Qua sự kiện Flappy Bird này, tôi lại phải ngậm ngùi mà công nhận rằng về khoản tự hào dân tộc th́ chúng ta thua đứt nhiều nước khác.
Mấy ngày nay dư luận xôn xao về việc tṛ chơi Flappy Bird được nằm ở vị trí đầu bảng của App Store và Google Play. Khía cạnh làm cho các trang mạng của người Việt Nam cũng như các nhà b́nh luận người Việt quan tâm chính là việc tác giả của nó là một người Việt Nam.
Tôi không quan tâm nhiều đến game, gần như chưa bao giờ truy cập vào App Store cũng như Google Play. Nhưng qua một số tin tôi đọc được, tôi cảm nhận thấy rằng dư luận nước ngoài th́ tập trung vào tṛ chơi với các khía cạnh kĩ thuật, pháp lí, thủ thuật marketing... , c̣n người Việt Nam chúng ta chủ yếu bàn đến tác giả của tṛ chơi.
Điều đáng buồn là có nhiều “b́nh luận viên” cho rằng tác giả chỉ giỏi ăn cắp của người khác. Thay v́ “d́m hàng” các nhà cạnh tranh nước ngoài, các “b́nh luận viên” của chúng ta lại tập trung vào việc “d́m tác giả”.
Việc tác giả rút tṛ chơi ra khỏi mạng có thể là một nước cờ cao tay, nhưng khả năng không nhỏ là do những áp lực từ phía cộng đồng đă làm cho tác giả thấy cần phải thoát ra khỏi mớ hỗn độn, làm cho đất nước chúng ta mất đi một cơ hội thể hiện ḿnh.
Tôi đă không ít lần tự hào về tinh thần dân tộc của chúng ta. Nhưng qua sự kiện Flappy Bird này, tôi lại phải ngậm ngùi mà công nhận về cái khoản tự hào dân tộc th́ chúng ta thua đứt nhiều dân tộc khác. Nhiều phát biểu cho thấy suy nghĩ của một số người Việt Nam rất tự ti.
Qua câu chuyện Flappy Bird lần này, tôi thấy tính cộng đồng của người Việt chúng ta quá kém. Xem một số b́nh luận, ư kiến của một số người, có vẻ như họ không muốn người khác thành công (trong trường hợp này là tác giả của Flappy Bird).
Trước đây, chuyện các học sinh Việt Nam đoạt huy chương Olympic Toán thế giới và các môn thi khác cũng được nhiều người b́nh luận theo hướng chúng ta chỉ giỏi ăn gian. Hay chuyện các tổ chức nước ngoài sắp xếp khả năng tiếng Anh của người Việt ở thứ hạng cao cũng cùng chung số phận. C̣n nhiều dẫn chứng về những câu chuyện tương tự mà kể ra đây chỉ làm cho thêm đau ḷng.
Chợt nhớ đến câu chuyện cười về người Việt Nam và người Nhật Bản. Một cuộc thi giữa 2 đội, Việt Nam và Nhật, mỗi đội có 3 người. Lúc đầu, cho lần lượt một người Việt Nam và một người Nhật xuống một cái hố, cả 2 phải tự leo lên miệng hố rồi chạy một khoảng đường xa bằng nhau. Lần nào người Việt Nam cũng thắng.
Nhưng khi bỏ mỗi đội vào một hố th́ sau khi đội Nhật đă về đến đích một lúc lâu vẫn chưa thấy thành viên nào của đội Việt Nam. Ban giám khảo chạy ra miệng hố nh́n xuống th́ thấy các thành viên của đội Việt Nam đang ở dưới đáy hố, cứ người nào vừa leo lên được một khúc th́ người kia lại kéo người đó xuống.
Khi tôi kể câu chuyện này cho các bạn bác sĩ người Nhật, th́ những bác sĩ đă tiếp xúc khá lâu với các bác sĩ Việt Nam đều công nhận tính hợp lí của vế đầu câu chuyện (c̣n vế sau th́ có lẽ v́ lịch sự nên họ không bàn đến).
Một bác sĩ phẫu thuật bụng người Nhật kể với tôi câu chuyện một bác sĩ Việt Nam qua thăm bệnh viện của ông ấy (thực chất là sang Nhật dưới dạng đi học v́ điều kiện để được đi nước ngoài của các bác sĩ Việt Nam rất hiếm). Khi xem vị bác sĩ Nhật nói trên mổ, vị bác sĩ Việt Nam chê thẳng thừng.
Anh bạn bác sĩ người Nhật của tôi nóng mặt (anh ấy đang đứng trên vai tṛ là người dạy), yêu cầu vị bác sĩ Việt Nam giải tŕnh xem anh ta sẽ làm thế nào. Sau khi vị bác sĩ Việt Nam tŕnh bày và lí luận, anh bạn bác sĩ Nhật đă mời vị bác sĩ Việt Nam vào mổ và anh ấy đă học được nhiều điều từ vị bác sĩ Việt.
Anh bạn Nhật cho biết nếu như vị bác sĩ Việt Nam không phải người nói quá nhiều và hay chê bai th́ anh ấy đă cử vài bác sĩ Nhật sang bệnh viện Việt Nam để học rồi.
Năm 1999, tại Nhật Bản, trong khi hội chẩn toàn bệnh viện, bác sĩ trưởng khoa ngoại báo cáo về một trường hợp u dạ dày. Có lẽ v́ tính lịch sự (hoặc cũng là để kiểm tra tŕnh độ tổng quát của tôi) họ yêu cầu tôi cho biết ư kiến. Tôi hỏi về phân loại TNM (các giai đoạn phát triển) của khối u. Họ c̣n rất ngạc nhiên khi tôi đề xuất phương pháp điều trị phù hợp với lí luận điều trị hiện đại rất mới trên thế giới vào thời điểm đó.
Sau này tôi mới được biết vào thời điểm đó, phân loại TNM về u c̣n rất mới mẻ ở Nhật mà chỉ các bác sĩ ung bướu và một số rất ít bác sĩ ngoại bụng được cập nhật, c̣n đối với bác sĩ Ngoại Thần kinh th́ có lẽ khái niệm này khá xa lạ. Bản thân tôi, nhờ tham dự chứng chỉ Phẫu thuật tổng quát trong chương tŕnh học thạc sĩ trong nước trước đó mà được biết lí thuyết mới nói trên.
Các bác sĩ Nhật Bản c̣n ngạc nhiên hơn nữa khi họ nghe tôi kể khi c̣n là sinh viên, tôi đă được xem cắt chọn lọc dây thần kinh số 10 trong mổ loét dạ dày - một kĩ thuật chỉ phát triển trong một thời gian ngắn trước khi người ta phát hiện ra vi khuẩn Helicobacter. Tại Nhật Bản, mới chỉ có một số ít các bác sĩ tiếp cận với kĩ thuật đó, và khi kĩ thuật cắt chọn lọc dây thần kinh X chưa kịp phổ biến rộng răi th́ phát minh về Helicobacter đă làm thay đổi toàn bộ các khái niệm về loét dạ dày.
Các bác sĩ Nhật Bản rất thắc mắc là tại sao Việt Nam, một đất nước đang c̣n nghèo lại có thể tiếp cận với những kiến thức y học mới mẻ nhanh đến vậy?
Nhờ những điều trên, tôi đă giành được sự tôn trọng nhất định của các bác sĩ Nhật. Từ đó, tôi đă được nhận vào học với các giáo sư hàng đầu của Nhật trong chuyên khoa Phẫu thuật Thần kinh và Phẫu thuật Cột sống.
Sự đánh giá cao về Việt Nam của các bác sĩ Nhật Bản c̣n được thể hiện trong một lần tôi đi tham quan một cơ sở laser tại Tokyo theo sự sắp đặt của Hội Laser Y học Nhật bản. Bệnh viện nơi tôi học nhận một ca chấn thương sọ năo, có máu tụ trong sọ.
Bác sĩ Ngoại Thần kinh của bệnh viện đó đă có trên 30 năm kinh nghiệm, làm việc ở bệnh viện đó 3 năm, quyết định mổ. Rồi thư kí gọi điện cho cơ sở tôi tham quan hỏi xem khi nào th́ tôi về được. Th́ ra nếu tôi có thể về kịp, họ sẽ giữ bệnh nhân lại mổ. Vị bác sĩ 30 năm kinh nghiệm kia chưa mổ ca chấn thương sọ năo nào tại bệnh viện đó và họ cần một người biết mổ thật sự có mặt. Tiếc rằng tôi không thể về kịp nên họ đă chuyển bệnh nhân đến bệnh viện Đại học Kyoto.
Tại Mỹ, cách đây hơn 10 năm, dựa trên sự trao đổi giữa các thành viên của American Accademy of Minimally Invasive Spine Care and Surgeries (tiền thân của International Society of the Advancement of Spine Surgeries) về nhận định đối với những người đi học, giáo sư Yeung đă dự đoán về khả năng phát triển phẫu thuật cột sống xâm lấn tối thiểu, đặc biệt là nội soi cột sống, tại khu vực Đông Nam Á.
Việt Nam được đánh giá rất cao và t́nh h́nh hiện nay cho thấy rằng ông đă đúng. Tiếc rằng cơ chế, chính sách và cả những bất lợi về dư luận, những hạn chế về ḷng tự hào dân tộc của chúng ta đă ḱm hăm rất nhiều sự phát triển của y khoa Việt Nam.
Theo tôi biết th́ ở Việt Nam hiện nay, có rất nhiều người, nhiều cơ sở khoe khoang là đầu tiên, là nhất, là đẳng cấp… mà thực chất th́ chẳng có ǵ. Trong khi thực tế có nhiều người, nhiều cơ sở có khả năng cao, cao hơn mặt bằng chung của khu vực, thậm chí ngang với đẳng cấp thế giới, nhưng cứ âm thầm mà không dám nói về điều này.
Tôi nghĩ không phải v́ họ khiêm tốn, mà v́ với cơ chế hiện nay, họ khó có điều kiện để được công nhận chính thức. Nếu như được công nhận chính thức, sẽ có rất nhiều khó khăn đến với họ từ sự tự ti dân tộc, từ tính đố kị của ngay chính cộng đồng họ. Cùng với đó là sự lôi kéo cho tụt xuống đáy của những đồng nghiệp của họ như trong câu chuyện cười kể trên.
Đă đến lúc, chúng ta phải công nhận rằng đồng hồ Tây vẫn có thể sai và đồng hồ ta vẫn có thể rất đúng. Đă đến lúc chúng ta phải tự hào về ḍng giống Lạc Hồng. Đă đến lúc chúng ta phải cùng nâng nhau lên, hoặc chí ít th́ cũng đừng cố gắng tŕ kéo nhau xuống vũng bùn của sự chậm phát triển, của đói nghèo và lạc hậu.
Được như vậy đất nước ta mới có thể đi lên, mới có thể sánh vai với các cường quốc năm châu, hỡi những con Lạc cháu Rồng.
Bác sĩ Vơ Xuân Sơn
Theo: VNE