Khi Đông xưởng lộng hành, nhà Minh lần lượt lập ra thêm hai tổ chức nữa. Tổ chức ra đời sau lại có quyền lực lớn hơn và tàn nhẫn hơn tổ chức ra đời trước.
Từ thời khai quốc, nhà Minh đă thiết lập một hệ thống tư pháp tương đối hoàn thiện, bao gồm H́nh bộ, Đô Sát viện, Đại Lư tự (c̣n gọi là Tam pháp ty). Ba cơ quan này đều có chức năng riêng và kiềm chế lẫn nhau, nhưng có một đặc điểm chung là "cả nể" mỗi khi xét xử quan lại, quư tộc phạm tội.
.Tây xưởng – tổ chức ra đời sau nhưng lấn át cả Đông xưởng (ảnh từ phim truyền h́nh Trung Quốc).
Điều này khiến các hoàng đế nhà Minh không hài ḷng,.
Để tập trung quyền lực tối cao trong tay, các hoàng đế nhà Minh thiết lập thêm một loạt tổ chức mật thám như Cẩm Y vệ, Đông xưởng, Tây xưởng và Nội Hành xưởng. Tổ chức ra đời sau lại có quyền lực lớn hơn và tàn nhẫn hơn tổ chức ra đời trước.
1. Tây xưởng
Năm 1477, Minh Hiến Tông (hoàng đế thứ 9 của nhà Minh) cho thành lập Tây xưởng. Nha môn Tây xưởng đặt ở cửa phía tây Tử Cấm Thành. Đề đốc đầu tiên của Tây xưởng là Uông Trực – thái giám thân cận của Minh Hiến Tông.
Minh sử chép, thời Minh Hiến Tông, ở thành Bắc Kinh xuất hiện "yêu hồ" (cáo thành tinh) hoành hành vào ban đêm. "Yêu hồ" tác oai tác quái, giết hại một số người khiến kinh thành náo loạn. Đông xưởng không tra được án khiến Minh Hiến Tông rất thất vọng.
Cho rằng Đông xưởng làm việc bất lực, Minh Hiến Tông liền cử Uông Trực cùng một nhóm hoạn quan và Cẩm Y vệ đi điều tra. Uông Trực rất thông minh, chẳng bao lâu đă bắt được kẻ giả dạng "yêu hồ".
Để thưởng cho Uông Trực, Minh Hiến Tông thành lập Tây xưởng. Đây cũng là cách để Minh Hiến Tông kiềm chế thế lực của Đông xưởng.
Theo Sohu, Tây xưởng không những kiêm nhiệm chức năng của Đông xưởng mà c̣n có pháp đ́nh (nơi xét xử) và lao ngục riêng. Lợi dụng sự tín nhiệm của hoàng đế, Uông Trực không ngừng mở rộng vây cánh. Chỉ trong thời gian ngắn sau khi thành lập, số lượng hoạn quan làm việc trong Tây xưởng đă lên tới hơn ngàn người.
Tây xưởng có quyền lực rất lớn, lấn át cả Đông xưởng. Thời gian Uông Trực giữ chức Đề đốc Tây xưởng, Đông xưởng đă mất quyền quản lư và giám sát lực lượng Cẩm Y vệ.
Minh sử chép, Tây xưởng được Minh Hiến Tông đặc cách, có toàn quyền quyết định điều tra, xét xử và định tội cho bất kỳ nghi phạm nào, dù là văn vơ đại thần, quan lại địa phương hay dân thường mà không cần thông qua hoàng đế. Chỉ riêng tầng lớp quư tộc là Tây xưởng không được đụng tới.
Theo Sohu, nếu cùng giải quyết một vụ án, người của Đông xưởng gặp Tây xưởng chỉ có thể "nhường bước".
Minh sử chép, Minh Hiến Tông rất sủng ái Vạn Quư phi (tên thật là Vạn Trinh Nhi) dù Vạn Quư phi hơn ông cả chục tuổi.
Để chiều ḷng người đẹp, Minh Hiến Tông vung tiền xây dựng chùa lớn, đạo quán cho Vạn Quư phi bái Phật luyện đan. Trong cung vua có hơn vạn phi tần, hoạn quan hơn 3.000 người. Minh Hiến Tông ngày ngày ăn chơi hưởng lạc. Mọi việc giao cho Uông Trực xử lư.
Nắm quyền lực "dưới một người trên vạn người", Uông Trực phạm sai lầm là không biết điểm dừng, theo Sohu.
V́ nóng ḷng lập công, thanh trừng những người chống đối, Uông Trực chỉ đạo Tây xưởng lập nhiều án oan, tra tấn, giết người vô tội vạ. Hành động của ông ta khiến nhiều người chướng tai gai mắt.
Minh sử chép, tháng 5/1477, quan Đại học sĩ Thương Lộ cùng một nhóm đại thần dâng tấu hạch tội Uông Trực "lộng quyền, khiến ḷng người kinh hăi". Minh Hiến Tông tạm thời băi bỏ Tây xưởng nhưng vẫn tin dùng Uông Trực.
Uông Trực sau đó dùng kế vu cáo, hăm hại khiến Thương Lộ phải từ quan về quê. Tây xưởng lại được khôi phục.
Năm 1479, quan Binh bộ thị lang Hạng Trung v́ chống đối Uông Trực nên bị cách chức, đuổi về quê. Sau vụ này có hàng chục viên quan xin Minh Hiến Tông trị tội Uông Trực. Vua Minh lúc này không thể không nghi ngờ.
Để thăm ḍ Uông Trực, Minh Hiến Tông phái ông ta ra khỏi kinh thành, thị sát vùng biên giới. Không biết bản thân đang bị theo dơi, Uông Trực ra sức nhận hối lộ, hà hiếp quan lại, dân chúng trên đường đi thị sát.
Năm 1481, Uông Trực xin về kinh, Minh Hiến Tông thẳng thừng từ chối và điều ông ta đến Nam Kinh làm thái giám coi ngựa. Uông Trực sau đó bị cách chức, Tây xưởng cũng bị băi bỏ.
Năm 1506, Minh Vũ Tông (hoàng đến thứ 11 của nhà Minh) tái lập Tây xưởng, nhưng không lâu sau cũng phải băi bỏ.
Theo Sina, Đông xưởng dù tiếng tăm không được tốt, nhưng ít ra cũng phát huy được vai tṛ giám sát quan lại, chống tham nhũng trong giai đoạn đầu hoạt động, tồn tại hơn 200 năm. Tây xưởng ra đời sau, không có công trạng ǵ mà chỉ gây ra đầy rẫy án oan, nên chỉ tồn tại được 5 năm.
2. Nội hành xưởng
Minh sử chép, thời Minh Vũ Tông (1491 – 1521), có 8 hoạn quan lộng quyền, gọi là nhóm Bát Hổ (8 con hổ). Đứng đầu nhóm này là Lưu Cẩn, hoạn quan được Minh Vũ Tông tin tưởng nhất.
Năm 1506, Minh Vũ Tông nghe lời Lưu Cẩn, cho tái lập Tây xưởng, giao cho Cốc Đại Dụng (hoạn quan thuộc nhóm Bát Hổ) quản lư. Đông xưởng thuộc quyền quản lư của Mă Vĩnh Thành, cũng thuộc nhóm Bát Hổ.
Điều khiến Lưu Cẩn "bực ḿnh" là, sau khi nắm quyền lực lớn trong tay, Cốc Đại Dụng và Mă Vĩnh Thành lại quay ra đấu đá nhau. Để "nắm đầu" cả Đông xưởng và Tây xưởng, Lưu Cẩn xin Minh Vũ Tông lập ra một tổ chức mới, gọi là Nội hành xưởng.
Năm 1508, Minh Vũ Tông lập ra Nội hành xưởng, phong cho Lưu Cẩn làm Đề đốc. Tổ chức này quản lư cả Đông xưởng, Tây xưởng và Cẩm Y vệ.
Sau khi giao quyền lực vào tay Lưu Cẩn, Minh Vũ Tông "yên tâm" ăn chơi hưởng lạc.
Minh sử chép, năm 1507, Minh Vũ Tông nghe lời Lưu Cẩn, cho xây dựng Báo pḥng. Bên trong Báo pḥng, vua Minh nuôi nhốt nhiều hổ, báo và mỹ nhân, tiệc tùng sa đọa không c̣n biết đêm hay ngày.
Bọn Lưu Cẩn bày đủ tṛ để Minh Vũ Tông vui chơi, tới khi nhà vua mải mê, chúng mới dâng tấu sớ xin phê duyệt. Minh Vũ Tông bực ḿnh nói: "Ta nuôi các ngươi để làm ǵ?", rồi quẳng tấu sớ cho Lưu Cẩn.
Theo Sohu, thời Minh Vũ Tông, dân gian lưu truyền câu nói: "Trong thành Bắc Kinh có hai hoàng đế. Một hoàng đế nằm, một hoàng đế đứng. Một Chu hoàng đế, một Lưu hoàng đế".
Theo những ǵ Minh sử mô tả, hoạt động của Nội hành xưởng c̣n có phần đáng sợ hơn Tây xưởng dưới thời hoạn quan Uông Trực.
Những người rơi vào tay Nội hành xưởng, tội nhẹ th́ bị đánh bằng trượng, đày ra biên ải, tội nặng th́ bị bắt đeo gông sắt nặng 150 cân đè đến sống dở chết dở, tội "đại nghịch" th́ bị đánh đến thịt nát xương tan, chém đầu hoặc lăng tŕ (cắt từng miếng thịt). Ngay cả người của Đông – Tây xưởng nếu không phục tùng Nội hành xưởng cũng bị bắt giam.
Theo Qulishi, các tài liệu thời Minh ghi chép tản mạn về hoạt động của Nội hành xưởng, nhưng có thể ước tính rằng, trong ṿng 2 năm hoạt động, tổ chức này đă giết hại hơn 1.000 người, lưu đày khoảng 10.000 người. Nhiều người đă tự sát khi bị Nội hành xưởng tra tấn, nhưng không có tài liệu thống kê.
Không chỉ tàn nhẫn, Lưu Cẩn c̣n là quan tham nổi tiếng.
Minh sử chép, Lưu Cẩn đặt "luật ngầm" trong chốn quan trường. Theo đó, quan tổng đốc các tỉnh mỗi lần đến kinh thành (theo lệ nhà Minh là 3 năm/lần) phải nộp cho ông ta 20.000 lượng bạc, quan lại cấp thấp hơn th́ nộp 5.000 – 1.000 lượng bạc. Người nộp nhiều bạc được cất nhắc, người nộp ít bị giáng chức, người không có bạc nộp th́ có thể vay lăi.
Nhưng những ngày tháng lộng quyền của Lưu Cẩn không kéo dài bao lâu.
Năm 1510, Lưu Cẩn bị tướng quân Dương Nhất Thanh và hoạn quan Trương Vĩnh tố giác, Minh Vũ Tông lập tức ra lệnh khám xét nhà Lưu Cẩn.
Minh sử chép, tại nhà Lưu Cẩn thu được hàng triệu lạng vàng, bạc, châu báu ngọc ngà nhiều vô số kể. Ngoài ra, c̣n phát hiện long bào, đai ngọc, khôi giáp, vũ khí…
"Tên nô tài này quả nhiên muốn tạo phản", Minh Vũ Tông nói.
Lưu Cẩn bị xử tử bằng h́nh phạt lăng tŕ. Nội hành xưởng và Tây xưởng cũng bị băi bỏ.
Theo Sohu, Lưu Cẩn phải chịu 3.357 nhát cắt trong 3 ngày liên tục.
Năm 2001, tờ The Wall Stress Journal Asia đưa Lưu Cẩn vào danh sách 50 người giàu có nhất thế giới trong ṿng 1.000 năm. Gia tài của hoạn quan này được cho là sánh ngang với những nhân vật nức tiếng giàu có khác như Thành Cát Tư Hăn, Ḥa Thân, Ngũ Bỉnh Giám…
VietBF@ sưu tập