(Phunutoday) - Từng có những lúc tiền nhét đầy cả bao tải không thèm đếm, từng có những ngày sống xa hoa như một “ông vua” trên dòng sông Đà, thế nhưng cuộc đời của Lương Văn Giang tưởng như đã có lúc chết chìm trong ma túy và nghèo khổ. Nếu không có sự bao dung của người bạn đời và của gia đình trong những năm tháng ấy, người đàn ông một thời lầm lỡ hẳn sẽ không có được ngày hôm nay, với một cuộc sống bình yên giữa lòng hồ sông Đà.
Đại ca gỗ lậu trên sông Đà khốn cùng vì ma túy

Anh Lương Văn Giang bên vườn cây ăn quả nhà mình
Lương Văn Giang sinh trưởng trong một gia đình trí thức, bố mẹ đều là cán bộ công nhân viên chức công tác tại thành phố Hòa Bình.
Tất cả các anh chị em trong gia đình anh đều được cha mẹ lo cho ăn học đầy đủ, có vị trí trong xã hội, chỉ riêng Lương Văn Giang là có một số phận phiêu bạt, chìm nổi theo dòng nước Đà giang. Sau khi tốt nghiệp PTTH, Lương Văn Giang lên đường nhập ngũ. Hòa bình lập lại, từ chiến trường trở về, Giang rơi vào cảnh không bằng cấp, không nghề nghiệp.
Lúc Lương Văn Giang đang hoang mang, loay hoay để tìm con đường sống của mình, thì cũng là lúc dòng sông Đà đang trở thành nơi hái ra tiền của những người buôn gỗ lậu. Thời đó, những cánh rừng trên mạn ngược chưa bị khai phá như bây giờ.
Dọc nơi con sông Đà đi qua có không ít những cánh rừng nguyên sinh. Những năm 1980, phong trào lên mạn ngược mua gỗ rồi vận chuyển theo sông Đà về vùng xuôi rất thịnh hành. Mua gỗ ở mạn ngược với giá rẻ, về xuôi bán với giá gấp 4 – 5 lần, đội quân buôn gỗ trên sông Đà chưa bao giờ kiếm tiền dễ hơn thế.
Điều duy nhất nguy hiểm mà họ phải đối mặt chính là những dòng thác, những xoáy nước hung dữ trên sông Đà, nơi đã khiến không ít người lái đò trên sông Đà phải bỏ mạng.
Với Lương Văn Giang, sự nguy hiểm đó so với những lợi nhuận vật chất mà con sông Đà mang lại chẳng có ý nghĩa gì. Bản tính liều lĩnh, gan dạ từ nhỏ, Lương Văn Giang gia nhập vào đội quân buôn gỗ từ mạn ngược xuống miền xuôi.
Tháng nào, Giang cũng ngược sông Đà lên thượng nguồn, tìm mối lấy gỗ rồi vận chuyển về dưới xuôi bán lấy lãi. Chỉ sau một thời gian ngắn buôn bán trên sông, nhờ gặp thời, lại được dòng sông Đà ưu ái, nên Lương Văn Giang nhanh chóng phất lên thành một “đại gia” giàu có nhờ nghề buôn gỗ.
Thời hoàng kim của mình, tiền tiêu không bao giờ hết, có khi nhiều tiền quá đếm không xuể, Giang chất đầy một bao tải để đó, coi chẳng ra gì. Có nhiều tiền, không biết tiêu làm gì, Lương Văn Giang bắt đầu thử “chơi” ma túy. Chỉ sau một thời gian ngắn, Lương Văn Giang đã trở thành một con nghiện nặng.
Khi đó, tiền kiếm được còn đang dễ dàng, Lương Văn Giang không hề nhận thức rõ những tác hại về vật chất của ma túy. Số tiền để Giang bỏ ra hút chích ma túy mỗi ngày không đáng là bao so với số tiền mà anh kiếm được từ những bè gỗ trên sông. Nhưng thời hoàng kim của nghề buôn gỗ lậu trên sông Đà cũng sớm đi qua.
Cuối những năm 1980, việc buôn gỗ bắt đầu gặp khó khăn khi các cơ quan chức năng đã phối hợp với nhau quản lý gắt gao hoạt động buôn lậu gỗ. Khi không còn có thể mưu sinh được bằng nghề buôn gỗ nữa, Giang bỏ nghề về ở với vợ con.
Lương Văn Giang quen vợ, chị Phạm Thị Huệ khi đang còn là một chủ gỗ giàu có. Ngày đó Giang là đại gia có tiếng trên sông Đà về cả tiền và quyền. Chị Phạm Thị Huệ chỉ là một cô gái làm nghề buôn bán trên sông.
Biết nhau qua những lần vô tình chạm thuyền trên sông nước, Giang đã bắt đầu để ý đến người phụ nữ rắn rỏi miền xuôi lặn lội kiếm sống trên sông. Tình yêu giữa Lương Văn Giang và Phạm Thị Huệ rất đơn giản.
Thấy người phụ nữ một mình đơn độc buôn bán trên sông, lại chưa có chồng con, Giang ngỏ ý đề nghị Phạm Thị Huệ về sống cùng. Họ lấy nhau và có với nhau đứa con đầu lòng ngay từ những ngày còn lênh đênh trên sông Đà.
Dù đã về sống với nhau và có với nhau một mặt con, nhưng những năm đầu lấy nhau, hai vợ chồng Lương Văn Giang không hề đăng ký kết hôn. Thứ cam kết duy nhất giữa họ chính là cô con gái đầu lòng. Chị Huệ biết chồng nghiện từ khi mới quen.
Nhưng là một người phụ nữ bình thường, cam chịu, khi lấy Giang làm chồng, chị cũng chấp nhận việc đó như một việc tất nhiên của một đại ca làm nghề sông nước.
Cuộc sống của vợ chồng Lương Văn Giang chỉ thực sự khó khăn khi nghề buôn gỗ hết thời. Không còn kiếm ra tiền, lại đốt tiền vào ma túy, số tiền Giang kiếm được dần dần cũng tiêu tan theo khói thuốc. Đến một ngày tỉnh dậy sau cơn “phê” thuốc, Giang mới nhận ra mình chỉ còn hai bàn tay trắng.
Đó cũng là lúc bố Giang – một cán bộ nhà nước phát hiện ra cậu con trai của mình dính vào ma túy. Thất vọng vì người con trai đi ngược lại truyền thống gia đình, bố của Giang đã tuyên bố sẽ từ mặt con trai nếu Giang không cai được nghiện.
Tỉnh lại sau cơn mê
Đầu những năm 1990, bố Giang nghe tin chính quyền tỉnh Hòa Bình đang có chính sách khuyến khích các hộ dân ra khai hoang ở xóm Tháu, xã Thái Thịnh. Ông lập tức cho vợ chồng cậu con trai nghiện ngập của mình ra xóm Tháu, một nơi hoàn toàn cách biệt với thành phố, cách xa những cám dỗ khó cưỡng của ma túy.
Ở xóm Tháu, hai vợ chồng Giang nhận một quả đồi gần chục ha, bắt đầu vừa cai nghiện, vừa khai hoang.
Những ngày đầu ra xóm Tháu, mỗi khi lên cơn nghiện, Giang lại hành hạ vợ, bắt vợ bằng mọi giá phải đi tìm thuốc về để anh hút. Vừa thương chồng, vừa sợ chồng, người phụ nữ một đời cam chịu ấy chỉ biết cắn răng nghe lời.
Không có tiền, không có nghề nghiệp, chị vào rừng chặt củi mang ra thành phố bán để kiếm tiền mua thuốc cho chồng. Mỗi ngày, việc duy nhất Giang làm là ngồi đợi vợ về để lấy thuốc hút. Những hôm không bán được củi, không có tiền, anh cáu giận, đập phá đồ đạc, chị chỉ biết ngồi trong góc lán khóc tấm tức, cam chịu.
Nhưng rồi chị nhận ra sự cam chịu của chị sẽ hại chết chồng mình. Một ngày khi trở về, chị không còn mua thuốc cho chồng như mọi ngày nữa. Không thấy thuốc đâu, sau một hồi chửi bới đập phá vì tức giận, anh chạy vào rừng, quăng mình vào bụi cây, tự mình cào cấu, hành hạ thể xác mình để cố chống lại cơn nghiện hành hạ.
Khi đó, chị Huệ chỉ biết chạy theo chồng. Chị đứng từ xa nhìn chồng vật lộn trọng đau đớn mà khóc không thành tiếng.
Lương Văn Giang vẫn nhớ, có một ngày vợ anh ôm đứa con gái nhỏ đứng trước mặt anh, khóc và nói: “Nếu anh không cai nghiện được, mẹ con em chỉ còn cách nhảy xuống con sông Đà tự vẫn cho thoát cái nghèo, cái khổ và nỗi nhục bị mọi người cười chê”.
Giây phút đó Giang bắt đầu tỉnh ngộ và hiểu rằng mình không còn cách nào khác, ngoài việc cai nghiện và phấn đấu thành người tử tế, nếu muốn đem lại một cuộc sống bình yên và hạnh phúc cho gia đình.
Giang vẫn nhớ, trong suốt những năm tháng nghiện ngập, thứ duy nhất Giang quan tâm là cái bàn đèn thuốc phiện, bỏ mặc tất cả, kể cả vợ, kể cả con. Con gái của đầu lòng của anh chưa một lần được anh bế ẵm, lại thường xuyên phải chứng kiến những cơn co giật vì lên cơn của anh, chứng kiến những lần anh đập phá đồ đạc, chửi bới vợ con nên đã sẵn mang trong lòng một nỗi sợ hãi với bố.
Cứ mỗi lần Giang đến gần con, con gái anh lại khóc thét lên sợ hãi và chạy ra xa. Con gái anh trốn anh như một đứa trẻ trốn một con quái vật mà nó luôn sợ hãi từ trong tiềm thức. Cái cảm giác bị chính đứa con mình dứt ruột đẻ đau xa lánh là cái cảm giác đau đớn nhất đối với Giang, là cái cảm giác khiến Giang thấm thía nhất về cái giá mà anh phải trả cho những lỗi lầm của mình.
Quyết tâm từ bỏ ma túy, để được là một người chồng, một người cha tốt, Giang đã dặn vợ con không được giúp đỡ anh mỗi lần anh lên cơn. Cứ mỗi lần lên cơn nghiện, Giang lại tự xích tay mình lại, la hét, quằn quại trong khóa xích.
Sau mỗi lần chồng lên cơn, lần nào vào lán, chị Huệ cũng ứa nước mắt khi thấy chồng nằm bệt trên sàn nhà, mồ hôi vãi ra như tắm, miệng sùi bọt mép. Chị lau rửa người sạch sẽ cho chồng mà nước mắt cứ tuôn rơi. Là đàn bà, chị không bao giờ hiểu được ma túy là thứ ma quỷ gì mà lại có thể khiến chồng chị và gia đình chị đau đớn, vật vã đến thế.
Mấy năm trời cai nghiện, Giang hầu như không rời khỏi xóm Tháu. Anh sống cách ly hầu như hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Ngày ngày Giang lên rừng vỡ đất trồng cây ăn quả.
Những khi cơn thèm thuốc bất chợt ùa về, Giang lao xuốn dòng sông Đà lạnh buốt cho tỉnh người, hoặc chạy vào rừng đốn củi, cố gắng dùng lao động để trấn áp cơn thèm thuốc.
Giờ Giang đã có thể tự hào vì gần 20 năm qua, anh đã hoàn toàn đoạn tuyệt được ma túy. Cơ ngơi của vợ chồng anh ở xóm Tháu là một vườn hoa quả đang kỳ thu hoạch, mỗi năm giúp vợ chồng anh thu được cả trăm triệu đồng.
Giang vẫn nói anh biết ơn xóm Tháu, biết ơn người vợ hiền đã đồng cam cộng khổ với anh, giúp anh vượt qua những ngày lầm lỡ, khốn khó để làm lại cuộc đời ở mảnh đất giữa lòng hồ sông Đà.
* Bảo Bình