Như thế nước « Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa » do ông Hồ lănh đạo không hề là một quốc gia thực sự mà chỉ là một « tiểu bang » trong Liên bang Đông Dương.
Sau khi bị chỉ trích, ông Hồ cố gắng thay đổi thực tế này qua các hội nghị tại Đà Lạt và Fontainebleau, nhưng đều thất bại. Chính phủ của ông Hồ rút khỏi Hà Nội và bước vào cuộc kháng chiến, bắt đầu từ tháng 12 năm 1946. Việc này, ông Bảo Đại phê rằng : Sau thất vọng ở Fontainebleau, (Việt Minh) chỉ c̣n giữ được uy tín bằng cách đưa cả nước vào biển máu.
2.3 Chính phủ Trung ương Lâm thời Việt Nam (27-5-1948) và Việt Nam Cộng Ḥa (26-10-1955 đến 30-4-1975) :
Thế chiến Thứ II chấm dứt, việc này cũng kết liễu các chế độ « thực dân » ở các xứ « thuộc địa » của các đại cường cũ (Anh, Pháp…). Khuynh hướng của Hoa Kỳ, đại cường mới lên, chủ trương băi bỏ tất cả các chế độ thực dân, do đó khuyến cáo các cường quốc phải trả lại độc lập cho các thuộc địa của ḿnh. Các xứ như Phi, Miến Điện, Nam Dương, Ấn Độ và Pakistan… lần lượt lấy lại độc lập mà không tốn một giọt máu.
Tuy nhiên, tại Việt Nam, một nước Pháp đă kiệt quệ nhưng vẫn muốn giữ quyền lợi và ảnh hưởng của ḿnh. Phía Hoa Kỳ đặt điều kiện cho Pháp, để được sự trợ giúp, phải để cho dân VN thành lập một chính phủ đại diện (nhằm đi đến độc lập và thống nhứt đất nước).
Nội t́nh VN hỗn loạn, các đảng phái quốc gia không có thực lực lại xâu xé, tranh chấp lẫn nhau. Bên có thực lực là phe của ông Hồ, nhưng là lực lượng là của cộng sản. Phe này t́m cách loại trừ phe kia để độc chiếm sân khấu chính trị. Trong khi nội t́nh nước Pháp cũng không khá hơn. Chính trị Pháp về Đông Dương chia làm hai khuynh hướng, phe tả thúc hối chính phủ phải thuơng lượng với Hồ Chí Minh. Phe hữu th́ đ̣i phải thuơng lượng với Bảo Đại.
Cuối cùng « lá bài » Bảo Đại được Pháp chọn làm đối tượng đối thoại để thực hiện chính sách mới của họ về thuộc địa nhằm thỏa măn các điều kiện của Hoa Kỳ.
(Thực ra đây là một lựa chọn theo lối « không chó bắt mèo ăn c. ». V́ ông này không cộng sản và có được tính « chính thống » trước người dân VN. Ông Bảo Đại là một type người ăn chơi đàng điếm, cả cuộc đời chỉ la cà trà đ́nh, tửu quán, ṣng bài… không thể là một « chính khách » của một nước thuộc địa đang gay go dành lại độc lập (và thống nhứt đất nước) trong một không gian vô cùng hỗn loạn v́ tranh chấp về quyền lợi và chính trị (ư thức hệ) giữa các cường quốc đang nắm vận mạng của cả thế giới. Khi được nắm quyền (Quốc trưởng) ông này chỉ ở bên Pháp, lo ăn chơi chứ không ở lại trong nước để chia sẻ ngọt bùi với quần thần và dân chúng. Ông bị Ngô Đ́nh Diệm hạ bệ là hợp lư. So với ông Hồ Chí Minh th́ Bảo Đại thua xa về trí tuệ và tư cách. Nhưng ông Hồ là người vô sản chân chính, đặt quyền lợi quốc tế cộng sản lên trên lợi ích của dân tộc.)
Ngày 27-5-1948 Chính phủ Trung ương Lâm thời Việt Nam được thành lập do Nguyễn Văn Xuân làm thủ tướng, Bảo Đại lên làm « Hoàng Đế, Quốc trưởng ». Ngày 5 tháng 6 năm 1948, chính phủ này kư bản « Tuyên bố chung » với Cao ủy Bollaert ở Hạ Long, theo đó Pháp cam kết : « Pháp long trọng công nhận nền độc lập của Việt Nam, được tự do thực hiện nền thống nhứt của ḿnh. Việt Nam tuyên bố sát nhập vào Liên Hiệp Pháp dưới danh nghĩa một quốc gia liên kết với nước Pháp. »
Nhưng « bản tuyên bố » này bị các thế lực thân thực dân ở Nam kỳ chống đối. Cùng lúc ở Paris, chính giới Pháp phản đối việc này, cho rằng ông Bollaert không có tư cách để nhượng bộ như vậy. Họ lư luận rằng, trong vấn đề Nam kỳ, v́ đây là « nhượng địa » của VN cho Pháp. Do đó mọi quyết định liên quan đến Nam kỳ phải do quốc hội biểu quyết.
Nhưng thời điểm này nội t́nh chính trị nước Pháp không ổn định, nội các thường xuyên thay đổi. Đất nước kiệt quệ do chiến tranh, rất cần các sự giúp đỡ của HK. Nội các mới công bố chính sách Đông Dương vào ngày 19-8-1948, công nhận nội dung tuyên bố Hạ Long. Đến 8 tháng 3 năm 1949, tuyên bố Hạ Long được xác định cụ thể qua lá thư của Tổng thống Vincent Auriol gởi cho Bảo Đại, c̣n gọi là kết ước Elysée.
Nội dung có nhiều điều cần bàn căi, nhưng điểm chính là Pháp phải công nhận VN « độc lập » và « thống nhứt ». Đây là một thắng lợi lớn của Việt Nam, là tiền đề để xây dựng một nước Việt Nam độc lập và tự chủ. Cho dầu về một số mặt c̣n lệ thuộc vào Pháp, nhưng không tốn giọt máu nào, th́ đó cũng là cái giá rất rẻ để chấp nhận.
Đối với các định chế quốc tế, Quốc gia Việt Nam của của Bảo Đại đă được chấp thuận đại diện cho nước Việt Nam duy nhứt, gia nhập vào các tổ chức quốc tế như sau :
- Tổ chức Y tế Quốc Tế (l’Organisation mondiale de la Santé – O.M.S.) ngày 17 tháng năm năm 1950.
- Tổ chức Lao động Quốc tế (l’Organisation internationale du Travail – O.I.T.), ngày 21 tháng sáu năm 1950.
- Tổ chức của Liên Hiệp Quốc về Lương thực và Nông nghiệp (l’Organisation des Nations Unies pour l’alimentation et l’agriculture – F.A.O.), ngày 11 thasng 11 năm 1950.
- Tổ chức của Liên Hiệp Quốc về Giáo dục, Khoa học và Văn hóa (l’Organisation des Nations Unies pour l’éducation, la science et la culture – U.N.E.S.C.O.), ngày 21 tháng 6 năm 1951.
- Liên hiệp Quốc tế về Viễn Thông (l’Union internationale des Télécommunications – U.I.T), ngày 24 tháng 9 năm 1951.
- Liên hiệp Bưu chính Thế giới (l’Union postale universelle – U.P.V.), ngày 20 tháng 10 năm 1951.
Năm 1951, ông Trần Văn Hữu, nguyên thủ tướng kiêm bộ trưởng bộ ngoại giao, đại diện Việt Nam đi dự hội nghị San Francisco, kư kết hiệp ước Ḥa B́nh với Nhật. Nhân dịp này ông đă tuyên bố tại hội nghị về chủ quyền lâu đời của VN tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đă bị Nhật chiếm đóng trái phép trong thời kỳ chiến tranh, do đó ông thay mặt quốc gia Việt Nam tuyên bố quyết định thâu hồi hai vùng lănh thổ này về lại quốc gia Việt Nam. Tuyên bố của ông Trần Văn Hữu không gặp phản đối của nước nào nào tại hội nghị.
Quốc gia Việt Nam với Quốc trưởng Bảo Đại cũng được nhiều nước trên thế giới công nhận, như Hoa Kỳ, tóa thánh Vatican cũng như nhiều nước khác trong thế giới tự do (đến năm 1954 có 35 nước công nhận).
Tháng 6 năm 1954 Ông Diệm về làm thủ tướng. Một tháng sau đất nước bị chia đôi tại vĩ tuyến 17 theo Hiệp định Genève. Ngày 20-10-1955 ông Diệm trưng cầu dân ư truất phế ông Bảo Đại. Ngày 26 tháng 10 năm 1955 đổi tên nước và thành lập chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa.
Nội dung Hiệp định Genève kư kết giữa Pháp và VNDCCH, xác định nước Việt Nam là duy nhứt, việc phân chia hai miền chỉ là tạm thời. Các định chế quốc tế tôn trọng điều này.
Việc phân chia đất nước, chính phủ Bảo Đại (và Hoa Kỳ) chống đối. Chính phủ Quốc gia Việt Nam (cũng như hai nền cộng ḥa của nước VNCH sau này), tôn trọng tính liên tục của quốc gia, cũng không công nhận nhà nước VNDCCH và chủ trương một quốc gia Việt Nam (thống nhứt ba kỳ) và duy nhứt.
Sau 1954, Chính phủ VNDCCH được thành lập ở miền bắc nhưng không đại diện cho quốc gia Việt Nam ở các định chế quốc tế. VNCH, kế thừa di sản của Quốc Gia việt Nam, tiếp tục đại diện cho quốc gia Việt Nam tại các định chế quốc tế đă ghi ở trên. Tức các định chế quốc tế công nhận tính liên tục quốc gia Việt Nam, từ Quốc Gia Việt Nam sang Việt Nam Cộng Ḥa.
Để khẳng định, ngày 18 tháng 11 năm 1954, VNCH được chấp nhận cho gia nhập vào Tổ chức Hàng không Dân sự Quốc tế (l’Organisation internationale pour l’aviation civile – O.A.C.L).
Ngày 1 tháng 4 năm 1955 VNCH được chấp nhận cho gia nhập Tổ chức Khí tượng Thế giới (l’Organisation mondiale de la météorologie – O.M.M).
Ngày 21 tháng 9 năm 1956 VNCH được gia nhập Ngân hàng Quốc tế về Tái xây dựng và Pháp triển (la Banque internationale pour la reconstruction et le développement – B.I.R.D.).
Sau 1963, nền Đệ nhứt cộng ḥa chấm dứt, nền Đệ nhị cộng ḥa kế thừa VNCH, tiếp tục đại diện cho quốc gia VN duy nhứt tại các định chế quốc tế cho đến khi sụp đổ ngày 30-4-1975.
Như thế, tóm lại, từ Quốc Gia Việt Nam 1948 cho đến Việt Nam Cộng Ḥa 1975, các quốc gia này đă giữ được tính liên tục và thể hiện sự kế thừa di dản quốc gia từ các triều đại phong kiến, nhà Nguyễn, đến thời kỳ Pháp thuộc.
Nhà nước Quốc Gia Việt Nam đă tuyên bố dành lại HS và TS cho VN tại hội nghị San Francisco năm 1951. Nhà nước VNCH đă đổ máu ǵn giữ HS khi quân Tàu xâm lăng năm 1974.
2.4 Quốc gia « Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa » từ tháng 12 năm 1946 đến Hiệp định Genève tháng 7 năm 1954 và Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa từ tháng 7-1954 đến 30-4-1975
Từ tháng 12-1946 đến tháng 7 năm 1954 là khoảng thời gian gọi là « chín năm kháng chiến », hay c̣n gọi là « cuộc chiến Đông dương lần thứ nhứt ». Chính phủ của ông Hồ tuyên bố « tiêu thổ kháng chiến », phá bỏ thành thị, làng xă, rút vào rừng thành lập các khu kháng chiến. Chính phủ của ông Hồ trở thành một « chính phủ kháng chiến » thực sự với ư nghĩa của nó.
Nhưng từ năm 1949, sau khi Tàu Mao thắng Tàu Tưởng, cuộc chiến « kháng chiến dành độc lập » cũng trở thành cuộc chiến để cộng sản Trung Quốc bành trướng ảnh hưởng. Từ tháng 2 năm 1951, đại hội đảng CSVN lần 2, ông Hồ tuyên bố phương pháp chiến tranh là lấy kinh nghiệm chiến tranh cách mạng của Trung Quốc, tư tưởng là lấy tư tưởng của Mao Trạch Đông. Cuộc « kháng chiến dành độc lập » của VN được Mao Trạch Đông hoạch định cùng sách lược với cuộc chiến Triều Tiên, trong chiến lược nhuộm đỏ Châu Á, « gió Đông thổi bạt gió Tây ». Trong cuộc chiến Triều Tiên, phía Trung Cộng đă gởi hàng triệu « chí nguyện quân » đánh giúp Bắc Hàn. Cuộc « kháng chiến thần thánh » dành độc lập của VN đă đổi sang màu « đỏ » của phong trào vô sản quốc tế. Bộ đội ông Hồ, từ quân trang, quân dụng, vũ khí, lương thực cho đến cán bộ chỉ huy, tất cả đều do Trung Cộng cung cấp. Nhờ sự giúp đỡ vô biên của TQ , bộ đội của ông Hồ, cùng với bộ đội của bác Mao, thắng được quân Pháp ở trận Điện Biên Phủ, buộc Pháp kư Hiệp định Genève 1954.
Câu hỏi đặt ra, « quốc gia » Việt Nam DCCH với « chính phủ kháng chiến », từ tháng 12-1946 đến tháng 7-1954, do ông Hồ lănh đạo có phải là một « quốc gia » đầy đủ ư nghĩa theo Công pháp quốc tế hay không ?
Dĩ nhiên là không ! Một chính phủ kháng chiến luôn là một chính phủ tạm thời. Về lănh thổ th́ chính phủ này chỉ kiểm soát trên rừng rú. Chính phủ này không hề kiểm soát được các tỉnh lớn, không đem lại an ninh và ḥa b́nh cho dân chúng. Trong khi người dân, ngoại trừ những người ở thôn quê hẻo lánh không có điều kiện, hầu như tất cả đều « dinh tê ».
Cuối cùng « kháng chiến thành công », Pháp thua Việt Minh ở trận Điện Biên Phủ, phải kư hiệp định Genève tháng 7 năm 1954. Chính phủ VNDCCH do ông Hồ lănh đạo v́ vậy lấy được một nửa đất nước, tính từ vĩ tuyến 17. Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa hiện hữu trên thực tế (de facto) từ đây.
Nhưng các chính sách của nhà nước VNDCCH đă tố cáo nhà nước này lệ thuộc vào một thế lực ngoại bang. Sau 1954, các chính sách về kinh tế, cách thức tổ chức xă hội, tư tưởng chính trị, văn hóa… thảy đều rập khuôn với các chính sách của Mao Trạch Đông đă áp dụng trước đó tại Trung Hoa lục địa. Các phong trào « cải cách ruộng đất », phong trào « trăm hoa đua nở », phong trào diệt « trí phú địa hào »… áp dụng tại VN đều là ư kiến của cố vấn TQ.
Một nhà nước không v́ lợi ích của dân chúng là một nhà nước không xứng đáng. Một nhà nước lệ thuộc vào ngoại bang là một nhà nước không được công nhận theo quốc tế công pháp.
Về lập trường chính trị, chính phủ VNDCCH tuyên bố theo xă hội chủ nghĩa, chủ trương một nước Việt Nam duy nhứt (theo qui định của Hiệp định Genève). Chính phủ VNDCCH không công nhận sự hiện hữu của một chính phủ VNCH ở miền Nam. Chính phủ VNCH bị gán cho là chính quyền ngụy, bù nh́n, do đế quốc lập nên chứ không do nguyện vọng của người dân miền Nam. Chính phủ VNDCCH cũng tuyên bố không công nhận bất một đại diện nào cho VN từ phía VNCH tại các định chế quốc tế. Tức là chính phủ VNDCCH chủ trương một quốc gia VN duy nhứt mà họ là đại diện chính thống.
Chính phủ VNDCCH, trên phương diện công pháp quốc tế, là một chính phủ hiện hữu trên thực tế (de facto) nhưng không được công nhận (de jure). Chính phủ này không hề đại diện nước Việt Nam duy nhứt tại bất kỳ một tổ chức quốc tế nào. Trong khi tư cách đại diện của VNCH tại các tổ chức này th́ bị VNDCCH phủ nhận. Lănh thổ từ vĩ tuyến 17 trở về bắc là lănh thổ mà tổ chức chính trị của ông Hồ « chiếm » được. Chính quyền họ có trong tay là do « cướp » được.
Những người cộng sản VN rất tự hào về việc này. Họ tuyên bố đoạn tuyệt với quá khứ, không chấp nhận chính quyền thực dân cũng như đả phá các nhà nước tiền nhiệm VN thời phong kiến. Họ tuyên bố sáng lập một nước VN mới. Như thế, vấn đề liên tục quốc gia không đặt ra. Việc kế thừa cũng không đặt ra.
Nhưng khó khăn chỉ đến khi đối diện với thực tế. Sau 1975, vấn đề chủ quyền HS và TS sẽ giải quyết thế nào, khi chính quyền này đă công nhận nhiều lần trong quá khứ chủ quyền HS và TS thuộc TQ ?
Vấn đề về liên tục quốc gia v́ thế phải được quan niệm lại, đồng thời với việc kế thừa. Các việc này phải được thực hiện như thế nào để quốc gia VN không mất lănh thổ (và hải phận) ở hai quần đảo HS và TS ?
2.5 Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và Chính phủ Cách mạng Lâm thời 20-12-1960 đến 2-7-1976 :
Trong vấn đề « thống nhứt » đất nước, VNDCCH chủ trương « giải phóng miền nam », v́ đồng bào miền nam đang quằn quại dưới ánh cai trị bạo tàn của Mỹ-Ngụy. Vấn đề « giải phóng » sẽ được thực hiện bằng bạo lực, bằng cách phát động cuộc chiến tranh cách mạng, hô hào dân miền Nam nổi dậy lật đổ chế độ.
Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam được khai sinh để phục vụ cho chủ trương đó. MT khai sinh ngày 20-12-1960 theo nghị quyết của của Đại hội đảng toàn quốc lần thứ ba của đảng CSVN (lúc đó là đảng Lao Động), được đặt dưới sự lănh đạo của bộ Chính trị đảng CSVN và Trung ương cục miền Nam.
Mục tiêu của MT là : « đoàn kết các tầng lớp nhân dân, đảng phái, đoàn thể, tôn giáo và nhân sĩ yêu nước không phân biệt xu hướng chính trị để đấu tranh lật đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tập đoàn Ngô Đ́nh Diệm, tay sai của Mỹ, để thực hiện độc lập, dân chủ, ḥa b́nh, trung lập tiến tới ḥa b́nh thống nhứt tổ quốc. »
Cuộc tổng tấn công tết Mậu Thân 1968, thực hiện theo một nghị quyết khác của đảng CSVN, là một thành công chính trị lớn lao cho đảng CSVN. Con cờ mà họ lập ra, MTGPMN, từ nay được quốc tế biết đến. Chính phủ Cách mạng Lâm thời được thành lập ngày 8-6-1969. Dĩ nhiên VNDCCH cùng các nước trong khối cộng sản lập tức công nhận thực thể chính trị này. Việc này đặt lại tính chính thống của VNCH trước các định chế quốc tế. Nhưng cho đến khi sụp đổ, VNCH vẫn là đại diện duy nhứt cho quốc viê Việt Nam.
Cùng lúc chính trị của Mỹ về vấn đề VN bước vào khúc quanh quyết định. Mỹ muốn « Việt Nam hóa chiến tranh », v́ thấy không cần thiết để hiện diện ở VN nữa, sau khi bắt tay được với Mao Trạch Đông qua việc kư kết ước Thượng Hải. Năm 1972, Chính phủ Cách mạng Lâm thời được Mỹ nâng lên ngang tầm với VNCH, để bốn bên Mỹ, CS miền Bắc, VNCH và CPCMLT kư kết hiệp định Paris 1972. HK bắt đầu rút quân khỏi miền Nam đồng thời cúp viện trợ quân sự cho VNCH.
Việc đến phải đến, 30-4-1975 VNCH sụp đổ. VNCH đổi tên thành Cộng ḥa miền Nam Việt Nam.
3. Vấn đề kế thừa giữa VNCH và CHMNVN qua khía cạnh đại diện các định chế quốc tế – Vai tṛ của VNDCCH.
Bộ trưởng bộ Ngoại giao của Chính phủ Cách mạng Lâm thời là bà Nguyễn Thị B́nh. Sau khi VNCH sụp đổ, bà B́nh đă có những động thái hướng đến các tổ chức quốc tế nhằm kế thừa danh nghĩa của VNCH đại diện cho quốc gia Việt Nam. Ngày 7-5-1975, một điện tín từ Bộ ngoại giao của Cộng ḥa Miền Nam Việt Nam đă gởi đến O.M.S, cùng lúc với các định chế quốc tế khác, nội dung tóm lược như sau :
Chính phủ Cộng ḥa Miền Nam VN thông báo rằng đă kiểm soát hoàn toàn lănh thổ Việt Nam. Chế độ cũ ở Sài G̣n đă sụp đổ. Chính phủ Cách Mạng lâm thời là người duy nhứt thực sự đại diện dân chúng miền Nam, có đầy đủ tư cách để đại diện miền Nam Việt Nam tại O.M.S cũng như các định chế quốc tế khác.
Việc « kế thừa » của CPCMLT tại các định chế quốc tế không gặp khó khăn, chỉ đơn giản là việc « đổi tên nước », tại UNESCO vào tháng 7 -1975, U.I.T vào tháng 2 năm 1976.
Điều cần ghi nhận là động thái của VNDCCH qua việc xin gia nhập O.M.S như là « một thành viên chính thức » vào ngày 10 tháng 4 năm 1975. Việc này được đại hội O.M.S chấp nhận ngày 7-5.
Điều cần ghi nhận khác, đại hội O.M.S năm 1976, hai quốc gia VNDCCH và CHMNVN chỉ có một phái đoàn đại diện. Việc này vi phạm điều lệ LHQ, v́ một người không thể đại diện cho hai quốc gia. Tuy vậy, việc này cũng được thông qua, với điều kiện, khi phái đoàn phát biểu cho nước nào th́ phải để bảng ghi tên nước đó phía trước.
Như thế, trong chừng mực, VNDCCH chấp nhận có hai quốc gia Việt Nam : VNDCCH và CHMNVN, sau ngày 30-4-1975.
Việc thống nhứt đất nước 2-7-1976 như thế là một sự thống nhứt giữa hai quốc gia. Vấn đề kế thừa về lănh thổ do đó mang một sắc thái chính trị khác.
Sau 30-4-1975, không thấy chính phủ CMLT tuyên bố lời nào về chủ quyền của HS và TS. Cuộc chiến đă được gọi là cuộc chiến « giải phóng », tức cuộc chiến đánh đổ (phủ nhận) chính phủ tiền nhiệm, nhằm tháo gỡ cùm gông ḱm kẹp dân chúng. Do đó không có vấn đề « kế thừa » lănh thổ, mà chỉ có vấn đề « giải phóng », tức chiếm lại. Một số đảo ở TS đă được thể hiện như thế (de fact). Danh nghĩa chủ quyền của VN tại HS và TS do đó vẫn chưa được thụ đắc (de jure)
Đến nay, các mặt nạ lần lượt rơi xuống. Mọi người đều biết MTGPMN là con đẻ của đảng CSVN, chứ không hề do nhân dân miền Nam thành lập để « vùng lên » chống áp bức. Các cán bộ lănh đạo MT đều là đảng viên của đảng CSVN. Những lănh đạo CSVN hiện nay, những người trong MTGPMN cũ, đều là thành viên TU của đảng CSVN. MTGPMN với đảng CSVN chỉ là một.
Ư kiến của VNDCCH về HS và TS trong chừng mực cũng là ư kiến của CHMNVN. Mà ư kiến đó là công nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS.
Sự thật lịch sử là như thế, vấn đề đặt ra, nước CHXHCNVN sẽ kế thừa chủ quyền ở hai quần đảo HS và TS của VNCH như thế nào ?
————
Ghi chú : Một số dữ kiện ở phần 2.3 và 3 dẫn từ bài « La représentation du VietNam dans les institutions spécialisées » của bà Joële Nguyên Duy-Tân. In: Annuaire français de droit international, volume 22, 1976. pp. 405-419.
http://www.persee.fr/web/revues/home..._num_22_1_1996
Theo: Blog Trương Nhân Tuấn