Thương Lượng Lê Đức Thọ - Kissinger Tại Paris " của tác giả Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ, những nhà ngoại giao cùng với ông Lê Đức Thọ trong quá trình đàm phán Hiệp định Paris.
Trong quyển sách đó, hai tác giả viết rằng :
- Vào cuối tháng Giêng năm 1971, Đại sứ Liên Xô tại Hà Nội có cuộc họp với Thủ tướng Phạm Văn Đồng.
Khi đó Đại sứ Liên Xô cho biết Kissinger vừa mới nói với Đại sứ Liên Xô tại Washington, Anatoly Dobrynin là :
- " Nước Mỹ sẽ rời khỏi Việt Nam và không bao giờ trở lại, Mỹ sẽ không yêu cầu Hà Nội rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Câu chuyện này trùng khớp với tài liệu mà tôi có được từ tập hồ sơ mật của Bunker.
Rồi sau đó tôi nhớ lại trong quyển tự truyện của Kissinger, ông ấy nêu vào ngày 09/01/1971 đã có cuộc gặp với Đại sứ Liên Xô, Dobrynin ở Washington, và chấm hết.
Đó là tất cả những gì Kissinger viết.
Như vậy chúng ta có thể thấy, chi tiết gặp Đại sứ Liên Xô tại Washington từ hai tác giả Việt Nam và tự truyện của Kissinger có sự liên quan với nhau.
Tổng thống Richard Nixon và Ngoại trưởng Henry Kissinger trong cuộc gặp với Đại sứ Liên Xô Anatoly Dobrynin tại Nhà Trắng vào ngày 26/12/1973
****
Còn nhiều điểm lắm Hoa Thiên lý về chính trị 2 đảng không đoàn kết quân sự tốn kém quá nhiều cho VNCH và quận đội mỹ đã mất nhiều chưa nói bị bắc việt giam giữ Phi công tù binh etc ...đây là sự trao đổi cộng thêm những quyền lợi của mỹ muốn trung đông và nhả cho trung cộng thêm vào đám nhà báo lên an phản chiến .VNCH lúc đó về chính trị cũng rối loạn đó là lý do VNCH mỹ rút bỏ rơi
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HÃY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HÃy CÓ Ý THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐÃ LÀM GÌ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐÃ LÀM GÌ CHO TÔI
Còn nhiều điểm lắm Hoa Thiên lý về chính trị 2 đảng không đoàn kết quân sự tốn kém quá nhiều cho VNCH và quận đội mỹ đã mất nhiều chưa nói bị bắc việt giam giữ Phi công tù binh etc ...đây là sự trao đổi cộng thêm những quyền lợi của mỹ muốn trung đông và nhả cho trung cộng thêm vào đám nhà báo lên an phản chiến .VNCH lúc đó về chính trị cũng rối loạn đó là lý do VNCH mỹ rút bỏ rơi
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.