- Xuất thân từ một kẻ lưu manh suốt ngày lêu lổng, sống nhờ vào nghề bạc bịp thế nhưng, chỉ một vài năm sau đó, Tôn Điện Anh trở thành thống lĩnh của một đội quân hàng vạn người, bằng vai phải lứa với những quân phiệt khét tiếng nhất thời bấy giờ.
Tuy nhiên, có lẽ ít người biết rằng, sự thành công như một kỳ tích ấy của họ Tôn lại nhờ vào một giấc mơ được thần kiếm vô cùng hoang đường và mê tín của y…
1. Tôn Điện Anh tên tự là Khôi Nguyên vốn chỉ là một kẻ lưu manh, sống nhờ vào nghề cướp bóc, bài bạc sau đó nhờ việc đào mộ của Càn Long và Từ Hy ở Lăng Thanh Đông mà trở nên nổi tiếng.
Tôn vóc người cao lớn, tai to mặt lớn, đôi mắt dài, nhỏ và khi nào cũng đỏ ngầu như gà chọi. Do trên mặt Tôn đầy những vết rỗ nên người đương thời thường gọi Tôn Điện Anh là Tôn “Mặt rỗ”, những người thân thiết xu nịnh Tôn thì gọi ông ta là Tôn Lão Điện.
Trong cuộc đại chiến Trung Nguyên giữa các thế lực quân phiệt nhằm chống lại Tưởng Giới Thạch, Phùng Ngọc Tường khi gặp Tôn Điện Anh đã nắm tay Tôn nói: “Khôi Nguyên lão đệ, ta bái phục tinh thần cách mạng của ông.
Trong việc chống lại nhà Mãn Thanh, chúng ta mỗi người có một cách làm riêng. Ta đuổi Phổ Nghi ra khỏi Hoàng cung còn ông thì đào mộ của tổ tiên chúng. Một đằng là sống, một đằng là chết. Thật thú vị!”.
Tôn Điện Anh nghe Phùng Ngọc Tường nói, cảm thấy rất xấu hổ, chẳng biết phải nói lại thế nào.
Tôn Điện Anh sinh ra trong một gia đình nông dân chuyên nghề chăn nuôi ngựa ở huyện Vĩnh Thành, Hà Nam. Từ nhỏ Tôn đã mồ côi cha.
Do không có cha cai quản, dạy dỗ, lại thêm gia đình chiều chuộng, từ nhỏ, Tôn đã thường xuyên ra vào các sòng bạc, giao du với bọn giang hồ, đỏ đen, lấy việc đánh bạc làm nghề nghiệp kiếm sống.
Tôn bỏ ra rất nhiều thời gian nghiên cứu các loại bài vì vậy Tôn đánh bài rất giỏi. Bất luận là loại bài nào, chỉ cần liếc mắt qua, không cần nhìn mặt bài, Tôn Điện Anh cũng biết đó là quân gì.
Tôn sử dụng ngón nghề này, giao du rất rộng với các ông chủ lớn trong vùng. Việc Tôn sau này phất lên, trở thành một quân phiệt khét tiếng dưới thời Tưởng Giới Thạch cũng là nhờ có những mối quan hệ đặc biệt này.
Tôn Điện Anh tuy nhờ vào ngón nghề trong cờ bạc kiếm được rất nhiều tiền tuy nhiên, không hề cảm thấy thỏa mãn. Tôn nghĩ rằng, làm người không chỉ cần tiền mà cần phải có quyền lực thì mới có thể thoải mái, tự do muốn làm gì thì làm. Vì thế, Tôn quyết định bắt đầu sự nghiệp tìm kiếm quyền lực.
Thời bấy giờ ở Dự Tây có một hội tôn giáo có tên là Miếu Đạo Hội. Miếu Đạo Hội được thành lập từ cuối thời nhà Thanh.
Tôn Điện Anh
Tổ sử sáng lập của đạo hội này gồm có 3 người, một người họ Lưu, một người họ Trương và một người được gọi là bà Bạch. Lưu là người huyện Nam Củng, Hà Nam, tự xưng là Khương Thái Công (Khương Tử Nha) chuyển thế, xuống trần gian để phổ độ chúng sinh. Lưu đi khắp nơi thu thập đệ tử.
Lúc bấy giờ, quân phiệt nổi lên khắp nơi, đánh giết lẫn nhau khiến đời sống nhân dân vô cùng khốn khổ. Nông dân ở Dự Tây lại bị quan lại áp bức, bóc lột nên càng thêm điêu đứng.
Vì vậy, Miếu Đạo Hội nhân vào cơ hội này lừa phỉnh nông dân, thu nạp họ làm hội viên của mình. Nhờ đó, thế lực của Miếu Đạo Hội ngày một phát triển rộng lớn hơn.
Tôn Điện Anh thấy Miếu Đạo Hội là một thế lực có tiềm năng do vậy quyết định tới đầu quân cho Lý Phượng Triều, người đứng đầu Miếu Đạo Hội lúc bấy giờ, bái Lý làm thầy.
Miếu Đạo Hội có tục lệ, mỗi khi có người gia nhập hội thì thầy sẽ viết thần chú của hội vào tờ giấy vàng để đệ tử thờ cúng như một thánh vật. Sau nhi nhận Tôn Điện Anh làm đệ tử, Lý Triều Phong lập hương án. Tôn Điện Anh chuẩn bị sẵn giấy vàng đặt lên hương án.
Lý Triều Phong viết thần chú của Miếu Đạo Hội lên giấy rồi đưa cho Tôn Điện Anh. Kể từ đó, Tôn Điện Anh chính thức trở thành một thành viên của Miếu Đạo Hội. Tuy nhiên, Lý Triều Phong không hề biết rằng, Tôn Điện Anh chỉ sử dụng mình và Miếu Đạo Hội để xây dựng thế lực cho mình.
2. Do xuất thân từ giới đỏ đen, Miếu Đạo Hội càng là nơi để Tôn Điện Anh có “đất dụng võ”. Với những ngón nghề học được từ các trò lừa bịp, Tôn Điện Anh ngày càng trở thành một nhân vật quyền lực trong Miếu Đạo Hội. Sau hai năm lao tâm khổ tứ, Tôn Điện Anh cũng đã có trong tay một đội ngũ nhưng kẻ sùng đạo, sẵn sàng chết cho mình. Lúc bấy giờ, Tôn Điện Anh nghĩ đã tới lúc “bắt đầu đại nghiệp” của mình.
Một hôm, Tôn Điện Anh cho gọi tất cả đồ đệ của Miếu Đạo Hội tập trung lại và hỏi: “Hai đêm liền ta đều có cùng một giấc mơ.
Trong mơ, ta thấy Khương Thái Công gõ lên đầu ta, gọi tên ta nói trong miếu của lão gia ở Thạch Hoa Cương có một thanh kiếm ngọc gọi là Thái A Ngọc Kiếm, đây là thanh kiếm mà năm xưa Nguyên Thủy Thiên Tôn chém yêu quái, ngươi hãy mau đi lấy thanh kiếm này về, nó có thể giúp ngươi chuyển hung thành cát, gặp dữ hóa lành, có thể giúp cho đạo của ngươi có thể tung hoành thiên hạ.
Giấc mộng này đã lặp đi lặp lại liên tiếp hai lần, thật là kỳ quái. Thậm chí, lần thứ hai mơ giấc mơ này, sau khi tỉnh dậy, ta lập tức chạy tới lão gia miếu ở Thạch Hoa Cương, từ xa đã thấy ánh sáng lóe lên trong đêm.
Đi vào bên trong miếu thì mới phát hiện ra đó là ánh sáng phát ra từ một thanh bảo kiếm. Ta đã lấy kiếm, bái tạ thần linh rồi cầm kiếm về.
Hiện ta đang treo thanh kiếm trong phòng, mỗi khi trời tối, thanh kiếm trong phòng đều phát ra ánh sáng rực rỡ. Mỗi lần thanh kiếm rung phát thành tiếng, là lúc đó nhất định có người phải chết”.
Tôn Điện Anh sử dụng câu chuyện hoang đường này để mê hoặc những đồ đệ ngu muội của Miếu Đạo Hội, khiến họ càng tôn thờ và kính sợ Tôn hơn.
Sau đó ít lâu, Tôn lại lấy một cây phất trần, nói rằng đây là vật y được thần linh ban tặng. Tôn đựng “bảo kiếm” và cây phất trần trong một túi lụa màu vàng được may rất tinh xảo.
Mỗi lần đi ra ngoài, Tôn đều bắt thuộc hạ vác trên lưng một cách rất kính trọng phòng khi cần dùng tới. Không lâu sau đó, bằng những chiêu trò lừa bịp của mình, Tôn Điện Anh đã dần thay thế vai trò Miếu Đạo Hội của Lý Phượng Triều, trở thành người lãnh đạo của đạo hội này.
Tới lúc này, thanh bảo kiếm và cây phất trần càng trở thành một báu vật, biểu hiện cho quyền lực lẫn quyền năng của Tôn. Cho tới sau này, khi Tôn đã nắm trong tay một đội quân hàng vạn người, đây vẫn là hai vật “bất ly thân” của y.
Bất kể lúc nào, mỗi khi có cơ hội là Tôn lại tìm cách khoe để mọi người biết rằng Khương Thái Công đã báo mộng tặng thưởng cho y hai bảo vật quý giá đó khiến thuộc hạ vừa phải tâm phục khẩu phục vừa kính sợ về quyền năng của Tôn rồi từ đó sẵn sàng vì Tôn mà hy sinh tất cả, kể cả tính mạng của mình.
Căn cứ theo quy định của Miếu Địa Hội lúc bấy giờ, phàm là việc nhận đồ đệ, có việc hay trị bệnh đều phải bày hương án. Trong hương đường bao giờ đèn đuốc cũng sáng trưng, hương khói nghi ngút, các đệ tử quỳ lạy, tụng niệm rất đông.
Đặc biệt là những khi phải quyết định một việc gì đó quan trọng thì trong hương đường, Tôn Điện Ảnh ngồi ở một bên, mắt nhắm nghiền, miệng liên tục niệm “thần chú”. Việc đưa ra các khẩu lệnh và phán quyết là do thần linh truyền phán thông qua một đồ đệ được lựa chọn từ trước.
Trong Miếu Đạo Hội, những người chuyên làm công việc thay thế thần linh đưa ra các phán quyết được gọi là “khẩu (khẩu)”.
Trước khi trở thành người đại diện cho thần linh, những người này đều phải tắm rửa chay tịnh, đồng thời rửa miệng thật sạch, sau đó mặc bộ trang phục giống hệt Khương Thái Công. Tất các các đệ tử, ngay cả người đứng đầu như Tôn Điện Anh đều phải phủ phục trước các “đại diện thần thánh” này.
Những người chuyên làm công việc thay thế thần linh
Thực tế, những người làm nhiệm vụ này đều là tay chân đắc lực của Tôn Điện Anh và bị y chi phối chức chẳng có thần thánh nào hiển linh cả. Tuy nhiên, các đồ đệ của Miếu Đạo Hội thì lại tin rằng chuyện đó là hoàn toàn có thực mà không hề biết mình đã bị Tôn Điện Anh lợi dụng.
Sau này, ngay cả đến khi đánh trận, Tôn Điện Anh cũng dùng những người đại diện cho thần linh này để phân phái các tướng lĩnh, đưa ra các phương án tác chiến.
Do tất cả sự điều phối cho tới mệnh lệnh, trên danh nghĩa đều là của thần linh vì vậy, những đồ đệ của Miếu Đạo Hội theo Tôn Điện Anh đều trở nên rất liều lĩnh, sẵn sàng “tử vì đạo” theo chỉ thị của thần thánh. Cũng nhờ chiêu bịp bơm này, Tôn Điện Anh đánh 10 trận thì thắng tới 9.
Thậm chí, nhiều lần bị quân địch đánh bại, Tôn Điện Anh đều rất nhanh chóng xây dựng lại được lực lượng. Có thể nói nhờ sự mưu mô cũng như những chiêu trò dùng mê tín để bịp bợm đã giúp Tôn Điện Anh đứng vào hàng ngũ những quân phiệt có máu mặt nhất thời Quốc dân đảng.
Hải Phong
theo PNTD