Mỗi người nộp thuế chỉ được giảm trừ gia cảnh cho 2 TH, trong khi văn hóa Việt Nam là gia đ́nh nhiều thế hệ.Liệu người dân có chấp nhận một bộ luật buộc họ phải chọn hoặc là phụng dưỡng cha mẹ, nuôi con?
Hôm qua, khi dự thảo Luật Thuế TNCN được “đặt lên bàn nghị sự”, th́ ở ngoài xă hội, dư luận lại xôn xao về mức học phí ngất ngưởng khi sinh viên một trường đại học ở Hà Nội phải làm “thủ tục nhập trường” với 5,1 triệu đồng cho 8 khoản phí, chưa kể chi phí kư túc xá.
Trong đó, có không ít khoản “vẽ voi”: Tiền thẻ, học quy chế, đồng phục thể dục, vệ sinh, thậm chí cả tiền… đồng phục t́nh nguyện.
Điều đáng nói, mức học phí trên không phải là cá biệt khi mà một quan chức nhà trường khẳng định: “Mức thu đă được nhà trường tính toán, tham khảo cụ thể. So với t́nh h́nh thực tế th́ c̣n khá… khiêm tốn”.
T́nh h́nh thực tế là như thế nào, và tính toán phù hợp ra sao? Điều đó không được giải thích.
Hóa ra, “thực tế” đôi khi không phải là “thực tế”, khi giữa cách nh́n, cách hiểu và sự chịu đựng thực tế của người làm chính sách và người “bị chính sách” điều chỉnh là rất khác nhau.
Trên bàn nghị sự chiều qua, khi Chủ nhiệm Ủy ban TC-NS của Quốc hội Phùng Quốc Hiển kiên quyết bảo lưu quan điểm mức khởi điểm chịu thuế 7 triệu đồng/người/tháng và giảm trừ gia cảnh 2,8 triệu đồng, thay v́ 9 triệu đồng và 3,6 triệu đồng như tờ tŕnh của Chính phủ, đă không nhận được sự đồng t́nh của nhiều người.
Thậm chí, việc đ̣i hạ mức khởi điểm chịu thuế đă được Phó Chủ tịch QH Huỳnh Ngọc Sơn ví như “gáo
ạnh”.
Kể từ năm 2007, lạm phát cộng dồn đă làm VND mất giá tới 70%. Và việc một luật thuế có hiệu lực chưa tới 3 năm đă 3 lần phải điều chỉnh bằng cách dăn, miễn cho người bị chính sách điều chỉnh là một minh chứng rơ ràng nhất cho thấy những tính toán, cách nh́n nhận thực tế của người làm chính sách, với thực tế của dân chúng rất khó gặp nhau.
Và v́ thế, việc tính toán một mức khởi điểm cũng như giảm trừ gia cảnh căn cứ vào mức “lạm phát lư thuyết” 7%, cho thấy Uỷ ban TC-NS chưa có sự thay đổi so với những người soạn thảo Luật Thuế TNCN mà hôm nay uỷ ban này đang có trách nhiệm thẩm tra, chỉnh sửa để phù hợp với thực tế.
Chủ nhiệm Ủy ban các Vấn đề xă hội của QH Trương Thị Mai hôm qua đă nói lên một sự thật là từ 2007, nền kinh tế liên tục gặp khó khăn, lương có tăng cũng không bù đắp được (sự mất giá đồng tiền) so với lạm phát.
Và sự thật đáng để những người làm chính sách phải suy nghĩ nhất là việc chúng ta “hoàn toàn chưa công bố được mức sống tối thiểu”, trong một bối cảnh là “tiền lương tối thiểu hoàn toàn không đủ đáp ứng một mức sống tối thiểu”.
Thế nào là mức sống tối thiểu - điều đó hôm qua chưa có câu trả lời. Ấy thế mà hai từ “hợp lư” liên tục được đưa ra, để giải thích cho điều ngay chính một vị chủ nhiệm ủy ban khác của QH là ông Phan Trung Lư c̣n phải yêu cầu Bộ Tài chính làm rơ.
Việc một luật thuế nh́n nhận thực tế đời sống người dân qua lăng kính quan chức, định ra một mức cho đó là tối thiểu, hoặc không quan tâm đến thế nào là tối thiểu cũng giống với việc - như bà Mai nói - “chỉ biết thu tiền rồi mặc kệ người dân muốn sống thế nào th́ sống”.
Đó là chưa kể tới cách đặt vấn đề: Mỗi người nộp thuế chỉ được giảm trừ gia cảnh cho 2 trường hợp, trong khi văn hóa Việt Nam là gia đ́nh nhiều thế hệ. Liệu người dân có chấp nhận một bộ luật buộc họ phải chọn hoặc là phụng dưỡng cha mẹ, hoặc là nuôi con?
Theo Đào Tuấn
Lao động