Thứ mười, các báo của nhà nước đã viết như thế về thực trạng tuổi trẻ Việt Nam, nhưng đáng lo hơn đối với xã hội là nguy cơ lan rộng ma túy trong lớp tuổi trẻ.
Một bản tin trên Báo Tiếng Chuông, trang tin điện tử của Ủy ban Quốc gia phòng, chống AIDS và phòng chống tệ nạn ma túy, mại dâm của Việt Nam ngày 22-04-012 báo động: “Ở Việt Nam, tệ nạn ma túy đã và đang làm đau đầu các bậc phụ huynh trong các gia đình. Mạng lưới phân phối ma túy đã đi vào từng ngõ hẻm, đường phố, trường học, công viên, các nơi vui chơi giải trí… ở thành thị và đang lan dần tới cả những vùng nông thôn. Gần đây, thuốc lắc (ma túy tổng hợp) đã được bán và dùng rộng rãi trong giới trẻ, nhất là đối với con em các gia đình khá giả tại các khu vui chơi giải trí, đặc biệt là các quán bar, nhà hàng, vũ trường. Ma túy đã và đang trở thành nỗi ám ảnh cho cả dân tộc.”
Theo Cục trưởng Cục Phòng, chống tệ nạn xã hội (Bộ LĐTB&XH) Nguyễn Văn Minh,tính đến cuối tháng 6/2011, cả nước có 149.900 người nghiện ma túy (tăng khoảng 2,7 lần với mức tăng xấp xỉ 6.000 người nghiện/năm so với cuối năm 1994).
Trích lời Minh, báo Pháp Luật Việt Nam cho biết : “Đặc biệt độ tuổi của người nghiện ma túy cũng có xu hướng trẻ hóa. Cuối năm 2010, gần 70% người nghiện ma túy ở độ tuổi dưới 30 trong khi tỷ lệ này vào năm 1995 chỉ khoảng 42%. Hơn 95% người nghiện ma túy ở Việt Nam là nam giới. Tuy nhiên, tỷ lệ người nghiện là nữ giới cũng đang có xu hướng tăng trong những năm qua.”
Theo một Báo cáo của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội ngày 08-09-2011 thì : “Người nghiện ma túy đã có 63/63 tỉnh, thành phố, khoảng 90% quận, huyện, thị xã và gần 60% xã, phường, thị trấn trên cả nước.
Cơ cấu người nghiện ma túy theo vùng miền cũng đã có những thay đổi đáng kể. Nếu như giữa những năm 90 của thế kỷ trước, nghiện ma túy chủ yếu phổ biến ở người dân tại các tỉnh miền núi phía Bắc thì từ giữa những năm 2000 đã tăng mạnh xuống vùng đồng bằng sông Hồng và khu vực miền Đông Nam bộ. Năm 1994 có tới hơn 61% người nghiện ma túy ở Việt Nam thuộc khu vực các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc thì tới năm 2009 tỷ lệ này là gần 30%. Ngược lại, tỷ lệ người nghiện ma túy thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng trong tổng số người nghiện ma túy của cả nước đã tăng từ 18,2% lên 31% trong cùng kỳ. Tương tự, tỷ lệ người nghiện ma túy thuộc các tỉnh miền Đông Nam bộ đã tăng từ 10,2% lên 23%.”
Báo cáo viết tiếp : “ Loại ma túy được sử dụng và hình thức sử dụng ma túy cũng có nhiều thay đổi phức tạp. Thay cho vai trò của thuốc phiện trong hơn 10 năm trước đây, heroin hiện là loại ma túy được sử dụng chủ yếu ở Việt Nam, có tới 96,5% người nghiện thường xuyên sử dụng heroin trước khi tham gia cai nghiên.
Mặc dù tỷ lệ người nghiện thuốc phiện và các chất kích thích dạng Amphetamine (ATS hay ma túy tổng hợp) tương đương nhau, khoảng 1,2% – 1,4% nhưng theo đánh giá của Cơ quan phòng chống tội phạm và ma túy của Liên hợp quốc (UNODC), việc lạm dụng ATS, đặc biệt là Methamphetamine, đang có xu hướng gia tăng trong người nghiện ma túy tại Việt Nam, nhất là khi Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam Á là khu vực chiếm ½ số người lạm dụng loại ma túy này trên toàn thế giới. Việc gia tăng lạm dụng các loại ma túy tổng hợp khiến cho công tác phòng ngừa và cai nghiện phục hồi cho nhóm người nghiện ma túy gặp rất nhiều khó khăn.”
Thứ mười một, từ ma túy, theo một tin trên Thống Tấn xã Việt Nam ngày 03/11/2011 trích lời Ông Chu Quốc Ân – Phó Cục trưởng phòng chống HIV/AIDS cho biết: “ Theo báo cáo của các địa phương, tính đến ngày 30/9, cả nước có 193.000 người nhiễm HIV còn sống, trong đó có 47.030 bệnh nhân AIDS và đã có hơn 51.000 người tử vong.
Trong chín tháng đầu năm, số trường hợp HIV được phát hiện là hơn 9.100 người, trong đó có 3.700 bệnh nhân AIDS và gần 1.400 trường hợp tử vong.
Các trường hợp được phát hiện trong thời gian qua tập trung chủ yếu ở một số tỉnh trọng điểm về HIV/AIDS như Thành phố Sài Gòn, Hà Nội, Điện Biên, Sơn La, Thái Nguyên.
Đối tượng mắc mới HIV vẫn tập trung trong nhóm từ 20-39 tuổi, trong đó nhóm 20-29 tuổi chiếm tỷ lệ gần 40%, nhóm 30-39 tuổi chiếm 43%, còn lại các nhóm tuổi khác chiếm một tỷ lệ nhỏ, khoảng 16%.
Theo đánh giá của Cục phòng chống HIV/AIDS, mặc dù dịch HIV/AIDS tiếp tục có xu hướng giảm cả về số người nhiễm và tử vong, tuy nhiên vẫn chưa đảm bảo tính bền vững. Dịch HIV/AIDS ở Việt Nam vẫn tiềm ẩn những yếu tố nguy cơ bùng phát nếu như không có những biện pháp can thiệp mạnh mẽ và hiệu quả.
Hiện nay, khó khăn lớn trong công tác phòng chống dịch bệnh HIV/AIDS là kiến thức của nhóm thanh thiếu niên về lĩnh vực này còn thấp, hơn 50% thanh thiếu niên chưa hiểu biết đầy đủ về HIV/AIDS. Nhận thức của người dân nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi còn hạn chế.
Một khó khăn nữa trong công tác phòng chống dịch bệnh này hiện nay là sự chuyển đổi hình thái nhiễm HIV theo xu hướng lây qua quan hệ tình dục gia tăng (chiếm gần 40%) khiến việc triển khai các biện pháp phòng chống gian nan hơn.”
Số các vụ lây nhiễm HIV/AIDS do tệ nạn mại dâm gây ra chưa có con số chính thức, dù các cơ quan nhà nước báo cáo ước tính có trên 200 ngàn gái mại dâm đang hành nghề tại Việt Nam. Nhưng không ai biết được các hoạt động mại dâm trá hình đang lan tràn từ nông thôn ra thành phố ra sao vì các viên chức an ninh nhìn nhận không kiểm soát được.
Các báo cáo cũng phỏng định có trên 20 ngàn vụ buôn gán thiếu nữ vị thành niên qua biên giới sang Tầu và Cao Miên hàng năm mà Cảnh sát biên phòng hay hải quan cũng không sao ngăn chặn được !
Thứ mười hai, tất cả những tệ nạn nêu trên trong thời Cộng sản “đổi mới” đi theo kinh tế thị trường theo điều được gọi là “định hướng xã hội chủ nghĩa” còn đẻ ra nhiều loại tội ác trong xã hội tới mức vi phạm báo động về số vụ giết người, hiếp dâm, cướp giật, đâm thuê chém mướn gây ra bởi các thanh thiếu niên.
Nhiều vụ học sinh bạo loạn, hành hung bạn học, lập băng đảng đánh người trước mắt mọi người mà người xunh quanh vẫn đứng nhìn, đôi khi còn cổ vũ cho các hành động pháp pháp đã đảo ngược luân thường đạo lý mà xã hội vẫn dửng dưng !
Bà Lotta Sylwander, trưởng đại diện Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc (Unicef) tại Việt Nam nói: “Tôi muốn nói rằng nhiều thanh niên Việt Nam đang đánh mất mình khi xã hội chuyển từ truyền thống sang hiện đại. Đánh bạn rồi tung lên mạng có thể khiến chúng thấy vui sướng, vì sự khác thường của mình…” (Trích từ một Cuộc phỏng vấn đăng trong Báo của Trung ương Hội Khoa học Phát triển nguồn nhân lực nhân tài Việt Nam, 27-04-2012)
Người CSVN gọi những tệ nạn này là “mặt trái của kinh tế thị trường”, nhưng lại quên đó cũng là “mặt trái của con tim và khối óc” của người Cộng sản.
Trong khi ấy thì chính quyền lại tăng cường kiểm soát thông tin nên đã vô tình hạn chế các nguồn tin hữu ích do người dân cung cấp và cắt đứt luôn sự hợp tác của dân để ngăn chận tội ác và các tệ nạn xã hội khác.Nhà nước cũng tự mình lấy đi của dân các quyền đã quy định trong Hiến pháp về tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, lập hội, hội họp, bầu cử, ứng cử và tự do tôn giáo v.v… nên quyền con người, hay nhân quyền nói theo cách của người phương Tây, không có ở Việt Nam.
Vì vậy mà điều được gọi là “liên hệ máu thịt” giữa dân và đảng không còn nữa. Một khỏang cách giữa cán bộ và dân đang ngày một dãn ra khiến cho cho sự xa cách giữa dân và nhà nước , trong nhiều trường hợp, thành kẻ thù của nhau.
THỰC TẾ NGÀY NAY
Như vậy ngày nay, sau 37 năm cai trị cả nước, Lãnh đạo đảng CSVN phải nhìn nhận một số không nhỏ cán bộ,đảng viên của họ đã mất bản chất, đạo đức bản thân đã bị tiền tài, danh vọng sói mòn và suy thoái tư tưởng,không còn tin vào chủ nghĩa Cộng sản và đảng nữa.
Tình trạng này đã phản ảnh trong một Bài viết của Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đảng từ năm 2005 được đăng lại trong Tạp chí Năng Lượng Mới điện tử tháng 10/2011.
Trọng viết : “Trong những năm gần đây, Đảng ta có bước tiến mới về thực hiện dân chủ trong Đảng, rõ nhất là trong việc chuẩn bị các nghị quyết của Đảng, trong việc bầu cử cấp ủy, đánh giá, đề bạt, bố trí cán bộ, trong quan hệ và lề lối làm việc giữa cấp trên và cấp dưới… Nhưng phải thừa nhận rằng, sự tiến bộ đó còn hạn chế. Những hiện tượng mất dân chủ, dân chủ hình thức, cùng những tư tưởng ngôi thứ, gia trưởng, độc đoán, thành kiến… còn khá nặng nề trong Đảng.
Một số cán bộ rất hách dịch, lộng quyền, không muốn nghe ý kiến người khác, nhất là các ý kiến không hợp với mình, sẵn sàng trù dập, đàn áp những người không ăn cánh hoặc không làm theo ý mình. Họ không biết rằng, dân chủ đang là một xu thế của thời đại, một yêu cầu phát triển của đất nước; dân chủ cũng là mong ước, nguyện vọng chính đáng của cán bộ, đảng viên và nhân dân….”
“…Những năm gần đây, bên cạnh mặt tốt là Đảng giữ vững và phát huy được truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng, cũng có những biểu hiện vô tổ chức, vô kỷ luật, bè phái, cục bộ, địa phương, có nơi khá nghiêm trọng. Nhiều chỉ thị, nghị quyết của Đảng không được chấp hành nghiêm túc, nghị quyết không đi đôi với hành động, nói không đi đôi với làm, thậm chí nói một đằng làm một nẻo. Cấp dưới không phục tùng cấp trên, cá nhân không phục tùng tổ chức. Chủ nghĩa cá nhân ích kỷ phát triển, một số người phát ngôn tùy tiện, công khai truyền bá những ý kiến trái với đường lối, quan điểm, nghị quyết của Đảng.
Có trường hợp đảng viên tuyên truyền, lôi kéo một số quần chúng đấu tranh chống lại chính quyền, gây rối trật tự xã hội. Nếu không kiên quyết chặn đứng những hiện tượng này nó sẽ phá hoại kỷ cương trong Đảng, làm suy yếu khối đoàn kết thống nhất của Đảng.”
Như thế rõ ràng là nội bộ đảng đã mất đòan kết, đã ruỗng như tổ ong thì làm sao mà có thể đòan kết được với dân, nạn nhân bị cai trị bởi những phần tử bất hảo này ?
Đảng cũng phải biết tại sao đã có những cán bộ, đảng viên một thời trung thành tuyệt đối và hy sinh vì đảng đã quay lưng lại với nhà nước để đứng về phía quần chúng bị áp bức chống đảng như đã xẩy ra trong vụ cưỡng chiếm đất của gia đình Đòan Văn Vươn ở Tiên Lãng ngày 05/01 (2012) và đồng bào ở Văn Giang, Hưng Yên hôm 24/04 (2012).
Những bất công xã hội do cán bộ đảng gây ra cho dân không mới. Tình trạng này cũng giống như tệ nạn tham nhũng tràn lan trong đảng đã hết thuốc chữa vì quyền của công dân ghi trong Hiến pháp đã bị nhà nước chà đạp lên từ lâu để cho những kẻ có chức có quyền được tự do dành lấy đặc quyền đặc lợi cho cá nhân, phe nhóm và dòng họ.
Trường hợp con cái của hai lãnh đạo Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Tô Huy Rứa, Trưởng ban Tổ chức Trung ương đảng được bổ nhiệm vào các chức vuị quan trọng trong guồng mày cai trị và các tổ chức kinh tế có thế lực là một bằng chứng không phải vô nghĩa đối với dân nghèo Việt Nam.
Các vụ khiếu kiện đông người kéo về Thủ đô Hà Nội, hay chống các chính quyền địa phương kể từ sau vụ Đòan Văn Vươn tăng trên 50% còn là một bằng chứng khác nói lên tình trạng mất công bằng nghiêm trọng trong xã hội đã gắn liền với hòan cảnh khốn cùng của những người dân chân lấm tay bùn.
Thế nên khi đảng nói :“Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam” (Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” ,26-03-2004) thì vào mỗi dịp 30-4 quay về, câu tuyên truyền này có còn ý nghĩa gì đối với những người đã bỏ nước ra đi không? -/-