(Tham luận tại Hội thảo “Giá trị Minh triết Hồ Chí Minh, một định hướng phát triển Việt Nam” do Trung tâm Văn hóa Minh triết tổ chức tại Hà Nội ngày 26.10.2011)
Tôi rất tán thành ư kiến của cựu Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An nhận định rằng minh triết Hồ Chí Minh là minh triết – lư luận – hành động. Nói rơ hơn, đó là minh triết được thể hiện thành những tư tưởng cụ thể, nói ra thành những lời giản dị, rơ ràng, chắc nịch, dứt khoát, có thể chuyển ngay thành hành động; minh triết – tư tưởng gắn chặt với hành động.
Tôi xin lấy ví dụ: KHÔNG CÓ G̀ QUƯ HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO. Lời kêu gọi lịch sử ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đă vang lên lần đầu tiên vào buổi sáng ngày 17.7.1966 tại thủ đô Hà Nội, làm rung động mănh liệt mọi trái tim Việt Nam yêu nước, yêu dân chủ tự do. V́ độc lập, v́ tự do, biết bao người con của Tổ quốc Việt Nam và gia đ́nh họ, trong đó có bản thân tôi, vợ tôi, gia đ́nh tôi cả bên nội lẫn bên ngoại, đă không chút đắn do hiến dâng cả tính mạng suốt mấy cuộc chiến đấu trường kỳ.
Thực ra, ngay từ năm 1942, tư tưởng KHÔNG CÓ G̀ QUƯ HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO của Hồ Chí Minh – cũng là lẽ sống của bất cứ con người b́nh thường nào – đă ghi rơ ràng trong bốn câu thơ này:
Trên đời ngàn vạn điều cay đắng
Cay đắng chi bằng mất tự do
Mỗi việc mỗi lời không tự chủ
Để cho người dắt tựa trâu ḅ
(Hồ Chí Minh – Nhật kư trong tù)
Như thế, độc lập, trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ hạn hẹp ở độc lập dân tộc, dầu rằng độc lập luôn luôn là nỗi ám ảnh ngh́n đời của dân tộc ta, và vào thời điểm ra đời những câu thơ trên đang là nhiệm vụ bức thiết hàng đầu. Độc lập, ở Hồ Chí Minh c̣n một tầng nghĩa nữa sâu hơn, đó là vị thế độc lập của mỗi con người, trước hết là cái quyền suy nghĩ độc lập và công khai nói lên tiếng nói độc lập, để không rơi vào cảnh “mỗi việc mỗi lời không tự chủ để cho người dắt tựa trâu ḅ”.
Tự do cũng vậy.Tự do không chỉ là quyền của mỗi dân tộc trong mối quan hệ với dân tộc khác; tự do trước hết và căn bản là quyền của mỗi con người (lâu nay không ít bài trên báo đài thường có kiểu nói lướt nói tắt chung chung “Độc lập Tự do của Tổ quốc” làm cạn nghĩa một lẽ sống phổ quát). Cho nên, ngay sau khi lănh đạo nhân dân làm Cách mạng tháng Tám thành công, Hồ Chủ tịch liền phải lập tức nhấn mạnh rạch ṛi: “Nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do th́ độc lập cũng không có nghĩa lư ǵ” (1). Chắc rằng Hồ Chủ tịch đă thấy trước, nếu không nói rạch ṛi như vậy, ắt sẽ khó tránh khỏi t́nh trạng áp đặt cách hiểu cạn cợt về độc lập để lấn át các quyền tự do căn bản của người dân, trước hết là quyền suy nghĩ độc lập và tự do nói lên tiếng nói độc lập.
Nhưng suy nghĩ độc lập để t́m ra lẽ phải, nói và làm theo lẽ phải là việc tưởng như đương nhiên b́nh thường b́nh dị mà thực ra lại hoàn toàn không đơn giản giữa cái thế thái nhân t́nh vô cùng rắc rối này. Ngay từ 1942 Cụ Hồ đă ghi lại thành thơ sự trải nghiệm ấy: “Vốn biết việc đời không phải dễ / Mà nay càng thấy khó khăn hơn” (Nhật kư trong tù).
Cũng trong năm 1966, có một người cộng sản thấm nhuần tư tưởng “Không có ǵ quư hơn độc lập tự do” đă dũng cảm làm theo sự suy nghĩ độc lập xuất phát từ thực tiễn của ḿnh: thực hiện khoán trong hợp tác xă nông nghiệp – một việc động trời đụng chạm gay gắt vào các giáo điều phản động phản lại lợi ích của nhân dân đang ngự trị trói buộc nền sản xuất. Người đó là ông Kim Ngọc, Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú. Bí thư Kim Ngọc phải trả giá nặng nề cho tư tưởng “Không có ǵ quư hơn độc lập tự do” như thế nào mọi người nay đă rơ, nhưng sự hy sinh cao cả của ông đă được đền bù xứng đáng (tuy muộn mằn, phải đợi đến 22 năm) khi “khoán Kim Ngọc” được những cán bộ chủ chốt kiên trung của đảng bộ Hải Pḥng dũng cảm tiếp tục thực hiện tạo cơ sở thực tiễn cho “khoán 100” rồi “khoán 10”, đưa Việt Nam từ chỗ năm nào cũng phải cử người xách túi đi xin viện trợ lương thực chỉ trong một thời gian ngắn đă có thóc gạo dồi dào và tiến lên thành nước xuất khẩu gạo đứng hàng thứ hai thế giới.
Quyền suy nghĩ độc lập và tự do nói lên suy nghĩ độc lập cùng các quyền căn bản khác của người dân chỉ có thể trở thành hiện thực b́nh thường bằng một chế độ dân chủ. Cho nên Hồ chủ tịch khẳng định rơ:
“Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với MỌI VẤN ĐỀ, mọi người tự do bày tỏ ư kiến của ḿnh góp phần t́m ra chân lư. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người” (2).
Tôi xin nhấn mạnh mấy chữ MỌI VẤN ĐỀ trong câu vừa dẫn trên, nghĩa là ngoài các quy định thật cụ thể thật rơ ràng của luật pháp th́ dứt khoát không một ai, không một cơ quan, một tổ chức nào được phép đặt ra vùng cấm (hiện nay biến tướng và được che giấu dưới hai chữ “nhạy cảm”) cho việc tự do bày tỏ ư kiến. Hơn nữa, thật đặc biệt sâu sắc và triệt để, Hồ Chủ tịch coi việc tự do bày tỏ ư kiến không những là quyền mà c̣n là nghĩa vụ của mọi người. Đă là nghĩa vụ th́ những ai không dám tự do bày tỏ ư kiến để góp phần t́m ra chân lư, đương nhiên người đó chưa làm tṛn trách nhiệm đối với xă hội và với chính bản thân ḿnh.Và do đó, cũng tất nhiên, những ai cậy quyền cậy thế mà hạn chế, áp chế việc tự do bày tỏ ư kiến của mọi người là có tội lớn với xă hội, là phản bội tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hồ Chủ tịch c̣n luôn khẳng định:
“Dân chủ là của quư báu nhất của nhân dân” (3);
“Có phát huy dân chủ đến cao độ th́ mới động viên được tất cả lực lượng nhân dân đưa cách mạng tiến lên” (4)
(Xin nhấn mạnh mấy chữ “phát huy dân chủ đến cao độ” trong câu vừa dẫn trên để càng thấy tính triệt để trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của người dân: yêu cầu đặt ra không phải chỉ là phát huy dân chủ ở mức b́nh thường, thậm chí tệ hơn nữa chỉ đối phó bằng kiểu thực hiện dân chủ một cách làng nhàng, hời hợt, h́nh thức – căn bệnh kinh niên rất phổ biến bấy lâu nay – mà phải là “phát huy dân chủ đến cao độ”).
“ Thực hành dân chủ là cái CH̀A KHOÁ VẠN NĂNG có thể giải quyết mọi khó khăn” (5).
Và trong di chúc của ḿnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại hai lần nhấn mạnh DÂN CHỦ:
“Trong Đảng thực hành DÂN CHỦ rộng răi”;
“Xây dựng một nước Việt Nam ḥa b́nh thống nhất độc lập DÂN CHỦ và giầu mạnh”.
Đại hội Đảng lần thứ 9 đă đưa DÂN CHỦ thành mục tiêu xây dựng xă hội, coi dân chủ là tiền đề để có công bằng và văn minh, dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực – là CH̀A KHÓA VẠN NĂNG, mở ra một nguồn sức mạnh vô cùng lớn để giải quyết mọi khó khăn đưa đất nước phát triển lành mạnh và bền vững, đảm bảo tự do hạnh phúc cho mỗi con người.
Khi mục tiêu dân chủ đă được ghi trong cương lĩnh th́ toàn Đảng, từ Tổng Bí thư đến đảng viên thường phải coi đó là mệnh lệnh – mệnh lệnh thiêng liêng của Cách mạng, của non sông đất nước – phải chấp hành cho bằng được. Đối với cơ quan lănh đạo, phải biến mục tiêu đó thành những chính sách cụ thể, những quy định pháp luật đảm bảo cho người dân được hưởng các quyền tự do cơ bản mà nhân dân đă giành được khi vùng lên làm Cách mạng tháng Tám 1945.
Nhưng, đă hơn 10 năm kể từ đại hội 9, t́nh trạng mất dân chủ trong Đảng và trên toàn xă hội ngày càng trầm trọng, mà chưa hề có một cuộc kiểm điểm nghiêm túc nào của cơ quan lănh đạo về việc thực hiện mục tiêu dân chủ đă ghi trong cương lĩnh.
Hồ Chủ tịch từng nói rất cụ thể, rạch ṛi dứt khoát: “Dân chủ trước hết là để cho dân được mở miệng”. Vậy mà ngay đến các bức thư của Đại tướng đại công thần Vơ Nguyên Giáp bày tỏ ư kiến về các việc quốc gia đại sự cũng không được đăng, mà không một cán bộ lănh đạo nào dám nhận trách nhiệm về việc này. Nếu nghiêm túc thực hiện lời Hồ Chủ tịch, th́ ngay ngày mai tất cả các báo phải đăng các bức thư đó của Vơ Đại tướng.
Thiếp cảm ơn của Đại tướng Vơ Nguyên Giáp tặng các vị lăo thành cách mạng và quần chúng đến mừng sinh nhật tṛn 100 năm sinh của ông. Ảnh: Bauxite Việt Nam
Hồ Chủ tịch đă viết rất rơ từ năm 1948 về nguyên tắc “dân chủ tập trung”, đặt dân chủ lên trước, chỉ có lấy dân chủ làm nền móng th́ sự tập trung mới có giá trị, nếu không th́ sẽ chỉ là sự tập trung quyền lực vào tay một thiểu số bè phái, cá nhân chủ nghĩa. Đă nhiều năm, trong các văn kiện chỉ thấy ghi ngược nguyên tắc nêu trên thành “tập trung dân chủ”. Phải chăng đây là một dụng ư ngấm ngầm phản bội tư tưởng Hồ Chí Minh cài đặt ngay vào văn kiện của Đảng? T́nh h́nh thực tế đă diễn ra đúng như thế.
Chung quy lại, đă đến lúc sự thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh phải được thể hiện bằng hành động dứt khoát: chuyển ngay việc NÓI DÂN CHỦ thành việc LÀM DÂN CHỦ.
Dân chủ trong Đảng và dân chủ trên toàn xă hội.
Muốn thế, đảng viên phải làm chủ Đảng và công dân phải làm chủ các hội đoàn mà ḿnh tham gia.
Từng đảng viên, từng công dân phải chủ động nắm lấy và thực hành quyền làm chủ của ḿnh một cách kiên quyết và kiên tŕ, từng ngày một, từng việc một, từ việc dễ đến việc khó, tiến tới làm chủ thường xuyên, trong mọi việc, từ việc nơi tổ đảng, tổ nông hội, tổ công đoàn đến những việc ở tầm chiến lược quốc gia.
Làm chủ phải là lẽ sống, là nếp sống, là niềm vui sống hàng ngày của mỗi con người, của mọi người
Bùi Minh Quốc
Theo: Boxitvn
________________
Chú thích:
(1), (2), (4), (5) Hồ Chí Minh Toàn tập, NXB CTQG, Hà Nội, T4, tr. 56; T8, tr. 216; T9, tr. 582; T12, tr. 249.
(3) Bài nói với trí thức ở lớp nghiên cứu chính trị, ngày 8.12.1956
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN