QĐND - Con gà là h́nh ảnh quen thuộc của mọi vùng nông thôn, là tài sản quư giá, “cỗ bạc ḷng thành”, “mâm cao cỗ đầy” của người dân vốn sống bằng nghề nông, bốn bề rơm rạ. Kẻ nào ăn trộm, dù là con gà nhép cũng mang tội “tày trời”. Mỗi sáng sớm, vừa rải thóc, vừa “cúc cục cục” gọi gà về điểm danh, thấy thiếu, thấy vắng một chú thế là “của đau con xót” các bà, các “mệ” cứ ra sức chửi. Chửi tới khi cơn giận nguôi ngoai th́ mới thôi.
Cứ như trời phú cho những người nghèo khổ, có một cơ quan phát thanh, đủ độ vang, phủ sóng khắp địa bàn cư trú. Phần giao đăi của “trường ca” mất khoảng mươi phút đă hoàn tất việc đặt vấn đề. Người nghe kịp nhận ra bài chửi liên quan đến vụ việc ǵ, nghi ngờ cho ai. Sau khi đă dạo qua, tổng quan vấn đề và đối tượng, chẳng cần gọi tên chúng ra, bà tức tốc vào thẳng phần chính việc chửi bới. Bà mạt sát đối thủ bằng những tư liệu rút ra trong gia phả, án tích, dư luận. Bà chứng minh bằng những chứng cứ và suy luận đă quan sát, thu thập được, cuối cùng là h́nh phạt. Bà phạt kẻ bị t́nh nghi bằng phương pháp là cho ăn, cho uống, thực đơn gồm những thứ bà cho là kinh tởm nhất. Cứ như ngoài cái vốn tự có ấy bà chẳng có ǵ. Toàn bộ "cáo trạng" từ điều tra, luận tội và xử phạt bà đọc độ nửa giờ là xong. "Phiên ṭa" không cần mời ai dự, vẫn được xử công khai. Thế mới biết kẻ ở thế yếu cứ luôn “vơ vào” như thế, trông đáng yêu, đáng thương, lại vừa tủi hổ làm sao.
Bài chửi là văn xuôi được viết theo lối biền ngẫu, rất nhiều đoạn rập theo công thức viết báo cáo của những anh không chịu đổi mới ngày nay. Văn xuôi nhưng lại có vần, có điệu như thơ, lên bổng xuống trầm như nhạc, rất có thể đây là tiền thân của loại thơ văn xuôi bây giờ. Đặc biệt là đoạn cao trào, người nghe là kẻ ăn cắp thật cứ phải là nghẹn đắng cổ, giận tím mặt, “tức hộc máu”, c̣n người vô can th́ lắc đầu ph́ cười vẻ thông cảm, nghe một lần là nhớ măi. Bài chửi mất gà mang màu sắc vùng miền, đặc trưng theo từng vùng quê khác nhau.
Hăy h́nh dung, ở miền quê miền Bắc, lúc này bà khẽ rướn người lên, hai đầu ngón tay nhúm lấy xống váy đụp nâng lên phía trước, lúc chỉ trỏ, khi chống nạnh, đứng một ḿnh nhưng bà làm như đang diễn thuyết trước đám đông. Giọng ngoa ngoắt, chua chát, từng câu chữ tuôn ra tuồn tuột như được soạn thảo, thai nghén cả năm chứ không ít. “Bố thằng chết đâm, cha con chết xỉa kia! Mày day tay mặt, mày đặt tay trái, nỡ ăn cắp của bà đây con gà. Này bà bảo cho mày biết: Thằng đứng chiếu ngang, thằng sang chiếu dọc, thằng đọc văn tế, thằng bế cái hài, thằng nhai thủ lợn. Con gà nó ở nhà bà là con gà. Nó bị bắt trộm về nhà mày th́ thành con cú, con cáo, con nanh mỏ đỏ, nó sẽ mổ mắt, xé xác ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con cái nhà mày đấy! Cha tiên nhân ông nội, ông ngoại, ông dại, ông khôn, đồng môn chi rễ nhà mày nhá! Mày gian tham đă ăn trộm ăn cắp con gà mái nhà bà. Rồi ra, nhà chúng mày chết một đời cha, chết ba đời con, đẻ non, đẻ ngược, chân ra trước đầu bước ra sau, đẻ sót nhau, chết mau, chết sớm, chết trẻ, đẻ ngang nhá. Bốn thằng cầm cờ xanh đứng đầu ngơ, ba thằng cầm cờ đỏ đứng đầu làng, đưa đám tang cả nhà mày ra đồng làng chôn đấy. Mày có khôn hồn, mang trả ngay con gà đó cho bà, kẻo không bà đào mồ, quật mả cao tằng tổ khảo, cao tằng tổ tỉ, thúc, bá, đệ, huynh, cô, d́, tỷ, muội nhà mày…".
Khiếp thật! Cứ phải gọi là “ói ra gà”. C̣n các “mệ” ở miền Trung mà điển h́nh là Xứ Huế “mộng mơ”, nhẹ nhàng, thanh cảnh “chơi chữ” có kém ǵ không? Chúng ta nghe thử: “... Tam canh mụ đội, xóm hội xóm phường, xóm trước xóm sau, xóm trên xóm dưới, lư hương, bát nước, chiếu trải giường thờ, tau bới mả cha bay rung rinh như thuyền mành gặp sóng... Tau chửi cho tan nát tông môn họ hàng cái quân khốn kiếp, vô hậu kế đợi đă ăn của tau bảy con gà xám, tám con gà vàng. Bây ăn chi mà ác nhơn ác nghiệp? Bây ăn bằng nồi đồng, bây ăn bằng nồi đất, bây ăn lật đật, bây ăn ban đêm. Bây ăn cho chồng bây sợ, cho con bây kinh, bây ăn cho ngả miếu sập đ́nh, cho mồ cha bây chết hết để một ḿnh bây ngồi đó bây ăn. Đồ quân ăn chó cả lông, ăn hồng cả hột. Cái quân không sợ trời đánh thánh đâm. Bây ăn mần răng mà hết một chục rưỡi con gà?” (“Dấu tích Văn hóa Huế” của Bùi Minh Đức, Nxb Thuận Hóa, 2010).
Chưa hết, cái độc địa, moi móc chuyển sang một dạng thức mới, tinh vi và thú vị hơn, đó là chửi mang âm hưởng “toán học”. Cụ thể: “Bố mày là A, mẹ mày là B, bà cho vào “ngoặc” bà “khai căn” cả họ nhà mày. Bà rủa mày ăn miếng rau mày ói ra miếng thịt, mày tắm trong ao mày chết ch́m trong chậu. Bà “khai căn” cả họ nhà mày xong rồi, bà “tích phân n bậc”, bà bắt cả hang, cả hốc, ông cụ, ông nội, cả tổ tiên nhà mày ra mà “đạo hàm n lần. Ái chà chà! Mày tưởng nuốt được con gà nhà bà là mày có thể yên ổn chơi tṛ “cộng trừ âm dương” trên giường với nhau à. Bà là trị cho “tuyệt đối” hết cả họ chín đời nhà mày, cho chúng mày biết thế nào là “vô nghiệm”, cho chúng mày không sinh, không đẻ, không duy tŕ được ṇi giống nữa th́ thôi. Bà sẽ nguyền rủa cho chúng mày đời đời ch́m đắm trong “âm vô cùng”, sẽ gặp tai ương đến “dương vô tận”, cho chúng mày chết rục trong địa ngục, cho chúng mày trượt đến “maximum” của sự “vô hạn” tối tăm...”.
Đành rằng, chửi “đă mồm” cũng chẳng mấy khi t́m lại được gà, nhưng cái "chửi" để hả giận, để đánh thức lương tâm, nuôi dưỡng công lư. Lương tâm và công lư sẽ lớn lên, chặn tay bọn ăn cắp những “con gà vàng” thấm đẫm mồ hôi, nước mắt người lao động. Chửi là vũ khí của người nghèo.