Nói đến nhạc sĩ Lê Dinh, không mấy ai là không biết tới người nghệ sĩ sáng tác nổi danh từ thập niên 50 cho đến nay qua những ca khúc chứa chan t́nh cảm làm rung động ḷng người.
Bắt đầu sáng tác từ năm 1953 nhưng măi tới năm 1956 nhạc sĩ Lê Dinh mới chính thức ra mắt nhạc phẩm “Làng Anh Làng Em” .
Và 40 năm nối tiếp sau đó với một số lượng trên 200 nhạc phẩm, tên tuổi của ông đă gắn liền với ḍng nhạc quê hương Việt Nam cận đại.
Cuộc đời sáng tác của nhạc sĩ Lê Dinh có thể chia làm 3 giai đoạn :
Giai đoạn đầu, từ 1953 đến 1966 , ông sáng tác một ḿnh và tên tuổi đă đưọc nhiều người biết đến qua các nhạc phẩm nổi tiếng như bài :
Giai đoạn ba : từ năm 1975 và về sau , v́ cuộc đời đổi thay, nhóm Lê Minh Bằng đă không c̣n sáng tác chung nữa.
Trong suốt thời gian 3 năm sống dưới ách độc tài cộng sản, ng̣i bút của nhạc sĩ Lê Dinh đă ngừng viết và chỉ đến lúc vượt thoát t́m được tự do, nhạc sĩ Lê Dinh mới sáng tác trở lại.
Những bài hát trong giai đoạn này mang nặng tâm sự của một người ray rứt đắng cay v́ thế sự.
Giai đoạn đầu là thời kỳ sáng tác quan trọng và xúc tích nhất trong sự nghiệp của nhạc sĩ Lê Dinh, ông đă sáng tác một số nhạc phẩm t́nh cảm rất được quần chúng mến mộ.
Anh Ngọc, nam ca sĩ hàng đầu, thành danh từ thập niên 50 khi phụ trách chương tŕnh phê b́nh nhạc của đài phát thanh Sàig̣n đă nói về nhạc sĩ Lê Dinh như sau :
” Qua Lê Dinh người ta tiếp nhận những âm điệu uyển chuyển, dồi dào, không nhàm chán và phần lời ca của Lê Dinh rất chân thật, rất đơn sơ nhưng không kém phần điêu luyện và nhờ đó đi thẳng vào ḷng người nghe một cách dễ dàng ”
Những tâm t́nh mộc mạc đơn sơ ấy được thể hiện trong bài ta “Tấm Ảnh Ngày Xưa” .
Tiếng nhạc lời thơ qua bài hát này đă khiến ta nghe mà không tránh khỏi bùi ngùi nhớ nhớ về một dĩ văng của tuổi niên thiếu mộng mơ, của tuổi học tṛ lưu bút ngày xanh, của những lưu luyến u hoài,tuy chưa xa cách mà đă thấy ẩn hiện cái buồn ly biệt:
T́nh yêu quê hương của nhạc sĩ Lê Dinh mang nhiều nét đặc thù với h́nh ảnh đồng ruộng miền Nam xanh ngát mênh mông,những con lạch nhỏ len lách qua những hàng dừa ngả ḿnh soi bóng, có những cầu tre lắt lẻo gập ghềnh thấp thoáng bóng dáng các cô gái đang độ xuân th́ trong chiếc áo bá ba gợi cảm:
Những bài t́nh ca nổi tiếng của nhạc sĩ Lê Dinh đă được thính giả mến chuộng từ bốn thập niên qua và các nhạc phẩm này hiện nay vẫn c̣n được các ca sĩ hàng đầu tŕnh bày và thu băng.
Giá trị đích thực của các nhạc phẩm này không nằm trong những lời lẽ cầu kỳ, văn hoa bóng bẩy, mà chính là ở những lời thơ mộc mạc chân thành như tâm t́nh của người miền Nam, được tác giả lồng vào trong các nhịp điệu nhịp nhàng tha thiết của điệu Boléro hay nhẹ nhàng lả lướt của các điệu Habanera và Tango.
Giai đoạn hai trong sự nghiệp sáng tác của nhạc sĩ Lê Dinh rất phong phú với sự hợp soạn của hai nhạc sĩ Minh Kỳ và Anh Bằng.
Bộ ba Lê Minh Bằng đă viết chung rất nhiều ca khúc được thính giả ưa chuộng với tác phẩm đầu tiên của nhóm được ra mắt năm 1968 là :
- “ Đêm Nguyện Cầu ”.
Sau đó các tác phẩm như :
- “ Linh hồn Tượng Đá ”
- “ Chuyện T́nh Lan Và Điệp ”
- “ Mưa Trên Phố Huế ”
- “ Nếu Hai Đứa Ḿnh ”
- “ Giấc Ngủ Cô Đơn ”… đă được thính giả khắp nơi đón nhận và tên tuổi của nhóm Lê Minh Bằng trở thành một bút hiệu nổi tiếng ăn khách nhất của những năm cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70.
Với số lượng bài hát được viết ra quá dồi dào của nhóm Lê Minh Bằng nên ngoài những bản nhạc mang bút hiệu quen thuộc, c̣n rất nhiều bài được viết dưới nhiều bút hiệu khác như :
- Dạ Cầm
- Vũ Chương
- Hoa Linh Bảo
- Mạnh Quỳnh
- Mạc Phong Linh
- Mai Thiết Lĩnh
- Tôn Nữ Thuỵ Khương
- Trúc Ly
- Dạ Ly Vũ…vv…
Cho dù các ca khúc này được kư dưới bút hiệu nào khác đi nữa, giới thưởng ngoạn vẫn nồng nhiệt tiếp nhận, đă nói lên thực tế tài năng của nhóm Lê Minh Bằng.
Gần như tất cả các nhạc phẩm, hơn 200 bài, viết trong giai đoạn trước 1975 đă được các hăng :
Biến cố lịch sử tháng 4 năm 1975 đă chia ĺa bộ ba Lê Minh Bằng. Minh Kỳ đă vĩnh viễn ra đi vào tháng 9 năm 1975 trong vụ nổ ở trại cải tạo Long Khánh.
Anh Bằng đến Mỹ sinh sống tại California và đă rất thành công với trung tâm Asia sản xuất băng nhạc và video.
Lê Dinh hiện nay cư ngụ tại Montréal, như kiếp tằm phải nhả tơ, ông đă để hết thời giờ rảnh để hoạt động văn nghệ với nguyệt san Nghệ Thuật xuất bản đều đặn hàng tháng, và cùng với Lê Thái thành lập đài phát thanh Tiếng Nói Việt Nam đă hoạt động từ hơn 5 tháng qua tại Montréal và được phát thanh hàng tuần vào mỗi chiều chủ nhật.
Nhịp sáng tác của ông cũng đă lơi nhiều so với thời kỳ trước 1975, tuy vậy chúng ta vẫn c̣n được nghe những sáng tác mới rất giá trị như :
- 10 bài Hận Ca,
- Bài Hát của Người Điên
- Ḍng Kỹ Niệm
- Cho Người Lính Cũ
- Người T́nh Cửu Long
- Nắng Bên Này Sông và mới nhất đây bài Thương Về G̣ Công.
Con người của nhạc sĩ Lê Dinh rất nhiệt thành và mộc mạc như lời nhạc của ông, ông sống hết ḿnh cho nghệ thuật, v́ nghệ thuật, không khoa trương ồn ào.
Đối với các nhạc sĩ khác ông một ḷng qúi mến, không tỵ hiềm, không quản ngại khó khăn ông đă sốt sắng tổ chức những đêm nhạc để vinh danh các nhạc sĩ sáng tác như chúng ta đă biết, qua đêm nhạc :
- Phạm Duy, đêm nhạc Lam Phương đă rất thành công tại Montréal.
Có được quen biết với nhạc sĩ Lê Dinh, chúng ta mới biết rơ ông là người rất thẳng thắn, không ngần ngại nói lên những điều ông tin tưởng.
Bất b́nh trước sự lợi dụng công tŕnh tim óc nghệ sĩ sáng tác của các nhà sản xuất băng nhạc và vidéo ở hải ngoại, ông đă đứng lên tranh đấu chỉ thẳng tên tuổi một lái buôn nghệ thuật , tự tiện ấn hành các nhạc phẩm của nhiều nhạc sĩ, và một nhà sản xuất băng vidéo nổi tiếng chỉ “ăn trái mà không nhớ kẻ trồng cây”.
Việc làm thẳng thắn của ông đă đem lại ḷng tin tưởng và kính nể trong giới nghệ sĩ.
Đêm nhạc Lê Dinh do nhóm Thân Hữu Nghệ Sĩ Montréal tổ chức để đánh dấu 40 năm nhạc Lê Dinh (1956-1996), một công tŕnh lớn lao của một nghệ sĩ tài danh mà tài nghệ đă được chứng tỏ qua sự thử thách khắc nghiệt của thời gian.
Chúng tôi kính mời quí vị thưởng thức một chương tŕnh văn nghệ chọn lọc với những tác phẩm nổi tiếng của nhạc sĩ Lê Dinh qua những giọng ca chan chứa t́nh người của các nghệ sĩ Montréal, để nêu cao tinh thần tương thân tương trợ và tinh thần “ăn trái nhớ kẻ trồng cây” giữa nghệ sĩ tŕnh diễn và nghệ sĩ sáng tác, như một bày tỏ ḷng qúy mến đặc biệt dành cho nghệ sĩ Lê Dinh.
Huyền Châu
(trích tạp chí Nghệ Thuật số 29/tháng 8-1996)
NHẠC SĨ NGUYÊN VŨ ĐĂ THÔI “ NHỮNG ĐÊM TRẦN THẾ ĐÓN NOEL ”
NHẠC SĨ NGUYÊN VŨ ĐĂ THÔI “ NHỮNG ĐÊM TRẦN THẾ ĐÓN NOEL”
Nhạc sĩ Nguyễn Vũ trước luc ra đi. (H́nh: Hải Đăng, hàng xóm, nhà đối diện)
17g30 chiều 24 Tháng Chín, nhạc sĩ Nguyễn Vũ, một giáo dân mến đạo xứ Nghĩa Ḥa – Ông Tạ đă rời thế trần về với Chúa (1941-2025).
Có thể nói ông là nhạc sĩ tên tuổi trước 1975 cuối cùng ở vùng Ông Tạ đă ra đi.
Lúc sinh thời, thỉnh thoảng ông trách nhẹ chuyện nhiều ca sĩ, bản in nhạc hát, ghi sai lời “Bài Thánh ca buồn” của ông khi đổi “thế trần” thành “thánh đường” :
- “ Rồi những đêm thánh đường đón Noel ”.
Trách nhẹ thôi, v́ ông bảo :
- “ Với tôi, Noel từ lâu đă không c̣n là một lễ hội tôn giáo dành riêng người theo đạo nữa. Noel trở thành một lễ hội chung của mọi người. Đó là ngày hội lớn được đón nhận bởi mọi quốc gia, mọi sắc tộc, mọi tầng lớp xă hội”.
Một lỗi thứ hai mà ông nhắc tới :
-“ Rồi một chiều áo trắng thay màu, em qua cầu xác pháo theo sau” bị các ca sĩ cũng như bản in đổi thành “Rồi một chiều áo trắng phai màu ”.
Ông giải thích :
-“Áo trắng thay màu” có nghĩa chiếc áo trắng thơ ngây của cô nữ sinh ngày nào giờ đổi thay sang một màu áo nào khác, cụ thể ở đây từ chiếc áo nữ sinh thay qua màu áo cưới”.
Chỉ hai từ thôi cho thấy nét ư tứ, sâu sắc của một nhạc sĩ Bắc 54 Hà Nội xưa nay sống b́nh dị và thanh lịch ở vùng đất đậm đặc Bắc 54 Ông Tạ là Nghĩa Ḥa.
Nhà ông trên đường Nghĩa Hưng, phường 6, Tân B́nh.
Chỉ cách đường Nghĩa Phát, trục chính sầm uất, tấp nập của khu chợ Nghĩa Ḥa – khu chợ đậm chất Ông Tạ nhất hiện nay với nhiều món Bắc 54 tưởng chừng đă thất truyền – vài chục mét nhưng thật lạ, nó như một thế giới riêng, yên tĩnh, ít nhà buôn bán.
Sáng sáng, ngôi nhà nhỏ của ông vang tiếng dương cầm nhè nhẹ, chỉ như ru thêm b́nh yên nhà hàng xóm, trong đó có nhà các con ông cạnh bên.
Tiếng dương cầm nhẹ như bước chân ông bà rảo trên đường ra công viên Lê Thị Riêng tập dưỡng sinh cách đó non cây số.
Nhẹ và thanh lịch như lối sống bao lâu nay của ông trong xóm đạo Ông Tạ.
Nhẹ và đằm thắm như ly cà phê ông uống trong quán cà phê của nhà thơ Phạm Thiên Thư trong khu Bắc Hải gần nhà cùng anh bạn trẻ Hải Đăng nhà đối diện – vốn từng làm báo Tuổi Trẻ hơn chục năm với tôi.
Nhẹ như nhạc phẩm bất hủ của ông vang lên mỗi mùa Giáng sinh, kể cả dịp Giáng sinh năm nay 2021, khi ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng vốn cũng là cư dân ngơ Con Mắt – Ông Tạ gần đó cất giọng như thảng thốt :
- “Bài thánh ca buồn”.
Nhạc phẩm ấy nhẹ lắm, trầm lặng lắm – như t́nh cảm rón rén của một cậu thiếu niên với một cô bạn gái ḿnh để ư mà măi nhiều năm sau, h́nh như khi cô bạn xưa đă sang sông, nó mới dám cất lên, nhớ lại kỷ niệm :
- “Bài thánh ca đó c̣n nhớ không em?”.
“Chuyện xưa kể rằng”:
- Năm 1958, có một thiếu niên tên Nguyễn Tuấn Khanh 14 tuổi, sinh năm 1944 tại Hà Nội, lớn lên ở Đà Lạt sau cuộc di cư 1954. 14 tuổi, nó bị mê đắm bởi một cô gái “má đỏ, môi hồng” của thành phố Đà Lạt sương mù.
T́nh cảm ấy khiến nó cứ lẽo đẽo theo cô trên đường đến nhà thờ.
- “ Trái tim của một gă trai mới lớn thổn thức đến tội nghiệp nhưng tôi lại không có can đảm để làm quen ”.
14 năm sau, khi cô bé “má đỏ, môi hồng” có lẽ đă yên bề gia thất với ai đó, thằng bé xưa lúc ấy đă là nhạc sĩ Nguyễn Vũ mới dám nhớ lại :
- “Trong một lần tan lễ, trời mưa rất to, cả hai chúng tôi đành phải trú mưa chung dưới một hiên nhà. Lúc ấy cũng đúng ngày lễ Giáng sinh. Cô ấy và tôi đều im lặng.
Khi nghe ca khúc “Silent night” (Đêm thánh vô cùng) phát ra từ nhà bên cạnh, cô ấy lẩm nhẩm hát theo.
H́nh ảnh ấy cứ ám ảnh tôi măi cho đến nhiều năm sau đó, vào năm 1972, tôi đă viết lại cảm xúc của ḿnh”. Và “Bài thánh ca buồn” ra đời.
Ngay lập tức, hăng đĩa Sơn Ca nổi tiếng khi ấy đă mua độc quyền nhạc phẩm này và ca sĩ Thái Châu là người đầu tiên thể hiện… ; là một trong những nhạc phẩm Giáng sinh được nhiều thế hệ yêu thích cho đến nay
Nhạc phẩm ấy – như bao nhạc phẩm của ông xem chừng ẩn giấu nhẹ nhàng nét lăng mạn Hà Nội, nơi ông sinh ra; lồng trong màu xanh thăm thẳm Đà Lạt tuổi thiếu niên và cả nét thổn thức xóm đạo Ông Tạ, nơi ông thành danh :
- “ Rồi những đêm thế trần đón Noel
– Lang thang qua miền giáo đường dấu yêu
– Tiếng thánh ca ngày xưa vang đêm tối
– Nhớ quá đi thôi giọng hát ai buồn…”.
Thổn thức ấy là thật, bởi chính ông cũng cho rằng :
- “ Chết lên chết xuống v́ t́nh th́ viết nhạc mới hay” dù cái “chết lên chết xuống” ấy hầu như ông chỉ lặng lẽ giữ cho riêng ḿnh, cho đến một hôm, bất chợt nó bật ra:
Gia đ́nh cậu nhiều người theo đuổi âm nhạc. Riêng cậu, từ nhỏ đă chơi được nhiều nhạc cụ như guitar, harmonica, piano… và hát cho Ban Thiếu nhi của Đài Phát thanh Đà Lạt; năm 12 tuổi (1956) giải nhất đơn ca thiếu nhi của đài.
Nhưng vài năm sau, gia đ́nh cậu vào Sài G̣n, ở vùng Ông Tạ khi vùng này đang c̣n nhà tranh mái lá, măi cho tới nay.
Và cũng không theo nghiệp hát mà thành nhạc sĩ năm 22 tuổi. Những bản nhạc đầu tay của ông :
Ít năm trước, ông mở lớp dạy đàn, dạy nhạc cho thanh thiếu niên Ông Tạ ngay nhà ḿnh. Lớp học cũng không ồn ào, ít ai biết. Ông bảo :
- “H́nh ảnh những đứa học tṛ cặm cụi, đánh vật với những nốt nhạc như tiếp thêm sức lực cho tôi…”.
Liệu h́nh ảnh ấy có nhắc ông về một thời trẻ yêu thổn thức trong lặng thầm ? Như bao trái tim yêu Ông Tạ vốn b́nh dị cả trong yêu thương con người và cuộc sống?
B́nh dị, lặng lẽ như khi ông “phát hiện” dẫn dắt, chỉ bảo một đứa em họ của ông, chỉ kém ông ba tuổi sau cũng là một nhạc sĩ nổi tiếng :
- Nhạc sĩ Đức Huy.
Trong các sáng tác của Đức Huy, nhạc phẩm “Và con tim đă vui trở lại” là một bài hát viết trong lúc đang làm việc, vừa hát vừa đàn ghita trên chiếc tàu du lịch của Mỹ trên đảo Hawaii với tâm trạng cô đơn, và đang đọc… Thánh kinh.
Những nốt nhạc của hai anh em nhạc sĩ ấy rung lên thánh thiện, trong lành như vậy – như một góc “b́nh an dưới thế” đêm Noel xóm đạo Ông Tạ.
TƯỞNG NIỆM NHẠC SĨ ĐẠI TÁ NGUYỄN VĂN ĐÔNG (1932-2018)
TƯỞNG NIỆM NHẠC SĨ ĐẠI TÁ NGUYỄN VĂN ĐÔNG (1932-2018)
Sáng nay đọc tin tức mới biết Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, tác giả ca khúc nổi tiếng ‘Chiều mưa biên giới’ mới qua đời ở BV Chợ Rẫy ngày hôm qua 26/2/2018.
Ông sanh năm 1932, và như vậy là thọ 86 tuổi.
Những ai yêu nhạc thuộc thế hệ tôi và sau này có lẽ không ít th́ nhiều nghe đến Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông.
Ông là tác giả những ca khúc thịnh hành một thời và c̣n thịnh hành măi đến ngày nay :
- Phiên gác đêm xuân
- Chiều mưa biên giới
- Mấy dặm sơn khê
- Khi đă yêu
- Nhớ một chiều xuân
- Sắc hoa màu nhớ, v.v.
Riêng ca khúc “Chiều mưa biên giới” qua tiếng hát Thanh Tuyền th́ đă trở thành một bài ca kinh điển.
Ông là thầy dạy nhạc cho ca sĩ Thanh Tuyền.
Thật ra, nghệ danh “Thanh Tuyền” là do ông đặt cho (v́ chị ấy tên thật là Như Mai).
Ông giải thích :
- “ Thanh là cao nguyên xanh, Tuyền là suối” (Thanh Tuyền là người Đà Lạt, nơi có hồ Tuyền Lâm).
- “Thanh Tuyền” do đó có nghĩa là suối nước chảy vô tận.
Ông cũng chính là người tác hợp tiếng hát Thanh Tuyền và Chế Linh, cặp song ca làm mưa gió một thời trên sân khấu văn nghệ miền Nam trước 1975.
TƯỞNG NIỆM NHẠC SĨ ĐẠI TÁ NGUYỄN VĂN ĐÔNG (1932-2018)
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông là người con của Tây Ninh .
Gia đ́nh ông thuộc nhóm giàu có thời đó (gọi là “điền chủ”).
Ông từng theo học trường Thiếu sinh quân ở Vũng Tàu, nơi ông cũng tiếp thụ âm nhạc của các giáo sư Pháp giảng dạy.
Ông vào quân đội năm 1951, được gửi đi huấn luyện chỉ huy quân đội ở Hà Nội ,
- 1954 trở thành tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn trọng pháo 553 khi mới 24 tuổi
- 1957 đi học ở Hawaii
- 1972 được thăng chức đại tá và chuyển sang làm Chánh Văn pḥng cho Tổng Tham mưu Phó đến năm 1975.
Sau 1975, ông bị bắt đi tù cải tạo 10 năm trời.
Ông tâm sự những ngày tháng sau tù :
- “ Sau tháng 4/1975, tôi đi học tập " cải tạo " 10 năm. Khi trở về nhà, tôi mang theo nhiều chứng bệnh trầm trọng, tinh thần và thể xác bị suy sụp.
Suốt 30 năm qua, tôi không tham gia bất cứ hoạt động nào ở trong nước cũng như ngoài nước.”
Sau khi ra tù, dù có thể đi Mỹ theo diện HO nhưng ông chọn ở lại Việt Nam cho đến ngày qua đời.
Theo Nhạc sĩ Trần Quốc Bảo, sau 1975 gia đ́nh ông sống nhờ quán bán bánh ḿ và gị chả (hiệu Nhiên Hương) tại nhà đường Nguyễn Trọng Tuyển, Phú Nhuận.
Hai ông bà nhạc sĩ không có con. Ông được đồng nghiệp và bạn bè yêu quí.
Như là lời nói hộ cho nhiều nghệ sĩ, Nhạc sĩ Trần Quốc Bảo nhận xét rằng :
- “ Với thầy Đông, tôi chỉ biết nói rằng tôi kính phục ông nhất hai điểm, đó là tài hoa và tư cách.”
Tài hoa . Đó là chữ rất đúng để mô tả sự nghiệp âm nhạc của ông.
Chẳng hạn như ca khúc “Chiều mưa biên giới ” .
Trong một bài trả lời phỏng vấn Nhạc sĩ Trường Kỳ, ông cho biết hoàn cảnh ra đời của bài Chiều mưa biên giới như sau :
- “ Bản nhạc Chiều Mưa Biên Giới được viết vào năm 1956. Khi ấy tôi là trung úy trưởng pḥng hành quân của chiến khu Đồng Tháp Mười là người có trách nhiệm đề ra những phương án tác chiến.
Lần đó tôi dẫn đầu một nhóm biệt kích bí mật đi điều nghiên chiến trường dọc theo biên giới Miên-Việt và Đồng Tháp Mười.
Trên đường về, anh em chúng tôi lâm vào cảnh trời chiều gió lộng, mưa gào như vuốt mặt.
Giữa cánh đồng hoang vắng tiêu sơ, lối vào tiền đồn th́ xa xôi, thoáng ẩn hiện những nóc tháp canh mờ nhạt ở cuối chân trời.
Và từng chập gió buốt kéo về như muối sát vào thịt da. Từ trong cảnh ấy, tận đáy ḷng ḿnh đă nghe nẩy lên những cung bậc rung cảm, những trường canh đầu tiên buồn bă cho bài Chiều Mưa Biên Giới anh đi về đâu…”
Một ca khúc khác ít người biết đến là “Hải ngoại thương ca”.
Thoạt đầu người ta tưởng đây là sáng tác cho "Việt kiều ", nhưng không phải .
Ông sáng tác ca khúc này vào năm 1963 , nhân vụ đảo chánh ở miền Nam và tướng Nguyễn Chánh Thi phải trốn ra ngoại quốc: “…
Đến năm 1963, có một cuộc đảo chánh lần thứ nh́ khiến chế độ của ông Ngô Đ́nh Diệm bị suy sụp.. Lúc đó mọi người lên tiếng kêu gọi những anh em ly tán sau cuộc đảo chánh lằn thứ nhất đang ở ngọai quốc trở về.
Lúc đó tôi thấy một số bạn bè của tôi vẫn c̣n do dự chưa muốn trở về .
Điều này nó thôi thúc tôi viết bài Hải Ngoạii Thương Ca, có ư nói bây giờ trong nước cũng vui vẻ…”.
Bài này măi đến 2004 mới được tŕnh diễn. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông tâm sự :
”Năm 2004 bài Hải Ngọai Thương Ca được đưa ra ngoài Hà Nội duyệt. Th́ ngoài Hà Nội mới hỏi tôi hỏi :
- Có phải bài Hải Ngoại Thương Ca Này mới viết không mà sao nó sát với đề tài của thời cuộc này quá vậy?. Nó hay đấy .
Đấy là lời của một vị lănh đạo của cục Văn Hóa Nghệ Thuật.”
Mấy năm gần đây, nhiều văn nghệ sĩ đă lần lượt ra đi về miền miên viễn.
Những "cây đại thụ " như :
- Phạm Duy
- Trịnh Công Sơn, đến những nhạc sĩ lừng danh như
- Thanh Sơn
- Hoài Linh
- Lê Trọng Nguyễn
- Anh Việt Thu
- Trần Trịnh
- Nhật Ngân,
- Tùng Giang
- Nguyễn Ánh 9
- Nguyễn Hiền
- Huỳnh Anh, v.v. đă khuất bóng.
Bây giờ nh́n lại thời 20 năm văn nghệ miền Nam tôi thấy kinh ngạc về tính phong phú và đa dạng của nên văn nghệ đó.
Chỉ nói riêng về âm nhạc thôi, 20 năm đó đă để lại cho nền văn hoá dân tộc nhiều dấu ấn q[b][size=4][color=green][i]ua những ca khúc đầy tính nhân bản.
Có thể nói tính nhân bản trong âm nhạc là đặc điểm phân biệt rất rơ giữa văn nghệ miền Nam và miền Bắc trong thời chiến.
Điển h́nh như Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, là một quân nhân trong thời chiến, nhưng nhạc của ông th́ không thấy h́nh súng đạn, lửa khói hay màu máu đâu cả, thay vào đó là những lời ca thật đẹp, đầy chất lăng mạn, thấm đẫm t́nh quê hương và nhân bản.
TƯỞNG NIỆM NHẠC SĨ ĐẠI TÁ NGUYỄN VĂN ĐÔNG (1932-2018)
Nguyễn Văn Đông là người lính tác chiến , nhưng ông “tay súng, tay đàn”, và sự nghiệp của ông trong lănh vực âm nhạc được nhiều người thán phục, dù chỉ trong thời gian ngắnngủi 20 năm dưới chế độ Việt Nam Cộng Ḥa.
Ông viết được gần 100 bài hát thuộc nhiều thể loại :
Trong thời gian theo học tại trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu, ông được học nhạc với
một nhạc trưởng tài ba người Pháp nên có kiến thức vững vàng về nhạc lư, biết sử dụng nhiều nhạc cụ.
Ông trở thành nhạc sĩ trong Ban Nhạc của trường TSQ, gồm toàn các nhạc sĩ thiếu niên.
Tài năng thiên phú của ông về âm nhạc đă phát triển mạnh trong môi trường sôi động tại trường TSQ, kết quả ông đă sáng tác được những nhạc phẩm có giá trị được nhà trường công nhận như :
- Thiếu Sinh Quân Hành Khúc
- Tạm Biệt Mùa Hè, khi tuổi đời c̣n rất trẻ (16 tuổi).
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông c̣n thể hiện tài năng trong nhiều lănh vực khác của âm nhạc.
Ông có tài khám phá ra các tài năng trẻ, giúp họ có cơ hội phát triển nghề nghiệp, và sớm thành danh như các ca sĩ :
- Giao Linh
- Thanh Tuyền
- Hà Thanh…
Sau này , ca sĩ Hà Thanh trở thành người hát nhạc của ông thành công nhất ; tên tuổi của người nhạc sĩ sáng tác Nguyễn Văn Đông của miền Nam đă gắn liền với người ca sĩ mang tên Hà Thanh của đất Thần Kinh (Huế).
Đúng là một kết hợp nghệ thuật kỳ thú.
Năm xưa, khi Hà Thanh mới vào Sài G̣n tŕnh diễn, nếu cô không được nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông chú ư đến giọng ca thiên phú, và bỏ công khuyến khích cô tiếp tục việc ca hát tại thủ đô Sài G̣n, hẳn cô đă không có cơ hội phát triển tài năng, để trở thành một trong những danh ca được nhiều người mến mộ sau này.
Vào thập niên 60, quốc gia non trẻ Việt Nam Cộng Ḥa mới được thành lập, đời sống người dân c̣n nhiều khó khăn .
Chính phủ VNCH đă sớm biết sử dụng âm nhạc như một vũ khí “an dân” , dùng các h́nh thức nghệ thuật như :
- Ca , vũ, nhạc, kịch để đem niềm vui đến cho người dân, giúp họ từng bước ổn định đời sống, nhất là người dân miền Bắc phải rời bỏ quê nhà chạy nạn cộng sản ở miền Nam xa lạ.
Đoàn nghệ thuật V́ Dân do nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông làm trưởng đoàn ra đời với mục đích này, gồm nhiều nghệ sĩ nổi tiếng như :
- Hăng dĩa Continental và Sơn Ca do ông làm giám đốc đă thực hiện các chương tŕnh nhạc đặc biệt (albums ca nhạc) riêng cho từng ca sĩ, giúp làm nên tên tuổi của nhiều ca sĩ VNCH vào thập niên 60 và 70 như :
Chẳng những hoạt động trong lănh vực tân nhạc, ông c̣n là cha đẻ của một thể loại nhạc mới, tân cổ giao duyên, được nhiều người ưa chuộng.
Ông cũng là người soạn nhạc nền cho nhiều vở tuồng cải lương nổi tiếng, dưới tên Đông Phương Tử.
Chính sách biết dùng người tài vào đúng lănh vực của chính phủ VNCH đă giúp ông phát triển tài năng tối đa.
Tài sáng tác nhạc của ông cống hiến cho đời nhiều nhạc phẩm giá tri, tài tổ chức và lănh đạo của ông trong hoạt động ca nhạc đă giúp chính phủ cộng ḥa thực hiện được những công tŕnh ích quốc, lợi dân trong hoàn cảnh khó khăn của đất nước sau hiệp định Geneve, vừa giữ nước, vừa dựng nước.
Suốt 20 năm khói lửa tại miền Nam Việt Nam, biết bao nhiêu thanh niên phải “xếp bút nghiên theo nghiệp đao binh”.
Chàng tuổi trẻ Nguyễn Văn Đông cũng không ngoại lệ.
Ông tự nguyện chọn nghiệp lính, và dù thành công lớn trong lănh vực âm nhạc, ông
khẳng định “ âm nhạc chỉ là nghề tay trái, binh nghiệp mới là nghề tay phải ” của ông.
Lư do khiến ông thành người lính chuyên nghiệp chính là ḷng yêu nước tha thiết.
Ông yêu mảnh đất nơi ông sinh ra và trưởng thành, muốn bảo vệ nó, để người dân được sống an vui, hạnh phúc.
T́nh yêu quê hương lớn hơn tất cả mọi thứ t́nh cảm khác, ông trân trọng đặt nó lên hàng đầu, không suy nghĩ thiệt hơn, không v́ danh, hay lợi cho cá nhân.
Những h́nh ảnh đẹp và hùng của người chiến sĩ VNCH được mô tả giống như h́nh ảnh hào hùng của người tráng sĩ trong văn học Việt Nam ngày xưa, đă trở thành hành trang cho nhiều thanh niên miền Nam bước vào cuộc chiến ; và rất nhiều người đă ra đi, không trở về...
Đời lính gian lao, khổ nhọc, nhưng người lính chấp nhận hy sinh cho quê hương, cho dân tộc.
Những bản nhạc của Nguyễn Văn Đông c̣n nói lên nỗi đau của người dân Việt Nam trong hoàn cảnh đất nước chia cắt, và có thể tệ hơn nữa sẽ là ngày... mất nước như dân tộc Hời ngày xưa :
Cộng sản miền Bắc thực hiện cuộc chiến xâm lược miền Nam trong suốt 20 năm (1955-1975) đă khiến cả nước suy kiệt, cả triệu quân dân hai miền mất mạng, tài nguyên đất nước bị phá hủy, dẫn đến t́nh trạng Việt Nam phải rơi vào ṿng nô lệ Tàu cộng như ngày nay.
Nh́n vào t́nh trạng [i]“hèn với giặc, ác với dân” [i] của Đảng CS cầm quyền bây giờ th́ ngày dân tộc Việt Nam mất nước như dân tộc Hời ngày xưa có lẽ cũng không c̣n xa.
Tuy nhiên mộng ước “giành lấy quê hương” của người lính Nguyễn Văn Đông, cũng như của bao chàng trai đất Việt tại miền Nam VN đă không thành hiện thực.
Ngày 30-4-1975, Việt Nam Cộng Ḥa sụp đổ, nước mất, nhà tan.
Sau đó giặc cộng đă giáng những đ̣n trả thù tàn độc lên quân, dân miền Nam.
Là một sĩ quan cao cấp của quân đội Việt Nam Cộng Ḥa, lại không chọn di tản khi đất nước rơi vào tay giặc, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, cũng như bao quân, dân, cán chính của chế độ Việt Nam Cộng Ḥa, bị Việt Cộng giam tù và đày đọa nhiều năm trong các trại “tập trung cải tạo” .
Ông bị nhốt 10 năm, thời gian đầu tại trại tù Suối Máu, và những năm sau này, ông bị tách khỏi trại tù " cải tạo " , bị đưa về giam tại khám Chí Ḥa, nơi giam giữ các tù nhân chính trị đặc biệt.
Thời gian dài trong tù, do chính sách đối xử nghiệt ngă với các tù nhân “nặng tội” (theo quan điểm của CS, làm nhạc tuyên truyền thúc đẩy quần chúng, lính tráng chống lại chúng là mang tội rất nặng), do thiếu ăn, thiếu thuốc trị bệnh, ông mắc nhiều bệnh trầm trọng, nên khi được thả về năm 1985 , ông như một phế nhân, không đi đứng được.
VC chẳng nhân đạo ǵ khi thả ông “sớm” như vậy, v́ chúng nghĩ người nhà nhận ông về, chỉ để đem ông đi chôn mà thôi !
Tuy nhiên như một phép lạ, ông từ từ sống trở lại, có lẽ nhờ ư chí vượt lên mạnh mẽ, và nhất là nhờ t́nh yêu thương và sự chăm sóc tận t́nh của người vợ hiền.
Bà chung thủy chờ đợi ông 10 năm, và ngày ông trở về, trong hạnh phúc đoàn viên c̣n có nỗi đau phải chiến đấu giành giựt mạng sống cho ông.
Bài hát “Về Mái Nhà Xưa” ông viết nhiều năm về trước, đă như một lời tiên tri cho ngày về thê thảm của các tù nhân “cải tạo”:
Tuy được về với gia đ́nh, nhưng ông đă quyết định không xin đi định cư tại Hoa Kỳ theo chương tŕnh “Ra Đi Có Trật Tự” [b][size=4] dành cho các cựu tù nhân [/siz]/b]“cải tạo” (c̣n được gọi là chương tŕnh H.O.).
Nhiều người thắc mắc tại sao ông không xin đi Mỹ tỵ nạn, để thoát khỏi cái nhà tù lớn, xă hội VN thời cộng sản, sau nhiều năm bị đày đọa trong nhà tù nhỏ (các trại tù), nơi ông tưởng đă bỏ thây, và không có ngày về.
Có người c̣n phán đoán đây là một quyết định sai lầm, khiến bản thân ông và gia đ́nh phải chịu nhiều hệ lụy từ khi ra khỏi tù, cho đến ngày ông ra đi vĩnh viễn :
- Mất tự do
- Mất cơ hội sáng tác, bị công an theo dơi, hoạnh họe…
Ông không t́m được nguồn cảm hứng sáng tác, và không c̣n hoàn cảnh sáng tác thuận lợi như ngày xưa, trước 1975.
Điều đó cũng dễ hiểu, v́ đất nước đă đổi chủ, và ông như bao con dân của Việt Nam Cộng Ḥa thuộc “bên thua cuộc” !
Ông đă phải thú nhận :
- “ Tôi chỉ tiếc đời người ngắn ngủi mà tôi đă phí phạm quăng thời gian dài 30 năm. Thật lấy làm tiếc!”
Nhưng lư do nào khiến người nhạc sĩ tài hoa chọn sống thầm lặng, để tài năng bị “thui chột” cùng năm tháng, để nhiều tác phẩm lừng danh, những đứa con tinh thần mà ông coi là có giá trị nghệ thuật đă bị “vùi dập”, bị “kỳ thị”, và thậm chí cho đến ngày ông nhắm mắt, cũng chưa được phép phổ biến trên quê hương Việt Nam “thống nhất” ?
Lư do gần là vấn đề sức khỏe suy sụp sau nhiều năm bị đày đọa trong trại tù cộng sản. Ông mang rất nhiều bệnh trầm trọng, khiến ông và người vợ hiền luôn phải tranh đấu khó nhọc từng ngày, để giành lấy mạng sống.
Một người đă không đủ sức khỏe, nghĩ ḿnh không c̣n sống được bao lâu nữa, th́ c̣n hứng thú ǵ để xây lại cuộc sống mới, nơi xứ lạ quê người ?
Ông cũng không có con cái, không có áp lực phải ra đi v́ tương lai của con, của cháu, nên đă chấp nhận sống phần đời c̣n lại tại quê nhà trong thầm lặng, nhẫn nhục, bên người vợ hiền; giúp đỡ những thương phế binh VNCH, chiến hữu ngày xưa của ông, trong phạm vi có thể.
Đây là một quyết định khó khăn, không phải ai cũng thực hiện được.
Lư do sâu xa có lẽ chính là ḷng yêu quê hương :
-Ông thực sự muốn sống và chết nơi quê hương, một miền đất thân yêu mà ông đă dành hết tuổi thanh xuân và cả cuộc đời ḿnh để cống hiến và phục vụ.
Ca sĩ Thanh Tuyền cho biết :
- “Chú nói với tôi rằng chú không muốn bon chen, chỉ muốn sống tại quê nhà. Lẽ ra chú đă có thể đi Mỹ theo diện H.O. nhưng chú đă chọn chết trên quê hương.”
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.