R10 Vô Địch Thiên Hạ
Join Date: Nov 2007
Location: LCN
Posts: 55,869
Thanks: 40
Thanked 564 Times in 514 Posts
Mentioned: 2 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 1 Post(s)
Rep Power: 74
|
4000 tấn vàng ở B́nh Thuận chỉ là tin đồn ?
Hơn 10 năm nay, ngọn núi Tàu, huyện Tuy Phong, tỉnh B́nh Thuận bị đào bới tan hoang, môi trường bị phá hoại chỉ v́ thông tin nơi này đang chôn 4000 tấn vàng do quân đội Nhật để lại. Thực hư của câu chuyện này ra sao?
|
Chưa biết vàng ở đâu, nhưng núi Tàu đang bị đào bới tan hoang
|
Từ tháng 2 năm 2001 đến nay, trên các báo có nhiều bài nói về việc t́m kiếm kho vàng 4000 tấn ở núi Tàu, Huyện Tuy Phong, tỉnh B́nh Thuận. Câu chuyện t́m “kho vàng ở núi Tàu” này tạo sự quan tâm của nhiều bạn đọc. Nhiều người cho là cụ Trần Văn Tiệp (97 tuổi) rất tâm huyết với đất nước nên không ngại tốn kém công sức và của cải để t́m kho báu này. UBND tỉnh B́nh Thuận cũng có văn bản, đồng ư cho nhóm của cụ Tiệp thăm ḍ và t́m kiếm “kho vàng” này.
Vàng đâu chưa thấy, nhưng núi non bị đào bới tan hoang, môi trường bị phá hoại th́ đă thấy rơ. Dư luận cũng nhiều ư kiến khác nhau, song vẫn nhiều người cho là nên để cụ Tiệp tiếp tục t́m kiếm, v́ nghe đâu đă t́m thấy ‘cửa kho” rồi. Vậy nên hiểu chuyện này thế nào?
Theo các bài báo đă đưa về ư kiến của những người bảo vệ cho việc t́m kiếm th́ “kho vàng” này là do quân đội Nhật đă chôn giấu ở đây từ khi chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc (năm 1945). Nếu đúng là như thế th́ việc t́m kiếm có thể đem lại cho đất nước ta một lượng của cải rất lớn.
Nhưng, có một thói quen (rất tai hại) của nhiều người là khi đứng trước một đống của cải lớn hay đứng trước một cơ hội có thể có một đống của cải lớn, th́ người ta rất hay bị “hoa mắt”, nên thường không c̣n suy nghĩ được một cách tinh tường và khách quan nữa.
Những người tin về sự tồn tại của “kho vàng 4000 tấn do người Nhật giấu ở núi Tàu” đă dựa vào đâu để tin như vậy th́ không rơ lắm, song xin trao đổi vài suy nghĩ đơn giản như sau:
Thứ nhất, người Nhật có thể lấy ở đâu ra nhiều vàng như thế để đem chôn ở Việt Nam trong khi từ trước đến giờ họ chưa bao giờ có nổi số vàng ấy? Theo số liệu báo chí đưa tin rộng răi từ những năm 90 của thế kỷ 20, ước tính tổng số vàng mà cả thế giới đă khai thác được từ trước hàng chục thế kỷ đến lúc đó khoảng 16.000 tấn, thế mà riêng người Nhật đă có và mang sang giấu ở Việt Nam những 4000 tấn (khoảng 1/4) từ trước đó gần nửa thế kỷ? Trong khi cần nhấn mạnh, nước Nhật không có mỏ vàng,
Thứ hai, tham khảo (theo thông báo của Hội đồng vàng thế giới) số liệu nói về trữ lượng vàng của 10 nước hàng đầu thế giới hiện nay (năm 2012): Mỹ: 8.133,5 tấn; Đức: 3.395,5 tấn; Italia: 2.451,8 tấn; Pháp: 2.435,4 tấn; Trung Quốc: 1.054,1 tấn; Thụy Sĩ: 1.040,1 tấn; Nga: 936,7 tấn; Nhật: 765,2 tấn; Hà Lan: 612,5 tấn; Ấn Độ: 557,7 tấn;
Ta thấy hiện nay nước Nhật (đă giàu hơn rất nhiều so với năm 1945) đang đứng thứ 8 trên thế giới về dự trữ vàng, mà tổng số vàng c̣n xa mới được 1000 tấn. Thế mà từ mấy chục năm trước “một vị tướng của Nhật đă đem các tàu chiến chở đầy vàng đến chôn giấu tại núi Tàu với số lượng đến 4000 tấn”. Lượng vàng này nhiều hơn gấp 4 lần số vàng nước Nhật dự trữ được hiện nay và gần bằng nừa số vàng mà nước Mỹ đang dự trữ hiện nay.
Với những con số biết nói như vậy,nhưng không hiểu tại sao tỉnh B́nh Thuận vẫn tin và cấp phép đào “kho vàng 4000 tấn” tại Núi Tàu?
Một diễn biến khác liên quan đến việc đào t́m 4000 tấn vàng tại Núi Tàu, B́nh Thuận, ngày 5/10, theo thông tin từ báo Người lao động, Phó Chủ tịch UBND tỉnh B́nh Thuận Nguyễn Thành Tâm cho biết "Không gia hạn thêm thời gian t́m 'kho báu' núi Tàu" khi giấy phép thăm ḍ “kho báu” của ông Trần Văn Tiệp chỉ c̣n vài ngày nữa là hết hạn (10/10).
Cũng theo ông Tâm, trước khi bắt tay vào thăm ḍ, ông Tiệp có kư quỹ 500 triệu đồng. Số tiền này được sử dụng cho việc hoàn thổ những khu vực ở núi Tàu đă bị đào xới, khoan thăm ḍ và khắc phục hậu quả ô nhiễm môi trường.
“Công bằng mà nói, chúng tôi ghi nhận những nỗ lực của ông Tiệp v́ đă đổ rất nhiều của cải, công sức cho việc t́m kiếm kho báu. Nhưng với thực tế hiện nay, việc t́m kiếm này buộc phải gác lại.” ông Tâm nói.
|
Sỹ Văn
|