Với nhiều thế hệ độc giả Thủy Hử, nhân vật Hoàng đế nhà Bắc Tống – Tống Huy Tông có lẽ là một trong những nhân vật đáng giận nhất. Bởi nếu ông thực sự là một đấng minh quân, thì kết cục của 108 vị anh hùng Lương Sơn Bạc đã không bi đát đến vậy.
Trong Thuỷ Hử, Thi Nại Am không nêu rõ kết cục sau này của vị Hoàng đế này ra sao. Tuy nhiên, lịch sử lại ghi chép tường tận về số phận của nhân vật này, làm bài học cho hậu thế.
Nhân vật Hoàng đế trong Thủy Hử
Nhân vật “Thiên tử” được nhắc tới nhiều trong 50 hồi sau của Thủy Hử (phần Tục Thủy Hử) qua nỗ lực được triều đình chiêu an của Tống Giang, ở cuộc hội ngộ với Yến Thanh ở nhà của Lý Sư Sư; các quyết định dung nạp nghĩa quân Lương Sơn; chuyện truyền lệnh đánh Liêu, dẹp Điền Hổ, Vương Khánh, bình Phương Lạp…
“Thiên tử” của Thủy Hử hiện lên với hình ảnh là một vị Hoàng đế có Tâm nhưng không có Tầm. “Thiên tử” ấy cũng có những cảm xúc, suy tư nhân tình thế thái nhưng lại thiếu hoàn toàn các quyết sách, hành động để làm vững mạnh triều cương, vì dân vì nước. Đúng như lời Lý Sư Sư từng nói: “Bệ hạ tuy là đấng thánh minh, ở ngôi cửu trùng nhưng bị bọn gian thần rào đường rấp lối, ngăn cản người hiền, biết làm sao được?”.

Nhiều anh hùng Lương Sơn Bạc phải chịu kết cục đau đớn vì bị gian thần hãm hại, gián tiếp xuất phát từ sự nhu nhược, u mê của Hoàng đế (Poster phim Thuỷ Hử 1998).
Lời nói cuối cùng của “Thiên tử” trong danh tác Thủy Hử của Thi Nại Am là câu quát mắng bọn “Tứ đại ác nhân” đứng sau cái chết của Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa: “Các ngươi là gian thần hại nước, làm hư nát cả thiên hạ của trẫm!”. Nhưng sau đó thì sao? “Hoàng đế bị bốn tên gian thần quanh co che giấu nên không bắt tội được chúng, chỉ quát đuổi bọn Cao Cầu, Dương Tiễn ra ngoài”.
Với những chi tiết và nhân vật lịch sử được Thi Nại Am nhắc tới, thì “Thiên tử” của Thủy Hử chính là Tống Huy Tông, Hoàng đế thứ 8 của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Tống Huy Tông, tên thật Triệu Cát, trị vì từ năm 1100 đến năm 1126 thì nhường ngôi, trở thành Thái thượng hoàng. Sử gia nổi tiếng thời nhà Nguyên – Thoát Thoát bình luận về Tống Huy Tông thế này: “Tống Huy Tông mọi sự đều có khả năng, chỉ riêng việc làm vua thì vô năng”.
Đó là một bình luận tuy ngắn gọn nhưng hoàn toàn chính xác về Tống Huy Tông: một Hoàng đế có tài năng xuất chúng về nghệ thuật nhưng về mặt chính trị lại u mê, trọng dụng gian thần, chỉ thích hưởng lạc, tiêu pha vô độ, khiến triều đình hủ bại, lòng dân oán thán.
Thời gian trị vì của Tống Huy Tông gắn liền với rất nhiều quyết định thiếu chính xác. Tống Huy Tông sinh hoạt xa xỉ, dùng nhọc sức triều đình để thỏa mãn những nhu cầu của mình. Tống Huy Tông bỏ trung dùng gian, để cho tham quan lộng hành dẫn tới khởi nghĩa nông dân trong nước suốt mười mấy năm, khiến triều cương bị lũng đoạn, đất nước rối ren và suy yếu. Sự kết thúc thời kỳ trị vì của Tống Huy Tông, quanh sự kiện Tĩnh Khang, đánh dấu một giai đoạn đầy thảm họa cho nhà Tống.
Một kết cục bi thảm
Những việc làm của Tống Huy Tông đã khiến triều đại Bắc Tống kết thúc trong thảm hại. Năm 1126, quân Kim ở phía Bắc xâm lược và chiếm được kinh thành Biện Kinh (nay thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam).
Không chỉ Tống Huy Tông cùng con trai của ông ta là Tống Khâm Tông, mà rất nhiều người trong hoàng thất – tổng cộng hơn vạn người, đa số là nữ – đều bị quân Kim bắt làm nô lệ, có người còn bị ép làm kỹ nữ. Một con trai khác của Tống Huy Tông là Tống Cao Tông đã chạy đến Lâm An (thuộc Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang ngày nay) và thành lập triều đại Nam Tống. Thảm họa này được gọi là loạn Tĩnh Khang.
Sau khi bị bắt, Tống Huy Tông và con trai Tống Khâm Tông bị giam giữ tại thành Ngũ Quốc (nay thuộc huyện Y Lan, tỉnh Hắc Long Giang), ông ta bị dằn vặt tinh thần, đã viết lại rất nhiều bài thơ thể hiện sự hối hận, ai oán, thê lương.
Thế nhưng, sự hối hận đó chỉ là để đổ lỗi cho quan viên trong triều về sự ô nhục này, nói rằng “xã tắc sơn hà đều vì đại thần kém cỏi”, mà không nhận ra bản thân vì tội khinh nhờn Phật Đạo Thần, hãm hại Phật giáo, làm xằng bậy mà đưa đến kết quả này.
Có lần, cha con Tống Huy Tông gặp một ông lão đến từ thành Biện Kinh. Hồi tưởng lại chuyện cũ, ba người họ ôm nhau khóc rống, bị thống lĩnh quân Kim nhìn thấy, ra lệnh cho quân lính quật cho hai cha con mỗi người 50 roi. Đêm đó, Tống Huy Tông cắt quần áo thành dải, làm dây chuẩn bị tự sát. Tống Khâm Tông thấy thế, bèn lao ra đỡ cha từ xà nhà xuống, xong hai cha con lại ôm nhau mà khóc.
Để sống sót qua mùa đông giá buốt ở phương Bắc, hai cha con Tống Huy Tông phải chui vào hầm sâu mấy thước mà sống. Cuối cùng, tóc của ông bị rụng hết, tai điếc, mắt mờ, khóc không ra nước mắt. Chín năm sau, ông chết ở tuổi 52.
Khi Tống Khâm Tông phát hiện ra thi thể của cha mình, nó đã lạnh cứng như đá. Quân Kim đem thi thể Tống Huy Tông dựng vào hố đá mà thiêu. Được nửa chừng, họ đổ nước vào hố để dập lửa, rồi đưa thi thể cháy dở vào cái hố khác chứa đầy nước. Họ cho rằng nước ngâm xác chết cháy có thể dùng để chế dầu đốt đèn. Quá đau buồn, Tống Khâm Tông cũng định nhảy xuống hố nước để tự kết liễu đời mình. Quân Kim đã ngăn lại, nói rằng người sống nhảy xuống nước thì không dùng làm dầu đốt đèn được.
Lịch sử Trung Quốc có nhiều quan lại và hoàng đế hủ bại, nhưng rất ít người gặp phải số phận bi thảm như Tống Huy Tông.
Vietbf @ Sưu tầm