HƯỚNG DẪN SƠ CỨU (FIRST AID)
KHI BỊ CÔN TRÙNG, ĐỘNG VẬT VÀ NGƯỜI CẮN TRONG LÚC SINH HOẠT NGOÀI TRỜI Lynn Ly phỏng dịch theo "The Everything First Aid"
Những hoạt động ngoài trời như làm việc, vui chơi, giải trí, du ngoạn ở trong một số hoàn cảnh , khí hậu , và thời tiết . Khí hậu nóng và lạnh đều có thể gây ra những hệ quả đối lập (adverse consequences), và những sinh vật (critters) sống bên ngoài thỉnh thoảng gây dị ứng (ngứa ngáy khó chịu) hoặc tổn thương . Cơ thể bị thiếu nước hoặc ở cao độ (thí dụ lên đỉnh núi) và ở trong một số điều kiện ngoài trời khác cũng có thể làm bạn cảm thấy suy yếu đi .
Cho dù không có vấn đề gì khi bạn hoạt động ngoài trời, nhưng thật quan trọng bạn biết làm gì để chăm sóc hoặc trợ giúp những người bị chấn thương, bị bệnh tật bất ngờ .
I) BỊ CÔN TRÙNG, LOÀI VẬT VÀ NGƯỜI CẮN
Nhiều loại côn trùng và các sinh vật khác, bao gồm cả con người, gây ra các vết cắn và vết châm chích có thể cho cảm giác không thoải mái hoặc đe dọa tính mạng từ nhẹ nhẹ đến trung bình. Điều quan trọng là biết làm gì, làm thế nào để trị liệu, và khi nào thì cần tìm kiếm đến trợ giúp từ chuyên gia y tế để trị liệu bất kỳ thương tổn tàng ẩn bên trong.
1) BÒ CẠP CẮN (SCORPION BITES)
Bò cạp là loại côn trùng nhiều chân có hình dạng giống tôm hùm (lobster-like arthoropods) nằm trong xếp loại côn trùng có nọc độc (arcahnid class, cùng loài nhền nhện = spider class), có một ngòi / kim xoăn ở phần cuối nơi đuôi, và chúng thường được tìm thấy ở vùng sa mạc phía Tây Nam của Mexico (nước Mễ Tây Cơ). Những vết chích / đốt của bọ cạp dường như không có khả năng gây tử vong và dễ dàng điều trị, nhưng lại nguy hiểm cho trẻ nhỏ và người già hơn . Những triệu chứng bao gồm đau nhức ngay lập tức (immediate pain), nóng rát (burning), sưng tấy chút chút (minor swelling) và cảm giác tê (numb) hoặc ngứa ran (tingling sensation).
Những buớc sau đây cần nên thực hiện để trị liệu vết bò cạp cắn:
1. Rửa vùng bị bò cạp cắn bằng xà phòng / xà bông và nước
2. Dùng túi trườm lạnh đặt lên vùng bị bò cạp cắn trong vòng 10 phút , nếu cần thiết thì lập đi lập lại việc trườm lạnh vùng bị cắn với khoảng cách giữa các lần trườm lạnh là 10 phút .
3. Gọi điện thoại đến trung tâm kiểm soát chất độc (the Poison Control Center), hay đi bệnh viện khi có bất kỳ triệu chứng nghiêm trọng gì
2) BỌ VE CẮN (TICK BITES)
Những người sống vùng rừng cây hay đồng cỏ, hay những người dành thời gian vui chơi giải trí ở những khu vực này thì dễ bị bọ ve cắn . Loài côn trùng nho nhỏ này sống bằng cách hút máu các loài động vật có vú (mammals) thí dụ như hươu nai (deer), loài gậm nhấm (rodents), thỏ (rabbits) và có thể truyền bệnh từ động vật sang người .
Việc sơ cứu (first aid) những vết bọ ve cắn bao gồm loại bỏ con bọ ve đang bu bám ngay lập tức để tránh những phản ứng từ vết cắn và giảm thiểu tối đa các loại bệnh nhiễm trùng do bọ ve gây ra thí dụ bệnh Lyme, bệnh nóng sốt Colorado bọ ve (Colorado tick fever), bệnh nóng sốt được phát hiện ở núi đá (Rocky Mountain Spotted fever)
Để tháo bỏ con bọ ve bu bám trên người , hãy làm như sau:
1. Dùng cây nhíp (tweezers) hay cây kẹp nhỏ nhỏ cong cong hay thẳng thẳng (small curl or flat forcepts) kẹp lấy đầu con bọ ve và càng cận sát nơi da đang bị con bọ ve cắn càng tốt, rồi nhẹ nhàng kéo ra, đừng bóp nát hay xoay vặn con bọ ve
2. Rửa vùng bị bọ ve cắn bằng xà phòng / xà bông và nước.
3. Bôi thuốc Antihistamine hoặc loại 1% hydrocortisone cream (loại kem chứa 1% chất hydrocortisone)
Cần phải có sự chăm sóc y tế chuyên nghiệp , nếu con bọ ve cắn quá sâu và bạn không thể tháo gỡ nó ra được, hoặc bạn đang ở trong khu vực được thông báo là có nhiều nguy cơ bị bệnh lyme, hoặc bạn có triệu chứng nóng sốt hay triệu chứng cảm cúm , hoặc bạn có trải nghiệm bắp thịt trở lên suy nhược, tê liệt (paralysis) , hoặc nổi vết tròn đỏ trên da gọi là "phát ban mắt bò" (the bull's eye rash) là đặc chưng của bệnh Lyme .
CẢNH BÁO !!!
Đừng bao giờ bôi petroleum jelly (vaseline), rượu cồn ( alcohol ) ahy ammonia lên con bọ ve - chúng sẽ cắn chặt sâu vào da hơn. Nếu bạn đang ở trong vùng cảnh báo có nhiều nguy cơ bệnh Lyme mà bị bọ ve cắn, bạn nhất định phải phone báo bác sĩ để được tư vấn và ngay lập tức được chăm sóc và điều tri bao gồm việc sử dụng thuốc kháng sinh
"Giật mình" Với Những Sự Thật Về Chính Cơ Thể Bạn.
"Giật mình" Với Những Sự Thật Về Chính Cơ Thể Bạn.
Cùng bất ngờ với những con số khổng lồ chứa đựng trong cơ thể bạn:
Nếu những mạch máu này được nối với nhau thành một đường thẳng, ta sẽ thu được một “sợi dây” dài khoảng 2.400km.
Tận 32 triệu vi khuẩn cơ đấy bạn ạ! Thật may mắn khi đa số các vi khuẩn này đều vô hại.
Trung bình những bộ lọc này lọc khoảng 1,3 lít máu/phút và thải 1,4 lít nước tiểu/ngày.
Nếu cơ chân cũng muốn có “thành tích” hoành tráng như thế thì bạn phải đi bộ khoảng 80km mỗi ngày cơ đấy! Vậy mới biết được cơ mắt “khỏe” đến nhường nào.
Và sững sờ trước những "sự thật giật mình":
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, một mẩu xương có kích thước bằng một bao diêm có thể chịu được sức nặng 9 tấn.
Sự thật này nghe chẳng “fun” tí nào! Và may mắn cho chúng ta là lớp tế bào bên trong dạ dày có tốc độ tái sinh nhanh đến mức Acid này không đủ thời gian để "phá tan" dạ dày.
Ở cơ thể người trưởng thành, tổng diện tích da bao phủ lên đến 1,9m 2. Trong cả quá trình từ bé đến lớn của con người, khối lượng da chết lên đến… 18kg.
Việc ăn hoa quả và rau xanh sẽ giúp con người tự sản xuất ra Aspirin. Các nghiên cứu cho thấy những người hấp thu được chất Acid Benzoic trong hoa quả và rau xanh có thể sản xuất ra Acid Salicylic, “nguyên liệu” chính tạo ra tính năng kháng viêm và giảm đau cho Aspirin.
Ở độ tuổi 60 trở lên, 60% đàn ông và 40% phụ nữ sẽ “mắc bệnh” ngáy ngủ. Nhưng bạn biết không, âm thanh của tiếng ngáy có thể làm người khác cảm thấy điếc tai. Vì trong khi độ ồn trung bình của giọng nói bình thường rơi vào khoảng 60 đề-xi-ben, thì với tiếng ngáy, nó có thể lên tới 80 đề-xi-ben (độ ồn trên 80 đề-xi-ben được xem là có hại đối với tai con người)
Trong tương lai, liệu con người có thể tìm ra cách sử dụng nguồn năng lượng này không nhỉ?
Ngoc Giao sưu tầm
at 11:02 PM
No comments:
Post a Comment
Newer Post Older Post Home
Subscribe to: Post Comments (Atom)
Người Phương Nam
Người Phương Nam
Blog Archive
► 2019 (483)
► 2018 (1685)
► 2017 (1773)
► 2016 (1943)
► 2015 (1914)
▼ 2014 (1228) ► December (130)
► November (132)
► October (142)
▼ September (93) Hà Nội Thanh Lịch Ơi! Em Ở Đâu?
ÁO THẮM - Thơ Hồng Thúy
Trái Thơm Trăm Mắt - Tạp ghi - Huy Phương
TIẾNG SÁO BUỒN - Độc tấu Sáo - Tranh màu nước Nita...
Nỗi Sợ Của Người Già!
Nhìn - Trầm Vân
Nghiệp Nặng và Sự Cứu Độ Của Đức Phật - Nguyễn ...
Đánh Ngay Bộ Chỉ Huy
Châm Ngôn Cuộc Sống - ĐỪNG - Hòa tấu Piano - PPS B...
Mùa Thu Có Lá Vàng Rơi - Đỗ Công Luận
Dùng Dầu Cá Đúng Liều
Cám Ơn Anh Người Thương Binh Việt Nam Cộng Hòa
Đi Thuê Nhà Là Chiện Nhỏ - MathildeTuyet Tran
Ngã rẽ Cuộc Đời - Quang Minh - Hồng Đào -Trang Tha...
Dùng Cung Nỏ... Bắn Hạ Máy Bay "Mỹ Ngụy"!
TìNH CHA NHẮN NHỦ - Thơ Quỳnh Vi - Nhạc André Rieu...
Muốn Thành Công Không Thể Lười Biếng
Năng Lượng Thực Vật Cho Tương Lai: Cây Jatropha Cu...
Gỏi Đu Đủ - Cây Vườn -Trái Nhà - Home Grown - Home...
Cười Lăn!
Nhìn Đúng Hơn Về Bệnh Trầm Cảm
Chỉ Vì Có Quỷ Sống Lẫn Với Người - Lương Hoài Nam
Chiều Thu Lá Rụng Ven Sông - Đỗ Công Luận
Sự Khác Biệt Dí Dỏm Giữa Đàn Ông Và Phụ Nữ
Tuổi Vào Thu - Trầm Vân phỏng dịch
THƯƠNG TIẾC BÙI PHƯƠNG ...- Xuân Vinh
6 Bể Bơi Lộng Lẫy Nhứt Châu Á
Mang Tiếng - Bùi Bảo Trúc
Photographer Collection - Horst Faas In VietNam - ...
TÓM TẮT ĐẠO PHẬT Trong Vấn Đáp Khoảng 5 Phút "Rất ...
Thương Tiếc Em Bùi Phương - Trầm Vân
Bạn Bè Vẫn Nhớ Tên Anh - Đỗ Công Luận
Chợt Buồn Nghe Tin Bão Xa - Đỗ Công Luận
Những Chiêu Vét Túi Dân Chơi Của Casino
Tìm Hiểu Về "Bác Thằng BẦN"
Tên Họ Việt-Nam (Vui nhộn)
Tiếng Còi Tàu - J'entends Siffler Le Train - Trầm ...
J'entends Siffler Le Train - PPS Les Trains
Hoa hậu Phu Nhân - Hài Hải Ngoại
Những Thủ Đoạn Rất Tinh Vi Của Giới Buôn Lậu !!!
Babel và Internet
Biên Hòa Memories #476 / Chuyến Tàu Về Quê Ngoa...
Les Feuilles Mortes - Yves Montand HD 1080 video 1...
Lá Úa - Phỏng Dịch Từ Bài Les Feuilles Mortes - Tr...
Nỗi Buồn Cuối Thu - Đỗ Công Luận
Bí Quyết Hạnh Phúc
Gà Tiềm Chanh Muối
Người Việt Nam Xấu Xí - Phan Thanh Tâm
Bài Tôn Vinh Cha Mẹ
Awesome Rock Formations Around The World
À Ơi! Khúc Hát Ca Dao - Trầm Vân
Cholesterol Có Xấu Không Nhỉ ? - BS Nguyễn Ý Đức
Chiều Thu Còn Đó Nỗi Buồn - Đỗ Công Luận
Biết Sống Tùy Duyên - Bodhgaya Monk
Bia Saigon
Triết Lý Barbecue - Vũ Thế Thành
Mùa Thu Em Bỏ Ta Đi - Đỗ Công Luận
CỨ NHƯ NGƯỜI XA LẠ - Thơ Hồng Thúy - Nguyễn Hữu Tâ...
Tưởng Niệm Mười Một Tháng Chín - Trầm Vân
10 Điều Ít Biết Về Vụ 11/9
Từ Tháp Đôi Cao Nhất Thế Giới Tới Ground Zero
MỘT MÌNH - Nhạc Lam Phương - Ca sĩ Quang Dũng - PP...
Người Đàn Ông Ngồi Tù 103 Năm Vẫn Sống Sót Trở Về
Mr Bean - Swimming Pool (HD)
Cười chút chơi!
Tranh Nghệ Thuật Hòang Gia Việt Nam
Bờ Chuối Sau Hè
Xin Lỗi Cô! - Tự Trị Bệnh - Sao Nam Trần Ngọc Bình...
Mười Sáu Tháng Tám Trăng Tròn - Đỗ Công Luận
Trung Thu Nhớ Mẹ - Trầm Vân
Đi Ăn Nhà Hàng - Phần 2
Luật Sống - PPS Bùi Phương
Huyền Sử Chuyện Tình
Một Nền Y Học Bị Chính Trị Hóa - BSN
Bệnh Vô Cảm - Phan Hoàng Yến , học sinh lớp 9A2 tr...
Biên Hòa Memories #467 / Kỷ niệm mùa hè / Trư...
Tử Biệt - Bác Sĩ Nguyễn Ý Đức
Đôi Ngã Tình Yêu - Trầm Vân
Những Nụ Hôn " Lãng Mạn" Nhất !!
Trăng Thu - Đỗ Công Luận
Chè Nếp Than Ăn Vui Miệng
Hôn Thú - Hôn Không Thú - Quý Thể
Rau Dại Miền Tây
Những Người Làm Nên Nước Mỹ - Bác Sĩ Hồ Hải
Biên Hòa Memories #463 / Moon / Trăng mờ bên suô...
Ngồi Buồn Đếm Lá Trên Cây - Trầm Vân
"Giật mình" Với Những Sự Thật Về Chính Cơ Thể Bạn....
Chiêm Ngưỡng Biển Hoa Gần Một Triệu Bông Rực Lửa Ở...
Tiếu... Tí Ti
Con Dâu (Tiếp Theo Chuyện Cô Dâu)
Trung Thu Dạ Khúc - Đỗ Công Luận
Bộ Sưu Tập Những Toà Lâu Đài Đẹp Ngỡ Ngàng Đến Từ ...
Năm Ngàn & Năm Cắc - Tưởng Năng Tiến
► August (90)
► July (98)
► June (90)
► May (99)
► April (89)
► March (107)
► February (77)
► January (81)
Cổ nhân ta vẫn thường nói tới chu kỳ kín của đời người “Sinh, Lão, Bệnh, Tử.”
Vâng: có sinh thì có tử, nhưng “sinh thì hữu kỳ, tử thì vô hạn.” Nặng bụng cưu mang chín tháng mười ngày là biết rằng con sẽ “nhập thế cuộc,” chào đời. Còn mặc áo mới vĩnh viễn ra đi thì chẳng biết khi nào, ra sao.
Sinh ly, tử biệt. Vào đời là tạm thời chia ly với cơ thể người mẹ. Rời khỏi cuộc đời là tạm biệt với nhân gian.
Hẹn lại cùng nhau gặp ở “cõi thật xa”; Niết Bàn, Thiên Ðàng, Aara, Elysium, Soma, Jahannan...Hoặc Ðịa Ngục để mặt đối mặt với Diêm Vương, luận tội kể công.
Với thân xác, bệnh tật thì học giả Ngô Tất Tố đã thoát dịch bốn câu thơ của vua Trần Thái Tôn như sau:
“Cũng bởi có thân mà có bệnh
Ví bằng không xác quyết không đau.
Phép tiên chớ vội khoe không chết,
Thuốc thánh còn chưa chắc sống lâu.”
Chưa chắc sống lâu thì có ngày phải biệt tử.
Mà Voltaire đã nói, “Lúc ta chào đời là đã một bước đi về cõi chết.” Ðúng chăng là con người bắt đầu chết ngay từ lúc sinh ra và trong chu kỳ kín, cái kết cuộc nối liền với khởi điểm.
Guillaume Amerye (Abbé de Chaulieu) thì rõ ràng hơn, “Cái chết chỉ là sự kết thúc cuộc đời; Nỗi thống khổ, niềm sung sướng không cùng mang theo.” Với Napoleon Ðại Ðế, “Chết là giấc ngủ không mơ” và Shakespeare, “Kẻ nào chết rồi là sạch nợ.”
Nói vậy thì chết cũng đơn giản như sinh, đôi khi ồn ào, lộn xộn hơn.
Có người đã ví sự chết của cơ thể như sự tắt của một nhà máy với những động cơ, giây điện. Nhà máy không im lặng ngưng hoạt động khi ta ngắt nút kiểm soát tắt mở mà mọi bộ phận còn cót két rên rỉ kêu trong khi chậm lại rồi ngưng.
Ngoại trừ bất thần chết vì tai nạn, thương tích hoặc cơn dột quỵ suy tim, cơ thể cũng cót két, rên xiết trước khi sự sống hoàn toàn ngưng.Vì thế Dylan Thomas có nhận xét rằng, “Chúng ta không nhẹ nhàng đi vào tử biệt mà thịnh nộ, nổi khùng trước sự tắt lịm của ánh sáng.”
Nhưng có người tin rằng ở nội tâm thì lại bình an. Tuy ồn ào nhưng sự chết luôn luôn xác thực. Nhiều người đã tìm được bình an và chân giá trị trong sự xác thực này.
Tư Mã Thiên có ghi, “Nhân cố hữu nhất tử: Tử hoặc trọng ư Thái Sơn, hoặc khinh ư hồng mao.(nguoi` ta chac chan’ phai chet, hoac chet nang nhu nui’ Thai son, hoac nhe nhu lo^ng con chim Ho^ng`)” Do đó mới có nguời khi đối diện với tử thần thì sợ hãi, phủ nhận, cô lập, giận dữ rồi năn nỷ điều đình để rồi cuối cùng cũng phải chấp nhận. Vì số trời đã định.
Y giới thường được huấn luyện để cứu chữa bệnh nhân và kéo dài sự sống trong đó họ đạt được phần thưởng về tinh thần cũng như tài chánh. Nhưng khi không ngăn chặn được sự chết thì họ hết hứng thú và thường chuyển sang đối tượng khác. Và nguời bệnh đôi khi bị quên lãng, đơn độc ra đi trong tình cảm gia đình, tôn giáo.
Mà ra đi thì xác còn đó, hồn đi đâu, chẳng ai hay. Cho nên Shakespeare đã ví, “Chết chỉ là một cuộc du lịch nhưng chẳng ai quay trở lại. (chi co ong jesus quay tro lai, nhung lai bay len troi` song’ tren quy~ ddao trai’ da^t’)” Ðể nói cho nhau biết chết ra sao, như thế nào, và bên kia vui hay buồn, thái bình hay binh đao, độc tài hoặc dân chủ...Chẳng ai “báo cáo” nên người tiễn đưa phải suy luận, tìm hiểu về người ra đi. Ði như thế nào, lúc nào, ra sao.
Từ nhiều thế kỷ, chết được hiểu như là khi con người mất hết các chức năng sống: tim ngừng đập vĩnh viễn, hơi thở không còn. Nhưng khi nào thì mạng sống đó được coi như là không còn sống. Ðó là điều mà giới y, luật gia, triết nhân, các vị học giả, thường dân, người làm chính trị đã và đang ồn ào, hăng say thảo luận, góp ý.
Vì tạm thời tim ngưng đập, hơi thở gián đoạn khoảng 6 phút mà các bộ phận sinh tử chưa bị tổn thương, con người tưởng như đã mãn phần thì y học hiện đại đã phục hồi được các chức năng và cứu sống nhiều người.
“Vì vậy tiêu chuẩn não-tử (brain death) được thêm vào.
Não là trung tâm của hệ thần kinh.
Cuống não kiểm soát các chức năng duy trì sinh lực của các cơ quan, bộ phận.
Não trên điều hòa ý nghĩ, trí nhớ, tình cảm con người.”
Năm 1968, Ðại Học Y Khoa Harvard đề nghị bốn tiêu chuẩn cho não tử:
a. Không đáp ứng với cảm giác sờ mó, âm thanh và các kích thích ngoại vi;
b. Không còn cử động và không còn hơi thở tự phát (spontaneous breathing);
c. Không cón tác động phản xạ.
Phản xạ (reflex) là một sinh hoạt tự động hay không chủ ý do một vòng thần kinh tương đối đơn giản gây ra mà không nhất thiết liên quan tới ý thức. Chẳng hạn khi dùng kim chích nhẹ vào tay một người, thì kim đau sẽ gây ra cử động phản xạ tự vệ tức thì để rút ngón tay lại trước khi não có thời gian gửi cảm giác đau tới các cơ quan liên hệ
d. Không còn ký hiệu não điện đồ hoặc bất cứ hoạt động điện năng nào từ tế bào não.
Từ năm 1929, bác sĩ thần kinh tâm trí người Ðức Hans Berger đã khám phá ra là não bộ có những luồng điện phát ra trong khi não hoạt động. Nhưng khi đó không ai tin. Phải đợi tới khi nhà bác học người Anh Edgar Adrian cụ thể chứng minh được sinh hoạt điện năng này của não thì mọi người mới chấp nhận và Edgar được Nobel Prize vào năm 1932 cùng với Sir Charles Sherrington nhờ kết quả việc nghiên cứu này.
Ngày nay nhiều máy móc tối tân đã ghi nhận được các sinh hoạt điện năng của não bộ với các sóng alpha, beta, delta, theta. Rồi lại còn MRI, PET scan ghi lại các tín hiệu cũng như thay đổi hóa chất của não khi nghỉ cũng như khi làm việc.
Trong tương lai gần đây, chắc là các ý nghĩ thầm kín của ta cũng sẽ được máy móc tìm ra, đọc được.
Tiêu chuẩn não tử của Ðại Học Harvard cũng không được mọi giới công nhận là một thử nghiệm để kết luận sự chết. Mỗi quốc gia có những tiêu chuẩn khác nhau.
Từ năm 1981, Hoa Kỳ định nghĩa chết như sự ngưng không đổi ngược của toàn bộ não kể cả phần cuống là nơi điều hòa hô hấp, tuần hoàn và các chức năng khác.Và về pháp lý, các điều kiện trên phải kéo dài sau 12 giờ.
Khi còn ở trong tình trạng thực vật (vegetative state) thì cuống não còn hoạt động và tiếp tục giúp hoàn thành sự hô hấp, tuần hoàn và vài nhiệm vụ khác; nhưng phần não trên điều hòa sự suy tư, thu nhận cảm xúc không còn nữa.
Khi rơi vào tình trạng permanent vegetative state là tình trạng không có ý thức vĩnh viễn, không đổi ngược trong đó không có cử động tự ý hoặc bất cứ khả năng nhận biết nào; không còn khả năng chủ ý truyền đạt hoặc tương tác với ngoại cảnh. Người bệnh đôi khi rơi vào tình trạng nhìn theo mà không còn biết gì (coma vision).
Cho nên rơi vào não tử thì ít khi thoát lưỡi hái tử thần dù có cấp cứu tiến bộ tinh vi; tình trạng thực vật vegetative lại vẫn còn nhờ sự toàn vẹn của cuống não để điều khiển một số chức năng của cơ thể cho nên có thể kéo dài sự sống vật vờ cả nhiều năm...
Tử biệt
Maria được Chúa cho tuổi thọ 94, kéo dài sự sống được 10 năm sau khi người chồng thân yêu của bà bình an vĩnh viễn ra đi trong một cơn stroke vào ban đêm. Từ đó bà ở với con này con kia mỗi nơi một vài tháng, nửa năm để bớt đơn côi.
Bà tương đối vẫn mạnh khỏe ngoài vài bệnh thông thường của tuổi già, rất siêng năng lần hạt mân côi và luôn luôn liên lạc, khích lệ con cháu trong sự nghiệp, bổn phận đối với gia đình và xã hội.
Mấy tháng gần đây, bà cảm thấy trong người như không được khỏe cho lắm và bà được đưa vào điều trị tại bệnh viện hơn một tuần rồi xuất viện, về nghỉ ngơi theo dõi bệnh tình ở Skill Nursing Facility do các nữ tu dòng Franciscan tổ chức có nhân viên tận tình chăm sóc. Bà enjoy nếp sống ở đây, tham gia tất cả các sinh hoạt, vui vẻ với mọi người. Bà luôn luôn điện thoại cho con cháu xa gần, khoe là bà cảm thấy hạnh phúc sung sướng lắm.
Rồi một đêm, người nhà được thông báo là bà cảm thấy trong người mệt mỏi, ngực hơi đau, khó thở, đầu hơi choáng váng và được đưa vào phòng cấp cứu. Bà yếu dần, nằm mấy ngày, rồi nhẹ nhàng ra đi trước sự chứng kiến của các con. Bà đã được gọi về nước Chúa, sau khi đã được chịu các phép bí tích của giáo hội.
Trong khi đó, sự ra đi của Lão Tam, một người thân quen trong gia đình, lại có tính cách kinh điển hơn.
Lão được Trời ban cho tuổi thọ gần bát tuần. Ông tương đối vẫn mạnh khỏe, không bệnh kinh niên, không phải dùng thuốc gì, ngay cả Tam Tinh Hải Cẩu hoặc nhân sâm, cao hổ cốt...
Nhưng từ nửa năm nay, Lão thấy sức khỏe mỗi ngày mỗi giảm. Lão không còn sinh lực như mấy năm trước, ít quan tâm tới mọi sự chung quanh, đôi khi muốn xa lánh mọi người. Khẩu vị giảm, nhai nuốt khó khăn và ông thấy thực phẩm là không cần thiết. Ông rất sợ khi người thân ép uống súp, ăn thịt, chỉ sợ bị nghẹn, ói. Có những ngày ông ngủ li bì, như để tiết kiệm sinh lực cho những chức năng quan trọng.
Ông bồn chồn trong lòng, nằm ngồi không yên như nhớ như quên điều gì muốn làm muốn thôi, muốn nhắc nhở vợ con. Rồi thở dài, ngán ngẫm. Vào đêm khuya vắng, ông dường như thấy cha mẹ ông xuất hiện đâu đây, ân cần nói chuyện với ông.
Có lúc ông lên kinh, chân tay co giật, hàm cứng lại. Giá có ai bóp tay bóp chân cho mình lúc này nhỉ!
Ông thấy nhịp tim chậm dần, nhẹ hơn. Hơi thở đôi khi như hụt và nông. Tuần hoàn kém, thân ông giá lạnh vì thiếu máu. Da ông xanh nhợt. Não thiếu oxy nên ông hay choáng váng mày mặt, kèm theo những cơn nhức đầu kéo dài khó chịu. Ngượng ngùng hơn là nhiều lần ông không kiềm hãm được đại tiểu tiện, bài tiết trên giường. Người toát ra mùi hôi; nước miếng hoen khóe mép, đóng cặn.
Xương thịt, nội tạng ông đôi khi đau nhức, nhưng không kéo dài lâu. Ông nhớ có người nói, cận tử thì cơ thể tiết ra vài hóa chất giúp giảm sự đau, sự quằn quại khi mô bào, bộ phận bước vào giai đoạn đau đớn của sự chết (agony phase of death). Các bộ phận trong hình hài ông ngưng dần, bộ phận nọ tiếp nối bộ phận kia như những quân bài domino đè lên nhau mà ngả xuống.
Ông mỉm cười chờ đợi. Một ngày đẹp trời nào đó, mắt ông sẽ mờ dần, đồng tử mở rộng nhưng bất động, để đón nhận thêm nhiều ánh sáng. Không gian tối dần, như Victor Hugo than phiền, “Tôi chỉ thấy bóng tối” hoặc Emily Dickinson, ”..sương mù đang bao phủ quanh tôi.” Bắt chước Goeth, ông kêu lên, “Light! More light,” (cho tôi thêm ánh sáng) Ðể lần cuối nhìn thấy cuộc đời. Rồi ông lịm dần, lịm dần.
Chỉ trong vài giờ, cơ thịt ông co cứng, giá lạnh, xanh lợt. Rồi vài chục giờ sau, cơ thể ông mềm, mô bào tự hủy hoại vì hóa chất tiết ra, rồi thoái rữa vì đám vi khuẩn trong ruột già ruột non đua nhau lan tràn phá phách đó đây.
Rồi thân xác này sẽ được chôn cất dưới lòng đất xâu. Cát bụi lại về cát bụi.
Ông nhớ là cách đây vài tháng, khi linh cảm rằng sẽ đi xa, ông đã làm di chúc. Xin đừng móc dây móc máy vào người tôi khi tôi hấp hối. Cho phép tôi ra đi lành lặn như khi tôi tới. Trên giấy tờ hộ tịch sẽ được ghi tôi chết vì natural cause, rất tự nhiên, điều mà nhiều người mong ước. Và xin cảm ơn mọi người đã chăm sóc tôi, đã lưu tâm tới “những nhu cầu cận tử” nhu cầu của người trên ngưỡng cửa tử vong.”
Lão Tam sẵn sàng ra đi.
Như Thomas Edison reo lên bên kia thế giới sao mà đẹp, “It is beautifull over there!”
Và bình thản đợi chờ như nhà văn lão thành MặcThu viết nhân chuyến “tiễn đưa” nhà văn Mai Thảo.
“Sân ga một đám đứng chờ tàu,
Toàn bạn già xưa biết mặt nhau.
Tàu chật, có người lên được trước;
Chậm chân, kẻ đợi chuyến tàu sau.
Một đi là chẳng quay đầu lại,
Áo trắng trên người đủ kín thân.
Ra đi giống thuở ai vừa đến,
Tàu suốt trăm năm chỉ một lần.
Sân ga thấp thoáng bóng người già,
Họ sẵn sàng về cõi thật xa.
Hình như trong đám trông chờ ấy,
Có bạn thân tình, có cả ta.”
Thịt heo nai bò cừu gà ngỗng vịt,… hễ nướng lên là từ hương tới vị bắt mồi không chịu được. Lại phải nướng cháy cháy ăn mới đã. Thịt nạc mà nướng thì nhai xơ xác như bã trầu, phải ướp hoặc rưới thêm chút dầu sốt, khi nướng khói bay mịt mù, cay mắt sướng mũi. Tây gọi chung món thịt nướng là barbecue. Bài này nói về thịt nướng dưới cái nhìn uể oải : an toàn thực phẩm.
Nướng kiểu gì cũng ngon, chỉ có ngon hơn nữa mà thôi
Thật ra chữ “barbecue” dùng để chỉ loại thịt nướng không tiếp xúc trực tiếp với ngọn lửa, và thường dùng củi để nướng. Khói từ củi sẽ tạo ra hương vị và làm chín thịt từ từ. Có thể nói, barbecue gần giống như kiểu thịt xông khói, nhưng nhiệt độ nướng cao hơn nhiều và nướng rồi là ăn nóng ngay, chứ không ăn nguội như thịt xông khói.
Cách nướng thông dụng là để thịt tiếp xúc trực tiếp với ngọn lửa (grill) như thường thấy ở các quán cơm sườn trong nước, nướng bằng than, củi, hoặc gas với thịt để trên vỉ, mỡ nhỏ xèo xèo, khói bay mù mịt. Nướng kiểu này dĩ nhiên đáp ứng… mồi lẹ hơn, đánh nhanh rút gọn, còn theo kiểu barbecue thì đành phải nhậu lai rai cả ngày.
Từ “barbecue” hiện nay trở nên quá thông dụng, hễ thịt nướng, bất kể nướng kiểu gì cũng gọi là chung là barbecue cho tiện. Ngay cả đất nước đẻ ra tiếng Ăng Lê cũng hiểu barbecue theo nghĩa này.
Còn một kiểu nướng nữa đầy tính sáng tạo chỉ có ở đồng bằng sông Cửu Long, đó là cá lóc quấn rơm nướng chổng ngược. Món này, trời ơi, hương vị tự nhiên thứ thiệt, mà hương đồng cỏ nội cũng thứ thiệt luôn, đưa cay lịm cả người.
Đôi lời uể oải…
Khi nướng ở nhiệt độ cao, acid amin và chất creatine có trong thịt phản ứng tạo ra nhóm amin vòng phức (HCAs). Giới khoa học đã nhận diện được 17 chất HCA có khả năng gây ung thư. Viện Ung thư Quốc gia Mỹ đã phát hiện ra mối liên quan giữa việc ăn nhiều thịt nướng và ung thư bao tử, ruột già và tụy tạng. Những người ăn thịt nướng (hay chiên) kỹ hoặc hơi kỹ (well-done or medium-well) có nguy cơ bị ung thư bao tử gấp ba lần so với người ăn tái hoặc hơi tái (rare or medium-rare).
Một nhóm độc tố khác phát sinh trong khói lửa khi nướng thịt là nhóm hydrocarbon phương hương đa vòng (PAHs). Cơ quan Bảo vệ môi trường Hoa Kỳ (EPA) đã điểm mặt 7 chất PAH có thể gây ung thư, đột biến gen, sinh quái thai,…mà chất đầu tiên bị tóm cổ là benzopyrene được tìm thấy trong khói thuốc lá.
Các nghiên cứu về độc tố của PAHs và HCAs liên quan tới thịt nướng còn nhiều lắm, càng đọc càng oải. Chỉ có một chút tin vui, tóm lược như sau: Các nhà nghiên cứu thấy rằng, dầu olive, nước cốt chanh, và nước ướp thịt có tỏi có thể làm giảm mức HCA tới 90% ở thịt gà. Ướp thịt bò với bia hoặc rượu vang trong 6 tiếng cũng làm giảm tới 90% hai loại HCA. Có tới cả chục loại HCA, đó là chưa kể nhóm PAHs thì tin vui này thuộc loại “có còn hơn không”, chẳng bõ bèm gì!
Triết lý miễn cưỡng
Chẳng dại gì vì sợ khối u mà bỏ thịt nướng, nhưng phải biết cách né. Xin tóm gọn lời khuyên của các chuyên gia an toàn về barbecue. Chỉ là tóm gọn thôi, vì mấy ngài chuyên gia này thường tưởng tượng ra lắm tình tiết tỉ mỉ, khó tính như vú già canh me tiểu thư, ai mà chịu nổi. Dưới đây là toát yếu:
1. Dùng thịt nạc ít mỡ. Thịt thái nhỏ, để to quá phải nướng lâu rất kẹt với tác hại của khói lửa.
2. Khi nướng nên trở thịt thường xuyên, đừng để thịt cháy quá.
3. Nên nấu chín sơ thịt (có thể dùng lò vi ba) rồi đem nướng. Thịt đông lạnh nên rã đông “quá tay” một chút trong lò vi ba, thái nhỏ và đem nướng ngay. (xem bài “Rã đông”)
4. Ướp thịt với chanh, tỏi, đường. Đường làm thịt vàng nâu nhanh khi nướng, “tưởng” thịt đã chín lấy ra xơi luôn, đỡ phải nướng lâu. Thịt ướp phải bọc plastic và trữ trong ngăn mát tủ lạnh cho đến khi đem nướng.
5. Khi nướng, phải để riêng thịt đã nướng và chưa nướng, vì nhiễm chéo có thể xảy ra.
Các nghiên cứu về tác hại của thịt nướng đều có điểm chung là số người ăn thịt barbecue thường xuyên, lại nướng quá kỹ thì dễ bị “tai họa” hơn những người ăn ít.
Bởi vậy, đành triết lý lẩm cẩm rằng: “Chỉ những người biết chờ đợi mới tận hưởng được niềm vui”. Hai tuần ăn thịt nướng một lần đâu phải là thời gian qua dài so với đời người!
Sau tiệc tùng trong dịp lễ Tết thì cũng không ít bà con mình sẽ để ý tới vấn đề sức khỏe liên quan tới việc ăn uống. Một trong các ưu tư đó là liệu có cần đi bác sĩ để coi xem mỡ cholesterol trong máu của mình có lên cao sau những linh đình liên hoan với thịt mỡ, dưa hành, heo vịt quay béo ngậy. Vì cholesterol vốn đã được gán cho là gây ra nhiều bệnh cho trái tim thân yêu của con người. Cholesterol có thật sự “xấu” như vậy không?
Xin cùng tìm hiểu.
1.Cholesterol là gì?
Cholesterol là một chất béo được bao bọc bởi một lớp đạm hiện diện trong cơ thể của các loại động vật kể cả con người. Mặc dù bị mang tiếng là không tốt, nhưng cholesterol là một phần cần thiết của màng các tế bào, được dùng để sản xuất một số kích thích tố, tạo ra sinh tố D trên da bằng tia nắng cũng như tạo ra acit mật để tiêu hóa chất béo. Cholesterol chiếm 70% các chất cấu tạo tế bào của não bộ.
2.Có mấy loại cholesterol?
Có 2 loại cholesterol:
a.Cholesterol trong máu:
Thử máu cho ta biết số lượng cholesterol lưu hành trong máu.
85% cholesterol trong máu là do gan sản xuất, 15% còn lại là do thức ăn có cholesterol mà ta tiêu thụ như trứng, chất béo từ gà, vịt, heo, bò. Vì gan sản xuất nhiều cholesterol cho nên một số người dù ăn thực phẩm có nhiều cholesterol mà cholesterol trong máu vẫn thấp. Ngược lại một số người khác ăn ít cholesterol mà cholesterol vẫn cao.
Vì là chất hòa tan trong dầu mỡ, cho nên cholesterol không tự lưu hành trong máu. Để luân lưu, cholesterol được một loại chất đạm là lipoprotein mang đi. Có 2 loại lipoprotein: LDL (Low density lipoprotein) mang 2/3 tổng số cholesterol và HDL (high density lipoprotein) chuyên chở 1/3 cholesterol còn lại. Về kích thước LDL lớn hơn HDL.
Có giải thích nói HDL được coi như phần tử hiền lành tốt bụng vì y ta vừa không cho cholesterol bám vào thành động mạch mà còn đưa cholesterol ở máu vào gan để rồi được loại ra khỏi cơ thể qua ruột. Nhờ đó bớt mỡ lưu thông trong máu, làm giảm nguy cơ đóng mỡ ở thành động mạch, giảm nguy cơ bệnh vữa xơ động mạch.
Ngược lại cô em song sinh LDL thì láo lếu hơn vì đương sự để cholesterol bám vào thành động mạch, gây ra vữa xơ tắc nghẽn và tăng rủi ro bệnh tim.
Ngoài ra còn một loại thứ ba gọi là VLDL, very low density lipoprotein, chuyên trở một lượng rất ít cholesterol và một chất béo khác gọi là triglyceride.
b.Cholesterol do thực phẩm có nguồn gốc động vật cung cấp.
Xin nhớ là thực phẩm Thực vật không có cholesterol nhưng vẫn có chất béo.
3.Cholesterol trong cơ thể từ đâu mà ra?
Như đã nói ở trên, trong cơ thể, 85% cholesterol là do gan sản suất, khoảng 1000 mg/ ngày, vừa đủ để thỏa mãn nhu cầu của cơ thể, vì thế đúng ra ta cũng không cần tiêu thụ thêm cholesterol từ thực phẩm. Ngoài ra, khi ta tiêu thụ nhiều cholesterol thì gan tự động giảm sản xuất.
4.Làm sao biết có cholesterol trong máu?
Đo cholesterol trong máu cho biết số lượng cholesterol toàn phần, HDL, LDL và VDRL.
Cholesterol các loại được đo bằng đơn vị phần ngàn của gram ( milligram) mg trên phần mười lít (decilitre) dl máu. Viện Sức khỏe Quốc Gia Hoa Kỳ đã đưa các chỉ số sau đây để dùng làm tiêu chuẩn:
Lý tưởng Tạm được Không tốt
Tổng số Cholesterol Dưới 200 mg/dl 200 - 240 mg/dl Trên 240mg/dl
HDL cholesterol Trên 45mg/dl 35 - 45 mg/dl Dưới 35mg/dl
LDL cholesterol Dưới 130 mg/dl 130 - 160 mg/dl Trên 160mg/dl
Sau 20 tuổi, nên đo cholesterol mỗi 5 năm một lần; đo thường hơn khi cholesterol lên cao.
c-Ngoài ra chất Triglyceride và VLDL cũng cần được theo dõi. Mặc dù vai trò của chúng trong nguy cơ gây bệnh tim chưa được xác định, nhưng nhiều chứng minh cho là khi chất này lên cao thì đều không tốt cho tim.
Lượng Triglyceride dưới 200mg/ dl được coi như bình thường. Nó thường lên cao trong bệnh tiểu đường, bệnh thận.
5.Cholesterol có gây nguy hại cho sức khỏe không?
Chất béo cũng như cholesterol không phải là chất có hại đối với cơ thể mà là chất sinh tử cho mọi tế bào động vật. Cho nên thực là không công bằng khi gán cho mỡ béo danh vị thực phẩm “xấu”. Nhưng một chế độ dinh dưỡng không cân bằng, kém đa dạng, quá nhiều chất béo có thể đưa tới hậu quả bệnh tật cho con người.
Xin nhắc lại là để hoạt động hữu hiệu, các mạch máu, cũng như các bắp thịt, cần được tốt mạnh, uyển chuyển và giữ đàn tính. Lòng mạch máu cần trơn tru để máu dễ dàng lưu thông.
Trong bệnh vữa xơ động mạch, thành động mạch có những bựa gồm có cholesterol và tế bào máu đóng vào, khiến nó trở nên thu hẹp gây trở ngại cho sự vận chuyển của máu.
Máu huyết tới tim giảm, tim kém được nuôi dưỡng, giảm hoạt động rồi một lúc nào đó đưa đến cơn kích tim.
Những miếng bựa có thể bứt rời thành mạch máu, ngao du khắp cơ thể theo hệ tuần hoàn rồi gây ra nghẽn mạch. Lên đến não nó tạo ra tai biến mạch máu não, tới tim nó gây ra nhồi máu cơ tim.
Ngoài ra cholesterol trong máu lên cao theo số tuổi; khi cân quá nặng nhất là béo mập ở vùng bụng; khi có các bệnh tiểu đường, cao huyết áp; di truyền cao cholesterol từ bố mẹ; khi có nếp sống không lành mạnh như lạm dụng rượu, thuốc lá, có đời sống quá tĩnh tại hoặc có nhiều mối lo âu, bất mãn.
6.Làm sao giảm cholesterol?
-Điểm cần để ý trước hết là giảm tiêu thụ cholesterol không ảnh hưởng nhiều tới lượng cholesterol trong máu bằng khi ta bớt tiêu thụ thực phẩm có chất béo bão hòa.
-Thứ hai là trong thực phẩm, tất cả cholesterol đều giống nhau, không có loại xấu loại tốt. Nhưng trong máu thì cholesterol trở nên tốt hay xấu là tùy theo loại lipoprotein chuyên chở nó.
-Thứ ba là chất béo bất bão hòa đơn hoặc đa dạng từ thực vật không gây ra sự vữa như cháo của chất mỡ trong lòng động mạch.
Sau đây là một số gợi ý để chúng ta cùng nhau hạ thấp cholesterol trong máu:
1-Giảm tiêu thụ thực phẩm có nhiều mỡ béo như kem, bơ, sữa nguyên chất, cheese, da gà, mỡ trên thịt nạc, mỡ heo.
2-Giảm thiểu thực phẩm có nhiều cholesterol như lòng đỏ trứng, gan. Lòng trắng trứng không có cholesterol. Một lòng đỏ trứng có tới 250mg cholesterol.
3-Giảm dầu dừa, dầu hạt cọ (palm), vì có nhiều béo bão hòa. Dầu này thường có trong kẹo súc cù là, bánh bích quy.
4- Dùng nhiều hơn dầu bắp, safflower. dầu olive, dầu canola, trái bơ avocado, vừng, dầu đậu phọng, vài loại cá vì chúng có tác dụng làm hạ cholesterol.
5- Giảm trans fatty acid như margarine thỏi vì tác dụng làm gia tăng cholesterol trong máu. Margarine mềm ít hại hơn.
6- Tăng tiêu thụ omega 3 fatty acid, có nhiều trong cá thu (mackerel), cá chình americain eel, cá ngừ (tuna), cá trích (atlantic herring), cá sardines, cá hồi (trout).
7-Tăng lượng chất xơ có trong ngũ cốc, rau trái, mì ống mì sợi vì các chất này có rất ít béo bão hòa, cholesterol và cho ít năng lượng.
8- Giữ sức nặng cơ thể ở mức trung bình, tránh bị mập phì nhất là mập ở vùng bụng.
9- Tập luyện cơ thể đều đặn để làm tăng cholesterol hiền lành HDL, làm giảm cholesterol lếu láo LDL, giảm kí, hạ huyết áp cao.
10- Đôi khi với tất cả các đề phòng kể trên, cholesterol trong máu vẫn còn cao vì ảnh hưởng của gene, vì vui miệng ăn nhiều mỡ béo thì phải cầu cứu tới dược phẩm.
Việc dùng các dược phẩm này cần được bác sĩ cân nhắc kỹ càng tùy theo từng trường hợp, vì khi đã uống thì phải uống trong nhiều năm, có khi suốt cuộc đời. Thuốc lại rất đắt tiền và vài loại thuốc có những tác dung phụ mạnh, chẳng hạn là làm hại tới lá gan.
Kết luận.
Các tài liệu về chất béo-cholesterol có quá nhiều, đôi khi làm ta bối rối. Sau hơn 50 năm, khoa học đã làm sáng tỏ một phần nào vai trò của cholesterol cao trong máu đối với bệnh vữa xơ động mạch, một nguyên nhân đưa tới tử vong và bệnh hoạn vì nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não. Nhưng nguyên lý sinh bệnh của vữa xơ này còn nhiều điều cần được khai sáng tiếp. Khi đó, việc điều trị và ngừa bệnh này hy vọng sẽ dễ dàng và công hiệu hơn
Hơn nữa, ta không thể gạt bỏ chất béo khỏi khẩu phần dinh dưỡng vì cơ thể cần năng lượng từ chất béo, cần sinh tố tan trong mỡ, cần chất béo để cấu tạo màng tế bào, mô thần kinh, tim...
Cho nên giản dị hơn cả là khi muốn tránh bệnh tim mạch do các chất béo này gây ra, ta chỉ việc bớt tiêu thụ thực phẩm do động vật gia súc như thịt, sữa và phó sản; tăng thực phẩm từ thực vật và vận động cơ thể.
Để bảo toàn trái tim thân thương cũng như sức khỏe tổng quát.
Thỉnh thoảng bạn bỗng dưng buồn bã u uất mà không biết lý do vì sao? Thậm chí bạn nghĩ rằng mình không thể vượt qua được một cú sốc nào đó, và chỉ muốn buông tay? Rất có thể bạn đang mang dấu hiệu của trầm cảm.
Cuộc sống ngày càng hiện đại, trước quá nhiều vấn đề vượt ra khỏi tầm kiểm soát và không thể tự mình giải quyết, con người thường có xu hướng cô lập mình, tự gậm nhấm những cảm xúc đau buồn, và không muốn chia sẻ với một ai khác. Hiện tượng này kéo dài sẽ dẫn đến việc mọi ức chế bị dồn nén, lâu ngày thành một phản xạ tiêu cực: không thiết tha với cuộc sống này nữa. Họ thường nghĩ đến cái chết, vì một lý do đơn giản: không có gì vui vẻ để sống.
Mỗi ngày, tôi tiếp xúc với khoảng 30 người muốn tự sát!
Bác sĩ John Montgomery cho biết: "Càng ngày càng có nhiều người mắc bệnh trầm cảm, con số thống kê gần nhất là 40% người mắc bệnh này hàng năm, nhưng không phải ai cũng biết chính xác tình trạng của mình để mà điều trị".
Bác sĩ Montgomery cũng cho biết thêm, mỗi ngày ông phải tiếp xúc với khoảng 30 bệnh nhân muốn tự sát. "Họ đến gặp tôi trong tình trạng hết sức tiêu cực: khóc lóc, gào thét, chửi rủa cuộc đời, đập phá bệnh viện... Hầu hết đều không còn muốn sống nữa. Nói mọi thứ bế tắc và không lối thoát chỉ là một ám ảnh của người bệnh. Thật sự trầm cảm có thể chữa khỏi nếu bạn hiểu biết về nó. Trầm cảm là một căn bệnh, chứ không phải là một trạng thái tâm lý. Xác định được điều đó, bạn mới có một cái nhìn đúng đắn về bệnh này, và có hướng điều trị nghiêm túc".
Trầm cảm là gì và nguyên nhân dẫn đến trầm cảm?
Có thể hiểu, người mắc chứng trầm cảm là những người cảm thấy tuyệt vọng, vô dụng và tự đổ lỗi cho mình về những cảm giác buồn bực trong lòng đang diễn ra. Họ có thể suy sụp và không tham gia vào những hoạt động thường ngày được nữa, dần dần tự cô lập xa lánh người thân và bạn bè. Và thậm chí, có người còn tự tìm đến cái chết để giải thoát.
Nguyên nhân chính xác của trầm cảm chưa được biết rõ. Sự mất cân bằng về những yếu tố môi trường, di truyền, hóa học có thể là những nguy cơ liên quan với trầm cảm. Khi những cảm xúc tinh thần của một người bị mất cân bằng cũng có thể dẫn đến trầm cảm. Ngoài ra, tuổi tác cũng là một yếu tố. Trầm cảm có thể bắt đầu ở mọi lứa tuổi, tuy nhiên tuổi trung bình dễ xuất hiện nhất là vào nhóm tuổi 20.
Các triệu chứng để nhận biết bệnh trầm cảm?
Trước hết cần phải hiểu rõ, trầm cảm không phải là sự yếu đuối về nhân cách. Như bất kỳ người bệnh nào, người mắc chứng trầm cảm cũng có thể có những triệu chứng khác nhau. Rất nhiều người mắc chứng trầm cảm thường cảm thấy bối rối, hoặc họ không có những hiểu biết thấu đáo về vấn đề này. Họ có thể cảm thấy tuyệt vọng, không tin là sẽ có cải thiện. Do đó người trầm cảm thường có 2 biểu hiện phổ biến là:
-Mất hứng thú và niềm vui trong sinh hoạt thường ngày.
-Biểu lộ những cảm giác buồn bã hay vô vọng hoặc những cơn khóc nức nở.
Các triệu chứng của trầm cảm phải kéo dài ít nhất 2 tuần và có thể gồm thêm nhiều triệu chứng sau:
-Ngủ nhiều hoặc ít hơn bình thường
-Tư duy không rõ ràng, hay mất tập trung
-Giảm hoặc tăng cân đáng kể
-Dễ cáu gắt, nổi nóng
-Lúc nào cũng cảm thấy mệt mỏi
-Phản xạ chậm chạp
-Ít chăm sóc bản thân
-Giảm hứng thú tình dục
-Nghĩ đến cái chết
-Xa lánh bạn bè và người thân
Nếu bạn thấy mình có những biểu hiện như trên, đừng ngần ngại hay che giấu bệnh, hãy đến ngay các bác sĩ có chuyên môn khám và điều trị kịp thời.
Trầm cảm là một bệnh có thể điều trị được!
Như trên đã nói, bạn cần nhìn nhận rằng trầm cảm là một căn bệnh và có thuốc điều trị nghiêm túc. Đó không phải là 1 dạng bệnh tâm lý và chữa trị chỉ đơn thuần bằng các biện pháp tâm lý. Điều trị trầm cảm có thể cần phải sử dụng cả thuốc điều trị và đối thoại.
Hiện nay, người ta coi trầm cảm là một chứng bệnh do những thay đổi về hóa học của não bộ, hay những chất dẫn truyền thần kinh. Và thuốc chống trầm cảm có tác dụng làm đảo ngược những thay đổi này trong não bộ. Điều quan trọng là phải tuân thủ chương trình điều trị mà bác sĩ đã vạch ra cho bạn một cách nghiêm túc.
Ngoài ra, để chữa dứt hẳn chứng trầm cảm, bạn cũng nên tự mình thay đổi lại những thói quen vận động hàng ngày theo hướng tích cực như lên kế hoạch cho các hoạt động giải trí. Hãy tự sống điều độ hơn và tuyệt đối không che giấu những vấn đề đang gặp phải của mình để có thể có sự hỗ trợ từ xung quanh như người thân và bạn bè.
Bác sĩ John Montgomery cũng nói thêm: "Khi bị trầm cảm, bạn thường có xu hướng tìm đến rượu bia hay các loại thuốc hướng thần để giải quyết. Có thể trong lúc đó, tạm thời bạn sẽ thấy khá hơn, nhưng chính những điều này sẽ làm cản trở mục tiêu điều trị bệnh của bạn. Tình trạng suy sụp sau khi sử dụng rượu và các loại thuốc hướng thần có thể làm tăng cảm giác tội lỗi hay mệt mỏi, và bạn vẫn thấy mình là gánh nặng cho những người xung quanh".
Nhưng hãy yên tâm - bác sĩ John vừa chỉ những bức tranh với dòng chữ "Thank you, Dr Montgomery" treo rất trang trọng trong phòng khám của ông vừa cười nói - Đó là những bức tranh của bệnh nhân trầm cảm vẽ tặng tôi. Họ vẽ chúng sau khi đã được điều trị dứt căn bệnh này. Khi đó, họ yêu đời, lạc quan, vui vẻ, và thiết tha với cuộc sống này hơn bao giờ hết! Họ dễ thương và đáng yêu hơn bao giờ hết!
Hồi tháng 6, tôi thấy trên đùi chân trái tôi có một vết bầm lớn bằng ngón tay cái. Tôi đi gặp bác sĩ. Bác sĩ hỏi tôi có té hay va chạm vào đâu không, có cảm thấy đau không. Tôi cho bác sĩ hay là tôi không té, không đụng vào đâu và không cảm thấy đau gì hết.
Bác sĩ cho tôi đi thử máu ngay, còn gọi điện thoại cho pathology hỏi khi nào có kết quả. Bác sĩ nói với tôi là đi đến pathology ngay để thử máu và ngày kia đến gặp bà. Thường thì bác sĩ bảo tôi đi thử máu hay X ray, chẳng bao giờ họ gọi điện thoại hỏi bao giờ có kết quả, lần này tôi hãy còn ngồi ở phòng mạch chờ bác sĩ viết order cho pathology, chưa đi tới pathology mà bác sĩ đã bảo họ gởi kết quả ngay.
Hai ngày sau, tôi trở lại gặp bác sĩ để biết kết quả thử máu, bác sĩ cười tươi nói không có bệnh gì hết, không bị ung thư máu. Và bác sĩ bảo tôi : ngưng uống dầu cá ngay lập tức.
Thông tin về dầu cả trong bản tin này có thể tin được.
Dầu cá chứa nhiều chất dinh dưỡng quý giá bởi được chiết xuất từ cá thu, cá hồi, cá trích, cá ngừ, cá tuyết…
Do đó, các chế phẩm của dầu cá thường chứa một lượng lớn axít béo omega-3. Ngoài ra, chúng còn có vitamin E, canxi, sắt, các vitamin A, B1, B2, B3, C hoặc D. Nhờ vậy mà dầu cá được sử dụng trong việc hỗ trợ điều trị rất nhiều bệnh, phổ biến nhất là những bệnh liên quan tới tim mạch.
Một số người sử dụng dầu cá để giảm huyết áp hoặc triglyceride (mỡ máu). Dầu cá cũng được dùng để phòng ngừa bệnh tim và đột quỵ.
Bằng chứng khoa học cho thấy dầu cá thực sự làm giảm nồng độ triglyceride và có vẻ giúp phòng ngừa bệnh tim cũng như đột quỵ khi sử dụng theo đúng liều khuyến nghị. Dầu cá khá an toàn đối với hầu hết mọi người, bao gồm phụ nữ có thai và cho con bú, khi dùng với liều thấp (3 g trở xuống mỗi ngày).
Tuy nhiên, dùng quá nhiều dầu cá (trên 3 g/ngày) có thể dẫn đến nguy cơ làm tăng đột quỵ hay những tác dụng phụ khác. Cụ thể:
- Dùng hơn 3 g dầu cá mỗi ngày có thể khiến máu khó đông và làm tăng nguy cơ bị chảy máu. Mặt khác, khi dùng dầu cá liều cao còn làm giảm hoạt động của hệ miễn dịch, dẫn đến giảm khả năng chống nhiễm trùng.
- Các tác dụng phụ có thể xảy ra như ợ hơi, hơi thở hôi, ợ nóng, buồn nôn, tiêu chảy, phát ban và chảy máu cam. Uống dầu cá trong bữa ăn hoặc để lạnh có thể giảm những tác dụng phụ này.
- Lạm dụng dầu cá còn có thể khiến những người mắc bệnh gan tăng nguy cơ chảy máu. Những người bị dị ứng với hải sản cũng có thể dị ứng với dầu cá. Uống dầu cá có thể làm tăng triệu chứng của bệnh trầm cảm. Sử dụng dầu cá liều cao còn có thể khiến cho việc kiểm soát đường huyết trở nên khó khăn hơn.
- Dầu cá có thể làm giảm huyết áp và khiến huyết áp tụt xuống quá thấp ở những người đang dùng thuốc hạ huyết áp. Đối với người có HIV/AIDS và các bệnh suy giảm miễn dịch khác, dầu cá liều cao có thể làm giảm đáp ứng miễn dịch của cơ thể.
- Một số nghiên cứu cho thấy dầu cá có thể làm tăng nguy cơ nhịp tim không đều ở những bệnh nhân cấy máy khử rung. Để an toàn, tốt nhất nên tránh các chế phẩm dầu cá. Với trường hợp polyp tuyến có tính gia đình thì dầu cá có thể làm tăng nguy cơ ung thư ở những người bị căn bệnh này.
- Với thuốc chống đông máu, dầu cá có thể làm máu khó đông. Sử dụng dầu cá cùng với các thuốc chống đông máu có thể làm tăng khả năng xuất huyết. Các thuốc làm máu chậm đông bao gồm: aspirin, clopidogrel (Plavix), diclofenac (Voltaren, Cataflam), ibuprofen (Advil, Motrin, others), naproxen (Anaprox, Naprosyn), dalteparin (Fragmin), enoxaparin (Lovenox), heparin, warfarin (Coumadin)...
Tóm lại, khi sử dụng dầu cá cần có sự chỉ dẫn của thầy thuốc, không tự ý mua dùng để tránh những điều đáng tiếc có thể xảy ra.
Nho khô là món ăn vặt như thuốc cho người bị cao huyết áp, nhờ tác dụng vừa lợi tiểu vừa bổ sung khoáng tố kalium
Chuyên gia tâm lý ở CHLB Đức đã làm một thử nghiệm lý thú về sự lựa chọn nho tươi hay nho khô. Lạ là 7 trong 10 đứa trẻ 2 tuổi chọn ngay nho khô… Nho khô không chỉ hấp dẫn trẻ con mà thậm chí đã có chỗ đứng trân trọng trong lịch sử loài người.
Người tiền sử vì xem nho khô như quà tặng của thượng đế nên dùng món này làm vật trang sức, thậm chí khắc hình nho khô trên vách đá hang động. Theo truyền thuyết ở Trung Đông, cả ngàn năm trước công nguyên, người Do Thái đã dùng nho khô nộp thuế.
Nếu xét về giá trị dinh dưỡng thì nho khô là món ăn hữu ích cho sức khỏe vì rất ít chất béo nhưng lại sinh nhiều năng lượng, dễ bảo quản, nhờ đó là món ăn bỏ túi cho người phải lao tâm lao lực. Hơn thế nữa, nho khô là món ăn vặt như thuốc cho người bị cao huyết áp, nhờ tác dụng vừa lợi tiểu vừa bổ sung khoáng tố kalium.
Kết quả một công trình nghiên cứu ở Mỹ cho thấy huyết áp của người hâm mộ nho khô ổn định hơn nhóm không khoái món này. Một số nhà điều trị thậm chí khuyến khích người từ độ tuổi 40 trở lên nên thường ăn nho khô để cầm chân huyết áp.
Nho khô chứa nhiều chất xơ nên là món ăn bầu bạn của người khổ vì táo bón và bệnh trĩ. Cũng nhờ tác dụng kéo chất béo qua đường ruột nên nho khô gián tiếp hạ cholesterol.
Nhiều thầy thuốc vì thế đã không ngần ngại xếp nho khô vào nhóm thực phẩm thích hợp cho người bị bệnh mạch vành. Theo kết quả một công trình nghiên cứu ở Mỹ, sau một tháng áp dụng, lượng LDL trong máu giảm đáng kể trên số bệnh nhân có 80 – 100g nho khô mỗi ngày trong khẩu phần.
Nho khô còn là nguồn giàu chất sắt. Người thiếu máu, đối tượng vừa qua cơn chấn thương xuất huyết, phụ nữ mang thai, thiếu nữ hay bị rong kinh… nên chọn nho khô để bổ sung chất sắt cần thiết cho cấu trúc lành mạnh của huyết cầu thay vì trông cậy vào thịt, gan rồi khó tránh trục trặc với mỡ máu.
Nho khô thường được dùng để ăn chơi, tráng miệng hay làm các món mứt, bánh. Ăn nhiều nho khô rất có lợi cho sức khỏe.
1. Nho khô giàu chất chống oxy hóa, giúp máu lưu thông tốt. Chất chống oxy hóa có trong nho khô có thể bảo vệ bạn chống lại sự lão hóa và ung thư.
2. Nho khô có chứa lượng calorie cao, vì vậy nho khô giúp các vận động viên có thêm năng lượng dồi dào trước khi thi đấu.
3. Nho khô chứa nhiều chất xơ nên là món ăn bầu bạn của người khổ vì táo bón và bệnh trĩ. Cũng nhờ tác dụng kéo chất béo qua đường ruột nên nho khô gián tiếp hạ cholesterol
4. Nho khô có chứa chất axit oleanolic nên rất tốt cho răng và nướu, giúp ngăn ngừa và chống lại các vi khuẩn gây ra sâu răng.
5. Nho khô ngăn ngừa sự thoái hóa của da. Giống như cà rốt, nho khô rất có lợi cho thị lực.
6. Nho khô có chứa canxi làm xương cứng và chắc hơn. Nếu cơ thể bạn được cung cấp đủ lượng canxi, thì bạn sẽ không phải lo ngại về tình trạng loãng xương.
Nho khô còn là nguồn giàu chất sắt. Người thiếu máu, đối tượng vừa qua cơn chấn thương xuất huyết, phụ nữ mang thai, thiếu nữ hay bị rong kinh... nên chọn nho khô để bổ sung chất sắt cần thiết cho cấu trúc lành mạnh của huyết cầu thay vì trông cậy vào thịt, gan rồi khó tránh trục trặc với mỡ máu.
Để tránh xa bệnh ung thư, chúng ta phải trở thành những “thợ săn” chất gây ung thư, chứ không phải trở thành “con mồi” của chúng. Mới đây, một tạp chí sức khỏe của Mỹ đã tiến hành xếp hạng mức độ nguy hiểm theo cấp độ 1 – 5, từ nhẹ đến nặng với một số đồ có chứa chất gây ung thư xung quanh chúng ta. Bạn hãy chú ý đến chúng để có thể giảm nguy cơ ung thư nhé.
1. Styrene có trong hộp xốp
Mức nguy hiểm: 1
Theo báo cáo nghiên cứu của Chương trình độc chất học quốc gia của Mỹ, styrene là một chất gây ung thư, có thể phá hủy DNA trong cơ thể người. Styrene được dùng nhiều để sản xuất các loại hộp xốp, nhất là các loại hộp đựng thức ăn, bát, đũa, cốc dùng 1 lần…
Cách phòng ngừa: Hãy tránh xa hoặc hạn chế sử dụng các các sản phẩm này bằng cách tránh làm nóng thức ăn trong những vật liệu nhựa chứa chất polystyrene, đặc biệt là thực phẩm chiên nóng. Nếu đựng các loại thực phẩm này, ở nhiệt độ cao chất styrene trong hộp, cốc... có thể được giải phóng và gây độc.
2. Formaldehyde trong áo sơ mi không nhăn
Mức nguy hiểm: 2
Formaldehyde có thể làm cho áo sơ mi nhăn trông sắc nét và phẳng hơn, nhưng nó có thể đe dọa sức khỏe của bạn. Có bằng chứng cho thấy, formaldehyde có thể dẫn tới ung thư mũi và các khối u trong hệ thống hô hấp.
Cách phòng ngừa: Hãy chọn những chiếc sơ mi bình thường, nếu bạn mặc áo sơ mi không nhăn, trước khi mặc lần đầu hãy giặt sạch chúng. Cục bảo vệ môi trường Mỹ khuyến cáo rằng, giặt sạch trước khi mặc đối với những chiếc áo sơ mi không nhăn có thể giảm tới 60% hàm lượng formaldehyde.
3. Dioxane (dioxan) có trong chất tẩy rửa
Mức nguy hiểm: 3
Năm 2011, Tổng chức Môi trường Thế giới phát hiện, trong chất tẩy rửa có chứa chất gây ung thư là dioxane. Theo cơ quan này, trong khi chất tẩy rửa loại bỏ chất bẩn thì chúng cũng lưu lại các chất có độc dẫn tới ung thư là dioxane.
Biện pháp phòng ngừa: Lựa chọn các chất tẩy rửa thân thiện với môi trường, học cách đọc nhãn ghi thành phần của chất tẩy rửa. Nếu sản phẩm có các thành phần như polyethylene, polyethylene glycol, polyetylen oxit thì đều có khả năng chứa dioxane và bạn nên tránh chúng.
4. Acrylamide có trong khoai tây chiên, bánh rán
Mức nguy hiểm: 3
Khi những thực phẩm giàu carbonhydrate như khoai tây chiên, bánh rán được chiên rán dưới nhiệt độ cao, thường sẽ giải phóng ra acrylamide, nó sẽ gây đột biến DNA của con người, từ đó làm tăng nguy cơ ung thư.
Biện pháp phòng ngừa: Khi chế biến khoai tây, bạn cần chú ý về nhiệt độ và thời gian chế biến. Nếu thực sự muốn ăn đồ chiên rán, đừng chiên chúng thành quá chín và chuyển sang màu nâu.
Trước khi chiên khoai tây, hãy ngâm chúng trong nước khoảng 2 giờ, cách này có thể giảm một nửa lượng acrylamide.
5. Nitrosamine có trong thuốc lá, thịt xông khói
Mức nguy hiểm: 4
Hợp chất nitrosamine có thể gây ung thư. Ngay cả thuốc lá điện tử cũng bị ảnh hưởng. Ngoài ra, muối nitrit trong xúc xích, thịt xông khói, lạp sườn có thể phản ứng với axit dạ dày, sinh ra chất nitrosamine.
Cách phòng ngừa: Cho dù bạn hút thuốc lá loại gì đều phải cai thuốc. Ngoài ra nên hạn chế ăn các món ướp muối, xông khói, thay đổi cách chế biến thịt, luộc hoặc nấu sẽ an toàn hơn chiên rán.
6. Asen có trong gạo lứt
Mức nguy hiểm: 5
Một cuộc khảo sát về an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng được Hiệp hội nhà tiêu dùng Mỹ tiến hành phát hiện, hàm lượng asen trong gạo lứt đều cao hơn so với gạo trắng. Asen sẽ làm suy giảm chức năng hệ thống hồi phục của cơ thể, nên khi các tế bào bị tổn thương, DNA không thể phục hồi như ban đầu, dễ biến thành ung thư.
Cách phòng ngừa: Trước khi nấu, vo sạch gạo, khi vo, tỷ lệ nước và gạo tối thiểu là 6:1. Ngoài ra, chỉ nên ăn gạo lứt 2 lần/tuần.
Tác Hại Khôn Lường Khi Để Điện Thoại Trên Giường Ngủ
Tác Hại Khôn Lường Khi Để Điện Thoại Trên Giường Ngủ
Theo một cuộc khảo sát mới đây, 44% số người cho biết họ luôn để điện thoại trên giường khi ngủ để không bỏ lỡ bất kỳ cuộc gọi quan trọng nào. Cái tiện lợi chỉ có thế, nhưng điều nguy hại cho sức khỏe của bạn thì không lường trước được.
Bạn đang đặt gối của mình trên cục than
Một thiếu nữ ở Texas (Mỹ) mới đây đã bị đánh thức với mùi khét lẹt xuất hiện trong phòng ngủ. Nguyên nhân là chiếc điện thoại đặt dưới gối đã tan chảy một phần và cháy xém lan ra cả tấm đệm. Hãng điện thoại cho rằng nguyên nhân gây ra vụ cháy là pin thay thế không tương thích. Tài liệu hướng dẫn sử dụng điện thoại đã cảnh báo không nên sử dụng pin và bộ sạc thay thế không tương thích với điện thoại của hãng. Theo đó, các nhà sản xuất cũng cảnh báo nguy cơ hỏa hoạn nếu người dùng để điện thoại dưới gối hoặc các vật dụng dày khác. Vì vậy, bạn nên sử dụng phụ kiện chính hãng đính kèm ban đầu và không đặt điện thoại di động trên giường.
Điện thoại, máy tính bảng, ti vi và những thiết bị khác có màn hình LED… phát ra thứ gọi là ánh sáng xanh. Một số nghiên cứu cho thấy thứ ánh sáng này có thể ức chế việc sản xuất hormone melatonin gây ngủ và phá vỡ nhịp sinh học của chúng ta. Các nhà khoa học lý giải có thể ánh sáng màu xanh có bước sóng giống ánh sáng ban ngày nên cơ thể bị đánh lừa, nghĩ bất cứ thời điểm nào cũng là ban ngày. Để tránh mất ngủ, bạn cần tắt tất cả các thiết bị điện tử 2 giờ trước khi lên giường. Tốt nhất, bạn nên để điện thoại và laptop ở căn phòng khác phòng ngủ.
Chưa lường trước rủi ro về sức khỏe
Hiện chưa có nghiên cứu nào chứng minh về việc sử dụng điện thoại có thể gây ung thư và mối liên quan này vẫn đang còn là nghi vấn. Thực tế, điện thoại di động phát ra lượng nhỏ bức xạ điện ở mức độ có thể kiểm soát được. Tuy nhiên, năm 2011, Tổ chức Y tế thế giới cảnh báo việc sử dụng điện thoại thường xuyên sẽ sản sinh chất gây ung thư ở người, đặc biệt trẻ em có da đầu và hộp sọ mỏng hơn người lớn, dễ bị ảnh hưởng bức xạ hơn. Vì vậy, nếu bạn lo lắng về nguy cơ ung thư do điện thoại gây ra, hãy nhắn tin thay vì gọi điện nếu có thể. Nếu gọi điện, bạn nên để điện thoại cách xa tai, sử dụng tai nghe hoặc mở loa ngoài và tuyệt đối không để di động trên đầu khi ngủ.
HÀNH TRÌNH ĐỔI ĐỜI CỦA NHỮNG CẬU BÉ KHIẾM KHUYẾT BỘ PHẬN SINH DỤC
Bị chó cắn mất "cậu nhỏ" và tinh hoàn lúc 4 tháng tuổi, càng lớn Quang càng đau khổ vì khiếm khuyết. 24 tuổi, sau 3 lần mổ, anh thấy mình "gần như người bình thường".
Quang sinh ra trong một gia đình nghèo, bố là thương binh nặng. Lúc 4 tháng tuổi nằm ngủ trên võng để bố mẹ đi làm, cậu nhóc vừa biết lật thức dậy và rơi xuống đất rồi đại tiện ngay tại đó. Con chó của gia đình đã nuốt trọn bộ phận sinh dục của Quang. Sau đó, em được gia đình đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Việt Nam - Cuba.
"Cuộc sống của cháu từng như địa ngục. Cháu luôn bị bạn bè trọc ghẹo vì khiếm khuyết của mình. Gia đình cháu phải chuyển đến Lâm Đồng, hy vọng không ai biết 'bí mật' kia nhưng không may ở đó lại có một số người quen và họ đã kể mọi chuyện cho những người xung quanh. Cháu lại tiếp tục bị chế giễu", Quang kể về tuổi thơ đầy nước mắt trong lá thư gửi bác sĩ Roberto DeCastro - người đã trực tiếp phẫu thuật giúp cậu tìm lại niềm tin sống.
15 tuổi, Quang bỏ học vào TP HCM làm. Cậu sống cô độc, buồn chán cho tới khi nghe về chương trình phẫu thuật tái tạo bộ phận sinh dục cho trẻ không may trên tivi và đăng ký ngay. Tháng 8/2011, Quang ra Hà Nội và được các chuyên gia nước ngoài trong chương trình "Thiện Nhân và những người bạn" khám, sau đó mổ lần đầu vào tháng 11 cùng năm. Đến nay, Quang đã thực hiện phẫu thuật 3 lần và đang quá trình hoàn thiện tái tạo bộ phận sinh dục.
"Bác sĩ là một thiên thần có bàn tay ma thuật và trái tim vàng. Bác đã cho cháu hy vọng và tin tưởng vào một tương lai tốt hơn. Cháu rất vui và đã sẵn sàng cho những lần phẫu thuật tiếp theo để thực sự trở thành một người đàn ông bình thường", Quang viết cho bác sĩ Roberto DeCastro.
UserPostedImage
Bác sĩ Roberto DeCastro đang khám bộ phận sinh dục cho một bệnh nhi tại Bệnh viện Nhi trung ương đầu tháng 7. Ảnh: TN.
Chương trình "Thiện Nhân và những người bạn" chuyên phẫu thuật tái tạo bộ phận sinh dục cho trẻ xuất phát từ một sự kiện đặc biệt năm 2006. Ngày đó, bị bỏ rơi trong rừng lúc mới lọt lòng mẹ, bé Thiện Nhân bị động vật tấn công làm mất một chân và gây tổn thương nghiêm trọng bộ phận sinh dục. Chị Trần Mai Anh (Hà Nội) đã nhận nuôi và cùng với ông Greig Craft, Chủ tịch Quỹ Phòng chống Thương vong Châu Á đưa bé đi khắp nơi để tìm phương pháp tái tạo bộ phận sinh dục cho Thiện Nhân.
Trên hành trình đó, họ đã gặp giáo sư Roberto Decastro tại Italy, người sáng tạo ra phương pháp tái tạo bộ phận sinh dục cho trẻ. Giáo sư Decastro cùng các đồng nghiệp đã phẫu thuật cho Thiện Nhân. Sau thành công này, từ năm 2010 đến nay, đội ngũ chuyên gia từ Mỹ và Italy đã tình nguyện tới Việt Nam, thăm khám cho 388 em nhỏ, tiến hành phẫu thuật cho 74 em (cả trai và gái) có hoàn cảnh khó khăn đến từ khắp các tỉnh thành.
Tháng 6 vừa qua, nhóm chuyên gia tới Việt Nam thực hiện kỳ phẫu thuật thứ sáu, dự kiến dịp này sẽ mổ cho 32 em tại Bệnh viện nhi - phụ sản Đà Nẵng, Bệnh viện nhi đồng 2 TP HCM và Bệnh viện Nhi trung ương. Chương trình tài trợ tất cả chi phí đi lại và ăn ở cho các gia đình bệnh nhân tham gia.
UserPostedImage
Nhóm bác sĩ trong chương trình "Thiện Nhân và những người bạn" đang phẫu thuật cho một bệnh nhi. Ảnh: TN.
Bà Trần Mai Anh, người sáng lập chương trình cho biết, nhờ có những tấm lòng hảo tâm của rất nhiều người, chương trình đã giúp nhiều trẻ có lại cuộc sống bình thường. Ngoài việc trực tiếp phẫu thuật cho trẻ kém may mắn, chương trình còn tổ chức những buổi hội thảo chuyên ngành để các bác sĩ Việt Nam và quốc tế trao đổi về phương pháp phẫu thuật tiên tiến này.
“Nhiều người chỉ quan tâm tới các phẫu thuật sứt môi, hở hàm ếch để sửa dị tật bẩm sinh trên khuôn mặt mà chưa thấy được hậu quả nặng nề của các tổn thương và dị tật ở bộ phận sinh dục. Các ca phẫu thuật này không chỉ giúp các em nhỏ có thể tiểu tiện bình thường, không còn mặc cảm, xấu hổ mà còn giúp các em có một cuộc sống hòa đồng và hữu ích”, chủ tịch Quỹ Phòng chống thương vong Châu Á, ông Greig Craft cho biết thêm.
Thực tế, nhiều trẻ được phẫu thuật trong chương trình mắc những dị tật liên quan đến vùng sinh dục rất phức tạp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và cuộc sống. Trường hợp bé Tú (quận Bình Tân, TP HCM) là một điển hình.
Thanh chào đời đã bị dị tật nghiêm trọng ở bộ phận sinh dục với các biểu hiện thành bụng hở, nhìn thấy rõ một phần của bàng quang, không có hậu môn, không có cơ quan sinh dục ngoài. Trong y khoa, bệnh này được gọi là “ổ nhớp lộ ngoài”. Từ khi mới sinh, bé tiểu tiện và đại tiện ở chung một đường, thoát ra ở cùng một lỗ nhỏ trên thành bụng.
Từ năm 2007, khi được 2 tuổi, Tú đã trải qua vài lần phẫu thuật để tạo hậu môn, bàng quang giả nhưng không thành công, lúc thì bàng quang lộ ra ngoài, lúc thì đại tiểu tiện không tự chủ. Em cũng không có khung xương bẹn để giữ bàng quang trong cơ thể và bị dị tật bẩm sinh ở khung xương nên không thể đi lại. Bố và mẹ Tú người làm thợ hồ, người làm công nhân nên gia đình vô cùng khó khăn, tuy vậy, họ vẫn quyết tâm chữa bệnh cho con.
Sau lần đầu tiên Tú được bác sĩ Roberto DeCastro khám và phẫu thuật vào tháng 6/2012, hiện tại, em vừa trải qua ca phẫu thuật lần 2 tại BV Nhi đồng 2, TP HCM và đang được chăm sóc tại viện.
"Tôi vẫn nhớ rất rõ ngày biết tin về chương trình "Thiện Nhân và những người bạn". Con tôi đăng ký thứ 26. Từ ngày đó, gia đình tôi bắt đầu nuôi dưỡng hy vọng có ngày con sẽ hoàn toàn lành lặn", anh Du tâm sự.
Chị Trần Mai Anh cho biết, khuyết tật bộ phận sinh dục không đơn thuần chỉ là khiếm khuyết về mặt cơ thể mà liên quan đến tất cả bộ phận khác. Trong đó, tâm lý là một trong những vấn đề mà các em phải đối mặt và cần được gia đình, cộng đồng giúp đỡ.
Trung là một cậu bé quê ở Đồng Nai. Trung sinh ra với bộ phận ngoài là nữ. Vài tháng sau, mẹ Trung phát hiện khi con khóc thì có hạt gì đó gần bộ phận sinh dục nổi lên. Kết quả siêu âm cho thấy đó là tinh hoàn. Bố mẹ Trung đưa con đi xét nghiệm nhiễm sắc thể thì được xác định bé là nam. Bé được phẫu thuật lần đầu để đưa 2 tinh hoàn ẩn xuống bìu, nhưng tình trạng bệnh vẫn phức tạp.
Tháng 8/2011, Trung được bác sĩ DeCastro lần đầu thăm khám tại Hà Nội. Tháng 11, em được phẫu thuật lần đầu. Tuy vậy để có được bộ phận sinh dục như một bé trai bình thường, Trung cần phải trải qua nhiều ca phẫu thuật nữa. Hiện tại, em vừa mổ lần thứ năm và đã xuất hiện, với tình trạng sức khỏe ổn định.
Mẹ Trung kể, cậu con trai 17 tuổi của chị bắt đầu bước vào giai đoạn dậy thì nên chị rất lo lắng. Mỗi lần đi học, Trung mặc cảm vì mình là con trai nhưng phải đi tiểu ngồi. "Tôi chỉ luôn nhắc con rằng, có rất nhiều bạn còn bị bệnh hiểm nghèo ảnh hưởng tới tính mạng, để cháu lạc quan hơn và tiếp tục cố gắng học tập, đợi khi được phẫu thuật hoàn thiện", chị nói.
Quote:
Tính đến tháng 6/2014, kỳ phẫu thuật lần thứ sáu này đã nhận được 80.000 USD từ nhiều tấm lòng hảo tâm trong và ngoài nước, nhiều doanh nhân ở Việt Nam, Singapore, Mỹ và Đại sứ quán Italy tại Hà Nội. Tuy nhiên, để có thể phẫu thuật và khám được cho tất cả các em nhỏ, chương trình vẫn cần thêm 80.000 USD. Chương trình hy vọng sẽ tiếp tục duy trì để giúp được nhiều trẻ không may.
Những gia đình có con nhỏ gặp bất thường ở bộ phận sinh dục hay các vùng liên quan (cả bé trai và gái) có thể liên hệ để được tư vấn và đăng ký lịch khám, phẫu thuật qua email: chuongtrinhthiennhan @gmail.com hoặc Hotline: 0942.95.95.98
NHỮNG NGUYÊN NHÂN GÂY MẤT NGỦ ,
NHỮNG PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ VÀ
NHỮNG CÁCH TRỊ LIỆU
( INSOMNIA CAUSES, CURES, AND TREATMENTS )
Lynn Ly Phỏng Dịch theo trang web của
Hiệp Hội Hướng Dẫn Trợ Giúp Giải Quyết Những Thử Thách
về Sức Khỏe tại Hoa Kỳ
(htXp://helpguide.org/life/insomnia_treatment.h tm )
Có phải bạn đang vật vã, cố gắng hết sức cả hàng giờ để ngủ cho dù bạn đang mệt mỏi như thế nào? Hoặc là bạn thức giấc lúc nửa đêm và tỉnh táo nằm như vậy trong cả giờ đồng hồ , bồn chồn nhìn đồng hồ , cảm giác thời gian trôi đi ? Nếu đúng như vậy, bạn đã tìm đúng nơi này để được trợ giúp . Chứng bệnh mất ngủ là một vấn đề rất phổ biến về giấc ngủ . Thật bực bội khi trăn trở suốt đêm, rồi cũng chỉ là thức giấc với đôi mắt mở thao láo nghe âm thanh gõ nhịp của chuông đồng hồ báo thức và tình trạng bực bội kéo dài suốt ngày trong cực kỳ mệt mỏi
Chứng mất ngủ lấy mất đi 1 số lượng năng lực làm việc, tâm tình tính khí , và khả năng hoạt động trong ngày của bạn . Chứng mất ngủ mãn tính có thể góp phần vào những vấn đề sức khỏe như bệnh tim, cao huyết áp, và bệnh đái đường / bệnh tiểu đường . Nhưng bạn không cần phải kiên nhẫn chịu đựng chứng mất ngủ. Những thay đổi đơn giản trong lối sống của bạn và trong thói quen hàng ngày có thể làm ngừng chứng bệnh mất ngủ ban đêm .
KHỔNG NGỦ ĐƯỢC ? AM HIỂU VỀ CHỨNG MẤT NGỦ VÀ NHỮNG TRIỆU CHỨNG CỦA CHỨNG BỆNH MẤT NGỦ (CAN’T SLEEP? UNDERSTANDING INSOMNIA AND ITS SYMPTOMS )
Chứng mất ngủ là sự mất khả năng để có được số lượng giấc ngủ mà bạn cần có để khi thức dậy có được cảm giác được nghỉ ngơi và được khoan khoái mới mẻ lại . Bởi vì những người khác nhau cần số lượng khác nhau về giấc ngủ, mất ngủ được định nghĩa / được xác định bởi chất lượng giấc ngủ của bạn và bạn cảm thấy thế nào sau khi ngủ - không phải là số giờ mà bạn ngủ hoặc bạn ngủ chập chờn nhanh chóng ra sao . Ngay cả khi nếu bạn dùng 8 tiếng đồng hồ ban đêm trên giường, nếu bạn cảm giác buồn ngủ và mệt mỏi ban ngày , có thể là bạn đang bị chứng mất ngủ
Mặc dù chứng mất ngủ là một loại bệnh về giấc ngủ phổ biến nhất, căn bệnh này không phải là một rối loại giấc ngủ đơn thuần . Chính xác hơn thì hãy liên tưởng chứng mất ngủ như là 1 triệu chứng của một vấn đề khác . Vấn đề gây ra chứng mất ngủ có khác biệt giữa người này so với người kia . Vấn đề có thể là điều gì đó đơn giản như uống quá nhiều chất kích thích caffein vào ban ngày hoặc một vấn đề phức tạp hơn như là đang trong tình trạng trị liệu căn bệnh nào đó hoặc đang cảm thấy quá tải / quá nặng nề tránh nhiệm
Tin tốt lành là hầu hết các trường hợp mất ngủ có thể được chữa khỏi bằng những thay đổi mà bạn có thể tự thực hiện mà không phải dựa vào các chuyên gia / bác sĩ chuyên khoa về giấc ngủ hoặc chuyển sang dùng thuốc theo toa bác sĩ hoặc thuốc hoặc uống thuốc ngủ không cần toa bác sĩ được bày bán trên kệ trong các tiệm thuốc.
NHỮNG TRIỆU CHỨNG CỦA CHỨNG BỆNH MẤT NGỦ (SYMPTOMS OF INSOMNIA) :
•Khó khăn chìm vào giấc ngủ / khó khăn ngủ thiếp đi dù đã mệt mỏi
•Thường xuyên thức giấc trong đêm
•Khó khăn trong việc quay trở lại giấc ngủ khi tỉnh giấc
•Giấc ngủ không khoan khoái , sảng khoái, thoải mái
•Lệ thuộc vào thuốc ngủ hoặc rượu để ngủ thiếp đi
•Tỉnh giấc rất sớm vào buổi sáng
•Buồn ngủ vào ban ngày , mệt mỏi, hoặc cáu gắt / gắt gỏng
•Khó khăn trong việc tập trung tư tưởng ở ban ngày
NHỮNG NGUYÊN NHÂN GÂY NÊN CHỨNG BỆNH MẤT NGỦ: PHỎNG ĐOÁN RA TẠI SAO BẠN KHÔNG THỂ NGỦ ĐƯỢC (CAUSES OF INSOMNIA: FIGURING OUT WHY YOU CAN’T SLEEP)
Để điều trị một cách chuẩn xác và trị liệu căn bệnh mất ngủ của bạn, bạn cần trở thành một người trinh thám, một nhân viên điều tra về giấc ngủ . Những vấn đề về cảm xúc như sự căng thẳng, buồn phiền lo âu, trầm cảm là nguyên nhân gây ra phân nửa trên tổng số các trường hợp mất ngủ. Nhưng những thói quen ở ban ngày của bạn, giờ giấc ngủ nghỉ thường ngày, và thể chất khỏe mạnh cũng có thể đóng 1 vài trò góp phần gây ra mất ngủ .
Những Nguyên Nhân Gây Nên Chứng Mất Ngủ (Causes Of Insomnia):
•Bạn có đang trong tình trạng bị đồn nén công việc và căng thẳng không ?
•Bạn có đang bị trầm cảm không ( có đang trong tình trạng bị thất tình , thất trí , buồn phiền, tinh thần sa sút tuột dốc không) ? Bạn có cảm giác trống rỗng hay đang thất vọng không ?
•Bạn có cố gắng vật vã trong những cảm giác lo âu sợ hãi bồn chồn không nguôi ngoai không ?
•Bạn có vừa trải qua một biến động lớn , một dau thương mất mát hay trải qua 1 chấn thương cả thể xác lẫn tâm hồn không ?
•Bạn có đang sử dụng thuốc men mà có ảnh hưởng đến giấc ngủ không ?
•Bạn có bị những vấn đề về sức khỏe nào đó mà ảnh hưởng đến giấc ngủ không ?
•Hoàn cảnh nơi phòng ngủ của bạn có được yên tĩnh và thoải mái không ?
•Bạn có cố gắng đi ngủ dúng giờ và thức dậy đúng giờ mỗi ngày không ?
NHỮNG NGUYÊN NHÂN VỀ TINH THẦN VÀ THỂ CHẤT PHỔ BIẾN VỀ CHỨNG MẤT NGỦ (COMMON MENTAL AND PHYSICAL CAUSES OF INSOMNIA):
Đôi khi, chứng bệnh mất ngủ chỉ kéo dài một vài ngày và tự nó biến mất, đặc biệt là khi chứng bệnh mất ngủ gắn liền với một nguyên nhân tạm thời thật rõ ràng, như là sự căng thẳng về một bài thuyết trình sắp diễn ra, một cuộc chia tay / một đổ vỡ tình cảm thật đau khổ, hoặc sự thay đổi nhịp sinh học của cơ thể ( jet lag = desynchronosis = là một tình trạng sinh lý mà kết quả từ sự thay đổi nhịp sinh học của cơ thể). Những lần khác, chứng mất ngủ thì dai dẳng kéo dài. Chứng mất ngủ mãn tính thường được gắn liền với một vấn đề tiềm ẩn về tâm thần hoặc về cơ thể
•Những vấn dế thuộc về tâm lý mà gây ra chứng mất ngủ : trầm cảm, buồn hiên lo lắng, căng thẳng trường kỳ / căng thẳng mãn tính, rối loạn lưỡng cực, rối loạn căng thẳng sau chấn thương .
•Những loại thuốc có thể gây mất ngủ: thuốc chống trầm cảm, thuốc trị cảm cúm mà có chứa chất rượu cốn; thuốc giảm đau nhức mà có chứa chất caffein (Midol, Excedrin); thuốc lợi tiểu, thuốc corticosteroids, thyroid hormone, thuốc trị cao huyết áp .
•Những vấn đề về bệnh tật mà có thể gây chứng bệnh mất ngủ : Bệnh Hen Suyễn, các loại bệnh dị ứng, bện Parkinson , cường giáp, Trào ngược dạ dày thực quản (acid reflux =Gastroesophageal reflux disease = GERD), bệnh thận, ung thư , hoặc đau nhức kinh niên,
•Những rối loạn giấc ngủ mà có thể gây ra chứng mất ngủ : ngừng thở khi ngủ , chứng ngủ gục ban ngày , hội chứng tê chân / hội chứng chân bồn chồn
BỒN CHỒN LO LẮNG VÀ TRẦM CẢM: HAI TRONG SỐ NHỮNG NGUYÊN NHÂN PHỔ BIẾN NHẤT VỀ CHỨNG BỆNH MẤT NGỦ MÃN TÍNH (ANXIETY AND DEPRESSION: TWO OF THE MOST COMMON CAUSES OF CHRONIC INSOMNIA)
Đa số những người đang hứng chịu một sư rối loạn buồn phiền lo âu hoặc trầm cảm thường gập rắc rối khi ngủ. Hơn thế nữa, việc thiếu ngủ có thể làm cho các triệu chứng lo âu hay trầm cảm trở nên nặng hơn / tồi tệ hơn . Nếu chứng mất ngủ của bạn gây ra bởi buồn phiền lo âu hoặc trầm cảm, việc sử lý những vấn đề tiềm ẩn về tâm lý là mấu chốt trị liệu .
Để trợ giúp xác định các triệu chứng buồn phiên lo âu và trầm cảm, hãy xem (tài liệu sau đây) :
•Những rối loạn và xâm lấn của sự buồn phiền lo âu : những dấu hiệu , những triệu chứng và những chọn lựa điều trị
•Am hiểu Trầm Cảm: Những dấu hiệu, những triệu chứng , những nguyên nhân, và sự trợ giúp
NHỮNG PHƯƠNG PHÁP TRỊ LIỆU CHỨNG MẤT NGỦ VÀ NHỮNG ĐIỀU TRỊ VIỆC THAY ĐỔI NHỮNG THÓI QUEN MÀ LÀM GIÁN ĐOẠN / PHÁ VỠ GIẤC NGỦ (INSOMNIA CURES AND TREATMENTS: CHANGING HABITS THAT DISRUPT SLEEP)
Cho dù đang khi tiến hành điều trị các vấn đề tiềm ẩn về thể chất và tâm thần có bước đầu tốt đẹp, phương cách này có thể không đủ để điều trị căn bệnh mất ngủ của bạn . Bạn cũng cần xem xét lại những thói quen hằng ngày của bạn . Một số trong những điều bạn đang thực hiện để đối phó với chứng mất ngủ thực sự có thể làm cho vấn đề trở nên tồi tệ hơn.
Thí dụ, có thể bạn đang sử dụng thuốc ngủ hoặc uống rượu để ngủ thiếp đi, những thứ nay thường làm gián đoạn giấc ngủ / phá vỡ giấc ngủ nhiều hơn về lâu dài. Hoặc có thể bạn uống quá nhiều cafe vào ban ngày , làm cho việc ngủ thiếp đi trở nên khó hơn sau đó . Thông thường , việc thay đổi những thói quen mà củng cố lại sự thiếu ngủ cũng đủ để khắc phục chứng mất ngủ theo luôn . Phải mất vài ngày để cho cơ thể bạn quen với sự thay đổi, nhưng một khi bạn thực hiện được, bạn sẽ ngủ ngon / ngủ tốt hơn
SỬ DỤNG CUỐN SỔ TAY GHI CHÉP VỀ GIẤC NGỦ ĐỂ XÁC ĐỊNH NHỮNG THÓI QUEN GÂY RA CHỨNG MÚC NGỦ (USING A SLEEP DIARY TO IDENTIFY INSOMNIA-INDUCING HABITS
Một số thói quen như là đã ăn sâu vào người mà bạn có thể bỏ qua thói quen này vậy là một đóng góp đáng kể cho việc trị liệu chứng mất ngủ của bạn. Có thể những thói quen lâu ngày / thói quen có tính cách như sợi dây xích ảnh hưởng đến giấc ngủ của bạn nhiều hơn bạn (tự) nhận biết ra . Hoặc giả có thể bạn không bao giờ liên hệ đến việc xem truyền hình ban đêm của bạn hay sử dụng Internet với sự khó khăn về giấc ngủ của bạn . Hãy gìn giữ 1 quyển sổ nhật ký ghi chép giờ giấc ngủ nghỉ là một phương cách hỗ trợ tốt để điểm ra những thói quen và những hành vi / những hoạt động góp phần vào sự mất ngủ của bạn
Tóm lại là bạn phải ghi chép lại những chi tiết từng ngày về những thói quen trong ngày , giờ giấc ngủ nghỉ , và những triệu chứng mất ngủ . Thí dụ, bạn có thể theo dõi khi nào bạn lên giường đi ngủ và khi nào bạn thức dậy , nơi bạn nằm ngủ, bạn ăn uống gì , và bất kỳ những sự việc căng thẳng nào mà xẩy ra trong ngày
NHỮNG THÓI QUEN MÀ KHIẾN CHO CHỨNG MẤT NGỦ TỆ HẠI HƠN HABITS THAT MAKE INSOMNIA WORSE)
•Uống quá nhiều chất caffein
•Uống rượu hay hút thuốc trước khi lên giường
•Ngủ nhiều giấc suốt ngày
•Một thời khóa biểu không bình thường về giấc ngủ / Ý nói là ngủ không đúng giờ
BẢNG MẪU NHẬT KÝ GHI CHÉP VỀ GIẤC NGỦ CHO 1 TUẦN (WEEKLY SLEEP DIARY SAMPLE)
Chi Tiết
Chủ Nhật
Thứ Hai
Thứ Ba
Thứ Tư
Thứ Năm
Thứ Sáu
Thứ Bảy
Thể Dục
Bạn đã thể dục gi ? Khi nào ? Kéo dài tổng cộng trong bao lâu ?
Ngủ trưa / ngủ chợp mắt 1 lát
Nơi nào ? Lúc nào ? Kéo dài bao lâu ?
Chất Rượu và Caffein
Dùng loại nào ? Số lượng ? Khi nào ?
Cảm giác
Vui , buồn , căng thẳng , lo âu sợ hãi bồn chồn , những nguyên nhân chính khác
Thức Ăn và Nước Uống trong bũa ăn tối, ăn chơi
Ăn gì uống gì ? Khi nào ?
Thuốc men và thuốc ngủ
Loại thuốc gì ? Liều lượng ? Uống khi nào ?
Thời khóa biểu giờ giấc đi ngủ hằng ngày Tự tham thiền / tự điều chỉnh suy nghĩ ra sao ? Trong bao lâu thì ngủ
Thời gian ngủ trong bao lâu thì thức
HÒA NHẬP NHỮNG THÓI QUEN MỚI ĐỂ TRỢ GIÚP CHO GIẤC NGỦ CỦA BẠN (ADOPTING NEW HABITS TO HELP YOU SLEEP)
• Phải bảo đảm phòng ngủ của bạn được yên tĩnh, tối, và mát mẻ. Tiếng ồn , ánh sáng và hơi nóng có thể quấy rối giấc ngủ . Hãy cố gắng sử dụng 1 máy cản âm thanh / máy cản tiếng ồn hay dụng cụ bịt tai dể loại bỏ tiếng ồn bên ngoài , mở cửa sổ hay quạt máy để giữ căn phòng được mát mẻ , và đóng màn cửa để làm tối căn phòng hay một khăn bịt mắt để che chắn ánh sáng .
•Hãy bám chặt vào 1 thời khóa biểu ngủ nghỉ bình thường . Hãy hỗ trợ đồng hồ sinh học của bạn bằng cách đi ngủ và thức dậy đúng giờ mỗi ngày, bao gồm cả ngày nghỉ cuối tuần. Hãy thức dậy đúng giờ vào buổi sáng cho dù nếu bạn có bị mệt mỏi . Việc này sẽ trợ giúp bạn quay trở lại nhịp điệu giấc ngủ bình thường
•Tránh những giấc ngủ ngắn trong ngày . Nghỉ trưa hay chợp mắt ngủ trong ngày có thể làm khó ngủ hơn vào ban đêm . Nếu bạn cảm thấy thích chợp mắt ngủ / ngủ trưa, hãy giới hạn là chỉ ngủ trưa / chợp mắt ngủ trong 30 phút trước 3 giờ chiều
• Hãy tránh hoạt động có tính cách kích thích và tình huống căng thẳng trước khi đi ngủ . Việc này bao gồm thể dục mạnh mẽ; những tranh luận lớn hay bàn cãi / cãi vả / cãi lộn ; và TV, computer; hoặc sử dụng các trò chơi điện tử . Hãy tắt tất cả các máy điện tử tối thiểu 1 giờ đồng hồ trước khi ngủ
•Giảm thiểu tối đa chất caffein, rượu, và chất nicotine (nicotinechất trong thuốc lá) . Hãy ngừng uống các loại giải khát có chất caffein tối thiểu 8 tiếng đồng hồ trước khi lên giường . Tránh uống bia rượu vào buổi tối . Khi mà chất cồn rượu có thể làm cho bạn buồn ngủ , (nhưng) nó can thiệp vào chất lượng giấc ngủ của bạn . Hãy bỏ hút thuốc lá hoặc tránh hút thuốc lá vào ban đêm, khi mà chất nicotine là một chất kick thích .
NHỮNG LỜI KHUYÊN / NHỮNG MẸO NHỎ KHÁC DỂ CÓ ĐƯỢC GIẤT NGỦ NGON HƠN (MORE TIPS FOR GETTING BETTER SLEEP)
Tìm hiểu làm thế nào để tạo ra một môi trường ngủ tốt hơn, phát triển một thói quen thư giãn trước khi đi ngủ, tối ưu hóa thời khóa biểu / lịch trình giờ giấc giấc ngủ của bạn, và ăn uống và tập thể dục để hỗ trợ giấc ngủ, trong số các chiến lược khác .
Đọc thêm : Những lời khuyên / những mẹo nhỏ để có được giấc ngủ ngon hơn : Làm thế nào để ngủ ngon vào mỗi đêm (Lynn sẽ phỏng dịch thông tin này sau )
NHỮNG PHƯƠNG PHÁP TRỊ LIỆU CHỨNG MẤT NGỦ VÀ NHỮNG ĐIỀU TRỊ TRUNG HÒA / GIẢM THIỂU LO ÂU BỒN CHỒN KHI BẠN KHÔNG THỂ NGỦ
(INSOMNIA CURES AND TREATMENTS: NEUTRALIZING ANXIETY WHEN YOU CAN’T SLEEP)
Bạn có càng nhiều sự rắc rối về giấc ngủ, thì những rắc rối đó càng bắt đầu xâm nhập vào suy nghĩ của bạn . Bạn có thể sẽ sợ hãi khi đi ngủ vì bạn biết ngay rằng bạn sẽ phải lăn lộn và trăn trở hàng giờ hoặc tỉnh giấc vào 2 giờ sáng , rồi lập lại (sự trăn trở và tỉnh giấc). Hoặc có lẽ bạn đang lo lắng bởi vì bạn có điều gì đó thực hiện quan trọng vào ngày mai , và nếu bạn không có đủ một lần 8 giờ liên tục, bạn chắc chắn là bạn sẽ không làm được tốt cho ngày mai. Nhưng việc khổ sở và mong mỏi giấc ngủ khó khăn (như vậy) chỉ làm cho chứng mất ngủ trầm trọng hơn. Việc lo lắng để có giấc ngủ hoặc bạn có mệt mỏi như thế nào có thể làm cho bạn chìm đắm với adrenaline ( Lynn Ly chú thích : andrenaline là chất nội tiết, 1 loại hooc moon dẫn truyền thần kinh . Khi sản xuất trong cơ thể, chất adrenaline này làm tăng nhịp tim, lượng máu chạy trong mạch máu và làm giãn nở đường khí quản và tham dự vào các phản ứng phản hồi trong tranh đấu của hệ thần kinh giao cảm ), và trước khi bạn nhận biết ra , bạn thật tỉnh táo với đôi mắt mở thao láo
LEARNING TO ASSOCIATE YOUR BED WITH SLEEPING, NOT SLEEPLESSNESS
Nếu những lo âu về giấc ngủ xâm nhập vào đường hướng năng lực của bạn, để thoát ra sự xâm nhập này vào ban đêm, các chiến lược sau đây có thể giúp đỡ. Mục tiêu là rèn luyện cơ thể của bạn để kết hợp giường nằm với giấc ngủ và không có gì khác - đặc biệt là không nổi giận /thất vọng và lo âu bồn chồn.
•Chỉ sử dụng giường ngủ cho việc ngủ nghỉ và quan hệ tình dục . Không dùng làm việc, đọc sách, xem TV, hoặg sử dụng computer trên giường hoặc trong phòng ngủ . Mục tiêu duy nhất là kết hợp phòng ngủ với giấc ngủ , do đó não bộ của bạn và cơ thể sẽ đón nhận tín hiệu mạnh mẽ là đến giờ giỗ giấc ngủ khi bạn lên giường.
•Hãy ra khỏi giường khi bạn không thể ngủ . Đừng cố tự ép mình vào giấc ngủ . Trăn trở và lăn lộn chỉ làm gia tăng sự lo âu bồn chồn . Hãy đứng lên, rời khỏi phòng ngủ, và làm gì đó thư giãn , như đọc sách, uống 1 ly nước trà ấm ấm loại không có chất kích thích caffein , tắm , hoặc lắng nghe âm nhạc nhẹ nhàng . Khi bạn buồn ngủ, quay trở lại giường ngủ .
•Di dời đồng hồ trong phòng ngủ ra xa xa khỏi tầm nhìn . Việc bồn chồn lo lắng nhìn nhịp đồng hồ khi bạn không thể ngủ - việc nhận biết rằng bạn sẽ bị cực kỳ mệt mỏi khi thời gian (dành cho giấc ngủ) mất dần - chắc chắn là nguyên nhân tạo ra chứng mất ngủ .
Cũng thật hữu ích khi thách thức các thái độ tiêu cực về vấn đề giấc ngủ và mất ngủ của bạn mà bạn bị chứng mất ngủ này phát triển theo thời gian. Mấu chốt là việc nhận thức ra tự đánh bại những suy nghĩ và thay thế chúng với những suy nghĩ thiết thực hơn.
THÁCH THỨC NHỮNG SUY TƯỞNG TỰ ĐÁNH BẠI LÀ NGUỒN NGUYÊN LIỆU CHO CHỨNG MẤT NGỦ
( CHALLENGING SELF-DEFEATING THOUGHTS THAT FUEL INSOMNIA )
SUY NGHĨ TỰ ĐÁNH BẠI (SELF-DEFEATING THOUGHT)
KHUYẾN KHÍCH GIẤC NGỦ QUAY TRỞ LẠI (SLEEP-PROMOTING COMEBACK)
Những mong đợi không thiết thực : Tôi sẽ có thể ngủ ngon hằng đêm giống như một người bình thường . Tôi sẽ không có 1 vấn đề gì: Rất nhiều người vật vã chiến đấu với giấc ngủ theo thời gian / trong từng ngày . Tôi sẽ có thê/ ngủ với sự rèn luyện .
Sự phóng đại: Đêm nay là đêm duy nhất như mọi đêm, một đêm khác của sự đau khổ vì mất ngủ . Không có đêm nào giống đêm nào . Một đêm tôi ngủ ngon hơn so với những đêm khác
Hệ Quả Xấu / Tin tưởng là nhiều thứ tồi tệ hơn từ sự tồi tệ hiện giờ : Nếu tôi không thể ngủ nghỉ chút chút , tôi sẽ làm hỏng cuộc thuyết trình và nguy cơ mất việc Tôi có thể làm tốt cuộc thuyết trình cho dù nếu tôi mệt mỏi . Tôi vẫn có thể nghỉ ngơ và thư thái thư giãn đêm nay, ngay cả nếu tôi không thể ngủ
Vô Vọng / Mất Hy Vọng: Tôi không bao giờ sẽ có thể ngủ ngon . Giấc ngủ ngon ra ngoài tầm kiểm soát của tôi. Chứng mất ngủ có thể được điều trị . Nếu tôi ngừng lo lắng quá nhiều và tập trung vào các giải pháp tích cực, tôi có thể đánh bại nó .
Dự Đoán: Sẽ phải tốn tối thiểu 1 giờ đồng hồ để chìm vào giấc ngủ tối nay . Tôi biết vậy mà Tôi không biết điều gì sẽ xảy ra tối nay . Có lẽ tôi sẽ ngủ nhanh chóng nếu tôi sủ dụng các chiến lược
Hãy nhớ rằng, việc thay thế những ý nghĩ tự phản kháng / tự đánh bại cần thời gian và rèn luyện . Bạn có thể tìm thấy nó hữu dụng để ghi xuống bảng liệt kê của riêng mình , việc ghi lại những suy nghĩ tiêu cực mà bật bung và làm sao bạn có thể kháng cự chúng . Bạn có thể ngạc nhiên về những suy nghĩ tiêu cực thường chạy trong đầu của bạn. Hãy kiên nhẫn và yêu cầu hỗ trợ nếu bạn cần.
NHỮNG KỸ THUẬP THƯ GIÃN / THẢ LỎNG CÓ THỂ GIÚP BẠN NGỦ NGON ( RELAXATION TECHNIQUES THAT CAN HELP YOU SLEEP )
•Một thói quen đi ngủ thư giãn. Như một sự khởi đầu để rèn luyện sự buông xả thư giãn của bạn, hãy phát triển một thói quen đi ngủ êm ả yên tĩnh. Hãy tập trung vào sự yên tĩnh, các hoạt động nhẹ nhàng / hoạt động làm êm dịu , chẳng hạn như đọc sách, đan len, hoặc lắng nghe nhạc nhẹ . Hãy để đèn sáng ở mức độ thấp . Sự thư giãn sau đó và những kỹ thuật điều chỉnh sự căng thẳng có thể trợ giúp bạn đi vào một trạng thái thoải mái hơn.
•Thở bằng bụng / Kỹ thuật hít thở sâu đưa hơi thở xuống bụng Hầu hết chúng ta không hít thở sâu thật sâu như chúng ta nên hít thở sâu như vậy . Khi chúng ta hít thở sâu và đầy đủ, không chỉ liên quan đến lồng ngực, mà còn bụng, vùng lưng bên dưới, và vùng xương sườn ở lồng ngực, hít thở sâu thực sự có thể giúp hệ thống thần kinh trung ương (parasympathetic nervous system ) của chúng ta kiểm soát sự buông xả thư giãn. Hãy nhắm mắt lại, và cố gắng hít sâu, hit thở chậm chậm từ tốn, làm cho từng hơi thở sâu hơn làn hơi thơ trước đó . Hít bào bằng lỗ mũi và thở ra bằng miệng . Bạn có thể cố gắng thở ra một hơi dài hơn hít vào.
•Sự buông xả cơ bắp tiếp diễn không ngừng Việc buông xả cơ bắp tiếp diễn không ngừng thì dễ dàng hơn là nói. Hãy nằm xuống hoặc tự làm cho bạn cảm thấy thoải mái . Bắt đầu từ bàn chân của bạn , duỗi thăng / căng thẳng cơ bắp thật căng như bạn có thể làm . Giữ như vậy trong vòng 10 tiếng đếm (đếm từ 1 - 10) , rồi thì buông lỏng . Tiếp tục làm vậy cho từng nhóm bắp thịt trong cơ thể bạn , vận động như vậy từ bàn chân lên đến đỉnh đầu
HƯỚNG DẪN TỪNG BƯỚC TỪNG BƯỚC ĐỂ PHÁT TRIỂN VIỆC THỰC HÀNH BUÔNG RẢ THƯ GIÃN HẰNG NGÀY (A STEP-BY-STEP GUIDE TO DEVELOPING A DAILY RELAXATION PRACTICE)
Tìm hiểu thêm về kỹ thuật buông xả làm thư giãn mà có thể giúp giấc ngủ của bạn, bao gồm làm thế nào để bắt đầu một thực hành thiền định, điều khiển sự buông xả thư giãn cơ bắp tiếp diễn không ngừng , tận dụng lợi thế của yoga và tai chi / Thái Cực quyền , và sử dụng hít thở sâu để làm thư giãn.
Đọc Thêm : Những Kỹ Thuật Buông Xả Thư Giãn Dể Giải Tỏa Căng Thẳng (Lynn sẽ phỏng dịnh tài liệu này sau !!! )
NHỮNG PHƯƠNG PHÁP TRỊ LIỆU CHỨNG MẤT NGỦ VÀ NHỮNG ĐIỀU TRỊ: SỬ DỤNG NHỮNG CHẤT BỔ XUNG VÀ THUỐC MEM MỘT CÁCH KHÔN NGOAN (INSOMNIA CURES AND TREATMENTS: USING SUPPLEMENTS AND MEDICATION WISELY)
Khi bạn đang trằn trọc trăn trở và lăn lộn trong đêm, thật hấp dẫn để chuyển sang sử dụng thuốc men , chất bổ xung để hỗ trợ giấc ngủ . Nhưng trước khi bạn làm thế, đây là những gì bạn cần biết.
DINH DƯỠNG BỔ SUNG CHO CHỨNG MẤT NGỦ (DIETARY SUPPLEMENTS FOR INSOMNIA)
Có nhiều chế độ dinh dưỡng và thảo dược bổ xung trên thị trường cho các hiệu ứng về việc thúc đẩy giấc ngủ . Mặc dù chúng có thể được mô tả như là "chất thiên nhiên", hãy cẩn thân / thân trọng đối với những biện pháp khắc phục giấc ngủ vẫn có thể có tác dụng phụ và ảnh hưởng với các thuốc khác hoặc vitamin bạn đang sử dụng. Để biết thêm thông tin, hãy trao đổi / nói chuyện với bác sĩ hoặc dược sĩ của bạn.
Trong khi các bằng chứng khoa học vẫn đang được thu thập về các biện pháp thay thế để khắc phục giấc ngủ (ý nói biện pháp sử dụng thuốc hay chất bổ xung để thay thế cho biện pháp tự khác phục từ bản thân), bạn có thể thấy rằng một số trong số những biện pháp thay thế có thể có hiệu quả tuyệt vời cho bạn. Hai chất sung có những bằng chứng hỗ trợ hiệu quả nhất cho chứng mất ngủ là Melatonin và valerian .
•Melatonin Melatonin là một hooc môn xuất hiện rất tự nhiên mà cơ thể bạn sản xuất vào ban đêm . Melatonin trợ giúp điều chỉnh chu trình ngủ thiếp đi và tỉnh giấc của bạn. Melatonin cũng là một chất bổ xung được bày bán trên các quầy kệ ở tiệm thuốc không cần toa bác sĩ khi mua . Cho dù melatonin không hiệu quả cho mọi người, nó có thể là một cách trị liệu chứng mất ngủ hiệu quả đối với bạn - đặc biệt nếu bạn ở tình huống mất ngủ nghiêm trọng ( mắt mở thao láo suốt đêm như con chịm cú vọ ban đêm ) với xu hướng tự nhiên để đi ngủ trễ và dậy rất muộn hơn những người khác
•Valerian. Valerian là một dược thảo với tác dụng an thần nhẹ có thể giúp bạn ngủ tốt hơn. Tuy nhiên, chất lượng của các loại sung valerian rất khác nhau / khác biệt với nhau .
NHỮNG LOẠI THUỐC NGỦ THEO TOA BÁC SĨ DÀNH CHO CHỨNG MẤT NGỦ (PRESCRIPTION SLEEPING PILLS FOR INSOMNIA)
Trong khi những toa thuốc ngủ có thể cung cấp sự giải quyết tạm thời, điều quan trọng là phải am hiểu rằng thuốc ngủ không phải là một cách chữa trị chứng mất ngủ. Và nếu sử dụng không cẩn thận, chúng thực sự làm cho chứng bệnh mất ngủ trở nên tồi tệ hơn theo thời gian . Tốt nhất là sử dụng thuốc men chỉ như là một phương sách cuối cùng, và rồi sau đó, thật hạn chế chỉ dùng khi cần thiết, ngay khi thực sự cần thiết. Trước tiên , hãy thử thay đổi thói quen ngủ nghỉ của bạn, thói quen hàng ngày của bạn, và thái độ / quan niệm của bạn về giấc ngủ. Những bằng chứng cho thấy rằng sự thay đổi lối sống và sự thay đổi về ứng sử / hành vi tạo ra khác biệt lớn nhất và kéo dài nhất khi nói đến chứng bệnh mất ngủ.
Để hiểu biết hơn , hãy đọc Những loại thuốc ngủ , những loại hỗ trợ ngủ , và thiền học : Những gì bạn cần biết (Lynn sẽ phỏng dịch tài liệu này sau )
KHI NÀO CẦN SUY XÉT TÌM ĐẾN PHƯƠNG THỨC TRỊ LIỆU CHỨNG MẤT NGỦ TỪ NGƯỜI CHUYÊN NGHIỆP (WHEN TO CONSIDER SEEKING PROFESSIONAL INSOMNIA TREATMENT)
Nếu bạn đã từng cố gắng những điều trị chứng mất ngủ và phương thức trị liệu đã trình bày ở trên, và vẫn còn có những rắc rối để có được giấc ngủ như bạn cần có , bác sĩ hay chuyên gia về rối loạn giấc ngủ có thể trợ giúp bạn
Khi cần tim dến sự trợ giúp của chuyên gia về chứng mất ngủ :
•Nếu chứng mất ngủ của bạn không có phản hồi đối với những chiến lược / phương pháp tự cứu chữa của bản thân
•Nếu chứng mất ngủ của bạn đang gây ra nhiều vất đề nghiêm trọng / chính yếu trong gia đình /tại nhà , tại nơi làm việc , hoặc tại học đường
•Nếu bạn có trải nghiệm về những triệu chứng đáng sợ như đau tức ngực hoặc khó thở
•Nếu chứng mất ngủ của bạn hầu như xẩy ra hằng đêm và càng lúc càng trở nên tồi tệ / tệ hại
NHỮNG LỜI KHUYÊN VỀ GIẤC NGỦ : PHẢI LÀM GÌ KHI BAN KHÔNG THỂ NGỦ
NHỮNG LỜI KHUYÊN VỀ GIẤC NGỦ : PHẢI LÀM GÌ KHI BAN KHÔNG THỂ NGỦ
( SLEEP TIPS: WHAT TO DO WHEN YOU CAN’T SLEEP )
Lynn Ly phỏng dịch theo tài liệu
của TYLENOL NIGHTIME - SLEEP CENTER cung cấp
Để chìm vào giấc ngủ (buồn ngủ) có thể khó khăn nhưng sau đây là một số lời khuyên có thể hỗ trợ trong việc "nhắm mắt ngủ" .
Bạn đang trằn trọc trăn trở và thay đổi tư thế mà vẫn không thể ngủ, ngay cả khi bạn đã đóng rèm cửa, tắt đèn, và đã thực hiện tất cả mọi thứ mà bạn có thể nghĩ ra để vỗ về tâm trí của mình. Vấn đề của bạn có thể là không thực hiện từng bước thích hợp để chuẩn bị giấc ngủ cho bản thân mình một cách khoa học, theo như tiến sĩ Colleen Carney, Phó Giáo sư thuộc Khoa Tâm lý Đại học Ryerson thành phố Toronto-Canada và là tác giả cuốn sách “Goodnight Mind: Turn off Your Noisy Thoughts and Get a Good Night’s Sleep.” ("Chúc Tâm Trí ngủ ngon: Hãy dẹp bỏ mọi suy nghĩ phiền toái và đón lấy một giấc ngủ đêm ngon lành") đã nói .
Dưới đây là một số lời khuyên về giấc ngủ từ bác sĩ Carney và các chuyên gia khác về cách điều chỉnh, thư giãn để chìm sâu vào giấc ngủ:
• Hãy ra khỏi giường và vận động một khoảng thời gian vừa đủ lúc ban ngày . "Việc này tạo ra 1 thúc đẩy hay áp lực cho giấc ngủ sâu vào ban đêm " Bác Sĩ Carney nói vậy .
•Thực nghiệm luyện tập yoga, Thái Cực Quyền (Tai Chi), thiền định và những phương cách dẫn dắt tâm trí tĩnh lặng, nhưng hãy thực hiện phững biện pháp này trước giờ đi ngủ .
•Làm gì đó có tính cách vui vẻ nhẹ nhàng hợp lý vào buổi tối. Điều này sẽ thay đổi từ cá nhân này sang cá nhân khác , tiến sĩ Diane Boivin, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và điều trị nhịp tim sinh học của Viện Douglas, và là Giáo sư ngành Y tại Đại học McGill, Montreal Canada đã nói : "Nếu đọc một vài dòng hoặc một số trang trong một cuốn sách sẽ giúp bạn thư giãn, và điều này không gây khó khăn cho bạn buồn ngủ và không phá hỏng giờ giấc đi ngủ nghỉ của bạn. Không có vấn đề gì miền sao việc đọc sách không phải là đọc trên một máy tính bảng hoặc các thiết bị điện tử khác. "
•Hay thức dậy ngay khi tắt chuông đồng báo động thay vì nhấn nút chuông để báo động lại, thậm chí ngay sau một đêm mất ngủ. Nên biết là bạn không thể bù đắp sự mất ngủ ban đêm bằng giờ ngủ ban sáng, mặc dù rất nhiều người cố gắng làm vậy, Bác Si Carney khuyên vậy. "Trong bất kỳ giấc ngủ ở buổi sáng là chúng ta đón nhận ánh sáng, dó đó bạn đã tự cướp thời gian mà bạn có thể đầu tư cho giấc ngủ sâu ban đêm tiếp theo sau, hoặc tự cướp mất sự thúc đẩy giấc ngủ của mình. Bạn chỉ nên tự cho phép mình lảo đảo và cố gắng thúc đẩy năng lực hoạt động ban ngày của mình bằng cafein và cố gắng đi ngủ sớm vào đêm kế tiếp do bị khó ngủ ở đêm trước và đã không thức dậy trể vào buổi sáng"
•Hãy thức giấc đúng giờ hằng ngày. "Nếu bạn không sẵn sàng đi ngủ theo đúng thời gian qui định, vậy thì không nên đi ngủ. Bạn nên chờ đợi , bởi vì bạn sẽ nằm thao thức, nhưng bạn nên luôn luôn thức dậy đúng giờ cho dù bất kể điều gì ", Carney khuyên vậy.
• Nghiêm chỉnh thực hiện thói quen ngủ và thức dậy đúng giờ, ngay cả vào cuối tuần. "Cơ thể bạn không biết hôm nào là ngày cuối tuần" Bác sĩ Carney nói vậy. Việc bạn cố gắng ngủ thêm thêm 1 hay 2 giờ vào sáng thứ Bảy và Chủ Nhật gây ảnh hưởng đến những mức độ thuộc tầm kiểm soát giấc ngủ kiểm soát của hormone melatonin và mức độ mệt mỏi của bạn - nó giống như là máy bay phản lực bị giựt lùi vào mỗi sáng thứ Hai. "Nếu tôi nói tôi cần bạn đi du lịch (từ Toronto) đến Los Angeles và quay lại ngay, bạn có mong đợi giấc ngủ bình thường không (Chú thích: Toronto và Los Angeless có giờ giấc khác biệt là 6 giờ đồng hồ ) ... đó là một lý do mà mọi người không nên cho rằng điều đó xảy ra vào cuối tuần," Bác Sĩ Carney nói vậy.
• Hãy buông xả mọi lo lắng của bạn ngoài cánh cửa phòng ngủ. Con người thường hoảng hốt lo sợ về thời hạn phải làm xong điều gì đó; họ nghĩ rằng tất cả mọi việc đều thuộc trường hợp khẩn cấp và họ thấy khó khăn để "gỡ rối" (quên đi sự lo lắng) và do đó không thể ngủ vào ban đêm, Bác Sĩ Carney nói vậy. Nếu bạn dễ bị lo lắng về việc kinh doanh chưa hoàn tất, các vấn đề chưa được giải quyết , và thiết lập danh sách, thì nên làm điều đó sớm sớm hơn , ngay cả khi có cách giải quyết tốt nhất những vấn đề ... thì cũng nên buông xả mọi suy tư ở ngoài cửa phòng ngủ , Bác sĩ Carney đã nói vậy .
• Hãy nhận ra nếu bạn có đủ vận động và sự thúc đẩy giấc ngủ ban đêm ở ban ngày, bạn sẽ không cần phải "âm thanh ru ngủ", đeo mặt nạ để ngủ và các dụng cụ phụ trợ khác để ru bạn vào giấc ngủ vào ban đêm. Nếu bạn cần những dụng cụ hỗ trợ, điều nay có thể là một dấu hiệu cho thấy bạn đang bận tâm với giấc ngủ và lệ thuộc vào những gì Carney gọi là "nỗ lực ngủ" được liên kết với chứng mất ngủ. "Việc buồn ngủ / chìm vào giấc ngủ thì phải như rơi vào tình yêu; nó không cần 1 nỗ lực thúc ép "
•Nếu bạn không thể ngủ, có vấn đề khó khăn để ngủ hoặc khó quay lại giấc ngủ trong vòng 20 phút sau khi thức dậy trong đêm, hãy rời khỏi giường nằm và làm gì đó có tính cách xoa dịu tâm thần . "Nếu tâm ý cứ lu bu bận rộn thì sẽ không thể ngừng dứt suy tư , thường nên đưa vào bộ não một công việc lặp đi lặp lại phải làm - thí dụ như việc đếm số mấy con cừu - có thể trợ giúp ngủ lại" Tiến sĩ Maureen Ceresney, một chuyên gia giấc ngủ tại Đại học nói British Columbia, Vancouver đề nghị vậy .
•Hãy thử thay đổi nhiệt độc cơ thể của bạn. "Uống một ly sữa ấm hoặc ly trà thảo dược, tắm nước nóng một hoặc hai giờ trước khi đi ngủ, hoặc luyện tập vài động tác thể dục về tim mạch trong buổi chiều hay buổi tối, việc này có thể tạo thuận lợi cho việc thúc đẩy giấc ngủ ngon," Ceresney nói.
•Nếu việc làm tối phòng ngủ trợ giúp ngủ ngon thì nên thực hiện vì ánh sáng quấy rối sản phẩm do chât Melatonin tạo ra và là nguyên nhân gây ra rối loại hay những vấn đề thuộc về "đồng hồ sinh học" trong cơ thể bạn
•Hãy suy xét tìm kiếm sự trợ giúp y tế nếu các phương pháp trên không hiệu quả và bạn vẫn không thể ngủ, tiến sĩ Atul Khullar , bác sĩ tâm thần, Giám đốc Y khoa Northern Alberta Sleep Clinic (MedSleep Edmonton) đề nghị. "Nếu thiếu ngủ gây ảnh hưởng xấu đến các chức năng sinh hoạt ban ngày, nếu vấn đề không biến mất ; nếu nó đã không thay đổi, và nếu nó thực sự tiếp diễn trong đời sống của bạn, vậy là lúc cần được quan sát xem xét"
SUY THẬN : LỰA CHỌN 1 PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ PHÙ HỢP CHO BẠN
SUY THẬN : LỰA CHỌN 1 PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ PHÙ HỢP CHO BẠN
(KIDNEY FAILURE: CHOOSING A TREATMENT THAT’S RIGHT FOR YOU )
Lynn Ly phỏng dịch tài liệu từ
htXtp://kidney.niddk.nih.gov/KUDiseases/pubs/choosingtreatment/index.aspx
GIỚI THIỆU (INTRODUCTION)
Thận của bạn lọc chất thải từ máu và điều hoà các chức năng khác của cơ thể. Khi thận của bạn bị suy yếu (không hoạt động nữa) , bạn cần điều trị để thay thế những những hoạt động mà thận của bạnh thực hiện lúc bình thường.
Khi thận bị hư hại đến mức bạn phải thực hiện một số quyết định về phương cách trị liệu. Bạn có thể chọn lựa từ bỏ trị liệu (không tiếp nhân trị liệu) . Nếu bạn chọn tiếp nhận trị liệu, sự lựa chọn của bạn bao gồm:
•Chạy Thận Nhân Tạo / Lọc Máu Theo Chu Kỳ (Hemodialysis), phương pháp này cần một bộ máy được sử dụng để lọc máu bên ngoài cơ thể của bạn;
•Chạy Thận Phúc Mạc (Peritoneal Dialysis) , phương pháp này sử dụng màng bụng của bạn để lọc máu bên trong cơ thể.
•Cấy Ghép Thận (Kidney Transplantation), ở phương pháp này một quả thận mới được đặt trong cơ thể của bạn.
Mỗi phương pháp điều trị đều có những ưu điểm và nhược điểm (tiện ích và bất lợi). Sự lựa chọn phương pháp điều trị cho bạn sẽ có một tác động lớn đến lối sống hằng ngày của bạn, chẳng hạn như có thể gìn giữ công ăn việc làm nếu bạn đang làm việc (kiếm sống) . Bạn là người duy nhất có thể quyết định những gì có ý nghĩa nhất cho bạn. Đọc thông tin này là một phương cách để có hiểu biết về những lựa chọn (được đề nghị) từ đó bạn có thể quyết định chọn phương cách nào. Và nếu bạn thấy rằng sự lựa chọn của bạn không phù hợp tốt cho lối sống của bạn, bạn có thể thay đổi phương pháp điều trị. Với sự trợ giúp của nhân viên y tế, gia đình và bạn bè, bạn có thể sống một cuộc sống đầy năng động.
BẠN BỊ SUY THẬN KHI NÀO (WHEN YOUR KIDNEYS FAIL)
Quả thận khoẻ mạnh làm sạch máu của bạn bằng cách loại bỏ dung dịch dư thừa, những khoáng chất và những chất thải. Chúng cũng tạo ra kích thích tố mà gìn giữ cho xương của bạn cứng cáp và máu của bạn khỏe mạnh. Khi quả thận của bạn bị suy yếu hay hư hỏng, những chất thải độc hại tích tụ trong cơ thể, huyết áp của bạn có thể gia tăng, và cơ thể của bạn có thể tồn lại dung dịch dư thừa và không tạo ra đủ lượng hồng huyết cầu . Khi sự thể này xảy ra, bạn cần trị liệu để thay thế hoạt động của quả thận bị hư hỏng của bạn.
SỰ CHỌN LỰA ĐIỀU TRỊ : LỌC MÁU ĐỊNH KỲ / CHẠY THẬN NHÂN TẠO
(TREATMENT CHOICE: HEMODIALYSIS )
MỤC ĐÍCH (PURPOSE)
Chạy thận nhân tạo/Lọc máu định kỳ (Hemodialysis)làm sạch và gạn lọc máu bằng cách sử dụng một bộ máy mà tạm thời loại ra khỏi cơ thể các chất thải độc hại, muối dư thừ , và lượng nước dư thừa. Chạy thận nhân tạo trợ giúp kiểm soát và điều khiển huyết áp, và trợ giúp cơ thể bạn ở trạng thái quân bình về các hóa chất quan trọng như potassium (kali), sodium (natri), calcium (canxi), và bicarbonate.
Chạy Thận / Lọc máu / Thẩm tách (Dialysis) có thể thay thế một phần chức năng của thận. Chế độ dinh dưỡng, thuốc men, và việc hạn chế chất lỏng thường cũng rất cần thiết nữa. Chế độ dinh dưỡng, (dung nạp) chất lỏng của bạn, và số lượng thuốc bạn cần sẽ phụ thuộc vào phương pháp điều trị mà bạn lựa chọn.
CÁCH CHẠY THẬN NHÂN TẠO / LỌC MÁU THEO ĐỊNH KỲ HOẠT ĐỘNG RA SAO (HOW HEMODIALYSIS WORKS)
Chạy thận nhân tạo /lọc máu theo định kỳ (Hemodialysis) là sử dụng một bộ lọc đặc biệt gọi là bộ phận thẩm tách (dialyzer) , bộ phận này có chức năng như một quả thận nhân tạo để làm sạch máu của bạn. Bộ phận thẩm tách (dialyzer) là một hộp nhỏ kết nối với máy chạy thận nhân tạo (hemodialysis machine).
UserPostedImage
Hình ảnh của trang web kidney.niddk.nih.gov về Hemodialysis (Chạy Thận Nhân Tạo / Lọc Máu Theo Định Kỳ)
Trong khi điều trị, máu của bạn di chuyển qua các ống dẫn vào bộ phận thẩm tách (dialyzer), bộ phận này lược ra những chất thải, lượng muối dư thừa, và lượng nước dư thừa. Sau đó, dòng máu được làm sạch chảy thông qua một bộ ống trở lại vào cơ thể của bạn. Máy chạy thận nhân tạo (hemodialysis machine) theo dõi lưu lượng máu và loại bỏ các chất thải từ bộ phận thẩm tách (dialyzer) này.
UserPostedImage
Hình ảnh của trang web kidney.niddk.nih.gov về máy Thẩm Tách (dialyzer))
Chạy thận nhân tạo / Lọc máu định kỳ (Hemodialysis) thường được thực hiện 3 lần 1 tuần . Mỗi lần điều trị kéo dài từ 3 đến 5 tiếng hay lâu hơn. Trong khi điều tri, bạn có thể đọc sách, viết lách, ngủ , trò chuyện hay xem TV
CHUẨN BỊ SẴN SÀNG (GETTING READY)
Vài tháng trước khi bạn được điều trị chạy thận nhân tạo (hemodialysis) lần đầu tiên, bộ phận truy cập vào dòng máu của bạn cần được cài đặt vào cơ thể bạn. Bạn có thể phải ở lại qua đêm trong bệnh viện, tuy nhiên nhiều bệnh nhân được thiết lập bộ phận truy cập vào dòng máu theo chế độ căn bản dành cho bệnh nhân ngoại trú. Việc thiết lập bộ phận truy cập vào dòng máu có công dụng đem máu từ cơ thể của bạn đưa vào bộ phận thẩm tách (dialyzer) và rồi thì đưa máu trở lại vào cơ thể mà không gây khó chịu cho bạn. Hai kiểu tạo đường truy cập vào máu là dùng một ống rò (fistula) và sự ghép mô (graft)
•Bác sĩ phẫu thuật tạo cho một đường ống rò fistula ngay trong mạch máu của bạn, nơi động mạch được kết nối trực tiếp vào tĩnh mạch, thường là ở phần trước của cánh tay bạn. Lưu lượng máu gia tăng lên làm cho các mạch máu nở lớn hơn và mạnh hơn do đó đường ống rò có thể được sử dụng để lập đi lập lại việc chèn mũi kim vào nó. Kiểu truy cập là kiểu được ưa thích. Có thể phải mất vài tuần để chuẩnn bị cho việc sử dụng ống rò.
UserPostedImage
Hình ảnh của trang web kidney.niddk.nih.gov về Cánh Tay với đường ống rò (Arm with a fistula).
•Cấy ghép mô (graft) nối liền động mạch với tĩnh mạch bằng một ống tổng hợp (a synthetic tube). Cách này không cần nới rộng mạch máu như là khi thực hiện đường ống rò (fistula), cho nên ống tổng hợp (a synthetic tube) có thể được sử dụng ngay sau khi cài đặt. Nhưng cấy ghép mô (graft) thì có nhiều khả năng về vấn đề nhiễm trùng và đông máu.
UserPostedImage
Hình ảnh của trang web kidney.niddk.nih.gov về sự ghép mô (graft)
Trước khi lọc máu, những mũi kim được đặt vào phần truy cập để máu chảy ra
Nếu bệnh thận của bạn đã tiến triển nhanh chóng, bạn có thể không có thời gian để được thiết lập một truy cập cố định vào mạch máu trước khi bắt đầu lọc máu. Bạn có thể cần phải sử dụng một ống thông, mềm mại cài đặt vào trong một tĩnh mạch ở ngực, cổ, hoặc chân gần háng như là một truy cập tạm thời. Một số người cũng sử dụng một ống thông này để truy cập dài hạn luôn nữa. Những ống thông mà cần thiết sử dụng trong vòng hơn khoảng 3 tuần phải được được thiết kế để cài đặt dưới da làm gia tăng sự thoải mái và giảm bớt các biến chứng.
UserPostedImage
Hình ảnh của trang web kidney.niddk.nih.gov về ống thông dùng cho truy cập tạm thời (Catheter for temporary access)
Để biết thêm thông tin về truy cập vào mạch máu, hãy xem tài liệu truy cập mạch máu dành cho Chạy thận nhân tạo / Lọc máu định kỳ của Viện Quốc gia về bệnh tiểu đường và tiêu hóa và bệnh Thận (NIDDK)
AI THỰC HIỆN CHẠY THẬN NHÂN TẠO / LỌC MÁU ĐỊNH KỲ (WHO PERFORMS HEMODIALYSIS)
Chạy thận nhân tạo / lọc máu định kỳ (Hemodialysis) thường được thực hiện tại một trung tâm chạy thận bởi kỹ thuật viên chuyên chăm sóc bệnh nhân, người kỹ thuật viên này được giám sát bởi những y tá / cán sự điều dưỡng . Bảo hiểm sức khỏe trả tiền 3 lần điều trị theo phương cách Chạy thận nhân tạo / lọc máu định kỳ hàng tuần . Nếu bạn chọn trị liệu tại trung tâm (nào đó) , bạn sẽ có một khoảng thời gian cố định, ba lần mỗi tuần vào thứ Hai - thứ Tư - thứ Sáu hoặc thứ Ba -Thứ Năm - thứ Bảy. Nếu bạn không được xắp xếp ở các khoảng thời gian bạn mong muốn nhất , bạn có thể yêu cầu được ghi danh vào một danh sách chờ đợi cho các khoảng thời gian mà bạn ưa thích. Đối với một trường hợp đặc biệt, bạn có thể trao đổi khoảng thời gian / kỳ hẹn của mình với người bệnh nhân khác. Bạn muốn được xuy xét / suy nghĩ đến lịch trình Chạy thận nhân tạo / lọc máu định kỳ nếu bạn làm việc hay phải chăm sóc trẻ nhỏ . Một số trung tâm có cung cấp việc chạy thận ban đêm tại trung tâm. Phương cách điều trị này được thực hiện trong một thời gian dài hơn vào ban đêm, trong khi bạn ngủ tại trung tâm. Phải chạy thận nhân tạo nhiều hơn nghia là phải giảm chế độ ăn uống và hạn chế chất lỏng / dung dịch, và cách điều trị này để dành ban ngày của bạn dùng cho công việc làm ăn, trông giữ trẻ, hoạt động theo sở thích, hoặc các công việc khác.
Bạn có thể chọn cách học hiểu làm thế nào để tự điều trị theo phương pháp chạy thận nhân tạo tại nhà. Khi bạn là người bệnh duy nhất, thì có thể chạy thận nhân tạo / lọc máu thường xuyên hơn hay kéo dài lâu hơn, để sự thay thế tiến đến gần hơn những hoạt động ổn định của quá thận khỏe mạnh thực hiện. Chạy thận nhân tạo (DHHD) hằng ngày tại nhà được thực hiện 5 đến 7 ngày mỗi tuần trong khoảng 2 đến 3 giờ mỗi một lần, và bạn thiết lập lịch trình cho riêng mình . Nếu công ty bảo hiểm sức khỏe của bạn sẽ phải trả hơn ba lần điều trị, bạn có thể thực hiện điều trị ngắn vào buổi sáng hoặc vào buổi tối. Chạy thận nhân tạo tại nhà ban đêm (Nocturnal home hemodialysis = NHHD) được thược hiện 3 để 6 đêm mỗi tuần khi lúc bạn ngủ . DHHD hoặc NHHD sẽ cho phép chế độ ăn uống bình thường hơn cùng chất lỏng / dung dịch với ít huyết áp hơn cùng với các thuốc khác. Hầu hết những người theo chương trình muốn chạy thận nhân tạo tại nhà phải có thân nhân được huấn luyện biết thực hiện phương pháp này ở nhà trong khi người bệnh thực hiện điều trị. Học cách chạy thận nhân tạo tại nhà cũng giống như học lái xe phải mất một vài tuần và sẽ đáng sợ lúc đầu, nhưng sau đó nó sẽ trở thành thói quen. Các trung tâm chạy thân cung cấp máy và huấn luyện , thêm vào nữa là 24 giờ hỗ trợ nếu bạn có thắc mắc hay có vấn đề gì. Các máy mới dùng cho việc chạy thận tại nhà nhỏ hơn và dễ dang sử dụng hơn các máy tại các trung tâm.
Bạn có một sự lựa chọn về các trung tâm chạy thận, và hầu hết các thị trấn có nhiều trung tâm để bạn chọn lựa. Bạn có thể ghé thăm một trung tâm để xem xét nơi đó có phương pháp điều trị bạn muốn hoặc khoảng thời gian mà bạn cần. Một số trung tâm sẽ cho phép bạn sử dụng điện thoại di động hoặc laptop(computer xách tay) hoặc cho người viếng thăm bạn (trong khi điều trị), trong khi những trung tâm khác thì không. Hiệp hội Y Khoa (Medicare) có một danh sách tất cả các trung tâm Hoa Kỳ về các Cơ sở chạy thận và có so sánh trên trang web (www.medicare.gov/dialysis) cùng xếp hạng chất lượng cho từng trung tâm. Công ty bảo hiểm sức khỏe của bạn có thể có bảng danh sách các trung tâm mà bạn có thể sử dụng . Nếu bạn lựa chọn điều trị tại trung tâm, bạn cân chọn trung tâm gần nhà đề giảm thiểu thời gian di chuyển . Nếu bạn chọn cách điều trị tại nhà, một khi bạn được huấn luyện bạn chỉ cần đến trung tâm một lần hằng tháng. Do đó, trung tâm có thể ở xa xa mà bạn không ngại di chuyển 1 lần một tháng.
NHỮNG BIẾN CHỨNG KHẢ DĨ / NHỮNG BIẾN CHỨNG CÓ THỂ XẢY RA (POSSIBLE COMPLICATIONS)
Những vấn đề về sự truy nhập vào mạch máu là nguyên nhân phổ biến nhất khiến phải nhập viện ở đại đa số bệnh nhân sử dụng Chạy Thận Nhân Tạo. Những vấn đề phổ biến bao gồm nhiễm trùng, sự tắc nghẽn dòng máu do đông máu, và lưu lượng máu suy giảm đến mức nghèo nàn. Những vấn đề này có thể làm cho việc điều trị của bạn không thực hiện được. Bạn có thể phải trải qua ca phẫu thuật lần nữa để có được một truy nhập vào mạch máu mà hoạt động đúng chức năng.
Các vấn đề khác có thể gây ra bởi những thay đổi nhanh chóng trong cơ thể về lượng nước và sư cân bằng hóa học trong quá trình điều trị. Chứng chuột rút (băp thịt bị co thắt cứng lại) và Hạ huyết áp - huyết áp bị tụt giảm đột ngột - là 2 phản ứng phụ phổ biến . Hạ huyết áp có thể làm cho bạn cảm thấy suy nhược, chóng mặt, hoặc bị đau dạ dày.
Bạn có lẽ sẽ cần một vài tháng để thích nghi với Chạy Thận Nhân Tạo. Những phản ứng phụ có thể được điều trị thường xuyên nhanh chóng và dễ dàng, do đó bạn nên luôn luôn thông cáo cho bác sĩ và nhân viên chạy thận biết. Bạn có thể tránh được nhiều tác dụng phụ nếu bạn tuân theo một chế độ ăn uống thích hợp, hạn chế ăn chất lỏng, và dùng thuốc theo chỉ dẫn.
DINH DƯỠNG CHO NGƯỜI ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ CHẠY THẬN NHÂN TẠO (DIET FOR HEMODIALYSIS)
Chạy thận nhân tạo (Hemodialysis) và chế độ ăn uống thích hợp giúp giảm bớt các chất thải tích tụ trong máu của bạn. Một chuyên gia dinh dưỡng thường luôn sẵn sàng trong tất cả các trung tâm chạy thận để giúp bạn thiết lập kế hoạch bữa ăn theo yêu cầu của bác sĩ. Khi lựa chọn thực phẩm, hãy nhớ :
•ăn một liều lượng cân đối về các loại thực phẩm giàu protein như thịt, thịt gà và cá.
•Kiểm soát số lượng potassium (Kali) mà bạn ăn . Potassium (Kali) là một khoáng chất được tìm thấy trong các sản phẩm thay thế muối, một số loại trái cây, chẳng hạn như chuối, cam, rau cải, sô cô la và các loại hạt dẻ. Quá nhiều potassium (kali) có thể nguy hiểm cho tim của bạn.
•Giới hạn lượng nước (chất lỏng) bạn uống . Khi thận của bạn không làm việc, nước tích tụ trong cơ thể của bạn một cách nhanh chóng. Quá nhiều chất lỏng làm cho các mô của bạn sưng tấy lên và có thể dẫn tới huyết áp cao, có vấn đề về tim, bị chuột rút (vọp bẻ) và hạ huyết áp trong quá trình lọc máu .
•Tránh dùng muối . Những thức năm có vị mặn làm cho bạn khát nước và làm cho cơ thể bạn tồn đọng nước
•Giới hạn các loại thực phẩm như sữa, cheese (phô ma), các loại hạt dẻ, các loại hạt đậu được sấy khô, và colas đâm đặc . Những thực phẩm này chứa đựng số lượng lớn về khoáng chất phosphorus (phốt pho). Quá nhiều phosphorus (phốt pho) trong máu khiến cho calcium (can xi) tích tụ trong xương của bạn , điều này làm cho xương bị suy yếu và dòn và có thể gây ra viêm khớp . Để ngăn chận những vấn đề về xương, bác sĩ có thể cho bạn những thuốc đặc biệt mà bạm phải dùng thuốc này trong các bữa ăn hàng ngày hay uống trực tiếp
Để biết thêm thông tin về việc chọn lựa thực phẩm cho đúng, hãy đọ cuốn sách NIDDK chỉ dẫn ăn cho đúng để có cảm giác đúng cho người sử dụng cách trị liệu Chạy thân nhân tạo (http://kidney.niddk.nih.gov/KUDiseas...ght/index.aspx )
ƯU VÀ KHUYẾT ĐIỂM (PROS AND CONS)
Mỗi người có phản hồi khác nhau đối với những tình huống tương tự. Những gì có thể là một yếu tố tiêu cực đối với người này lại có thể là một yếu tố tích cực cho người khác. Xem danh sách những ưu điểm và nhược điểm chung về việc Chạy Thận Nhân tại trung tâm và tại nhà sau đây.
CHẠY THẬN NHÂN TẠO TẠI TRUNG TÂM (IN-CENTER HEMODIALYSIS)
Ưu Điểm (Pros)
•Cơ sở vật chất + phương tiện rộng rãi tiện nghi
•Những chuyên gia có được huấn luyện ở bên bạn suốt thời gian trị liệu
•Bạn có thế quen biết thêm những bệnh nhân khác
•Bạn không cần có 1 người thân hoặc phải gìn giữ dụng cụ ở nhà
Nhược Điểm (Cons)
•Trị liệu phải theo thời khóa biểu của trung tâm và luôn cố định / không thay đổi
•Bạn phải di chuyến từ nhà đến trung tâm để trị liệu
•Việc trị liệu có chế độ dinh dưỡng nghiêm ngạt và hầu hết là giới hạn chất lỏng
•Bạn sẽ phải uống và chi trả tiền thuốc nhiều hơn nữa
•Bạn có thể có cảm nhận thăng trầm , vui buồn thường xuyên trong từng ngày.
•Phải tốn vài tiếng đồng hồ để có cảm giác tốt hơn sau 1 lần điều trị
CHẠY THẬN NHÂN TẠO TẠI NHÀ (HOME HEMODIALYSIS)
Ưu Điểm (Pros)
•Bạn có thể làm việc Chạy Thân Nhân tạo vào thời điểm bạn lựa chọn, nhưng bạn vẫn phải làm việc này thường xuyên theo chỉ thị của bác sĩ của bạn
•Bạn không phải di chuyển đi đến trung tâm
•Bạn có được một cảm giác độc lập và điều khiển việc điều trị cho bạn
•Máy móc mới hơn và ít chiếm chồ hơn
•Bạn sẽ ít có cảm giác thăng trầm, vui buồn hơn trong từng ngày
•Chạy thận nhân tạo tại nhà thì công việc điều trị thấy quen thuộc hơn tại trung tâm
•Chế độ dinh dưỡng và chất lỏng sẽ rất giống như bình thường
•Bạn có thể mang máy lọc máu di động đó theo bên mình trong những chuyến đu lịch , chuyến cắm trại / dã ngoại hay đi máy bay .
•Bạn có thể dành nhiều thời gian hơn cho người thân yêu của bạn
Nhược Điểm (Cons)
•Bạn phải có 1 người thân cận kề bên mình
•Việc trợ giúp điều trị cho bạn có thể tạo căng thẳng đối với thân nhân của bạn
•Bạn và người thân của bạn phải được huấn luyện
•Bạn cần 1 chỗ trống trải để đặt máy lọc máu và những công cụ tại nhà
•Bạn có thể phải nghỉ việc để hoàn thành khóa huấn luyện.
•Bạn sẽ cần phải học biết cách gài đặt mũi kim chạy thận
•Hằng ngày và ban đêm chạy thận nhân tạo tại nhà chưa được cung cấp tại tất cả các địa điểm.
LÀM VIỆC VỚI NHÓM NGƯỜI CHĂM SÓC SỨC KHỎE CHO BẠN {WORKING WITH YOUR HEALTH CARE TEAM)
Những câu hỏi mà bạn có thể muốn hỏi:
•Có phải chạy thận nhânt ạo là trị liệu lựa chọn tốt nhất cho tôi ? Tại sao ?
• Nếu tôi được điều trị tại 1 trung tâm nào đó, tôi có thể đi đến trung tâm mà tôi chọn không ?
•Tôi nền tìm thấy điều gì ở trung tâm chạy thận ?
•Bác sĩ thận của tôi có đến gập tôi ở trung tâm chạy thận không ?
•Chạy thận nhân tạo có cảm giác ra sao ?
•Làm gì để tự chăm sóc chạy thận ?
•Có phải chạy thận nhân tạo tại nhà thì có sẵn trong khu vực tôi cư ngụ? Phải học cách làm trong bao lâu ? Ai sẽ là người đào tạo tôi và thân nhân ?
•Loại truy cập nào vào mạch máu mà tốt nhất cho tôi?
•Khi là một bệnh nhân chạy thận nhân tạo, tôi sẽ có thể tiếp tục làm việc không? Tôi có thể có phương pháp điều trị vào ban đêm không?
•Tôi nên tập thể dục nhiều cỡ bao nhiêu?
•Ai sẽ là người trong nhóm chăm sóc sức khỏe cho tôi ? Làm thế nào những người này có thể giúp tôi?
•Đối với những ai tôi có thể kể lể về những lo ngại về người phối ngẫu (vị hôn phu / hôn thê), lo ngại về tình dục , hoặc những lo ngại về gia đình ?
•Làm sao / Nơi nào tôi có thê nói chuyện vớ người khác đã phải đối mặt với quyết định này?
Để biết thêm thông tin về chạy thận nhân tạo, hãy xem cuốn sách NIDDK "Các phương pháp điều trị dành cho Suy Thận: Phương pháp chạy thận nhân tạo. Hoặc xem bảng tổng kết so sánh ba lựa chọn điều trị . (Lynn sẽ gom thời gian phỏng dịch những tài liệu này sau)
SỰ CHỌN LỰA ĐIỀU TRỊ : CHẠY THẬN KHÚC MẠC
(TREATMENT CHOICE: Peritoneal Dialysis)
MỤC ĐÍCH (PURPOSE)
Chạy Thận Phúc Mạc là 1 tiến trình khác mà loại bỏ những chất thải, hóa chất, và lượng nước dư thừa ra khỏi cơ thể bạn . Kiểu thẩm tách / lọc máu này sử dụng màng bụng các bạn, hay khu vục vùng rún /rốn, để lọc máu. Lớp màng này được gọi là màng bụng và đóng vai trò như quả thận nhân tạo.
CÁCH CHẠY THẬN PHÚC MẠC HOẠT ĐỘNG RA SAO (HOW PERITONEAL DIALYSIS WORKS)
Một hỗn hợp các khoáng chất và đường được hòa tan vào trong nước, được gọi là giải pháp thẩm tách /giải pháp lọc máu, đi chuyển qua một ống thông vào trong bụng của bạn. Chất đường được gọi là dextrose lôi kéo / thu thút chất thải, hóa chất, và lượng nước dư thừa từ các mạch máu nhỏ trong màng phúc mạc của bạn đi vào giải pháp thẩm tách / giải pháp lọc máu. Sau vài tiếng đồng hồ, hỗn hợp này được chảy ra khỏi bụng của bạn thông qua đường ống, lấy chất thải từ máu của bạn theo với nó . Sau đó, bụng của bạn được dung nạp lại hỗn hợp mới, và chu trình được lặp đi lặp lại. Quá trình thoát chất lỏng / đung dịch và bơm lại được gọi là một sự trao đổi chất.
UserPostedImage
Hình ảnh của trang web kidney.niddk.nih.gov về Chạy Thận Phúc Mạc (Peritoneal dialysis).
CHUẨN BỊ SẴN SÀNG (GETTING READY)
Trước lần điều trị đầu tiên của bạn, bác sĩ phẫu thuật sẽ cài đặt một ống thông vào bụng hoặc ngực bạn. Ống thông này có xu hướng làm việc tốt hơn nếu có đủ thời gian, thường từ 10 ngày đến 2 hoặc 3 tuần để vị trí đặt chèn vào cơ thể bạn lành lại . Hoạch định truy cập thẩm tách cho bạn có thể gia tăng sự thành công trong trị liệu. Ống thông này sẽ ở lại vĩnh viễn trong bụng bạn để giúp vận chuyển các hỗn hợp thẩm tách máu đến và đi từ bụng bạn.
CÁC KIỂU CHẠY THẬN PHÚC MẠC / LỌC MÁU (Ở)MÀNG BỤNG( TYPES OF PERITONEAL DIALYSIS )
Ba kiểu chạy thận phúc mạc có sẵn hiện giờ
•Chạy Thận Phúc Mạc Di Chuyển Liên Tục - CAPD ( Continuous Ambulatory Peritoneal Dialysis (CAPD) )
CAPD không cần máy móc và có thể được thực hiện ở bất kỳ nơi sạch sẽ sáng sủa . Với phương pháp CAPD, máu của bạn luôn luông được lọc sạch . Chất hỗn hợp phẩm thách đi qua 1 túi nhựa thông qua ống thông và đi vào bụng bạn, nơi mà nó ở lại đó cho vài giờ với các ống thông được bịt kín. Khoảng thời gian mà hỗn hợp chất thẩm tách ở trong bụng bạn được gọi là thời gian lưu trú ngưng tụ (dwell tim). Tiếp theo, bạn cho hỗn hợp chất thẩm tách chảy vào 1 túi rỗng để vứt bỏ đi. Sau đó, bạn đổ đầy hỗn hợp thẩm tách mới lại vào bụng bạn để quá trình làm sạch có thể bắt đầu lại. Với phương pháp CAPD, hỖn hợp thẩm tách ở lại trong bụng bạn trong khoảng thời gian lưu trú ngưng tụ từ 4 đến 6 tiếng đồng hồ , hoặc hơn . Tiến trình làm chảy ra những hỗn hợp thẩm tách đã được sử dụng qua và thay thế vào hỗn hợp thẩm tách mới tốn khỏng 30 đến 40 phút . Hầu hết mọi người thay đổi hồn hợp thẩm tách ít nhất bốn lần trong một ngày và nằm ngủ với hỗn hợp thẩm tách trong bụng họ vào ban đêm. Với phương pháp CAPD, không cần thiết phải thức giấc và thực hiện những hành động thẩm tách / lọc máu suốt đêm
•Chạy Thận Phúc Mạc Theo Chu Kỳ Liên Tục ( Continuous Cycler-assisted Peritoneal Dialysis (CCPD) )
CCPD sử dụng một máy được gọi là máy điều khiển theo chu kỳ (cycler) để làm đầy và làm rỗng bụng bạn 3-5 lần vào ban đêm khi bạn ngủ. Vào buổi sáng, bạn bắt đầu 1 lần thay đổi (chất hỗn hợp) với 1 khoảng thời gian lưu trú ngưng tụ (Dwell time) mà kéo dài cho nguyên ngày . Bạn có thể thực hiện thêm 1 lần thay đổi (chất hỗn hợp) vào giữa buổi trưa không có máy điều khiển theo chu kỳ để gia tăng số lượng loại bỏ chất thải và giảm bớt số lượng (của) chất lỏng tồn đọng trong cơ thể bạn.
•Sự kết hợp phương pháp CAPD và CCPD (Combination of CAPD and CCPD)
Nếu bạn cân nặng hơn 175 pounds (khoảng hơn 80 kg) hoặc màng lọc ở bụng của bạn đào thải chất thải một cách chậm chạm, có lẽ bạn cần sự kết hợp phương pháp CAPD và CCPD để có được đúng liều lượng chạy thận /lọc máu. Thí dụ, một số người sử dụng máy chu kỳ vào ban đêm mà còn thực hiện một lần thay đổi (chất hỗn hợp ) vào ban ngày. Những người khác thì làm 4 thay dổi (chất hỗn hợp) trong suốt ban ngày và sử dụng 1 máy diều khiển chu kỳ nhỏ để thực hiện 1 hay hơn những thay đổi (chất hỗn hợp ) vào ban đêm . Bạn sẽ phối hợp làm việc với nhân viên y tế chăm sóc bạn để định ra thời khóa biểu tốt nhất cho bạn
AI THỰC HIỆN CHẠY THẬN PHÚC MẠC (WHO PERFORMS PERITONEAL DIALYSIS)
Cả hai kiểu chạy Thận Phúc Mạc thường được thực hiện bởi bệnh nhân không có sự trợ giúp từ người thân . CAPD là 1 hình thước tự mình điều trị mà không cần máy móc . Tuy nhiên, với CCPD, bạn cần một bộ máy để ráo chất lỏng / dung dịch và đầy đổ dung dịch lại vào bụng bạn.
NHỮNG BIẾN CHỨNG KHẢ DĨ / NHỮNG BIẾN CHỨNG CÓ THỂ XẢY RA (POSSIBLE COMPLICATIONS)
Vấn đề phổ biến nhất về chạy thận phúc mạc là viêm phúc mạc, một nhiễm trùng nghiêm trọng ở bụng. Nhiẽm trùng này có thể xảy ra nếu chỗ hở / chỗ mở, nơi ống thông đưa vào cơ thể của bạn bị nhiễm trùng hoặc nếu sự nhiễm bẩn xảy ra khi ống thông được kết nối hoặc ngừng kết nối đến từ các túi đựng hỗn hợp dung dịch . Nhiễm trùng ít phổ biến trong ống thông ở trước ức (ngực), được đặt trong ngực. Viêm phúc mạc cần điều trị kháng sinh bởi bác sĩ của bạn .
Để tránh viêm phúc mạc, bạn phải cẩn thận làm theo tiến trình từng bước thật chính xác và học biết cách nhận ra sớm những dấu hiệu viêm phúc mạc, trong đó bao gồm nóng sốt, màu sắc khác thường hoặc sự vẩn đục của chất lỏng đã được sử dụng, và sự tấy đỏ hoặc đau nhức chung quanh ống thông. Hãy tường thuật các dấu hiệu này cho bác sĩ hoặc y tá của bạn ngay lập tức để tình trạng viêm phúc mạc có thể được điều trị nhanh chóng để tránh bị thêm vấn đề khác.
DINH DƯỠNG CHO NGƯỜI ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ CHẠY THẬN PHÚC MẠC (DIET FOR PERITONEAL DIALYSIS)
Một chế độ đinhh dưỡng cho người chạy thận phúc mạc thì hơi khác so với chạy thận nhân tại tại trung tâm chạy thận.
• Bạn sẽ vẫn phải cần giới 1 lượng muối và chất lỏng, nhưng bạn có thể dung nạp nhiều hơn so với người chạy thận nhân tạo tại trung tâm chạy thận nhân tạo.
•Bạn phải ăn nhiều protein (chất đạm) hơn
•Bạn có thể có những hạn chế khác về chất potassium / kali. Thậm chí bạn có thể cần ăn các loại thực phẩm cao potassium /kali
•Bạn có thể cần phải cát giảm số lượng calories khi ăn bởi vì có calories trong dung dịch thẩm tách có thể khiến bạn tăng trọng lượng cơ thể / khiến bạn mập lên
Bác sĩ và chuyên gia dinh dưỡng sẽ trợ giúp bệnh nhân bệnh suy thật theo khả năng để giúp bạn hoạch định những bữa ăn của bạn
ƯU VÀ KHUYẾT ĐIỂM (PROS AND CONS)
Mỗi kiểu Chạy Thận Phúc Mạc đều có những ưu điểm và nhược điểm (tiện ích và bất lợi).
Ưu Điểm (Pros)
•YBạn có thể thực hiện phương pháp này vào buổi tối, chủ yếu là trong khi bạn nằm ngủ
•Bạn được tự do không phải thực hiện việc thay đổi (hỗn hợp dung dịch) trong suốt ban ngày
Khuyết Điểm (Cons)
•Bạn cần 1 bộ máy
•Sự di chuyển của bạn vào ban đêm bị giới hạn do sự kết nối với máy điều khiển chu kỳ
LÀM VIỆC VỚI NHÓM NGƯỜI CHĂM SÓC SỨC KHỎE CHO BẠN {WORKING WITH YOUR HEALTH CARE TEAM)
Những câu hỏi mà bạn có thể muốn hỏi:
•Có phải Chạy Thận Khúc Mạc là lựa chọn điều trị tốt nhất cho tôi ? Tại sao ? Nếy phải, Kiểu nào là tốt nhất ?
•tôi sẽ tốn bao lâu để học hiểu cách làm thế nào để thực hiện Chạy Thận Phúc Mạc ?
•Chạy Thận Khúc Mạc cảm giác ra sao?
•Chạy thận phúc mạc sẽ có ảnh hưởng đến huyết áp của tôi không?
•Làm sao tôi biết nếu tôi có viêm phúc mạc hay không? Làm thế nào điều trị?
•Như là một bệnh nhân chạy thận khúc mạc, liệu tôi có thể tiếp tục làm việc kiếm ăn ?
•Tôi nên tập thể dục nhiều như thế nào ?
•Tôi nên cất giữ những dụng cụ ở đâu ?
•Tôi phải đi gặp bác sĩ của tôi thường xuyên thế nào? Thường bao lâu thì tôi gặp bác sĩ ?
•Ai sẽ là người trong nhóm chăm sóc sức khỏe cho tôi ? Những người này có thể trợ giúp tôi thế nào ?
•Tôi có thể liên lạc ai khi tôi có vấn đề ?
•Đối với những ai tôi có thể kể lể về những lo ngại về người phối ngẫu (vị hôn phu / hôn thê), lo ngại về tình dục , hoặc những lo ngại về gia đình ?
•Làm sao / Nơi nào tôi có thê nói chuyện vớ người khác đã phải đối mặt với quyết định này?
Để biết thêm thông tin về chạy thậnphúc mạc, xem tập sách NIDDK "Các phương pháp điều trị cho Suy Thận: Chạy Thận phúc mạc / Lọc máu màng bụng. Hoặc xem bảng tổng kết về ba cách lựa chọn điều trị.
CHẠY THẬN / LỌC MÁU / THÂM TÁCH KHÔNG PHẢI LÀ 1 ĐIỀU TRỊ KHỎI BỆNH (DIALYSIS IS NOT A CURE)
Chạy thận nhân tạo (Hemodialysis) và chạy thận khúc mạc (peritoneal dialysis) là trị liệu mà trợ giúp thay thế hoạt động quả thận của bạn . Những phương pháp điều trị này giúp bạn cảm thấy tốt hơn và sống lâu hơn, nhưng chững không chữa khỏi suy thận. Mặc dù bệnh nhân suy thận đang sống lâu hơn so với trước đây, trong suốt năm (chạy thận) bệnh thận có thể gây ra các vấn đề như bệnh tim, bệnh xương, viêm khớp, tổn thương thần kinh, vô sinh, và suy dinh dưỡng. Những vấn đề này sẽ không biến mất với việc chạy thận / lọc máu, nhưng hiện giờ các bác sĩ có những phương pháp mới và tốt hơn để phòng ngừa những vấn đề này . Bạn nên thảo luận về những biến chứng và trị liệu những biến chứng với bác sĩ của bạn
Lynn sẽ phỏng dịch tiếp phần "Sự chọn lựa điều trị : Cấy ghép thận"; "Sự chọn lựa điều trị : Từ chối hay xin ngừng trị liệu " ... v....v... và đặc biệt là sẽ cung cấp bảng so sánh về từng phương pháp điều trị .
ASPIRIN
Lynn Lynn Phỏng Dịch Từ Thông Tin Từ Website Drugs.com
( ww.drugs.com/aspirin.html )
ASPIRIN LÀ GÌ ?
Aspirin trong một nhóm các loại thuốc gọi là salicylates. Thuốc hoạt động bằng cách giảm bớt chất trong cơ thể mà gây ra đau, sốt, và viêm.
Aspirin được sử dụng để điều trị cơn đau từ nhẹ đến vừa vừa, và cũng để giảm sốt hoặc viêm nhiễm . Thỉnh thoảng nó được dùng đê điều trị hay phòng ngừa bệnh nhồi máu cơ tim, đột quỵ, và đau thắt ngực muốn nghẹn thở . Aspirin (chỉ) nên được sử dụng cho bệnh trạng tim mạch dưới sự giám sát của bác sĩ.
NHỮNG THÔNG TIN QUAN TRỌNG VỀ ASPIRIN
Aspirin không nên cho trẻ em hay thanh thiếu niên (teanager = 13 - 19 tuổi) khi bị nóng sốt, đặc biệt là nếu trẻ em cũng có triệu chứng bệnh cảm cúm hay bệnh thủy đậu. Aspirin có thể khiến cho bệnh trầm trọng thêm và đôi khi (dẫn đến) tình trạng tử vong (fatal condition) gọi là Hội chúng Reye (Reye's syndrome) ở trẻ em.
Phải ngưng sử dụng aspririn và cũng phải gọi bác sĩ của bạn ngay nếu bạn có bất kỳ triệu chứng chảy máu trong dạ dày hoặc đường ruột. Triệu chứng bao gồm là phân có mầu đen, phân có máu, hoặc phân đen như hắc ín, và ho ra máu hay ói mửa mà trông giống như bã cà phê.
Phải tránh uống rượu / beer trong khi bạn đang xử dụng thuốc này . Alcohol (rượu / beer) có thể làm tăng nguy cơ chảy máu dạ dày.
Đôi khi Aspirin được sử dụng để chữa trị hoặc ngăn chận bệnh nhồi máu cơ tim, đột quỵ, và đau thắt ngực (angina = đau thắt ngực muốn nghẹn thở). Aspirin chỉ nên được sử dụng cho bệnh trạng tim mạch dưới sự giám sát của bác sĩ.
TRƯỚC KHI UỐNG ASPIRIN
Aspirin không nên cho trẻ em hay thanh thiếu niên (teanager =13 - 19 tuổi) khi bị nóng sốt, đặc biệt là nếu trẻ em cũng có triệu chứng bệnh cảm cúm hay bệnh thủy đậu. Aspirin có thể khiên cho căn bệnh trầm trọng thêm và đôi khi (dẫn đến) tình trạng tử vong (fatal condition) gọi là Hội chúng Reye (Reye's syndrome) ở trẻ em. Không sử dụng thuốc này nếu bạn có dị ứng với aspirin, hoặc nếu bạn có:
•Một bệnh sử mới gần đây về chảy máu dạ dày hay đường ruột
•Một rối loạn xuất huyết như hemophilia (hemophilia = haemophilia = Bệnh rối loạn di truyền khiến máu khó đông do thiếu 1 trong các yếu tố làm đông máu )
•Một dị ứng với NSAID (thuốc chống viêm không có steroidal) như Advil, Motrin, Aleve, Orudis, Indocin, Lodine, Voltaren, Toradol, Mobic, Relafen, Feldene, và những loại thuốc khác.
Trước khi uống aspirin, cần phải thông báo cho bác sĩ nếu bạn có dị ứng với bất kỳ loại thuốc, hoặc nếu bạn có một trong những căn bệnh sau:
•Hen suyễn hoặc dị ứng theo mùa (asthma or seasonal allergies)
•Loét bao tử (stomach ulcers)
•bệnh gan (liver disease)
•bệnh thận (kidney disease)
•Sự chảy máu hoặc sự rối loạn đông máu (a bleeding or blood clotting disorder)
•bệnh tim (heart disease), cao áp huyết (high blood pressure) , hay tim xung huyết thiếu hụt (Congestive heart failure (CHF) = tim không có khả năng làm đủ máu để bơm)
•bệnh thống phong (gout)
•Những bướu (nhỏ) lành tính ở mũi (nasal polyps).
Nếu bạn có bất kỳ trạng thái nào trong các tình trạng / căn bệnh kể trên, bạn nên cần sự điều chỉnh liều lượng hoặc những xết nghiệm đặc biệt để xủ dụng aspirin an toàn
Nếu bạn đang dùng aspirin để ngăn ngừa nhồi máu cơ tim hay đột quỵ, cũng cần tránh dùng ibuprofen (Advil, Motrin). Ibuprofen có thể làm cho aspirin giảm hiệu quả trong việc bảo vệ tim và mạch máu. Nếu bạn phải sử dụng cả hai loại thuốc, dùng ibuprofen ít nhất 8 đồng hồ trước hoặc 30 phút sau khi bạn dùng aspirin (Loại aspirin không có lớp vỏ bao enteric). Aspirin có thể làm thương tổn cho trái tim của em bé chưa ra đời, và cũng có thể làm giảm trọng lượng của trẻ sơ sinh hoặc có những ảnh hưởng nguy hiểm khác. Hãy báo cho bác sĩ nếu bạn đang mang thai hay dự định mang thai, trong khi bạn đang dùng thuốc aspririn. Aspirin có thể đi vào sữa mẹ và có thể gây tổn hại cho trẻ bú sữa mẹ . Không được sử dụng thuốc này mà không nói cho bác sĩ của bạn nếu bạn đang cho con bú.
Lynn Ly Chú Thích:
Đột Quỵ (Stroke) đồng nghĩa với Tai Biến Mạch Máu Não (Accident vasculaire cerebral) và có phân loại theo nguyên nhân gây bệnh.
Xem Thêm :•Cấp cứu nội thần kinh : Đột Quỵ/Tai Biến Mạch Máu Não để hiểu chi tiết các loại Đột Quỵ được phân ra theo nguyên nhân gây bệnh
•Sử Dụng Aspirin hằng ngày : Những hung hiểm và những lợi ích
Aspirin đối với Bệnh Nhân bị Đột Quỵ Do Thiếu Máu Cục Bộ Cấp Tính
Aspirin đối với Bệnh Nhân bị Đột Quỵ Do Thiếu Máu Cục Bộ Cấp Tính
(Aspirin in Patients with Acute Ischemic Stroke)
Bác Sĩ Danny Nguyễn tóm tắt thông tin từ website American Family Physician
( ww.aafp.org/afp/2009/0201/p226.html )
Câu hỏi lâm sàng: Aspirin có giảm sự tử vong (mortality) hoặc morbidity trong bệnh nhân bị Đột Quỵ Do Thiếu Máu Cục Bộ cấp tính không ?
Câu trả lời dựa trên chứng cứ y khoa:
- Aspirin khoảng 160-300 mg trong vòng 48 tiếng đồng hồ đầu tiên giảm sự tử vong và morbidity trong Đột Quỵ Do Thiếu Máu Cục Bộ cấp tính.
- Aspirin có hiệu quả tương tự với các thuốc giảm đông máu (anticoagulant) và có ít phản ứng phụ hơn. Tuy nhiên không nên dùng Aspirin trong khi bệnh nhân đang dùng thuốc tan máu (thrombolytic therapy)
- Ibuprofen (Motrin) có thể giảm tác dụng của Aspirin trong Đột Quỵ Do Thiếu Máu Cục Bộ cấp tính
Tổng kết của chứng cứ : dựa trên tổng kết của 9 cuộc điều tra khoa học của 41,399 bệnh nhân
Đề nghị:
- Hiệp Hội Tim Hoa Kỳ và Hiệp Hội Đột Quỵ Hoa Kỳ đề nghị dùng Aspirin 325 mg trong khoảng 24-48 tiếng đồng hồ sau khi bị tai biến mạch máo nãọ Tuy nhiên không được dùng trong vòng 24 tiếng của thuốc tan máu (thrombolytic therapy).
- Hội Bác Sĩ Lồng Ngực Hoa Kỳ đề nghị Aspirin 160-325 mg trong vòng 48 tiếng đồng hồ trong những bệnh nhân không được điều trị bằng thuốc tan máụ
- Cơ quan Quản Lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ cảnh cáo rằng không nên dùng Ibuprofen với Aspirin lượng thấp tại vì có ảnh hưởng tới antiplatelet effect. Tuy nhiên, nếu dùng ibuprofen ít nhất 8 tiếng trước khi hoặc 30 phút sau khi dùng aspirin 81 mg loại tan nhanh (immediate release) thì khả năng ảnh hưởng sẽ ít đị Các loại thuốc NSAIDs khác cũng có thể có tác dụng tương tự
Lời bình của tác giả: Aspirin giảm sự tử vong và các chứng đột quỵ xảy ra liên tiếp. Tại vì Aspirin rẻ và ít có phản ứng phụ, vì vậy nên dùng trong các trường hợp trên (có thể dùng 1-2 ngày sau khi dùng thuốc tan máu). Tuy nhiên các Bác Sĩ nên để ý các chi tiết khác như huyết áp ổn định, thuốc statin, ngưng thuốc lá có ảnh hưởng tốt gấp 3 lần nếu so sánh với Aspirin.
Lynn Ly hiệu chính phỏng dịch cụm từ Acute Ischemic Stroke từ "Tai Biến Mạch Máu Não Cấp Tính" của bác sĩ Danny Nguyễn thành "Đột Quỵt do Thiếu Máu Cục Bộ Cấp Tính" cho sát ý tưởng của từ ngữ của nguồn thông tin . Bởi vì thông dịch chính xác thì phải là :
•Acute Ischemic Stroke = "Đột Quỵ do Thiếu Máu Cục Bộ Cấp Tính"
•Acute Ischemic Accident vasculaire cerebral = "Tai Biến Mạch Máu Não do Thiếu Máu Cục Bộ Cấp Tính"
Điều đáng lưu ý , Đột Quỵ đồng nghĩa với Tai Biến Mạch Máu Não và có phân loại theo nguyên nhân gây bệnh. Nhưng trên Y Văn thì có viết khác biệt.
Sử Dụng Aspirin hằng ngày : Những hung hiểm và những lợi ích
Sử Dụng Aspirin hằng ngày : Những hung hiểm và những lợi ích
(Daily aspirin: Risks and benefits, By Michelle Roberts )
Lynn Ly phỏng dịch bài viết ww.bbc.co.uk/news/health-17445676
Theo BBC News, ngày 20, tháng 3, 2012
Uống một lượng nhỏ aspirin hàng ngày có liên quan đến việc giảm nguy cơ ung thư. Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng vẫn còn quá sớm để bắt đầu giới thiệu thuốc này cho bệnh nhân. Vì vậy, những rủi ro và lợi ích của thuốc này là gì?
Aspirin là thuốc gì ?
Aspirin (acetylsalicylic acid) đã được sử dụng trong nhiều năm như một chất giảm đau. Thuốc này có hoạt tính chống viêm, và được sử dụng để làm giảm đau đầu, đau bụng do kinh nguyệt và đau nhức cơ bắp. Gần đây thuốc này đã đang được chỉ định cho những bệnh nhân có những yếu tố nguy cơ về tim mạch để làm giảm nguy cơ đột quỵ (stroke) và nhồi máu cơ tim (heart attack)
Thuốc có tác dụng ra sao ?
Thuốc trợ giúp ngăn ngừa "huyết khối"(blood clots = huyết khối, cục máu đông ) hình thành trong mạch máu, thuốc ngăn chận các tế bào trong máu được gọi là tiểu cầu (platelets) dính lại với nhau và làm tắc động mạch
Tại sao sử dụng Aspirin ở liều lương nhỏ ?
Các chuyên gia nước Anh đề nghị liều lượng 75mg để phòng chống bệnh tim mạch. Liều lượng này ít hơn nhiều so với liều lượng sử dụng như 1 chất giảm đau, bởi vì uống aspirin hàng ngày thì gia tăng hung hiểm về những phản ứng phụ thí dụ như xuất huyết nội bộ / xuất huyết bên trong cơ thể (internal bleeding) .
Những hung hiểm gì ?
Việc điều trị dùng thuốc aspirin liều thấp được liên hệ đến sự gia tăng rất nhỏ trong những nguy cơ chính yếu về xuất huyết bao tử và xuất huyết não . Một số công trình nghiên cứu cho thấy rằng 1 người trong số 769 người được điều trị bằng aspirin liều thấp thì bị thương tổn do xuất huyết nặng .
Chúng ta biết gì về việc dùng thuốc aspirin để ngăn ngừa ung thư?
Một số nghiên cứu đã cho thấy aspirin có thể phòng ngừa ung thư. Công trình mới nhất của tạp chí The Lancet khi xem xét 51 cuộc nghiên cứu có hơn 77.000 người tham gia đã đề nghị thuốc aspirin không chỉ làm giảm nguy cơ phát triển ung thư của một người, mà cũng có thể giúp các bệnh ung thư ngừng lan rộng trên khắp cơ thể.
Những ai nên dùng Aspirin hàng ngày?
Các chuyên gia cho rằng vẫn không có đủ bằng chứng để khuyên những người khỏe mạnh dùng thuốc aspirin để phòng ngừa căn bệnh ung thư. Tương tự, không được đề nghị những người khỏe mạnh uống Aspirin để ngăn ngừa bệnh tim mạch bởi vì những hung hiểm về tác dụng phụ nguy hiểm của thuốc, cho dù tình huống bị ảnh hưởng tác dụng phụ thấp , nhưng khi tổn hại xuất hiện thì thường lớn hơn là lợi ích từ thuốc
Thuốc Aspirin sử dụng hằng ngày với liều lượng thấp chỉ được đề nghị cho những người được xem là có nguy cơ bị nhồi máu cơ tim (heart attack) hoặc đột quỵ (stroke).
Tuy nhiên, các chuyên gia nói rằng thật giá trị khi khám phá những lợi ích của việc sử dụng aspirin hằng ngày đối với bệnh nhân ung thư, như bệnh nhân bị ung thư ruột
Bất cứ ai dự tính sử dụng aspirin (liều lượng thấp hằng ngày), trước tiên cần nên tham vấn với bác sĩ của họ .
ASPIRIN CÓ THỂ 'LÀM CHẬM LẠI SỰ SUY GIẢM NÃO BỘ', NGHIÊN CỨU PHÁT HIỆN
ASPIRIN CÓ THỂ 'LÀM CHẬM LẠI SỰ SUY GIẢM NÃO BỘ', NGHIÊN CỨU PHÁT HIỆN
(ASPIRIN MAY 'SLOW ELDERLY BRAIN DECLINE', STUDY FINDS)
Lynn Ly phỏng dịch thông tin từ nhật báo BBC
(http://www.bbc.com/news/health-19819065)
Theo nhật báo BBC, Ngày 04 tháng 10, 2012
Phóng viên Y Tế của nhật báo BBC: Anna-Marie
Một viên aspirin mỗi ngày có thể làm chậm lại sự suy thoái não bộ ở phụ nữ cao niên có nguy cơ cao mắc bệnh tim mạch, nghiên phát hiện vậy.
Trong khoảng 500 phụ nữ có nguy cơ (về bệnh tim mạch), khoảng độ tuổi 70 đến 92, đã được theo dõi trong vòng 5 năm - năng lực tâm thần của họ đã được thử nghiệm từ lúc bắt đầu và lúc kết thúc cuộc nghiên cứu.
Những người dùng aspirin trong toàn bộ khoảng thời gian thử nghiệm đã cho thấy điểm số của họ suy giảm ít hơn nhiều hơn so với những người không dùng thuốc.
Cuộc nghiên cứu của Thụy Điển được báo cáo trong tạp chí BMJ Open. (the journal BMJ Open)
Bác Sĩ / Tiến Sĩ Silke Kern, một trong những tác giả của bài viết, cho biết: "Không giống như các quốc gia khác - Thụy Điển là duy nhất, nơi không có thông lệ điều trị những phụ nữ có nguy cơ cao về mắc bệnh tim mạch và đột quỵ bằng aspirin . Điều này có nghĩa là chúng tôi đã có một nhóm tốt cho việc so sánh."
Những phụ nữ này đã được thử nghiệm bằng cách sử dụng một xét nghiệm nho nhỏ về trạng thái tâm thần (a mini mental state exam = MMSE) - Việc này kiểm tra năng lực trí tuệ (intellectual capacity) và bao gồm các câu hỏi định hướng (orientation questions) giống như , "ngày hôm nay là gì?" ", "Chúng ta ở đâu hôm nay ?" và những thử nghiệm trực giác (visual-spatial tests = không gian thị giác = trực giác) như việc vẽ ra hai mối liên kết giữa các cạnh ngũ giác (two interlinking pentagons).
KHÔNG TỰ ĐIỀU TRỊ ( NO SELF-MEDICATION).
Tuy nhiên, bài báo cáo cho thấy trong khi aspirin có thể làm chậm lại những thay đổi trong khả năng nhận thức (cognitive ability) ở phụ nữ có nguy cơ cao về nhồi máu cơ tim (heart attack)hoặc đột quỵ (stroke), Thuốc đã không tạo sự khác biệt về tốc độ ở những phụ nữ đã phát triển bệnh suy giảm trí tuệ (dementia) - sự kiện này cũng được kiểm tra bởi chuyên gia nghiên cứu thuốc men ở lãnh vực rối loạn tâm thần do những căn bệnh thuộc hệ thấn kinh (neuropsychiatrist = a specialist who works in the branch of medicine dealing with mental disorders attributable to diseases of the nervous system).
Bác Sĩ/ Tiến sĩ Simon Ridley, người đứng đầu cuộc nghiên cứu tại viện nghiên cứu bệnh mất trí nhớ ở Anh Quốc (Alzheimer's Research UK), cho biết: "Những kết quả này cung cấp sự hiểu biết sâu sắc đầy thú vị về tầm quan trọng của sức khỏe tim mạch trong sự nhận thức, nhưng chúng tôi sẽ thúc giục mọi người không tự trị liệu bằng thuốc aspirin để cố gắng ngăn chặn căn bệnh sa sút trí tuệ.
"Những báo cáo nghiên cứu cho là không có lợi ích từ aspirin về toàn thể tỷ lệ sa sút trí tuệ , và việc điều tra về các thử nghiệm trước kia là tiềm năng của các loại thuốc giống như aspirin đối chứng sa sút trí tuệ hiện đã bị vô hiệu ".
Bác Sĩ / Tiến sĩ Kern nói thêm: "Chúng tôi không biết những rủi ro lâu dài của việc dùng aspirin thường xuyên . Thí dụ sự lở loét và chảy máu nghiêm trọng có thể đã đặt nặng hơn những lợi ích chúng ta đã nhìn thấy . Cần thiết thực hiện nhiều nghiên cứu thử nghiệm hơn . Chúng tôi sẽ theo dõi những phụ nữ trong cuộc nghiên cứu này một lần nữa trong 5 năm (tới). "
Lynn Ly (04/10/2012)
Quote:
Lynn Ly chú thích:
Dựa trên thông tin cập nhật này , thì công hiệu và lợi ích của Aspirin càng ngày càng được khẳng định . Chính thông tin này cũng đã "vô hiệu hóa" các thông tin trước đây khi tuyên bố là aspirin không có lợi ích về chứng sa sút trí tuệ ở người bị nguy cơ tim mạch .
Aspirin đươc thử nghiệm và cho kết quả phòng chống nguy cơ tim mạch , có tác dụng ngăn chận tế bào ung thư , và nay cho thêm tác dụng về làm chậm lại chứng suy thoái trí tuệ . Tác dụng lợi ích của nó ngày càng được phát hiện rõ ràng và lấn áp dần những lo ngại về tác dụng phụ là lở loét bao tử và gây chảy máu nghiêm trọng , khi tác dụng phụ của Aspirin hiện giờ đang được nhiều công ty dược phẩm khống chế trong bào chế thuốc aspirin with stomach guard .
Lynn Ly tổng hợp thông tin về sử dụng Aspirine
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 27 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (20/5/200)
8/ TÁC DỤNG BẢO VỆ CỦA ASPIRINE.
Dùng aspirine với liều lượng nhỏ cải thiện rất rõ rệt khả năng sống sót sau một nhồi máu cơ tim và một tai biến mạch máu não. Thật vậy, được cho trong giai đoạn cấp tính của một nhồi máu cơ tim, thì cứ mỗi 1000 bệnh nhân được điều trị trong tháng đầu tiên của trị liệu, aspirine sẽ ngăn ngừa 38 trường hợp tai biến mạch máu và 23 trường hợp tử vong có nguồn gốc huyết quản. Đối với các tai biến mạch máu não, thì cứ mỗi 1000 bệnh nhân được điều trị, aspirine được cho ở giai đoạn cấp tính sẽ ngăn ngừa 9 tai biến mạch máu nghiêm trọng. Do đó, aspirine phải được cho nơi mỗi bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim và tai biến mạch máu não là điều rất hợp lý.
Nhưng chỉ định của aspirine không chỉ có thế mà thôi.bởi vì aspirine cũng có tác dụng phòng ngừa thứ cấp các huyết khối (thrombose). Được sử dụng cho 1000 bệnh nhân có tiền sử nhồi máu cơ tim hoặc tai biến mạch máu não, aspirine trung bình ngăn ngừa từ 15 đến 18 trường hợp huyết khối tái phát mỗi năm. Đối với những bệnh nhân có nguy cơ cao như cơn đau thắt ngực, tiền sử angioplastie, thấm tách máu (hémodialyse), đái đường, hẹp động mạch cổ (sténose carotidienne), aspirine cũng có lợi ích tương tự (ngăn ngừa hơn 10 tai biến cho mỗi 1000 bệnh nhân được điều trị trong 1 năm).
Sau cùng, aspirine cũng có thể được sử dụng trước khi huyết khối động mạch xảy ra, trên những bệnh nhân không có tiền sử huyết khối (phòng ngừa nguyên phát).
6 công trình nghiên cứu rộng rãi đã đánh giá các lợi ích và các nguy cơ khi điều trị phòng ngừa bằng aspirine. Tất cả các nghiên cứu này đã chứng tỏ rõ ràng rằng những lợi ích của việc dùng aspirine và sự giảm nguy cơ bị huyết khối càng quan trọng khi bệnh nhân càng kiêm nhiệm nhiều yếu tố nguy cơ. Tuy nhiên, quyết định điều trị nguyên phát bằng aspirine phải dựa trên sự tính toán hơn thua giữa các lợi ích của điều trị và các biến chứng có thể xảy ra do phép điều trị này.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 4/5/2007)
9/ CHÚNG TA CÓ THỂ NGƯNG CHO ASPIRINE?
Những trường hợp cần phải ngưng sử dụng aspirine không phải là hiếm. Nhất là những động tác can thiệp ngoại khoa hay những thủ thuật gây nhiều xuất huyết. Tuy nhiên ngừng cho aspirine không phải là không có những nguy cơ. Ngoại trừ một vài loại phẫu thuật (tiền liệt tuyến, hệ thần kinh), hầu hết các can thiệp ngoại khoa và các thủ thuật có thể được thực hiện với một liều lượng nhỏ aspirine (100 mg mỗi ngày).
Nếu phải ngừng cho aspirine trước phẫu thuật, cần phải xét đến nhip độ hồi phục của các tiểu cầu (10% mỗi ngày). Do đó nên ngừng cho aspirine 5 ngày trước khi can thiệp ngoại khoa và sau đó sử dụng trở lại càng nhanh càng tốt.
Trái với aspirine, clopidogrel thường được ngừng cho trước mọi phẫu thuật ngoại trừ angioplastie percutanée.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 4/5/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 35 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 17/7/2007 )
8/ ASPIRINE VÀ PHÒNG NGỪA UNG THƯ ĐẠI TRÀNG
Uống aspirine 300mg mỗi ngày suốt trong 5 năm sẽ bảo vệ chống lại sự phát sinh ung thư đại tràng 10 năm sau đó. Đó là kết quả của công trình nghiên cứu được điều hành bởi John A. Baron thuộc Dartmouth Medical School (Hoa Kỳ). Mặc dầu việc sử dụng aspirine mỗi ngày dường như là một cách tốt đề phòng ngừa một trong những khối u ác tình thường xảy ra nhất, tuy nhiên các nhà ung thư học không khuyên uống aspirine vì mục đích này cho tất cả mọi người: việc uống aspirine lâu dài có thể gây nên xuất huyết dạ dày và ruột. Chỉ những người có nguy cơ cao bị ung thư đại tràng mới phải uống mà thôi
(SCIENCE ET VIE 7/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 96 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 10/10/2008 )
8/ UỐNG MỘT VIÊN THUỐC NHỎ ASPIRINE MỖI NGÀY CÓ BẢO VỆ CHỒNG LẠI BỆNH NHỒI MÁU CƠ TIM ?
Trước hết phải xác nhận rằng việc điều chỉnh toàn bộ các yếu tố nguy cơ của bệnh động mạch vành phải là điều chủ yếu. Nếu không có những yếu tố nguy cơ thì việc uống aspirine mỗi ngày đã không được chứng tỏ là có một lợi ích gì, trong khi đó vẫn có những tác dụng phụ có thể xảy ra. Những phản ứng phụ này chủ yếu rối loạn dạ dày tá tràng và khả năng chảy máu kéo dài trong trường hợp bị vết thương hay nhổ răng. Nghiêm trọng hơn là xảy ra, nhưng hiếm, một loét dạ dày và, rất ngoại lệ, một xuất huyết dạ dày-ruột hay não .
Trái lại, nơi những người với tiền sử tai biến tim mạch (nhồi máu, tai biến mạch máu não, can thiệp trên các động mạch vành, viêm động mạch ngoại biên) hay có một nguy cơ gia tăng rõ rệt bị biến chứng động mạch vành căn cứ trên profil nguy cơ của họ, những lợi ích của vai trò bảo vệ của aspirine vượt trội những bất lợi liên quan với những tác dụng phụ này. Ngay ở những người với nguy cơ thấp, vai trò phòng ngừa những tai biến tim mạch bởi aspirine được chứng minh trên cơ sở những kết quả của một phân tích méta của 6 công trình nghiên cứu, với một sự giảm tỷ lệ nguy cơ bị nhồi máu 23%. Để làm giảm những tác dụng phụ, cần uống mỗi ngày một viên aspirine nồng độ thấp (từ 75 đến 100 mg). Liều lượng này đủ để kiểm soát tình trạng tăng đông huyết của máu, vừa làm giảm thiểu nguy cơ bị các biến chứng. Chúng ta cần biết rằng vài loại thuốc có thể cản tác dụng của aspirine, như vài chất kháng viêm. Chính vì lẽ đó luôn luôn cần hỏi ý kiến BS gia đình của mình.
Vẫn còn hai câu hỏi không được giải quyết :
Xét vì khả năng gây ra những phản ứng phụ tuy thấp nhưng có thật, thế thì có nên cho aspirine trong trường hợp nguy cơ tim mạch thấp hay không ? Chúng ta sẽ đợi những kết quả của một công trình nghiên cứu lớn (ARRIVE) hiện đang được tiến hành, rồi mới phát biểu.
Câu hỏi khác : Aspirine có phải uống một cách vô hạn định hay không ?
Có lẽ vâng, vì lẽ ngay ở những người mà những yếu tố nguy cơ được kiểm soát tốt, nguy cơ tai biến tim mạch còn lại vẫn cao so với những người không có yếu tố nguy cơ. Ngừng điều trị (thí dụ lúc phẫu thuật, nhổ răng, đục thủy tinh thể) sẽ không bao giờ được làm mà không có ý kiến của thầy thuốc, và không được quên uống trở lại aspirine ngay khi có thể được (thường ngay sáng hôm sau sau phẫu thuật).
Thật vậy, một phân tích méta trên 50.000 bệnh nhân đã cho thấy rằng những người ngừng điều trị một cách không cân nhắc có một nguy cơ tai biến tim mạch nhân lên 3 lần. Những kết quả tương tự có thể xảy ra trong trường hợp uống thuốc không đều đặn. Điều này đặc biệt đúng đối với những người mang một stent động mạch.
(COEUR ET ARTERES 9/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 142 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 9/9/2009 )
4/ ASPIRINE LÀM GIẢM 29% TỶ LỆ TỬ VONG 29%.
Theo JAMA số 12/8 vừa qua, sự sử dụng hàng ngày acide acétylsalicylique làm giảm tỷ lệ tử vong do ung thư đại-trực tràng và tỷ lệ tử vong chung, nhất là nơi những người có khối u siêu biểu hiện COX-2. Từ nay vấn đề phòng ngừa nơi những người trên 50 tuổi được đặt ra.
Theo một vài nhà sử học, aspirine còn xưa hơn cả Hippocrate. Các trích chất của cây dương liễu chứa hoạt chất của nó, đã được sử dụng vào thời đại đồ đá mới (Néolithique), do các tính chất chống đau, kháng viêm và hạ nhiệt. Chính vào năm 1899 mà aspirine được thương mãi hóa lần đầu tiên và từ đó danh sách các lợi ích của nó ngày mỗi dài ra. Lợi ích sau cùng là hoạt tính chống tiểu cầu (activité antiplaquettaire).
Với những liều lượng nhỏ (giữa 75 và 300 mg/ ngày, tùy theo các công trình nghiên cứu), các tính chất chống ngưng kết (propriétés antiagrégantes) của nó ngăn ngừa một cách hiệu quả sự tạo thành những cục máu đông trong các huyết quản mà không gây nên thương tổn đáng kể. Đồng thời, từ nhiều năm nay, một số các công trình nghiên cứu đã muốn chứng tỏ lợi ích về lâu về dài của nó trong vài ung thư như vú, tiền liệt tuyến, miệng, họng, thực quản, đại-trực tràng và dạ dày.
Vì các liều lượng được chỉ định luôn luôn có thể gây nên xuất huyết dạ dày hay ruột, nên sự sử dụng nó đã không bao giờ được chính thức khuyến nghị để phòng ngừa nguyên phát hay thứ phát trong dân chúng nói chung. Nhưng, hôm nay, các dữ kiện thuận lợi tích lũy đến độ vài chuyên gia đặt lại vấn đề. Đứng trước một ung thư phát triển thầm lặng, với một tỷ lệ sống tùy thuộc vào mức độ nhanh chóng của sự can thiệp, thì há không nên sử dụng hay sao một hoá học liệu pháp đơn giản, hiệu quả và ít tốn kem, dầu phải chịu vài tác dụng phụ có thể xử lý được ?
TỶ LỆ TỬ VONG GIẢM 29%.
Mối liên hệ giữa aspirine và ung thư đại-trực tràng không phải mới có từ hôm qua. Ngay vào năm 2005, một công trình nghiên cứu được thực hiện trên 82.911 phụ nữ được đưa vào trong cuộc điều tra dịch tễ học “ Nurses’ Health Study ”, được theo dõi từ 1980 đến 2000, đã cho thấy rằng những phụ nữ uống đều đặn 325 mg aspirine, hai lần mỗi tuần, đã có một sự giảm 23% nguy cơ mắc phải ung thư đại-trực tràng, so với những phụ nữ không uống đều đặn. Vào thời kỳ này, người ta đã nhấn mạnh rằng sự giảm nguy cơ chỉ đáng kể bat đầu từ 10 năm sử dụng và liên kết với liều lượng. Trong những trường hợp thái quá, các phụ nữ đã uống hơn 10 liều aspirine mỗi tuần trong 10 năm có nguy cơ bị ung thư giảm 53%.
Năm 2007, một công trình nghiên cứu của Anh, tiến hành trên 7.500 người giữa năm 1970 và đầu của những năm 80, với một theo dõi 10 năm, tương ứng với một thời gian tối thiểu để một adénome phát triển thành ung thư, gợi ý rằng sự sử dụng mỗi ngày 300 mg aspinrine là một yếu tố bảo vệ chống lại ung thư đại-trực tràng. Những kết quả đã cho thấy rằng tỷ lệ mắc bệnh ung thư đại• trực tràng nơi những người có nguy cơ được giảm 73% dưới aspirine, với một tác dụng phụ thuộc vào thời gian điều trị, liều lượng, sự tôn trọng uống thuốc của bệnh nhân.
Trong công trình nghiên cứu mới này, nhôm cửa Andrew Chan (Haward Medical Scholl) đã theo dõi hai nhóm 1.279 bệnh nhân bị ung thư đại-trực tràng ở những giai đoạn trầm trọng khác nhau, được điều trị và được theo dõi trong 12 năm, giữa năm 1980 và 2008 ; 43% trong số những bệnh nhân này uống aspirine mỗi ngày sau khi ung thư được chẩn đoán. Kết quả cho thấy rằng việc sử dụng aspirine mỗi ngày làm giảm 29% tỷ lệ tử vong gây nên bởi ung thư đại-trực tràng và làm giảm 21% tỷ lệ tử vong toàn thể.
Mối liên hệ giữa aspirine và quá trình sinh ung thư là mối liên hệ nào ? Ngày nay, chúng ta biết rằng aspirine ngăn cản sự tăng trưởng khối u bằng cách ức chế một enzyme (COX-2), chịu trách nhiệm phản ứng viêm và sự tăng sinh của các tế bào và được siêu biểu hiện trong phần lớn của các ung thư đại trực
• tràng. Bằng cớ là trong một nhóm phụ gồm những bệnh nhân có cả khối u COX-2 dương tính được nhận diện bởi histochimie, nguy cơ tử vong do ung thư đại-trực tràng là 61% thấp hơn nơi những bệnh nhân uống aspirine so với những người không uống.
GIỮA PHÒNG NGỪA VÀ NHỮNG TÁC DỤNG PHỤ.
Nhiều công trình nghiên cứu quan sát và các thử nghiệm lâm sàng đã xác lập lợi ích của aspirine trong việc phòng ngừa các adénome và polype có nguy cơ. Tuy nhiên không có những lời khuyến nghị chính thức về sự phòng ngừa này, có lẽ là do những tác dụng phụ được biết của aspirine như kích thích dạ dày-ruột và xuất huyết đường tiêu hóa. Vậy có phải vì thế mà phải bỏ ý tưởng hay theo đuổi nó ?
Đối với G.S André Van Gossum (thầy thuốc chuyên khoa dạ dày-ruột của bệnh viện Erasme, Bỉ), “ Từ nhiều năm nay ý tưởng này đã được tiếp tục theo đuổi nhưng hiện nay, ở bệnh viện Erasme cũng như nơi khác ở Bỉ, aspirine không được đề nghị cho các bệnh nhân để phòng ngừa nguyên phát hay thứ phát. Tuy nói vậy, nhưng sự tích lũy của các dữ kiện khiến một ngày nào đó sẽ phải tự nêu câu hỏi về tỷ suất giữa lợi ích và nguy cơ, trên quy mô dân chúng, theo những gì được thực hiện trong phòng ngừa các bệnh tim mạch. Trước hết, chúng ta có thể hình dung nhắm đến các bệnh nhân có nguy cơ ung thư không có chống chỉ định về tiêu hóa hoặc thận. Trong trường hợp này, việc sử dụng aspirine nơi những người 50 tuổi thật là nhất cử lưỡng tiện ! ”.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 28/8/2009)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 143 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 20/09/2009 )
3/ CẢNH CÁO MỚI CHỐNG ASPIRINE.
CARDIOLOGIE. Theo một công trình nghiên cứu của Ecosse, nơi những người lành mạnh, việc sử dụng hàng ngày có nhiều nguy cơ hơn là lợi ích.
Lại một đợt mới trong câu chuyện dài tranh cãi chung quanh aspirine. Nơi những người mạnh khỏe, uống aspirine mỗi ngày với những liều lượng nhỏ để ngăn ngừa các tai biến tim-mạch chỉ làm gia tăng các nguy cơ xuất huyết, các thầy thuốc Ecosse đã đánh giá như vậy. Công trình nghiên cứu của họ, được tiến hành nơi 3.300 người không có những tiền sử lớn về tim trong hơn 8 năm, vừa được trình bày ở hội nghị của Hiệp hội tim học châu Âu, diễn ra ở Barcelone.
Từ khi được thương mãi hóa, cách nay hơn 100 năm, danh sách các lợi ích tiềm tàng của thuốc chống đau này không ngừng dài ra. Lại gần đây, các người Mỹ đã đưa ra những lợi ích của một sự tiêu thụ hàng ngày trên tỷ lệ sống còn của những bệnh nhân bị ung thưa đại-trực tràng. Về các tính chất chống kết tụ của aspirine (làm loãng máu), chúng đã được xác lập một cách rộng rãi nơi những người có nguy cơ tim mạch cao, bị cơn đau thắt ngực (angine de poitrine) hay có những tiền sử về nhồi máu cơ tim hay tai biến mạch máu não.
Lợi ích phòng ngừa được bàn cãi hơn nơi những người lành mạnh, vì lẽ lợi ích này phải được cân bằng với những nguy cơ xuất huyết gây nên bởi aspirine, đặc biệt là ở dạ dày-ruột. Mặc dầu những điều không chắc chắn này, càng ngày càng có nhiều người tự ý muốn thử uống aspirine mỗi ngày với liều lượng nhỏ.
Ý tưởng của G.S Gerry Fowkes (đại học Edimbourg) là nghiên cứu những tác dụng về lâu về dài của một tiêu thụ như thế nơi những người không có triệu chứng gì hết, nhưng được xem như là có nguy cơ gia tăng bị bệnh tim mạch. Để nhận diện ra họ, các thầy thuốc écosse đã căn cứ trên những kết quả của một thăm khám đơn giản, chỉ số huyết áp thu tâm (index de pression systolique) (tỷ số giữa huyết áp được đo ở mắc cá chân và ở cánh tay). Trắc nghiệm này cho phép phát hiện chúng viêm động mạch chi dưới trước khi được biểu hiện bằng những cơn đau đớn.
Trong số 30.000 người tuổi từ 50 đến 75, phát xuất từ dân chúng nói chung, khoảng 3.350 đã được nhận diện. Trong 8 năm, những người này đã nhận mỗi ngày 100 mg (5-10 lần ít hơn so với liều lượng được sử dụng trong trường hợp đau đớn thông thường) hay một placebo. Cả thầy thuốc lẫn bệnh nhân đã không biết thuốc gì đã được cấp cho bệnh nhân. Cuối cuộc thử nghiệm, những người được cho aspirine về mặt thống kê đã có số lượng những biến cố tim mạch (tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim…) giống với những người đã dùng placebo. Rõ ràng, thuốc chống ngưng kết (aspirine) đã không có một tác dụng bảo vệ nào. Ngoài ra, 2% các bệnh nhân của nhóm aspirine đã phải bị nhập viện vì những xuất huyết nặng, so với chỉ 1,2% của những người chứng.
CUỘC BÀN CÃI CHƯA CHẤM DỨT.
GS Fowkes nhấn mạnh rằng 40% các cá nhân đã không uống thuốc aspirine đều đặn. Theo ông , sự tuân thủ điều trị kém này có thể giải thích sự không có bảo vệ tim mạch, nhưng không có thể tính đến điều đó, bởi vì nó tương ứng với bộ phận được gặp trong đời sống thật sự hàng ngày, đó là những điều trị phòng ngừa.
Đối với G.S Peter Weissberg, giám đốc y tế của British Heart Foundation, người đã giúp đỡ tài trợ công trình này, những kết luận của ông “ nhất trí với những lời khuyến nghị của chúng tôi hiện nay, theo đó những người đã không được chẩn đoán có một bệnh mạch máu hay tim và không có những triệu chứng, không nên sử dụng aspirine bởi vì nguy cơ xuất huyết có thể quan trọng hơn các lợi ích ”.
Những cuộc bàn cãi vẫn không chấm dứt. Cách nay vài tháng, trong The Lancet, một phân tích của các công trình nghiên cứu chính về chủ đề này (thực hiện trên toàn bộ 95.000 người có nguy cơ thấp) trái lại đã đánh giá rằng sự sử dụng aspirine mỗi ngày làm giảm 12% các nhồi máu cơ tim, nhưng với cái giá một sự gia tăng quá mức những xuất huyết tiêu hóa. Các chuyên gia hiện diện ở hội nghị Barcelone cũng ghi nhận rằng túc số của những người tham dự của công trình nghiên cứu écosse quá thấp để có thể rút ra những kết luận khẳng định.
(LE FIGARO 1/9/2009)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 145 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 23/10/2009 )
6/ ASPIRIN LÀM GIẢM TỶ LỆ TỬ VONG DO UNG THƯ ĐẠI-TRỰC TRÀNG.
Nơi những bệnh nhân bị ung thư đại trực tràng, uống mỗi ngày một viên aspirin làm giảm nguy cơ tử vong (dưới 29% những nguy cơ chết vì ung thư này và dưới 21% vì những nguyên nhân khác). Đó là điều được rút ra từ công trình nghiên cứu được thực hiện bắt đầu từ năm 1981 bởi Andrew Chan và các đồng nghiệp của Massachusetts General Hospital de Boston, nơi 1.300 bệnh nhân bị ung thư đại-trực tràng, mà một nửa những bệnh nhân này đã thêm aspirin vào toa đơn thuốc hàng ngày của họ. Những lợi ích của aspirin trong bệnh lý này được giải thích bởi tác dụng ức chế của nó lên enzyme COX-2, chịu trách nhiệm phản ứng viêm và sự tăng sinh của các tê bào. Mặc dầu tác dụng được xác nhận này, aspirin chẳng được khuyến nghị bao nhiêu trong mục đích phòng ngừa bởi vì các tác dụng phụ của nó : kích thích dạ dày ruột và chảy máu tiêu hóa. Mặt khác, tất cả các bệnh nhân không sản xuất COX-2 với lượng đủ lớn để nhạy cảm với tác dụng của aspirin.
(SCIENCE ET VIE 10/2009)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 146 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 1/11/2009 )
6/ RỐI LOẠN NHỊP TIM : MỘT ĐIỀU TRỊ RẤT HỨA HẸN.
GS Michel Desnos, trưởng khoa tim thuộc bệnh viện châu Âu Georges-Pompidou, giải thích tiến bộ đạt được với dabigatran để điều trị các rung nhĩ.
Hỏi : Các triệu chứng của rung nhĩ (fibrillation auriculaire) là gi ?
G.S Michel Desnos : Đó là loạn nhịp tim thông thường nhất (1-2% dân số sau 50 tuổi) và gia tăng với tuổi tác. Những triệu chứng đầu tiên được thể hiện bởi hồi hộp, khó ở, những bệnh này cũng có thể tiến triển không có triệu chứng và được khám phá bởi một mạch và tim không đều.
Hỏi : Không được điều trị, sẽ có những nguy cơ nào ?
G.S Michel Desnos : Có hai nguy cơ chính. 1. Rung nhĩ làm dễ sự tạo thành của các cục máu đông trong tim. Các cục máu đông này có thể di chuyển lên não bộ và gây nên tai biến mạch máu não. Chúng cũng có thể di chuyển đến một chi, làm bít tac động mạch và gây nên một thiếu máu cục bộ (ischémie), với đau đớn dữ dội. Không điều trị, mối nguy hiểm là hoại thư (gangrène). 2. Rung thất ảnh hưởng chức năng vận động của tim, có thể gây nên suy tim với khó thở. Nếu không điều trị, người ta sợ tai biến tim chết người.
Hỏi : Đến nay, người ta điều trị như thế nào những người bị rung nhĩ ?
G.S Michel Desnos : Về nguy cơ do các cục máu đông, ta dùng các thuốc kháng đông bằng đường miệng (các anti-vitamine K, như coumadine), rất có hiệu quả. Đối với những bệnh nhân có nguy cơ chảy máu quan trọng và không có thể dùng những thứ thuốc này, ta cho aspirin với liều lượng thấp mỗi ngày. Mục đích của hai điều trị này là làm loãng máu, do đó làm giảm các nguy cơ gây nên những biến chứng của rung nhĩ, đặc biệt là các tai biến mạch máu não. Bên cạnh các điều trị kháng đông, các thứ thuốc chống loạn nhịp, khử rung (cardioversion) hay thủ thuật cắt bỏ (ablation) có thể tỏ ra cần thiết.
Hỏi : Những kết quả có được với điều trị hiện nay là gì ?
G.S Michel Desnos : Các anti-vitamine K cho phép làm giảm các tai biến mạch máu não hơn 60%, nhưng với cái giá của một sự gia tăng các tai biến xuất huyết (trong đó có xuất huyết não). Bất tiện khác : điều trị này không dễ sử dụng trong đời sống hàng ngày bởi vì nó đòi hỏi phân tích máu đều đặn.
Hỏi : Tác dụng của điều trị mới đối với các bệnh rung nhĩ này là gì ?
G.S Michel Desnos : Dabigatran đã xuất hiện trên thị trường châu Âu vào tháng 10 năm 2008. Nhưng mãi đến nay, nó chỉ được thương mãi hóa duy nhất để tránh các cục máu đông trong các tĩnh mạch nơi những người được mổ để đặt khớp gối hay khớp háng giả. Những can thiệp này cần nằm bất động trên giường, điều này làm dễ sự xuất hiện các viêm tĩnh mạch (phlébites). Dabigatran, một chất ức chế trực tiếp thrombine (một yếu tố đông máu), phong tỏa sự tạo thành của các cục máu đông. Thuốc được cho bằng đường miệng và không cần theo dõi bằng xét nghiệm máu.
Hỏi : Những kết quả của các công trình nghiên cứu đã được thực hiện là gì ?
G.S Michel Desnos : Vào lúc công trình nghiên cứu quốc tế (RELY) trên 18.000 bệnh nhân, người ta đã so sánh các kết quả thu được với điều trị cổ điển bằng coumadine với các kết quả được ghi nhận với dabigatran. Thử nghiệm đã được thực hiện với hai liều lượng khác nhau của thuốc mới : một nhóm bệnh nhân đã nhận dabidatran 150 mg hai lần mỗi ngày ; một nhóm khác, 110 mg, cũng hai lần mỗi ngày. Dabigatran được cho với liều lượng cao làm giảm tai biến mạch máu não nhiều hơn là điều trị cổ điển bằng coumadine, với một nguy cơ xuất huyết tương tự. Với liều lượng thấp hơn, dabigatran tỏ ra cũng hiệu quả như coumadine trong việc ngăn ngừa tai biến mạch máu não với ít xuất huyết hơn.
Hỏi : Khi nào ta có thể sử dụng điều trị này đối với rung nhĩ. ?
G.S Michel Desnos : Chúng ta hy vọng sẽ nhận giấy phép cho lưu hành trên thị trường trong những tháng sắp đến.
Hỏi : Tóm lại, những ưu điểm của dabigatran là gì ?
G.S Michel Desnos : 1. Không phải theo dõi, dầu liều lượng cho là bao nhiêu. 2. Với liều lượng thấp, ít nguy cơ xuất huyết hơn. 3. Với liều cao, một hiệu quả lớn hơn để ngăn ngừa các tai biến mạch máu não.
(PARIS MATCH 8/10-1/10/2009)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 157 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 18/1/2010 )
5/ CÁC VAN ĐỀ SỬA CHỮA TIM.
Khi van tim, có nhiệm vụ chuyển máu từ tâm thất trái qua động mạch chủ bị nghẽn, từ nay ta có thể thay thế nó bằng cách đi qua bên trong hệ tuần hoàn mà không cần phải gây mê tổng quát. Vậy không còn cần phải mổ tim mở (opération à coeur ouvert) với các nguy cơ liên kết với phẫu thuật này. Phương pháp thay thế, mặc dầu còn trong vòng thí nghiệm, nhưng đã chứng tỏ có khả năng. Hiện nay, phương pháp này còn được dành cho những bệnh nhân có sức khỏe kém nhất, không chịu nỗi một phẫu thuật nặng nề. “ Ngày nay, trên thế giới có từ 8000 đến 9000 van được đặt ”, Alec Vahanian, trưởng khoa tim của bệnh viện Bichat, một trong ba trung tâm tiền phong của Pháp đã chỉ rõ như vậy. “ Kỹ thuật này theo dự kiến sẽ được phát triển một cách quan trọng ở Pháp vào năm 2010.” Phẫu thuật đầu tiên thuộc loại này đã được thực hiện, cách nay 8 năm, bởi nhóm của Alain Cribier ở CHU de Rouen.
Hai van được sử dụng ngày nay (Edwards Sapien và Corevalve) cho những kết quả tốt. Sự thiết đặt các van này được thực hiện hoặc qua động mạch đùi (artère fémorale) từ một đường xẻ ở cẳng chân, hoặc bằng một đường xẻ nhỏ trong tâm thất trái của tim. Đường xẻ này được ưa thích hơn trong trường hợp có nguy cơ bị các biến chứng nơi các động mạch. Không cần một điều trị nặng nề nào cả, ngoại trừ một loại thuốc chống sự tạo thành của các cục máu đông và aspirin để làm loãng máu. Đối với các bệnh nhân, “ lợi ích là không thể chối cãi được ”, theo Gilles Rioufol, bệnh viện Louis-Bron ở Lyon. Ưu điểm khác : không còn cần nữa một tuần hoàn ngoài cơ thể (circulation sanguine extracorporelle) như đối với một phẫu thuật tim mở (opération à coeur ouvert).
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN NHỮNG BỆNH NHÂN TRẺ.
Chứng hẹp van động mạch chủ (sténose de la valve aortique) gây bệnh cho khoảng 2 đến 3% những bệnh nhân trên 80 tuổi. “ Nhưng hiện nay, sự thiết đặt van chỉ được thực hiện nơi những bệnh nhân có nguy cơ rất cao nếu thực hiện một can thiệp ngoại khoa cổ điển, Alec Vahanian đã nhắc lại như vậy. Một nhóm hoàn chỉnh các thầy thuốc khoa tim họp lại để quyết định xem, tùy theo tình trạng của bệnh nhân, liệu kỹ thuật này có thể dự kiến được hay không. Những kết quả đầu tiên dường như rất dương tính, nhưng “ chúng tôi thiếu 3 đến 4 năm để được an lòng về những diễn biến về lâu về dài của các van này, vốn là đối tượng của các nghiên cứu ở Hoa Kỳ và ở Pháp, Gilles Rioufol đã xác nhận như vậy. Hiện nay, chúng tôi mổ những người với lứa tuổi trung bình 82, nhưng những triển vọng chẳng bao lâu hẳn phải được mở rộng ra.” Các bệnh nhân trẻ tuổi hơn nhiều có thể hưởng phẫu thuật này, do đó tầm quan trọng phải đảm bảo khả năng đề kháng của các van với thời gian. Tuy nhiên, trong khi đường hướng phẫu thuật này chỉ chiếm 1% các trường hợp thay van, việc phát triển nó lại đặt ra vấn đề tài chánh : các van này phí tổn từ 15.000 đến 20.000 euro và không được đảm nhận bởi bảo hiểm y tế.
(SCIENCE ET VIE 1/2010)
Groups: Y Học Đời Sống, Registered
Joined: 4/5/2011(UTC)
Posts: 5,338
Thanks: 2457 times
Was thanked: 2381 time(s) in 1228 post(s)
THÔNG TIN Y HỌC VỀ SỬ DỤNG ASPIRINE
Lynn Ly tổng hợp thông tin về sử dụng Aspirine
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh
(Tiếp Theo ... )
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 168 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 5/4/2010 )
6/ NGĂN NGỪA CÁC HUYẾT KHỐI TRÊN STENT : ĐIỀU TRỊ MỚI.
GS Michel Desnos, trưởng khoa tim bệnh viện châu Âu Georges-Pompidou, giải thích tiến bộ quan trọng với sự thương mãi hóa mới đây ở Pháp thuốc prasugrel.
Hỏi : Trong những trường hợp nào khiến ta phải thực hiện một angioplastie đồng thời đặt stent và protocol là gì ?
GS Michel Desnos : Angioplastie là thủ thuật nhằm đưa một quả bóng nhỏ (baloonet) vào trong các động mạch của tim (các động mạch vành), để mở lỗ bị hẹp. Trong đại đa số các trường hợp, để tránh sự hẹp tái phát, người ta thiết đặt một loại lưới sắt nhỏ, được gọi là stent. Có hai chỉ định chính đối với thủ thuật này. 1. Nhồi máu cơ tim khi động mạch vành bị bít bởi một cục máu đông. 2. Những cơn đau ngực không kiểm soát được bằng điều trị ngoại khoa, bởi vì cơn đau xảy ra do động mạch bị hẹp. Ở Pháp, người ta thực hiện khoảng 120.000 angioplastie với đặt stent mỗi năm. Và con số này không ngừng gia tăng.
Hỏi : Những kết quả thu được là gì ? Những biến chứng là những biến chứng nào ?
GS Michel Desnos : Về nhồi máu cơ tim, từ 10 năm qua, kỹ thuật này đã cho phép một sự thu giảm một nửa tỷ lệ tử vong. Nhưng cũng như mọi sự can thiệp, có những nguy cơ có thể xảy ra trong khi làm thủ thuật hay xuất hiện thứ phát. Người ta quan sát thấy 2 biến chứng muộn. 1. Một sự hẹp trở lại (resténose) : sau 3 đến 6 tháng động mạch lại bị hẹp lại ở cùng vị trí trước đây. 2. Một sự tắc (occlusion) : động mạch bị trít lại hoàn toàn với huyết khối (thrombose) trên stent (2 đến 3%), một tai biến trầm trọng có thể dẫn đến tử vong (trong 40% các trường hợp).
Hỏi : Mãi đến nay, làm sao ta có thể ngăn ngừa những biến chứng này ?
GS Michel Desnos : Khi sự hẹp trở lại xuất hiện ở cùng một chỗ, ta có thể thực hiện một sự nong giãn mới. Để ngăn ngừa sự xuất hiện một huyết khối (thrombose), ta kê đơn một điều trị chống kết tụ tiểu cầu (traitement antiagrégant plaquettaire), sẽ ngăn cản sự tạo thành một cục máu đông (caillot) trong máu. Trong ít nhất năm đầu sau khi đặt stent, ta kê đơn hai thuốc chống ngưng kết tiểu cầu (antiagrégant) là aspirin kết hợp với clopidogrel (Plavix) và sau đó nói chung chỉ còn một thứ thuốc.
Hỏi : Những thất bại nơi các bệnh nhân được điều trị phòng ngừa này là do đâu ?
GS Michel Desnos : Chủ yếu do 3 nguyên nhân. 1. Một sự tuân thủ điều trị kém của các bệnh nhân, quên uống thuốc hay ngừng điều trị không được biện minh (ví dụ để chữa răng hay nội soi tiêu hóa). 2. Sự hiện hữu của vài loại bệnh liên kết, đặc biệt là bệnh đái đường. 3. Một sự đề kháng đối với clopidogrel do những bất thường di truyền được biểu hiện nơi gan : nơi 25% các bệnh nhân, chất chống ngưng kết này tỏ ra không có hiệu quả.
Hỏi : Liệu pháp mới nhất dành cho các trường hợp đề kháng với điều trị cổ điển là gì ?
GS Michel Desnos : Đó là prasugrel, một chất chống ngưng kết tiểu cầu mới được thương mãi hóa ở Pháp. Đối với những bệnh nhân đề kháng này, thuốc prasugrel có hiệu quả hơn và tác dụng của nó ít được liên kết với chuyển hóa gan hơn và do đó ít nhạy cảm hơn với những bất thường di truyền. Người ta kê đơn thuốc này với liều lượng 10 milligramme mỗi ngày, liên kết với 75 đến 325 mg aspirin.
Hỏi : Những thử nghiệm nào đã chứng tỏ hiệu quả của prasugrel ?
GS Michel Desnos : Công trình nghiên cứu lớn “ Triton ” (được công bố trong “ New England Journal of Medicine ”) đã được thực hiện trên hơn 13.000 bệnh nhân đã bị một nhồi máu cơ tim và mang stent (trong 700 bệnh viện của 30 nước). Các nhà nghiên cứu đã so sánh trong vòng một năm những bệnh nhân được điều trị cổ điển (aspirin +clopidogrel) với những bệnh nhân được điều trị bởi aspirin và prasugrel. Kết quả : thuốc mới đã tỏ ra có hiệu quả hơn do làm giảm 52% các huyết khối trên stent.
Hỏi : Điều trị mới này có gây nên những phản ứng phụ hay không ?
GS Michel Desnos : Điều trị với prasugrel có một nguy cơ gây xuất huyết, nhất là nơi não bộ, ít xảy ra hơn (2,4% các xuất huyết với clopidogrel so với 1,8% với prasugrel).
Hỏi : Người ta có thể giảm mối nguy hiểm này không ?
GS Michel Desnos : Có, bằng cách không cho thuốc này nơi các bệnh nhân có nguy cơ cao hơn : những người trên 75 tuổi, những người đã bị một tai biến mạch máu não, những người cân nặng dưới 60kg.
(PARIS MATCH 1/3-17/3/2010)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 185 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 02/8/2010 )
8/LOÉT DẠ DÀY : CÁC THUỐC KHÁNG SINH CÓ NGĂN CẢN TÁI PHÁT ?
Docteur Anne Courillon-Mallet
Hépato-gastroentérologue
CHU Villeneuve-Saint-Georges
Nhiễm trùng do vi khuẩn Helicobacter pylori là nguyên nhân của 70% các loét dạ dày hay của tá tràng (tá tràng là phần đầu của ruột ngay sau dạ dày). Chừng nào nhiễm trùng còn tồn tại, loét sẽ tái phát trong 60% các trường hợp trong năm. Sự loại bỏ nhiễm trùng vi khuẩn khiến nguy cơ chuyển từ 60% xuống còn 6%.
Điều trị kháng sinh nhiễm trùng do Helicobacter pylori do đó ngăn ngừa một cách hiệu quả loét tái phát tuy nhiên với điều kiện đảm bảo rằng vi trùng đúng là đã được loại bỏ sau điều trị. Thật vậy, tỷ lệ loại bỏ nhiễm trùng sau một đợt điều trị kháng sinh đầu tiên chỉ là 70%, bởi vì những đề kháng đối với các kháng sinh, được phát triển bởi vi khuẩn. Vậy cần phải kiểm tra tính hiệu quả của điều trị.
Trong trường hợp loét tá tràng (ulcère du duodénum), người ta sử dụng một trắc nghiệm hô hấp (test respiratoire). Trắc nghiệm này phát hiện sự hiện diện của một enzyme, uréase, đặc trưng của vi khuẩn Helicobacter pylori. Trắc nghiệm đơn giản và không gây đau đớn : sau 8 giờ nhịn đói, cho bệnh nhân uống urée được đánh đầu với carbone 13 (không phóng xạ) rồi thu lại khí thở ra 30 phút sau. Trắc nghiệm rất đáng tin cậy với điều kiện đã không dùng kháng sinh trong 4 tuần trước khi xét nghiệm và không sử dụng các thuốc ức chế sự tiết axít trong hai tuần trước khi trắc nghiệm.
Trong trường hợp loét dạ dày, người ta khuyến nghị thực hiện một soi dạ dày sau vài tuần để kiểm tra sự lành sẹo của vết loét (và đừng bỏ qua một ung thư có dạng vẻ của một loét thông thường) và soi dạ dày cho phép kiểm tra đồng thời sự biến mất của nhiễm trùng. Nếu nhiễm trùng vẫn tồn tại, người ta đề nghị một đợt điều trị thứ hai và, có thể, một đợt điều trị kháng sinh thứ ba. Một khi nhiễm trùng đã biến mất, ta có thể xem như rằng sự loại bỏ vi khuẩn là dứt điểm bởi vì nguy cơ tái nhiễm trùng nơi những người trưởng thành hầu như là số không.
Nguyên nhân chính khác của loét là sử dụng thuốc kháng viêm không phải stéroide (AINS) hay uống aspirin. Khi người ta dự kiến một điều trị kéo dài bởi loại thuốc này, tốt hơn là tìm kiếm và điều trị một nhiễm trùng bởi Helicobacter pylori để không kiêm nhiệm hai yếu tố nguy cơ. Nhưng việc loại bỏ nhiễm trùng bởi Helicobacter pylori không đủ để hủy bỏ nguy cơ loét do các thứ thuốc.
Để tránh những loét trong lúc điều trị bởi AINS hay aspirin, người ta khuyến nghị, trong vài trường hợp, ví dụ sau 65 tuổi hay trong trường hợp điều trị kháng đông, sử dụng một loại thuốc ức chế sự sản xuất axít.
(LE FIGARO 29/3/2010)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 196 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 18/10/2010 )
4/ UNG THƯ ĐẠI TRÀNG : ASPIRIN CÓ TÁC DỤNG BẢO VỆ ?
Vào năm 2007, những kết quả của những công trình nghiên cứu của Anh và Mỹ, được thực hiện trên hàng ngàn bệnh nhân, đã xác nhận rằng aspirin có thể có một tác dụng bảo vệ chống ung thư đại tràng. aspirin ức chế một enzyme tai hại, cyclo-oxygénase 2 : men này đóng một vai trò quan trọng trong quá trình viêm và biến hóa của một polype hiền tính thành ung thư. Trung bình sự giảm nguy cơ là 33% nơi những người dùng 325 mg aspirin hai lần mỗi tuần trong ít nhất 5 năm ; 40% nơi những người dùng 300 mg mỗi ngày trong 5 năm và 70% khi sự tiêu thụ vượt quá 5 năm. Mặc dầu với những kết quả này, vẫn còn thiếu sự xác định liều lượng tối thiểu có thể mang lại một tác dụng bảo vệ, bởi vì 300 mg mỗi ngày là một liều lượng cao. Một công trình nghiên cứu của Anh mới đây (Drs Faraht Din et Malcolm Dunlop) đã so sánh 2.279 người bị ung thư đại tràng với 2900 người chứng lành mạnh, và đã có thể xác định rằng một tác dụng bảo vệ (với giảm 22% nguy cơ) xuất hiện ngay năm đầu tiên, bắt đầu từ 75mg aspirin, 4 lần mỗi tuần.
(PARIS MATCH 7/10-13/10/2010)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 200 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 15/11/2010 )
6/ SINH SẢN NAM GIỚI : NGUY CƠ CỦA CÁC THUỐC GIẢM ĐAU TRONG THỜI KỲ THAI NGHÉN.
Vài loại thuốc, như aspirine hay ibuprofène, được sử dụng bởi một phụ nữ có thai, ảnh hưởng lên khả năng sinh sản của đứa bé sẽ sinh ra đời.
PROCREATION. Từ nhiều năm nay, một sự hạ thấp của các tinh trùng được phát hiện trong vài nước, đặc biệt là ở Phần Lan, nhưng cũng xảy ra trong vài thành phố của Pháp, đặc biệt là ở Paris. Một số hơi cao hơn các dị dạng sinh dục (malformations génitales) như tinh hoàn ẩn (cryptorchidie) (tinh hoàn không đi xuống bìu dái của cháu trai, toàn bộ hay một phần) cũng đã được mô tả khắp nơi trong những nước công nghiệp hóa. Sau cùng, ung thư tinh hoàn gia tăng trong các vùng nói trên. Nguyên nhân chính xác của những hiện tượng này vẫn không được biết đến. Hôm nay tạp chí Human reproduction công bố những kết quả của những công trình, được thực hiện ở Đan mạch, Phần lan và Pháp, cho phép nghi ngờ vai trò của các thuốc giảm đau được sử dụng bởi bà mẹ trong thời kỳ thai nghén.
Như thế, theo những nghiên cứu này, sự việc đã sử dụng aspirine hay ibuprofène trong hơn hai tuần trong tam cá nguyệt thứ nhất hay thứ hai của thai kỳ, đã làm gia tăng gấp hai nguy cơ sinh ra đời một đứa bé trai bị chứng tinh hoàn ẩn (cryptorchidie). Cùng khuynh hướng được quan sát với paracétamol. Và đối với những bà mẹ tương lai đã sử dụng cùng lúc, trong hơn 15 ngày, hai loại thuốc giảm đau, nguy cơ có một đứa bé trai bị bệnh tinh hoàn ẩn 22 lần cao hơn nguy cơ của những phụ nữ không sử dụng gì hết. Thế mà, người ta biết rằng bệnh tinh hoàn ẩn là một yếu tố nguy cơ đồng thời của chứng vô sinh nam giới (infertilité masculine) và của ung thư tinh hoàn.
Trong những năm 1980, các nhà nghiên cứu vốn đã nghi ngờ những thuốc giảm đau này dùng nơi động vật đực gây nên những rối loạn sinh sản. Nhưng đã phải đợi công trình nghiên cứu được công bố hôm nay để có được những dữ kiện chính xác hơn nơi người. Công trình nghiên cứu này được thực hiện trên hơn 400 phụ nữ có thai người Đan Mạch, đã chấp nhận trả lời một bảng câu hỏi về các thói quen trong cuộc sống và nhất là việc sử dụng các thuốc giảm đau. Sau khi sinh, các trẻ em giới tính nam, được sinh ra từ những phụ nữ này, đã được thăm khám để đặc biệt tìm kiếm một bệnh tinh hoàn ẩn. Chính như vậy mà các tác giả của công trình nghiên cứu lần đầu tiên đã có thể nhận thức rằng các đứa trẻ của những phụ nữ vốn đã dùng một hay nhiều trong số 3 thuốc giảm đau được khảo sát, trong hơn 15 ngày, suốt trong 6 tháng đầu của thai nghén, có nguy cơ gia tăng một cách đáng kể bị chứng tinh hoàn ẩn.
Để hiểu hiện tượng này, các thầy thuốc Đan Mạch và Phần lan đã tiếp xúc Bernard Jégou, giám đốc nghiên cứu ở Inserm đơn vị 625 và ở đại học Rennes-I và chuyên gia quốc tế về những vấn đề môi trường và khả năng sinh sản nam giới. Nhà chuyên môn này khảo sát các canh cấy tế bào tinh hoàn của phôi thai chuột, nhằm trắc nghiệm các loại thuốc hay phân tử hóa học và đánh giá tác dụng của chúng lên chức năng sinh sản của phôi thai. Như thế trên mô hình chuột này ông đã có thể phát hiện một sự giảm tiết testostérone (kích thích tố nam) của những tế bào tinh hoàn phôi thai trước sự hiện diện của các thuốc giảm đau này (paracétamol, ibuprofène hay aspirine).
Sau hết, các nhà nghiên cứu Đan mạch đã tiến hành một thí nghiệm thứ ba. Họ đã cho các con chuột cái mang thai một trong những thuốc giảm đau này với liều lượng lớn. Và sau đó họ cũng đã có thể quan sát thấy trong hậu duệ nam vài bất thường thể hiện một sự nhạy cảm ít hơn đối với testostérone. “ Những công trình nghiên cứu này là những dấu hiệu chỉ rõ rằng phải đặc biệt chú ý đến việc sử dụng các thuốc giảm đau trong thời kỳ thai nghén. Tuy nhiên vẫn phải thận trọng : chúng tôi phát hiện một sự liên kết chứ không phải là một mối liên hệ nhân quả, Bernard Jégou, đồng tác giả của bài báo được đăng tải trong Human Reproduction đã giải thích như vậy. Nhưng những lý lẽ gián tiếp khác cũng đi theo chiều hướng này. Chính ở Đan mạch là nơi sự tiêu thụ cao nhất paracétamol được quan sát và cũng chính là nước có tỷ lệ tinh hoàn ẩn cao nhất. Hôm nay, những tín hiệu này chỉ cho chúng ta rằng phải tiến hành những nghiên cứu dịch tễ và thí nghiệm mới.” Kể từ nay chính giới hữu trách y tế có trách nhiệm tuyên bố về tính thích đáng trong việc hạn chế sử dụng các thuốc giảm đau trong thời kỳ thai nghén.
(LE FIGARO 9/11/2010)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 202 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 29/11/2010 )
9/ MỘT ÍT ASPIRIN CHỐNG LẠI UNG THƯ ĐẠI TRỰC TRÀNG.
Sử dụng aspirin 75 mg mỗi ngày làm giảm tỷ lệ mắc phải và tỷ lệ tử vong của các khối u này. Nhưng việc uống thuốc không toa vẫn không được khuyến nghị.
PREVENTION. Được sử dụng một cách đều đặn trong nhiều năm, một liều lượng tối thiểu aspirin (75mg mỗi ngày) có thể làm giảm 24% nguy cơ ung thư đại-trực tràng và làm giảm 1/3 tỷ lệ tử vong của nó nơi những bệnh nhân bị bệnh. Đó là điều được đánh giá bởi các thầy thuốc người Anh, có công trình nghiên cứu đã được công bố trong tạp chí y học The Lancet. Đối với Peter Rothwell, thuộc đại học Oxford, tác giả đầu tiên của bài báo, một điều trị với những liều lượng nhỏ aspirin có thể được kê đơn để phòng ngừa cho những người có nguy cơ cao bị ung thư đại• trực tràng, thí dụ do thể địa gia đình.
Nhưng dường như còn sớm để đề nghị mộ cách rộng rãi hơn chiến lược “ hóa học-phòng ngừa ” này trong dân chúng, nhất là do những tác dụng phụ của aspirin ở đường tiêu hóa (kích thích, chảy máu).
Các ung thư đại-trực tràng là trong số những khối u ác tình thường xảy ra nhất trong các nước phát triển. Ở Pháp, khoảng 37.000 trường hợp mới được ghi nhận hàng năm, điều này đặt những ung thư này vào hàng thứ ba về mặt tỷ lệ xuất hiện bệnh và hàng thứ hai đối với tỷ lệ tử vong. Người ta chứng thực một tố bẩm gia đình (prédisposition familiale) trong 17% các trường hợp.
Trong những năm qua, nhiều công trình nghiên cứu đã gợi ý những tính chất bảo vệ của aspirin (với những liều lượng hàng ngày vài trăm milligramme), nơi những người có nguy cơ cao bị những ung thư này hay nơi những người đã bị bệnh. Lợi ích của công trình của Peter Rothwell và các đồng nghiệp là đã tổng hợp các dữ kiện của 5 công trình nghiên cứu rộng lớn về chủ đề này, được tiến hành ở Vương Quốc Anh, ở Hòa Lan và Thụy Điển. Như thế các tác giả đã có thể phân tích một quần thể 14.000 bệnh nhân, được cung cấp aspirin mỗi ngày hay không (để phòng ngừa tim mạch) trong 6 năm. Trong 18 tháng theo dõi, 2,8% những người tham dự đã phát triển một ung thư đại-trực tràng.
“ TÔI SẼ TỰ CHO PHÉP CHIẾN LƯỢC PHÒNG NGỪA NÀY ”
Toàn bộ, trong thời kỳ này, nguy cơ xuất hiện các khối u đại trực-tràng được giảm 24% nơi những người sử dụng aspirin. Và tỷ lệ tử vong của những ung thư này giảm 35%. Lợi ích được quan sát đối với những liều lượng hàng ngày 75mg, và những liều lượng cao hơn không cho những lợi ích bổ sung, các nhà nghiên cứu đã xác nhận như vậy. Họ cũng ghi nhận rằng tác dụng bảo vệ của aspirin liên hệ chủ yếu những khối u nằm trong phần đầu (được gọi là gần) của đại tràng, vùng khó thấy được bằng những thăm khám nội sọi. aspirin không có vai trò bảo vệ đối với những ung thư của phần xa đại tràng và ở trực tràng.
Đối với các nhà nghiên cứu người Anh, các kết quả này có những hàm ý đối với thực hành hàng ngày. Nơi những bệnh nhân phải được điều trị chống ngưng kết (traitement antiagrégant) để làm giảm nguy cơ tai biến tim mạch, lý lẽ phòng ngừa các ung thư đại trực tràng phải làm lệch cán cân về phía aspirin hơn là dành cho một loại thuốc khác. Ngay từ bây giời tôi sẽ tự cho phép chiến lượt này nơi những người có nguy cơ cao bị ung thư gia đình, được đả thông về những lợi ích và nguy cơ của aspirin ”, GS Robert Benamouzig thuộc bệnh viện Avicenne (Bobigny, Pháp) đã bình luận như vậy. Công trình nghiên cứu này hẳn là một giọt nước làm tràn đầy ly, và khiến các chuyên gia phai họp nhau lại để quyết định ai sẽ được hưởng biện pháp ngăn ngừa bằng aspirin này ”, thầy thuốc chuyên khoa tiêu hóa nói thêm như vậy. Nhưng trong khi chờ đợi một hội nghị nhất trí như vậy, ông khuyên không nên tự dùng thuốc để thực hiện sự phòng ngừa.
(LE FIGARO 24/10/2010)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 204 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 13/12/2010 )
4/ ASPIRIN VỚI NHỮNG LIỀU LƯỢNG NHỎ CHỐNG LẠI TẤT CẢ HOẶC HẦU NHƯ TẤT CẢ CÁC LOẠI UNG THƯ.
Một cuộc điều tra được công bố hôm nay tiết lộ rằng sử dụng aspirin 75 mg mỗi ngày làm giảm 20% tỷ lệ tử vong do ung thư.
CANCEROLOGIE. Hơn 100 năm sau khi được thương mãi hóa, aspirin vẫn không ngừng tiết lộ các bí mật và nhất là những lợi ích của nó. Lợi ích mới nhất : một tác dụng phòng ngừa hầu như vạn ứng đối với các ung thư, khi aspirin được sử dụng với những liều lượng nhỏ trong nhiều năm. Mãi cho đến nay, tính chất này chủ yếu đã được nghiên cứu và xác lập một cách vững chắc đối với các ung thư đại trực tràng. Cách nay vài tuần, một công trình của nhóm nghiên cứu Anh của GS Peter Rothwell, thuộc đại học Oxford, đã đánh giá rằng một sự tiêu thụ tối thiểu aspirin (75 mg mỗi ngày), trong một thời gian dài lâu, làm giảm 24% nguy cơ mắc phải ung thư đại trực tràng, và làm giảm 1/3 tỷ lệ tử vong của nó nơi những người đã bị ung thư này.
NHỮNG TÁC DỤNG PHỤ CỦA ĐƯỜNG TIÊU HÓA.
Cùng nhóm nghiên cứu này công bố hôm nay, vẫn trong tạp chí Anh The Lancet, những dữ kiện mới, theo đó acide acétylsalycilique (aspirin) tác dụng lên nhiều khối u ác tính khác, làm giảm ít nhất 20% tỷ lệ tử vong của chúng. Để nghiên cứu những mối liên hệ mật thiết giữa việc dùng aspirin và các ung thư, Peter Rothwell và các đồng nghiệp đã xem xét lại những công trình nghiên cứu lớn, so sánh aspirin với một placebo hay với một loại thuốc khác như thuốc chống ngưng kết tiểu cầu (antiagrégant) hay thuốc kháng đông (anticoagulant) nhằm ngăn ngừa những bệnh tim mạch. Thật vậy, aspirin là một trong những điều trị nền (traitement de fond) cổ điển để làm loãng máu nơi những người có nguy cơ cao bị các tai biến tim. Tổng cộng, 7 thử nghiệm đã được phân tích lại, bao gồm 25.570 bệnh nhân. Trong số những bệnh nhân này, 674 đã chết vì các ung thư. Nhìn toàn bộ, nơi những bệnh nhân dùng aspirin, tỷ lệ tử vong bởi khối u ác tính đã giảm 21% trong thời gian thực hiện các nghiên cứu. Các lợi ích lại còn rõ rệt hơn sau 5 năm, với một sự giảm 34%, nếu tính đổ đồng các ung thư, và ngay cả giảm 54% nếu đó là những ung thư dạ dày-ruột.
Các tác dụng của aspirin xuất hiện sau khoảng 5 năm đối với các ung thư thực quản, tụy tạng, não và phổi ; và sau khoảng 10 năm đối với các ung thư dạ dày và đại tràng và 15 năm đối với các ung thư của tuyến tiền liệt. Trong những thử nghiệm với sự theo dõi rất lâu dài, các lợi ích được duy trì trong hơn 20 năm, Peter Rothwell đã nhấn mạnh như vậy, đồng thời cũng xác nhận rằng những lợi ích này chỉ được giới hạn đối với vài loại ung thư, nhất là những ung thư thuộc loại adénocarcinome ”.
“ Đó là một công trình được thực hiện rất tốt, vững chắc trên phương diện phương pháp học, và mở đường cho một phương pháp phòng ngừa các ung thư có hiệu quả và có thể thực hiện được, BS Catherine Hill, chuyên gia dịch tễ học thuộc Viện Gustave-Roussy (Villejuif) đã lấy làm phấn khởi. Cho mãi đến nay, trong lãnh vực này, sự phòng ngừa chủ yếu dựa trên việc chống lại các yếu tố nguy cơ, như thuốc lá, rượu..Nhưng còn về thuốc men, thì chẳng có bao nhiêu. Nhiều hướng đã được nghĩ đến, như hướng của tamoxifène để phòng ngừa ung thư vú hay hướng của các anticox (thuốc chống viêm) nhưng những phương pháp này đều thất bại bởi vì có nhiều nguy cơ hơn là lợi ích.” Một cách cụ thể, ta có thể khuyến nghị mỗi người dùng vào mỗi buổi sáng một liều lượng nhỏ aspirin hay không ?
Về các ung thư đại trực tràng, điều đó không còn xa vời lắm. Trong bài báo được đăng tải hôm tháng 10, Peter Rothwell đã gợi ý như vậy đối với những người có nguy cơ cao bị những ung thư này. Nhưng một “ hóa học phòng ngừa ” (chimioprévention) thực hiện rộng rãi trong dân chúng dường như còn quá sớm, đặc biệt do những tác dụng phụ tiêu hóa của aspirin. “ Phải cần đến những công trình nghiên cứu khác ” các nhà nghiên cứu người Anh đã chấp nhận như vậy, đồng thời đặc biệt nhấn mạnh việc thiếu những dữ kiện về các ung thư phụ nữ, đặc biệt là ung thư vú.
Trong lúc chờ đợi, các nhà nghiên cứu cho rằng nơi những người đang được điều trị chống ngưng kết (traitement antiagrégant), thì những kết quả của công trình nghiên cứu của họ làm lệch cán cân về phía aspirin.
(LE FIGARO 7/12/2010)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 232 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (27/6/2011)
3/ ASPIRINE LÀM GIẢM TỶ LỆ TỬ VONG DO UNG THƯ.
Sự tiêu thụ đều đặn aspirine làm giảm ít nhất 20% tỷ lệ tử vong trong trường hợp của các ung thư thực quản, tụy tạng, não và phổi, theo các nhà nghiên cứu của đại học Oxford. Kết quả quan sát này dựa trên nhiều công trình so sánh giữa việc tiêu thụ aspirine và việc sử dụng một placebo, trong ít nhất 4 năm bởi hơn 25.000 người. Vào tháng mười năm qua, các nhà nghiên cứu này đã ước tính rằng những liều lượng thấp aspirine (khoảng 75 mg) cho phép làm giảm 35% nguy cơ tử vong do ung thư đại trực tràng. Nhưng họ đánh giá là còn sớm để có thể kê đơn aspirine mỗi ngày : còn phải đo cán cân giữa các lợi ích và nguy cơ, nhất là xuất huyết.
(SCIENCE ET VIE 2/2011)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 238 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (10/8/2011)
3/ ASPIRINE ĐỀ PHÒNG NGỪA UNG THƯ ?
Robert Benamouzig là trưởng khoa dạ dày ruột thuộc bệnh viện Avicenne, Bobigny
Hỏi : Một công trình nghiên cứu dịch tễ học về mối liên hệ giữa việc sử dụng aspirine và ung thư vừa được công bố. Công trình này cho thấy điều gì ?
Robert Benamouzig :Công trình nghiên cứu này cho thấy rằng một liều thấp aspirine (75mg mỗi ngày) trong ít nhất 5 năm, làm giảm 20% tỷ lệ tử vong, tất cả các ung thư cộng lại. Để đạt đến kết luận này, nhóm của Peter Rothwell, thuộc đại học Anh Oxford đã thực hiện một phân tích méta từ 8 thử nghiệm lâm sàng, nguyên thủy được tiến hành để đánh giá tác dụng của loại thuốc này lên những bệnh tim mạch. Toàn bộ, 25.570 bệnh nhân đã nhận hoặc là aspirine, hoặc là một placebo. Theo quá trình theo dõi trong 20 năm, những trường hợp tử vong bởi ung thư (nhất là những ung thư đại trực tràng và của thực quản) là ít quan trọng hơn đối với những người đã sử dụng aspirine.
Hỏi : Ta đã có thể mong chờ một tác dụng bảo vệ của aspirine ?
Robert Benamouzig : Vâng, ta đã nghi ngờ điều đó : từ hai chục năm nay ta quan sát thấy rằng ung thư đại trực tràng ít thường xảy ra hơn ở những người sử dụng đều đặn aspirine. Ta cũng biết rằng aspirine cũng như những thuốc kháng viêm khác, ức chế các enzyme có liên quan trong sự tăng sinh của các khối u. Nhưng nhờ những thử nghiệm trên một số lớn các bệnh nhân, Peter Rothwell và nhóm nghiên cứu của ông mới đây đã mang lại những luận cứ mới về tác dụng bảo vệ của aspirine chống lại ung thư đại trực tràng, rồi bây giờ đây tác dụng của nó chống lại hầu hết các ung thư.
Hỏi : Những kết quả này sẽ mang lại những áp dụng đối với thực hành hàng ngày không ?
Robert Benamouzig : Theo ý kiến của tôi, aspirine phải được kê đơn để phòng ngừa ung thư đại trực tràng, đặc biệt đối với những người có một nguy cơ cao, nhất là có yếu tố gia đình. Nhưng không có vấn đề kê đơn để phòng ngừa cho tất cả mọi người hay tự dùng thuốc lấy. Thật vậy, ngay cả với liều thấp, aspirine vẫn có thể gây nên xuất huyết dạ dày ruột trong khoảng 1% các trường hợp. Vậy không nên tạo một cách sai lầm nguy cơ cho những người có nguy cơ thấp, bởi vì, đối với họ, lợi ích của việc sử dụng aspirine sẽ thấp hơn nguy cơ gặp phải. Cũng không nên bắt bệnh nhân sử dụng aspirine quá lâu một cách vô ích : tác dụng bảo vệ xuất hiện sau 5 đến 10 năm, vậy aspirine chỉ có thể bắt đầu được sử dụng khoảng 50 tuổi mà thôi, trừ trường hợp những người có một nguy cơ cao bị ung thư sớm. Vậy vấn đề hiện nay là tính tỷ suất lợi ích đối với nguy cơ của việc sử dụng hàng ngày aspirine để xác định phương pháp ngăn ngừa này sẽ hữu ích đối với những ai.
Hỏi : Những khuyến nghị phải chăng chẳng bao lâu nữa sẽ được soạn thảo ?
Robert Benamouzig : Xác định một cách chính xác giới hạn mà lợi ích của aspirine vượt quá nguy cơ không phải dễ dàng. Phải cần thời gian để các chuyên gia tổ chức và hội họp để soạn thảo những khuyến nghị. Do đó tôi e ngại rằng điều đó còn cần đến vài năm trước khi phương pháp này được áp dụng trong thực tiễn.
(LA RECHERCHE 2/2011)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 246 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (29/10/2011)
4/ PHÒNG NGỪA TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO
Một công trình nghiên cứu của Hoa Kỳ cho thấy rằng sự điều trị tích cực sau báo động đầu tiên cho phép làm giảm các tái phát. Điều trị cao huyết áp là cơ bản.
NEUROLOGIE. Với 120.000 đến 150.000 trường hợp mỗi năm ở Pháp, trong đó một nửa ở những người trên 70 tuổi, tai biến mạch máu não mỗi năm gây nên 32.000 trường hợp tử vong và bấy nhiêu những tàn tật nặng. Đó là nguyên nhân thứ ba gây tử vong sau các bệnh tim-mạch và các ung thư, nguyên nhân thứ hai gây sa sút trí tuệ sau bệnh Alzheimer. Vậy phòng ngừa tai biến mạch máu não, thường nhất do một động mạch tưới máu não bị tắc, là điều chủ yếu : phòng ngừa trước khi xảy ra tai biến mạch máu não hay tai biến thiếu máu cục bộ thoáng qua (accident ischémique transitoire) báo trước tai biến, bằng cách làm giảm những yếu tố nguy cơ mạch máu. Nhưng cũng ở những bệnh nhân sau một tai biến mạch máu não đầu tiên, khi đó có một nguy cơ quan trọng bị một tai biến mới. Gần 80% các tai biến mạch máu não là do một nhồi máu não (infarctus cérébral) được gây nên bởi một huyết khối (thrombus), một trường hợp trên bốn là do những mảng xơ mỡ động mạch (plaques d’athérome) làm hẹp đường kính của các động mạch não, nhưng đôi khi do một rung nhĩ (fibrillation auriculaire), một rối loạn nhịp tim hay một thương tổn những mạch máu nhỏ (microangiopathie). Làm sao tránh tái phát ?
Mối đe dọa này được giảm nhiều (50 đến 75%) nhờ một điều trị triệt để những yếu tố nguy cơ quan trọng như cao huyết áp, LDL-cholestérol (nho statines) và triglycérides, bệnh đái đường, tình trạng nhàn rỗi không hoạt động (sédentarité), chứng nghiện thuốc lá, bệnh béo phì...và một điều trị chống tiểu cầu bằng aspirine và clopidrogel (Plavix) để làm loãng máu. Khi động mạch cảnh trong (carotide interne), có nhiệm vụ mang máu từ tim lên não, bị tắc ở cổ, ngoại khoa cho phép lấy mảng xơ mỡ đi và làm giảm 60% nguy cơ tái phát. Bắt chước kỹ thuật được sử dụng trong cardiologie, angioplastie par ballonnet với stent được đặt trong động mạch cảnh để duy trì sự thông thương mạch máu, cũng đã được trắc nghiệm, bởi vì thủ thuật này ít xâm nhập hơn ngoại khoa. Nhưng kỹ thuật này nhiên hậu gây nhiều nguy cơ hơn ngoại khoa và chỉ được sử dụng en seconde intention.
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU HOA KỲ.
Một sự làm giãn các động mạch não như thế có cho phép làm giảm các nguy cơ không ? Công trình nghiên cứu Hoa Kỳ SAMMPRIS, được công bố tuần qua trong New England Journal of Medicine, cho thấy rằng không phải là như vậy : sau một tai biến thiếu máu cục bộ thoáng qua (AIT : accident ischémique transitoire) hay một tai biến mạch máu não đầu tiên, 451 trong số những bệnh nhân này đã nhận điều trị nội khoa chuẩn “ tích cực ”. Một nửa trong số những bệnh nhân này cũng đã được làm angioplastie với stent được đặt trong động mạch nội sọ bị teo hẹp nhất. Trong tháng sau khi angioplastie được thực hiện, 14,7% các bệnh nhân của nhóm thứ hai này đã bị một tai biến mạch máu não mới hay bị chết, so với chỉ 5,8% trong nhóm được điều trị nội khoa đơn độc. Một năm sau, có hai lần số trường hợp tử vong nhiều hơn trong nhóm với stent so với nhóm kia. “Angioplastie đôi khi được thực hiện trong chỉ định này ở những bệnh nhân không đáp ứng với điều trị nội khoa, nhưng không chắc chắn về lợi ích của thủ thuật này. Từ nay chúng ta có bằng cớ chứng tỏ rằng angioplastie không được sử dụng, ít nhất tức thời, cũng như sau một tai biến mạch máu não đầu tiên, GS Emmanuel Touzé, thầy thuốc chuyên khoa thần kinh (unité neuro-vasculaire, Bệnh viện Sainte-Anne, Paris), đã giải thích như vậy. Nhưng dầu cho điều trị nội khoa đã đạt được những tiến bộ to lớn, vẫn còn một marge de progression quan trọng.” Đối với GS Jean-Marc Orgogozo (pôle neurologie, CHU Pellegrin, Bordeaux), “ những kết quả này chắc chắn sẽ đánh dấu một coup d’arrêt đối với kỹ thuật này.”
Sự thất vọng này, dầu cho những tiến bộ thật sự của phòng ngừa thứ cấp (prévention secondaire), lại còn làm nổi bật hơn tầm quan trọng phải làm tất cả để tránh một tai biến mạch máu não đầu tiên. “ Tai biến thiếu máu cục bộ thoáng qua (AIT), với những dấu hiệu như những rối loạn đột ngột về ngôn ngữ, thị giác, vận động, một sự mất cân bằng..., ngay cả khi chỉ kéo dài vài phút, phải khiến bệnh nhân phải đi khám bệnh ngay, dầu cho những dấu hiệu này đã thoái lui sau đó, bởi vì 3% trong số những bệnh nhân này sẽ tiến triển thành một tai biến mạch máu não thật sự trong 48 giờ, và 9% trong tháng tiếp theo, trong khi đó một điều trị nhanh chóng ở unité neuro-vasculaire làm giảm 80% nguy cơ này ”, GS Touzé đã nhấn mạnh như vậy. Mặt khác, sự tích lũy trong chất trắng não bộ nhiều thương tổn mạch máu nhỏ không gây triệu chứng, hoàn toàn không được nhận biết, nhiên hậu gây nên những hậu quả, nhất là về mặt nhận thức, ở những người già cả nhất.Việc chống lại những yếu tố nguy cơ tim mạch, mà trước hết là chống lại cao huyết áp, có tính chất quyết định trong sự phòng ngừa những thương tổn này. Sự khám phá tình cờ chúng ở một bệnh nhân chắc chắn phải xem bệnh nhân này có nguy cơ bị tai biến mạch máu não.” Việc phòng ngừa nguy cơ não-mạch máu (risque cérébro-vasculaire) ở những người già chắc chắn là một trong những enjeu lớn về y tế trong những năm đến.
(FIGARO 20/9/2011)
5/ PHÒNG NGỪA TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO BẰNG TỪ TRƯỜNG
Rongjia Tao, trưởng bộ môn vật lý của đại học Temple de Philadelphie (Hoa Kỳ)
Ý tưởng : Khi ta cho máu tiếp xúc với một từ trường (champ magnétique), độ nhớt (viscosité) của máu giảm. Và do đó nguy cơ tạo các cục máu đông giảm. Do đó cho các cánh tay mình tiếp xúc đều đặn với từ trường phát sinh từ các bobine nam châm cho phép làm giảm nguy cơ tai biến mạch máu não và nhồi máu cơ tim ở những người có nguy cơ.
Hỏi : Ông đã đến ý nghĩ này như thế nào ?
Rongjia Tao : Vào năm 2006, tôi đã khám phá rằng ta có thể làm giảm độ nhớt (viscosité) của dầu thô (pétrole brut) bằng cách cho nó chịu tác dụng của một từ trường song song với chiều tuần hoàn của nó trong một ống. Từ trường này, do làm phân cực các hạt treo lơ lửng trong dầu hỏa, khiến chúng bị kết dính lại. Các hạt khi đó tập hợp lại để tạo thành những chuỗi nhỏ sau đó chảy một cách dễ dàng hơn. Tôi đã nghĩ đến việc sử dụng kỹ thuật này trên máu, vốn chứa nhiều tế bào trôi lơ lửng, nhất là những tế bào hồng cầu. Bởi vì độ nhớt của máu khi tăng cao làm dễ sự tạo thành các cục máu đông, và do đó sự xuất hiện những tai biến mạch máu não và tim. Hiện nay giải pháp duy nhất để làm loãng máu ở những người đã bị một tai biến mạch máu não là dùng những thuốc như aspirine nhưng loại thuốc này có thể gây nên những tác dụng phụ như xuất huyết dạ dày, loét dạ dày-ruột hay ù tai (acouphène). Các từ trường loại bỏ những tác dụng không được mong muốn này. Mặt khác, chụp hình ảnh bằng cộng hưởng từ hạt nhân (IRM), được sử dụng rộng rãi từ nhiều năm nay, đã chứng minh tính vô hại của các từ trường.
Hỏi : Những kết quả ông đã thu được là gì ?
Rongjia Tao : Với nhóm nghiên cứu của tôi, chúng tôi vừa cho thấy rằng, trên những mẫu nghiệm máu chảy xuyên qua những ống có đường kính 1 mm (kích thước tương tự với kích thước của vài mao mạch), một sự tiếp xúc trong 1 phút với một từ trường làm giảm độ nhớt hơn 20%. Chủ yếu các hồng cầu kết dính với nhau thành những chuỗi nhỏ nhưng chức năng của chúng không bị biến đổi.Tuy nhiên, sau đó, khi không còn tiếp xúc với từ trường nữa, độ nhớtcàng dần dần tăng lên khi các chuỗi hồng cầu càng bị tan vỡ. Trung bình sau hai giờ, máu phục hồi lại độ nhớt lúc đầu : vậy hiệu quả chỉ có tính chất tạm thời.
Hỏi : Kỹ thuật này có thể được sử dụng như thế nào ?
Rongjia Tao : Kỹ thuật này có thể cho phép làm giảm huyết áp của những bệnh nhân bị cao huyết áp. Các bệnh nhân đặt các cánh tay của mình trong những bobine nam châm sinh ra một từ trường mạnh, song song với động mạch của mỗi cánh tay. Bằng cách này, toàn bộ máu sẽ được xử lý trong vòng 15 đến 20 phút. Ta có thể tưởng tượng một thiết bị mang theo người (un dispositif portable), dùng ở nhà. Vấn đề còn lại là thời gian tác dụng. Những kết quả thí nghiệm của chúng tôi cho thấy rằng thời gian tác dụng có thể tăng gấp đôi nếu độ nhớt lúc đầu tăng cao. Vậy chúng tôi có thể tưởng tượng những thử nghiệm lâm sàng với hai buổi điều trị mỗi ngày, một vào buổi sáng và một vào buổi chiều. Kết quả tiếp theo sẽ tùy thuộc vào những thử nghiệm này !
(SCIENCE ET VIE 10/2011)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 247 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (7/11/2011)
4/ ASPIRINE PHÒNG NGỪA UNG THƯ ĐẠI TRỰC TRÀNG.
Những bệnh nhân có nguy cơ di truyền rất cao (patients à très haut risque génétique) có thể hưởng lợi nhờ điều trị này.
PREVENTION. Hy vọng có được một điều trị phòng ngừa ung thư làm sôi nỗi không những các nhà nghiên cứu mà còn cả những người có những nguy cơ cao. Đó là trường hợp những người bị hội chứng Lynch, một bất thường di truyền làm gia tăng một cách đáng kể nguy cơ ung thư, nhất là ung thư đại-trực tràng nhưng cũng những cơ quan khác như nội mạc tử cung. Trong hội chứng hiếm hoi này, nhưng vẫn là nguyên nhân thường gặp nhất của các ung thư đại
trực tràng di truyền (cancers colo-rectaux héréditaires), các bệnh nhân đặc biệt phải chịu những nội soi đại tràng (colonoscopie) tối đa mỗi 2 năm ngay ở lứa tuổi 20. Dĩ nhiên mục tiêu là phát hiện sớm ung thư đại-trực tràng mà ta biết gây bệnh cho hơn một trường hợp đối với 3 trong số những bệnh nhân này.
Công trình nghiên cứu, được công bố hôm nay trong tạp chí quốc tế The Lancet, hẳn sẽ mang lại một ít hy vọng cho những bệnh nhân mà tuổi trung bình lúc được khám phá một ung thư đại-trực tràng là 42 tuổi (đôi khi ngay cả trước 25 tuổi). Thật vậy công trình này cho thấy vai trò phòng ngừa của aspirine. Trên hơn 850 người, một nửa dùng aspirine còn nửa kia dùng một placebo (thuốc không có tác dụng), kết quả cho thấy rằng những bệnh nhân đã uống mỗi ngày 600 mg aspirine trong hai năm đã có nguy cơ ung thư đại-trực tràng giảm 1/3 so với những người dùng placebo. Và có được kết quả này nhưng không chịu những tác dụng phụ đặc biệt nào. Các tác giả đã quan sát thấy 18 ung thư đối với 427 bệnh nhân trong nhóm sử dụng aspirine, so với 30 trên 434 bệnh nhân dùng placebo.
Vào năm 2008, cũng chính những nhà nghiên cứu này đã không phát hiện tính hiệu quả của aspirine trong nghiên cứu này. Chính nhờ kéo dài thời gian theo dõi những bệnh nhân đã dùng aspirine trong hơn 2 năm mà họ đã nhận thức được tác dụng phòng ngừa của aspirine. Sau hai năm, sự dị biệt giữa hai nhóm bắt đầu xuất hiện nhưng vẫn còn chưa đủ về mặt thống kê để rút ra những kết luận.
BS David Malka, thầy thuốc chuyên về ung thư tiêu hóa thuộc Viện Gustave-Roussy (Villejuif) tỏ ra lạc quan thận trọng : “ Đó là một công trình nghiên cứu có thể cho phép thêm vào một vũ khí mới (aspirine) bên cạnh sự theo dõi các bệnh nhân nhờ soi đại tràng ”, ông đã giải thích như vậy. Lần này, GS John Burn (Viện y học di truyền, đại học Newcastle) và các đồng nghiệp tỏ ra dứt khoát hơn : “ Những kết quả của chúng tôi, đặt trong mối liên hệ với những nghiên cứu khác mới đây, mang lại một cơ sở chắc chắn để khuyến nghị dùng aspirine để phòng ngừa một cách hệ thống trong hội chứng Lynch ”, ông đã viết như vậy trong The Lancet. Theo họ, vấn đề còn lại là phải xác định liều lượng tốt và thời gian điều trị tốt.
Tuy nhiên các chuyên gia ngạc nhiên khi có được kết quả này mặc dầu số các polype được phát hiện bằng soi đại tràng đều y hệt dầu bệnh nhân uống aspirine hay không. Thật vậy lý thuyết muốn rằng các polype là giai đoạn đầu tiên trước khi biến đổi thành ung thư. Những kết quả thu được này ở những bệnh nhân với nguy cơ rất cao, do là bệnh di truyền (hội chứng Lynch), phải chăng có thể áp dụng cho những loại khác ? Đâu là tỷ suất lợi ích/nguy cơ của điều trị bằng aspirine trong những trường hợp này, nếu xét đến nguy cơ xuất huyết do aspirine ? Hiện nay những kết quả thu được với những liều lượng thấp aspirine (dưới 100 mg mỗi ngày), được sử dụng trong phòng ngừa những tái phát của các tai biến tim mạch nói chung, đã không cho thấy lợi ích để làm giảm nguy cơ ung thư đại-trực tràng. Ngược lại, đối với những bệnh nhân đã có một ung thư đại-trực tràng được điều trị, những công trình nghiên cứu lại cho thấy một tác dụng phòng ngừa nhưng mức độ vừa phải của aspirine. Vẫn còn quá sớm để có thể dám đưa ra một khuyến nghị chung, ngoài trường hợp hội chứng Lynch.
(LE FIGARO 28/10/2011)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 265 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (7/4/2012)
7/ UNG THƯ : TÁC DỤNG CÓ LỢI CỦA ASPIRINE ĐƯỢC XÁC NHẬN
3 công trình nghiên cứu phát hiện lợi ích của aspirine trong phòng ngừa và điều trị các ung thư.
SANTE PUBLIQUE. Điều đó càng ngày càng rõ ràng : aspirine đóng một cách rõ ràng một vai trò dương tính không những trong sự phòng ngừa, mà còn trong tiến triển của ung thư. Ba công trình nghiên cứu mới, được công bố hôm thứ tư trong Lancet và Lancet Oncology củng cố những kết quả đã thu được bởi nhóm nghiên cứu của GS Peter Rothwell (đại học Oxford). Ngay năm 2007, những công trình nghiên cứu của ông đã chỉ rõ rằng aspirine đưa đến một sự giảm toàn bộ nguy cơ về lâu về dài tử vong bởi ung thư. Vào năm 2010, trước hết ông đã chứng minh tác dụng có lợi này đối với ung thư đại trực tràng, rồi đối với những ung thư khác như tiền liệt tuyến, dạ dày, phổi, tụy tạng … Sự giảm toàn bộ này của tỷ lệ tử vong bởi ung thư, từ 20 đến 25% tùy theo các khối u ung thư, lại còn cao hơn (34%) khi thời gian dùng aspirine mỗi ngày vượt quá 5 năm.
Vấn đề còn phải biết là tác dụng có lợi này có được nhận thấy sau một thời gian dùng aspirine ngắn hơn hay không. Đó là điều mà Peter Rothwell và John Radcliffe (bệnh viện Oxford) đã tìm cách xác lập trong loạt các công trình nghiên cứu mới này. Để được như thế, họ đã sử dụng như trước đây nhiều thử nghiệm lâm sàng đã từng đánh giá tác dụng của aspirine, được sử dụng với liều lượng hàng ngày nhằm phòng ngừa lâu dài những tai biến mạch máu não nhờ tác dụng chống ngưng kết tiểu cầu (effet anti-agrégant plaquettaire) và làm loãng máu.
Trong công trình nghiên cứu thứ nhất được công bố hôm thứ tư bởi Lancet, phân tích các hồ sơ y khoa của 77.549 bệnh nhân được đưa vào trong 51 thử nghiệm phòng ngừa tim mạch, cho thấy rằng, xét toàn bộ, aspirine làm giảm 15% nguy cơ tử vong bởi ung thư ở những bệnh nhân được điều trị so với những người chứng. Nguy cơ này ngay cả giảm 37% nếu ta chỉ xét đến 5 năm đầu tiên điều trị. Ngoài ra, trong 6 thử nghiệm phòng ngừa nguyên phát những tai biến tim mạch bằng những liều thấp aspirine mỗi ngày (hoặc 35.535 người tham dự), sự xuất hiện một ung thư được làm giảm khoảng ¼ suốt trong 3 năm đầu điều trị, với kết quả gần như y hệt ở đàn ông (23%) và phụ nữ (25%). Nguy cơ xuất huyết do sử dụng aspirine có khuynh hướng thu giảm với thời gian điều trị.
Công trình nghiên cứu thứ hai hướng về sự xuất hiện các di căn sau khi ung thư được chẩn đoán, trong 5 thử nghiệm về phòng ngừa các tai biến tim mạch bởi aspirine với liều 75 mg mỗi ngày, hoặc 17.285 người. Thời gian theo dõi trung bình là 6,5 năm. Ở đây nguy cơ ung thư với di căn xa đã được thu giảm 36% trong nhóm được điều trị bởi aspirine, so sánh với nhóm chứng được điều trị với placebo. Sự thu giảm này đặc biệt (46%) đối với các adénocarcinome, những dạng thường gặp nhất của các khối u rắn (tumeur solide) (nhất là đại tràng, phổi, tiền liệt tuyến...), thấp hơn đối với những dạng ung thư khác. Đối với các adénocarcinome này, nguy cơ được giảm 31% nếu đó là chẩn đoán ung thư di căn tức thời, và 55% khi đó là những di căn xuất hiện sau chẩn đoán. Hiệu quả này độc lập với tuổi tác và giới tính.
Công trình nghiên cứu thứ ba, được công bố bởi Lancet Oncology, công trình này cũng quan tâm đến tác dụng phòng ngừa của aspirine lên các di căn, nhưng lần này so sánh những kết quả của các thử nghiệm với những kết quả được tiến hành theo những phương pháp học khác. Công trình này xác nhận sự làm giảm các di căn đối với nhiều loại ung thư được khảo sát (đại trực tràng, thực quản, dạ dày, vú...).
Đối với GS François Chast (Hôtel-Dieu, Paris), “ Sau khi đã lần lượt công nhận những tính chất của aspirine trong rhumatologie rồi trong cardiologie, ta sẽ hướng về một cách không thể tránh được sự công nhận lợi ích của aspirine trong phòng ngừa các ung thư. Những kết quả trở nên có ý nghĩa bắt đầu từ năm thứ ba đối với liều cao, từ năm thứ 5 đối với những liều thấp, điều này khá nhanh, và công trình nghiên cứu xác nhận sự cần thiết của sử dụng thuốc mỗi ngày.”Nhưng cũng phải cần ghi nhớ vài hạn chế của những công trình nghiên cứu này, nhà dược học đã đánh giá như vậy : “ Các công trình nghiên cứu này đã được thực hiện từ những công trình nghiên cứu về phòng ngừa tim mạch, vậy không phải được thai nghén bởi các chuyên gia về ung thư học. Ngoài ra, không nên xem thường nguy cơ xuất huyết tiêu hóa với aspirine, mặc dầu ta có thể làm giảm nó một cách đáng kể bằng cách điều trị những bệnh nhân này để trừ khử vi khuẩn Helicobacter pylori khỏi dạ dày của họ, hay bằng cách thêm vào điều trị một inhibiteur de la pompe à protons để hạn chế nguy cơ loét.” Nhưng, GS Chast đã đánh giá như vậy, “ những kết quả này có vẻ như báo hiệu mùa xuân của một phương thức mới trong ung thư học. ”
(LE FIGARO 21/3/2012)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 294 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (26/1/2013)
7/ METFORMINE : MỘT TÁC DỤNG CHỐNG UNG THƯ ?
Người ta đã đưa ra hai giả thuyết nói rằng hai loại thuốc, aspirine và các statines (statines được sử dụng chống xơ vữa động mạch), có những tác dụng phòng ngừa chống lại nhiều ung thư.
Một dược phẩm được kê đơn rộng rãi như là thuốc hạ đường huyết ở những người bị bệnh đái đường loại 2, metformine có cùng những tác dụng phòng ngừa ; vào năm 2005, một công trình nghiên cứu đã báo cáo một sự hạ tỷ lệ mắc phải ung thư ở những người đái đường được điều trị. Những thử nghiệm thí nghiệm sau đó đã xác nhận tác dụng chống khối u của dược phẩm này (trên những dòng khác nhau những tế bào ung thư người và trên một mô hình động vật ung thư phổi) cũng như một sự gia tăng tính nhạy cảm đối với hóa học trị liệu của những tế bào ung thư của vú, tuyến tiền liệt và phổi. 3 công trình nghiên cứu trên người mới đây cho thấy rằng, ở những người không bị đái đường, một sự hạ 40% nguy cơ ung thư đại trực tràng, một sự giảm trong vòng 6 tuần thể tích khối u của tuyến tiền liệt ở 22 bệnh nhân, một tỷ lệ sống sót được nhân lên 3,7 lần ở 178 phụ nữ bị ung thư buồng trứng so với 239 người khác không sử dụng metformone. Cơ chế tác dụng vẫn còn chưa được hiểu rõ.
(PARIS MATCH 10/1 – 16/1/2012)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 296 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (14/2/2013)
7/ ĐỂ LÀM GIÃN CÁC ĐỘNG MẠCH : NHỮNG STENTS BIORESORBABLE.
GS Antoine Lafont, cardiologue interventionnel thuộc bệnh viện châu Âu Georges-Pompidou, trưởng kíp sửa chữa động mạch Inserm U970, giáo sư của đại học Paris-Descartes, đồng sáng lập của société française ART (đã hiệu chính stent biorésorbable châu Âu và đã được Agence nationale de sécurité du médicament (NSM) cho phép đánh giá trên vào năm 2012), giải thích những thiết bị mới này tránh những biến chứng lâu dài như thế nào.
Hỏi : Ông hay mô tả cho chúng tôi système implantable nhằm làm giãn rộng một động mạch bị hẹp.
GS Antoine Lafont : Đó là một lò xo nhỏ (petit ressort), bằng kim loại, được chế tạo để khai tắc một động mạch. Protocole gồm có đưa một cathéter được trang bị ở đầu mút bởi một stent, qua động mạch quay (cổ tay) hay động mạch đùi (của bẹn) và đưa nó đến tận vùng bị hẹp, ở đó stent triển khai, đẩy lùi các thành động mạch và mở lỗ của huyết quản. Khi đó máu có thể lưu thông một cách bình thường và mang đến tim oxy mà nó cần.
Hỏi : Ta đặt một stent trong những trường hợp nào ?
GS Antoine Lafont : ở những bệnh nhân bị cơn đau thắt ngực (đau tim do oxy mang đến tim không đủ) hay khi một xơ vữa động mạch nghiêm trọng làm hẹp những động mạch của các cẳng chân, gây đau trong các bắp chân khi bước. Chứng xơ vữa động mạch cũng có thể làm thương tổn các động mạch cảnh, khi đó gây nên một nguy cơ đột qụy.
Hỏi : Tính hiệu quả của những stent kim loại này là gì ?
GS Antoine Lafont : Mặc dầu stent đã có phép thay thế một số lớn các pontage, tuy nhiên chỉ định của chúng có những giới hạn. Để sử dụng các stent kim loại, chiều dài của hẹp động mạch không được quá quan trọng và những tắc động mạch (obstruction artérielle) không được quá nhiều. Các kết quả tỏ ra thỏa mãn, ngay cả 25 năm sau khi đặt. Nhất là nhờ sử dụng các thuốc chống ngưng kết tiểu cầu (trong đó có aspirine), trong khoảng 12 tháng, để ngăn cản sự tạo thành các cục máu đông. Mặc dầu đó là một gò bó nhưng cần thiết. Cũng như ở tất cả những bệnh nhân bị bệnh động mạch vành, aspirine sẽ vẫn là một điều trị suốt đời. Các stent không chữa nguyên nhân của bệnh, nếu ta không điều trị những yếu tố nguy cơ (thuốc lá, tăng cholestérol-huyết, cao huyết áp, bệnh đái đường), những hẹp động mạch khác sẽ có thể xuất hiện.
Hỏi : Ta có thể lấy stent đi không ?
GS Antoine Lafont : Không, bởi vì chúng được xếp lợp trong thành động mạch (sau một phản ứng sẹo), thành động mạch dày lên và có thể phát khởi một phản ứng viêm, có nguy cơ dần dần gây tắc lần nữa động mạch (resténose). Trong những trường hợp hiếm, sự tắc này xảy ra ngay cả một cách đột ngột. Do đó cần theo dõi đều đặn.
Hỏi : Làm sao, qua thời gian, ta đã tìm cách làm giảm những nguy cơ này ?
GS Antoine Lafont : Vào đầu những năm 2000, ta đã hiệu chính một kỹ thuật để bọc những stent kim loại này bằng một loại thuốc được phân tán tại chỗ để làm giảm phản ứng hóa sẹo. Kết quả : ta đã cải thiện mức độ dung nạp của các stent nhưng bệnh nhân buộc phải kéo dài sự sử dụng hai loại thuốc chống ngưng kết (đôi khi suốt đời) để tránh mối nguy cơ huyết khối.
Hỏi : Thành phần của những stent mới có thể tiêu đi (stents résorbables) này là gì ?
GS Antoine Lafont : Chúng không còn bằng kim loại nữa mà bằng polymère biorésorbable. Sau khi đã khai thông động mạch, chúng giữ động mạch mở cho đến khi các thành hóa sẹo. Rồi chúng tự phá hủy dần dần để biến mất trong khoảng 18 tháng.
Hỏi : Những công trình nghiên cứu nào đã chứng tỏ tính hiệu quả của những stents biorésorbables nhất này ?
GS Antoine Lafont : Đã có nhiều công trình quốc tế, trong đó công trình mới nhất đang được tiến hành trên 1000 bệnh nhân. Những thử nghiệm này đã cho thấy một độ dung nạp tốt.
Hỏi : Ta có thể đặt bao nhiêu stent trên một bệnh nhân ?
GS Antoine Lafont : Đối với các stent biorésorbable, không có giới hạn. Đối với các stent kim loại, ở tại chỗ, ta cố giới hạn số lượng đặt.
Hỏi : Nói tóm lại những ưu điểm của các stent biorésorbable là gì ?
GS Antoine Lafont : 1. Vì chúng biến mất (như các chỉ tiêu) trong 18 tháng, nên chúng tránh những biến chứng về lâu về dài. 2. Trái với những stent kim loại, ta có thể đặt bao nhiêu stent biorésorbable nếu cần. 3. Chúng cho phép thu giảm 1 tháng thời gian điều trị bởi hai thuốc chống tiếu cầu. 4. Trong vài tháng, thành động mạnh lấy lại tính mềm dẻo của nó, bởi và thành không bị xếp lợp vào trong lồng kim loại của stent.
(PARIS MATCH 10/1-16/1/2013)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 297 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (23/2/2013)
9/ MÁY BAY : BƯỚC ĐỂ TRÁNH VIÊM TĨNH MẠCH
Những chuyến bay đường dài làm dễ nguy cơ viêm tĩnh mạch (phlébite), thậm chí nghẽn tắc động mạch phổi (embolie pulmonaire).
PNEUMOLOGIE. “ Đối với chúng tôi, đó là syndrome de malaise sur la passerelle au petit matin ” (hội chứng khó ở vào sáng sớm trên cầu thang máy bay), BS Philippe Bargain, thầy thuốc của phi trường Roissy đã kể lại như vậy. Sau một chuyến bay hơn 10 giờ, người hành khách trước đó đã uống một viên thuốc ngủ để ngủ, đứng dậy để bước xuống máy bay và cảm thấy khó ở. “ Trong số 60 triệu hành khách mỗi năm của phi trường Roissy, chúng tôi chứng thực khoảng một chục trường hợp mỗi năm, trong đó 2 hoặc 3 trường hợp tử vong ”, Philippe Bargain đã giải thích như vậy. Nguyên nhân của những triệu chứng khó ở này ? Nghẽn tắc động mạch phổi tiếp theo sau một huyết khối tĩnh mạch sâu (thrombose veineuse profonde) (hay viêm tĩnh mạch) do sự tạo thành của một cục máu đông trong các tĩnh mạch chi dưới. Lúc đứng dậy sau nhiều giờ không động đậy, người hành khách huy động cục máu đông và gởi nó vào trong tuần hoàn phổi.
Những tai biến cực kỳ nghiêm trọng này may mắn thay khá hiếm. Vào năm 2001, Samu 93 đã quan sát 56 trường hợp nghẽn tắc động mạch phổi nghiêm trọng trên hơn 135 triệu hành khách. “ Hoặc một tần số 0,4 trường hợp đối với một triệu hành khách và 4,8 trường hợp đối với những chuyến bay trên 10.000 km. Nhưng tỷ lệ thật sự của những biến cố bị đánh giá thấp bởi vì những bệnh nhân với một huyết khối tĩnh mạch sâu hay một nghẽn tắc động mạch phổi không trầm trọng, một biến cố xảy ra thứ phát hay một ngừng tim đã không được tính đến ”, BS Frédéric Lapostolle, tác giả của công trình nghiên cứu đã giải thích như vậy.
Tại sao nguy cơ viêm tĩnh mạch gia tăng lúc đi máy bay ? Huyết khối tĩnh mạch sâu (thrombose veineuse profonde) phát triển khi có sự hiện diện của một thương tổn của thành các huyết quản, do sự ứ đọng máu trong tĩnh mạch (satse veineuse), và những biến đổi của máu : đó là tam chứng Virschow. Tư thế ngồi, do làm dễ sự đè ép kéo dài các đùi chân lên cạnh của ghế ngồi, là nguồn gốc của các thương tổn của thành các mạch máu. Sư đè ép này cũng làm dễ sự ứ máu trong tĩnh mạch (stase veineuse), gây nên một sự gia tăng độ nhớt của máu (viscosité sanguine). Từ lâu được mệnh danh là hội chứng hạng kinh tế (syndrome de la classe économique), bệnh huyết khối nghẽn mạch (maladie thromboembolique) gây bệnh cho tất cả các hành khách, như hiệp hội của các thầy thuốc chuyên khoa phổi Hoa Kỳ vừa nhắc lại điều đó ngày 7/2 đồng thời công bố những khuyến nghị trong tạp chí Chest.
“ Toàn bộ, lúc đi máy bay, nguy cơ mắc phải một bệnh huyết khối nghẽn mạch, không nhất thiết trầm trọng, là 1 đối với 5000 chuyến bay ”, GS Joseph Emmerich, thầy thuốc chuyên khoa tim, chuyên gia các bệnh mạch máu ở Bệnh viện châu Âu Georges Pompidou (Paris) đã tương đối hóa như vậy. Tuy nhiên hiệp hội Hoa Kỳ nhắc lại rằng vài yếu tố làm gia tăng khả năng bị một viêm tĩnh mạch lúc đi máy bay. Đó là trường hợp của những tiền sử bị bệnh huyết khối nghẽn mạch, ung thư, phẫu thuật gần đây, tuổi tác, ngừa thai, thai nghén, béo phì, bất động và do sự việc ngồi trên một chiếc ghế cạnh cửa sổ. “ Mặc dầu nguy cơ liên kết với thời gian hành trình được xác lập một cách rõ ràng (bắt đầu từ 5 hay 7 giờ bay), vai trò của những yếu tố khác vẫn không chắc chắn. Nguy cơ dường như gia tăng ở các phụ nữ ”, BS Frédéric Lapostolle đã phát biểu như vậy.
Sau khi đã nhận diện những hành khách có nguy cơ, các thầy thuốc người Mỹ đã đưa ra một loạt những lời khuyên dành cho những kẻ đi những chuyến bay trên 6 giờ. Các thầy thuốc này chủ trương đi lại thường xuyên, kéo giãn các cơ của bắp chân, nên dùng những ghế ngồi cạnh hành lang và dùng tất và chausette de contention. “ Tôi khuyên uống nhiều. Điều này bắt buộc phải đứng dậy để đi tiểu. Để làm tốt, phải đi lại trong máy bay mỗi giờ, GS Isabelle Quéré, thầy thuốc mạch máu của CHU de Montpellier đã giải thích như vậy. Đối với contention, chú ý đừng bó chặt đầu gối cũng như đáy của đùi, điều đó có thể gây nên một viêm tĩnh mạch ”. Sau cùng Isabelle Quéré hết sức khuyên không nên dùng thuốc ngủ và uống rượu trên những chuyến bay dài tạo nên sự bất động,“ sự ứ đọng máu tĩnh mạch gây nên bởi tư thế khi đó giống hệt với sự ứ đọng của một gây mê, yếu tố của bệnh huyết khối nghẽn mạch ”.
PHÒNG NGỪA.
Ngược lại hiệp hội Hoa Kỳ vẫn rất thận trọng về sự phòng ngừa bằng các thuốc kháng đông như aspirine hay các héparine. Một thực hành rất phổ biến ở Pháp. “ Không có lý do để mở rộng một dự phòng bằng aspirine hay héparine”, GS Joel Constans, thay thuốc chuyên khoa mạch máu (Bordeaux) đã nhấn mạnh như vậy. “ Những người có nguy cơ cao đã được điều trị. Không có gì phải làm khác ngoài việc khuyên họ đứng dậy mỗi hai hay ba giờ và bước trong máy bay”, GS Joseph Emmerich đã nhấn mạnh như vậy. Đối với những hành khách đã bị một viêm tĩnh mạch nhưng không được điều tri kháng đông, quyết định sẽ tùy thuộc từng trường hợp.
(LE FIGARO 13/2/2012)
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.