Làng nghèo đến mức, như ông Nguyễn Văn Hạnh, trưởng thôn Cồn Cưỡi, nói: “Phải đi mượn đất mà làm ăn”. Làng bị bao vây giữa bốn bề nước mặn. Chính quyền xă chia cho 4 ha đất ở bên kia sông. Người đông, đất ít nên cuối cùng chỉ có 27 hộ được trồng cấy. C̣n lại sống nhờ sông nước. Toàn thôn có chừng 900 người th́ rặt là hộ nghèo.
Từng có 1 chiếc xe máy
Phần lớn các hộ dân Cồn Cưỡi (xă Quảng Tiên, Quảng Trạch, Quảng B́nh) sống bám vào mặt tiền con đường (ông Hạnh gọi cho nó sang trọng là... đại lộ) rộng 2 mét và cách trục đường ấy chừng năm chục mét là bờ sông. Đi đến một ngôi nhà có vẻ bề thế nhất làng, ông Hạnh hắng tiếng gọi: “Ông Hiền có khách há”. Ông Hiền chạy ra, mắt hấp háy nh́n rồi tự giới thiệu: “Tui trước là trưởng thôn, làm lâu quá nên phải chuyển cho chú Hạnh làm cho nó đổi mới, giờ chỉ làm công an thôn thôi”.
Uống xong bát nước vối, ông Hiền, ông Hạnh lại “xin phép” kéo tôi đi thăm làng. "Cả làng có gần 1.000 dân nhưng chỉ có một đảng viên là tui thôi. Hơn chục năm nay mà vẫn rứa”, ông Hiền chép miệng. Mỗi lần sinh hoạt chi bộ, ông phải sang bên kia sông họp.
![](http://farm.vtc.vn/media/vtcnews/2011/08/29/23082011145826_1.JPG)
Đàn ḅ là tài sản lớn ở Cồn Cưỡi.
Theo ông Hiền sơ bộ thống kê th́ làng cũng có những chuyện cũng lạ. Ví như làng có một đảng viên, một người học đại học, một người vừa thi đại học, một cái xe máy, một trường tiểu học. Hoặc làng 3 cái xe đạp, có 3 hộ buôn bán, có khúc sông rộng đúng...300 mét.
Tôi hỏi nhà ai có xe máy sang vậy? Ông Hạnh cười không mấy vui: “Xe có sang trọng cho mô. Hồi đó, có anh Thành đi làm ăn trong Nam, ra Tết có đưa về cái xe máy cũ chạy khắp. Ngày chạy, đêm cũng chạy làm chó cứ sủa inh lên. Được mấy hôm hết nhẵn xăng thế là thôi không chạy nữa. Sau Tết, anh Thành đi vào Nam th́ đưa xuống đ̣ sang bên đường Một (QL 1A) đón xe tốc hành mang đi luôn. Năm sau không thấy mang về nữa. Mới đây, ông Hiền có cậu con trai đi học nên mua chiếc xe máy Tàu nghe đâu hai, ba triệu ǵ đó. Đi đâu th́ mang vác lên đ̣ nên bực lắm. Lại c̣n hết xăng th́ phải đi đ̣ sang tận bên kia mới có. Thành ra xe cũng xếp góc nhà, nghe nói hỏng cái chi đó không chạy được nữa rồi nên bán được hơn triệu bạc".
Ghé thăm nhà chị Hoàng Thị Hướng là một trong ba hộ buôn bán hàng hoá ở thôn. Buổi trưa, vắng khách, chị Hướng uể oải dọn lại mấy thứ hàng treo trên sợi dây vắt qua cửa nhà. Nghe ông trưởng thôn giới thiệu là "nhà thương nghiệp", chị Hướng cứ cười măi: “Ôi dào, bác cứ hay vui miệng. Mấy hộ buôn bán lặt vặt từ gói ḿ tôm đến hộp diêm, ng̣i bút... chứ thương nghiệp với thương nghề ǵ. Chỉ có tí vốn c̣m, mà bà con c̣n mua chịu nợ từ đầu năm đến cuối năm mới trả đấy chứ. Thôi th́ ai cũng nghèo, biết làm răng được”.
Nhà chị Nguyễn Thị Tuư ở kế bên, không buôn bán nhưng được cái may là có ruộng để trồng lúa. Hỏi chuyện lúa má, chị cứ thần người ra rồi chép miệng: “Có chi mà kể hè. Mỗi năm làm được 1 vụ, đất chai xấu, lại thêm không có nước mà tháo vô ruộng nên cây lúa cứ c̣i cọc như cóc giữa đồng. Năm được mùa th́ hơn tạ thóc thôi. Thóc đó để dành khi mùa mưa gió vô có cái ăn. C̣n lại th́ làm cái chi kiếm được đồng bạc mua gạo mà ăn".
Tài sản lớn nhất của người dân Cồn Cưỡi có lẽ là đàn trâu, ḅ lên đến 60 con (trung b́nh 5 nhà có 2 con trâu, ḅ). Không ai dám bán một con để lấy tiền tiêu. Đó như của để dành pḥng lúc ốm đau, bất trắc th́ c̣n có cái mà vin vào. Tôi hỏi sao không phát triển thêm đàn trâu, ḅ để có thêm thu nhập? Ông Hạnh bộc bệch: “Chừng đó là đủ rồi. Phát triển thêm lấy ǵ cho cho nó ăn. Ốc đảo ni có được mấy vạt cỏ mô. Cũng có người đưa cỏ về trồng mà không có nước tưới, bị hơi nước mặn táp vô nên cũng chết dần chứ không ra nổi lá cho ḅ ăn”.
"Làm răng cởi bỏ kiếp nghèo?"
Hỏi chuyện học hành của làng th́ ông Hạnh nhường lời kể cho ông Hiền v́ hiện nhà ông Hiền có con học cấp 3, đại diện cho ốc đảo này. Ông Hiền nhớ lại: “Từ ngày lớn lên đến bây chờ, chỉ có một lần làng tổ chức đưa anh Nguyễn Ngọc Đông vào Đại học Huế”. Sau đó, thêm mười năm nữa mới đến lượt anh chàng Nguyễn Văn Hoà (con ông Hiền) là người nối “sự nghiệp” học vấn của làng. Năm nay Hoà thi vào Trường Đại học Huế nhưng điểm cũng không được cao. Cu cậu đang t́m một trường trung cấp nghề nào đó để theo học. Hy vọng có thêm một người của làng được đào tạo ở một trường chuyên nghiệp.
Thi thoảng, rỗi việc Hoà xách chiếc xe đạp ra "đại lộ làng" làm mấy ṿng cho đỡ cuồng chân. Chiếc xe tồng tọc, bánh sau chỉ có nan hoa với vành nhôm chứ không có xăm lốp cứ chạy và nảy côm côm trên con đường mấp mô. Đám con nít cũng khoái tợn, chạy hùa hùa bám theo ḥ hét như đánh trận. Có thằng cu chừng năm sáu tuổi, một tay kéo cạp quần tụt, một tay ngoắt lên bám chạy theo. Đến khi ống quần tụt bị vướng khiến cu cậu ngă phịch quay lơ giữa đám bụi. Chỉ có tiếng cười, chẳng khóc tẹo nào. Thằng anh lớn tuổi hơn chút vừa chạy theo xe vừa ngoái đầu lại quát: “Nhanh lên mà chạy chớ c̣n nằm đất chi”.
Theo ông Hạnh th́ nhiều lần, người dân Cồn Cưỡi khẩn cầu có một chiếc cầu treo nối Cồn Cưỡi với thôn Trường Thọ đối diện. Bao lần tha thiết đề xuất, rồi ở trên huyện, tỉnh cũng cho người về khảo sát, đo đạc. Dân làng mừng lắm. Nhưng chờ măi, rồi bặt âm.
Hỏi th́ người ta bảo, dự án này chỉ đủ vốn làm cầu treo dài 200 mét thôi. Đo khoảng sông này th́ thấy nó dài đến 300 mét. Vậy là 100 mét dài thêm không có nguồn nào bù vào nên dự án cầu treo không thể thực hiện được.
Đi một ṿng quanh làng về, trưởng thôn Hạnh nhẩm tính: “Cồn Cưỡi có chừng 150 hộ với khoảng 900 nhân khẩu. Phải ước chừng thôi, chứ không thể nói được con số chính xác. Hơn 40 hộ rời làng đi làm ăn phiêu bạt. Chừng 40 hộ khác không có nhà trên đất liền, lênh đênh trên đ̣ dọc các tuyến sông”. Những cư dân mới của Cồn Cưỡi chào đời theo ḍng mưu sinh ấy, đăng kư khai sinh không cần thiết đối với họ. Bởi thế, dân số của làng khó mà nói được cụ thể. “Đứa mô may mắn được gia đ́nh đưa gửi lên bờ đi học th́ lúc đó mới biết tên và khai sinh thôi chứ bố mẹ cũng chỉ gọi tên kiểu như cu lớn, cu nậy, cu nhỏ hay chó, mèo chi đó”, ông Hạnh nói thêm.
T́nh trạng thiếu nước ngọt cho sinh hoạt và sản xuất được xem là nguyên nhân níu kéo cư dân làng nổi không thể vượt qua đói nghèo, lạc hậu. Nhiều cái khó cho Cồn Cưỡi khó t́m được câu trả lời. Cấp nước vượt sông th́ chưa thể v́ quá tốn kém, c̣n t́m nguồn nước ngầm th́ không có. Đất đai vừa ít, vừa manh mún lại phải nhờ trời khiến người dân không thể trông chờ vào mảnh ruộng, mảnh vườn để sinh sống. Trước đây, một số dự án đưa ngành nghề phụ như: khâu nón, mây tre đan…về làng nhưng rồi cũng thất bại, không trụ lại được lâu v́ chính bản thân những làng nghề truyền thống này cũng đang phải đối mặt với sự mai một.
Ông Hiền nói như đúc rút điều ǵ đó: “Sự đời lâu nay vẫn vậy, đói nghèo, lạc hậu luôn song hành với sinh đẻ nhiều và ngược lại. Rồi thiếu học th́ nhận thức người dân về nội quy của làng xă, về pháp luật cũng khó mà nâng cao. Rứa th́, làm răng để mà cởi bỏ, thoát được cảnh nghèo?".
TP (NNVN)