Midway 1969: Một nguyên thủ nhỏ nước nhưng không nhỏ tầm vóc
Sáng tháng 6/1969, trên hòn đảo Midway giữa Thái Bình Dương, chiếc Không Lực Một của Hoa Kỳ hạ cánh trong tiếng gió mặn và mùi xăng phản lực. Trên thảm đỏ trải vội dưới trời biển xám, Tổng Thống Richard Nixon bước nhanh ra tận chân cầu thang đón vị quốc khách đặc biệt: Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu.
Sau nghi thức chào cờ, hai vị nguyên thủ sánh vai duyệt hàng quân danh dự Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Hình ảnh ấy, với nhiều người Việt miền Nam, không chỉ là lễ tân ngoại giao mà là biểu tượng: một quốc gia nhỏ bé đứng ngang hàng, đàng hoàng, giữa đồng minh hùng mạnh nhất thế giới. Nguyễn Văn Thiệu – vị Trung tướng Tổng tư lệnh Quân lực VNCH – đi những bước dứt khoát, vai thẳng, mặt ngẩng cao. Có người kể lại, ông bước nhanh đến mức Tổng Thống Nixon cũng phải vội vã rảo chân cho kịp.
Đàm phán rút quân và tiếng cười phá tan không khí căng thẳng
Cuộc họp thượng đỉnh đầu tiên tại Midway xoay quanh một chủ đề then chốt: Hoa Kỳ sẽ rút quân dần khỏi miền Nam Việt Nam như thế nào. Washington muốn “Việt Nam hóa chiến tranh”: chuyển giao trách nhiệm chiến đấu cho Quân lực VNCH, song song với việc mở Hội nghị Paris để tìm một lối thoát ngoại giao “trong danh dự”. Đổi lại, Hoa Kỳ hứa huấn luyện, trang bị vũ khí tối tân hơn cho miền Nam.
Những ngày thương lượng đó, bởi vậy, đầy căng thẳng. Nhưng khi ra trước cử tọa gồm các chính khách và nhà ngoại giao hai nước, Tổng Thống Thiệu bất ngờ phá tan bầu không khí nặng nề bằng một câu nói dí dỏm: “Tôi hy vọng Ngài Tổng Thống hiểu được tiếng Anh của tôi”. Nixon bật cười, cả hội trường cũng cười theo. Sau này nhiều người nhắc lại, đó là khoảnh khắc cho thấy tài ứng xử ngoại giao tinh tế và sự tự tin của một vị nguyên thủ đến từ một quốc gia đang oằn mình trong chiến tranh nhưng không hề tự ti.
San Clemente 1973: Hiệp định Paris và sợi dây trói miền Nam
Ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris được ký, và chỉ ít lâu sau, ngày 2/4/1973, Nixon và Thiệu gặp nhau lần thứ hai tại San Clemente, miền Nam California. Trên bờ biển nắng vàng đó, người ta nói nhiều đến một “cuộc rút quân hoàn mỹ” của Hoa Kỳ khỏi Việt Nam. Trên giấy tờ, VNCH được bảo đảm tiếp tục nhận viện trợ quân sự, kinh tế; trên thực tế, đó là bước cuối cùng trong ván cờ mà miền Nam bị đặt vào thế đơn độc.
Tổng Thống Thiệu hiểu rất rõ: Hiệp định Paris là một thỏa thuận bất bình đẳng. Quân đội Hoa Kỳ rút đi, quân Bắc Việt vẫn còn nguyên tại miền Nam; việc giám sát, kiểm soát hầu như trên danh nghĩa. Ông từng cố gắng chống lại, nhiều lần từ chối ký, nhưng sức ép của Washington – với những toan tính toàn cầu, với những cuộc bắt tay đã diễn ra ở Bắc Kinh – quá lớn. Việt Nam Cộng Hòa rốt cuộc chỉ là một quân cờ trên bàn cờ thế giới.
“Bốn không” và sự ngoan cường của một quốc gia bị ép vào chân tường
Trong thế bị trói tay, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu vẫn tuyên bố một lập trường cứng rắn mà lịch sử gọi là “chính sách bốn không”:
Không thương lượng với cộng sản khi chúng còn giữ nguyên mưu đồ xâm lăng.
Không liên hiệp với cộng sản dưới bất kỳ hình thức nào.
Không chấp nhận để các tổ chức cộng sản hay đối lập tay sai hoạt động hợp pháp trong lãnh thổ VNCH.
Không để lọt vào tay cộng sản bất cứ lãnh thổ, tiền đồn nào.
Chính lập trường kiên quyết ấy khiến Hà Nội luôn coi ông là chướng ngại lớn nhất trên con đường nuốt trọn miền Nam. Giữa tháng 4/1975, phía Bắc Việt công khai tuyên bố không thương thuyết nếu ông còn tại vị. Trong nước, các nhóm đối lập, lực lượng thứ ba, thành phần nằm vùng vốn được nuôi dưỡng từ lâu, thi nhau tạo áp lực. Trước sức ép chồng chéo đó, cùng bối cảnh chiến trường nặng nề và đồng minh đã quay lưng, ông buộc phải chấp nhận rời chức vụ trong nước mắt.
Một đồng minh bị bỏ rơi và nỗi đau còn đó
Sau Hiệp định Paris, dòng viện trợ quân sự Hoa Kỳ cho VNCH dần bị cắt giảm, rồi tắc nghẽn hẳn khi Quốc Hội Mỹ đổi màu. Từ đầu năm 1975, quân đội miền Nam phải chiến đấu với xăng dầu, đạn dược tính bằng từng ngày, trong khi bên kia biên giới, Bắc Việt nhận được sự hỗ trợ dồi dào từ khối cộng sản. Cán cân chiến tranh nghiêng hẳn.
Không chỉ là chuyện súng đạn. Khi những chiếc trực thăng cuối cùng cất lên khỏi nóc tòa Đại sứ Mỹ, cả một nền cộng hòa non trẻ – với những nỗ lực xây dựng giáo dục, y tế, cải cách điền địa như chương trình “Người cày có ruộng”, với những bệnh viện “Vì Dân” dành cho người nghèo – bị xóa khỏi bản đồ chính trị. Người ở lại đối diện với trại cải tạo, kinh tế mới, vượt biển. Người ra đi mang theo trong tim hình ảnh một miền Nam dù còn dang dở nhưng đã cố gắng bước đi trên con đường tự do, dân chủ.
Nguyễn Văn Thiệu – từ nghị trường quốc tế đến ký ức người Việt lưu vong
Có thể tranh cãi về quyết sách này, lựa chọn kia, nhưng với rất nhiều người từng sống dưới lá cờ vàng, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu là biểu tượng của một nguyên thủ biết giữ tư thế quốc gia. Ông nói tiếng Anh và tiếng Pháp lưu loát, tranh luận ngang hàng với các nhà lãnh đạo thế giới. Hình ảnh Nixon khẽ nghiêng mình chào trước khi bước vào đối thoại không phải là chi tiết lễ tân vô nghĩa, mà là sự thừa nhận vị thế của VNCH trong khối các nước tự do.
Câu nói nổi tiếng “Đừng nghe những gì cộng sản nói, hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm” đã vượt khỏi thời cuộc, trở thành lời nhắc nhở xuyên thế hệ. Nó không gieo thù hận, mà cảnh báo về một hệ thống luôn dùng mỹ từ để che phủ bạo lực và dối trá.
So sánh để mà tiếc, để mà nhớ
Ngày nay, mỗi lần nhìn thấy những hình ảnh lãnh đạo đương nhiệm lúng túng đọc diễn văn, cúi đầu đi cửa sau trong các chuyến công du, không ít người Việt hải ngoại chạnh lòng nhớ lại những ngày phái đoàn VNCH được tiếp đón đàng hoàng trên thảm đỏ, có quốc ca, quốc kỳ bay phần phật trong gió. Đó không chỉ là khác biệt về nghi thức; đó là khác biệt về phẩm giá.
Dưới chế độ mới, bao nhiêu nhà cửa đất đai, chùa chiền, nhà thờ bị thu hồi một cách thô bạo; bao nhiêu tiếng nói khác biệt bị bịt miệng; bao nhiêu người dân hiền lành bị cuốn vào vòng oan khuất. Người ta buộc phải cúi đầu trong khi kẻ nắm quyền thì giàu lên từ tài sản chung của quốc gia. Trong bối cảnh ấy, ký ức về một miền Nam pháp quyền, nơi người dân có quyền sở hữu, có hệ thống giáo dục – y tế tương đối tử tế, lại càng trở nên day dứt.
Di sản tinh thần của một nền Cộng Hòa đã mất
Đối với nhiều người Việt lưu vong, những bản nhạc như “Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ” hay “Bài Ca Chiến Thắng” không chỉ là giai điệu, mà là hơi thở của một thời tuổi trẻ được lớn lên trong bầu khí tự do, mang trên vai trách nhiệm bảo vệ quê hương. Họ nhớ đến những người lính VNCH đã ngã xuống ngoài mặt trận, nhớ đến những lớp học, bệnh viện, công sở… phục vụ một xã hội tuy chưa hoàn hảo nhưng hướng đến công bằng và bác ái.
Trong nỗi nhớ đó, hình bóng Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và Đệ Nhất Phu Nhân Nguyễn Thị Mai Anh hiện lên như hai biểu tượng của một thời đã xa: một vị tổng thống quân nhân kiên nghị, và một phu nhân dành nhiều tâm lực cho công tác xã hội, từ thiện. Họ không phải là thần thánh – lịch sử nào cũng có những sai lầm – nhưng họ đã cố gắng sống và làm việc như những người đứng mũi chịu sào cho một quốc gia đang tìm đường vươn lên giữa chiến tranh lạnh.
Nhìn lại để gìn giữ một phần linh hồn Việt Nam
Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày lá cờ vàng bị kéo xuống ở Dinh Độc Lập. Thế nhưng, mỗi khi nhắc đến hai cái bắt tay Nixon – Thiệu, nhiều người vẫn thấy tim mình nhói lên: đó là khoảnh khắc Việt Nam Cộng Hòa được nhìn nhận như một đồng minh bình đẳng, một quốc gia có danh dự. Sau đó là cả một chuỗi thỏa hiệp, đảo chiều, toan tính địa chính trị… đã đẩy miền Nam vào bi kịch.
Viết lại những câu chuyện ấy không phải để nuôi dưỡng hận thù, mà để nhắc chúng ta rằng: đã từng có một nền Cộng Hòa, đã từng có những người lãnh đạo cố giữ cho dân mình được sống trong khuôn khổ luật pháp và tự do. Và chừng nào ký ức về họ còn được truyền lại, chừng đó người Việt vẫn còn quyền hy vọng một ngày kia, quê hương mình lại có một vị nguyên thủ biết ngẩng cao đầu trước thế giới như Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu năm nào trên đảo Midway gió lộng.