Báo Nga vừa có bài phân tích chiến lược “Trở lại châu Á” của Mỹ với trọng tâm là khu vực Đông Nam Á và những diễn tiến nóng ở khu vực Biển Đông.
Trọng tâm bài phân tích của tác giả Ian Nikolaevna Martynov, chuyên gia Viện nghiên cứu Luật - Tài chính quốc tế Ural Nga tập trung vào sự tăng cường rất lớn mối quan tâm trong lĩnh vực quân sự - chính trị cùng với những hành động và sự tham gia mạnh mẽ của chính quyền Washington, cụ thể là sự phát triển mối quan hệ đồng minh với Philippines và Thái Lan, tăng cường hợp tác hợp tác với các nước tiềm năng khác trong khu vực như Việt Nam, Indonesia, Singapore và Malaysia.
|
Tàu tác chiến ven bờ USS Freedom đồn trú tại Singapore và sắp tham gia cuộc tập trận với Philippines vào đầu tháng 7 tới ở Biển Đông |
Chính sách đối ngoại của Mỹ ở Đông Nam Á của chính quyền ông Barak Obama bao hàm các nội dung “Thắt chặt mối quan hệ đồng minh vốn có và phát triển các mối quan hệ đối tác chiến lược mới”.
Có thể nhận thấy rằng, hội chứng Việt Nam có những hậu quả nhất định cho định hướng đối ngoại chính trị của Mỹ.
Một thời gian dài sau khi kết thúc chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ đă không quan tâm nhiều đến khu vực Đông Nam Á và đă có không có chiến lược đối ngoại chính trị rơ ràng đối với khu vực đặc biệt này.
Sự tham gia của Washington vào những vấn đề khu vực chỉ giới hạn trong những phản ứng giăn đoạn có tính tức thời khi xuất hiện các cuộc khủng hoảng, c̣n các cuộc viếng thăm chính thức th́ rất hăn hữu và được chuẩn bị sơ sài. Trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997-1998.
Chính quyền của ông Bill Clinton đă không giúp đỡ các nền kinh tế châu Á vượt qua khủng hoảng, trên thực tế trong suốt giai đoạn này đă để cho ASEAN chủ động dẫn đầu tiến tŕnh hội nhập.
Trong những năm đó, nội dung chiến lược chủ yếu của Mỹ tại châu khu vực châu Á-Thái B́nh Dương tập trung vào sự phát triển của mối quan hệ với các nước Đông Bắc Á, Đông Nam Á chỉ chiếm vị trí ngoại biên trong chính sách đối ngoại.
Chỉ khi người Mỹ quyết định mở “mặt trận thứ hai” trong cuộc chiến chống khủng bố sau sự kiện cuộc tấn công khủng bố ngày 11/9/2001, Washington bắt đầu mở rộng cấp độ tham gia của Mỹ vào các vấn đề của khu vực.
Năm 2002, Mỹ và 10 nước trong khối ASEAN đồng kư Tuyên bố chung về hợp tác hữu nghị chống khủng bố quốc tế.
Theo đuổi mục tiêu cuộc chiến với mạng lưới các tổ chức khủng bố và ngăn chặn các tổ chức cực đoan biến Đông Nam Á thành ḷ lửa của các chiến dịch khủng bố, Mỹ đă tăng cường hợp tác quân sự với các nước như Philippines, Thái Lan, Singapore và Indonesia.
Nhưng cũng phải nhận định rằng, trong giai đoạn này, những lợi ích của Mỹ chủ yếu vẫn giới hạn trong khuôn khổ đấu tranh chống khủng bố quốc tế, chính sách hợp tác phát triển theo hướng phục hồi dần dần của các quan hệ quân sự - chính trị với các nước trong khu vực của Hoa Kỳ cơ bản trên quan hệ song phương.
Trong suốt giai đoạn những năm 1990, sự thể hiện “không quan tâm” của Mỹ đối với Đông Nam Á đă cho phép Trung Quốc – đến lượt ḿnh – phát triển mạnh mẽ các chính sách chính trị đối ngoại, kinh tế đối ngoại và tăng cường vị thế của ḿnh mà không gặp sức cản nào đáng kể.
Như nhà nghiên cứu người Trung Quốc Tao Venchzhao đă chỉ ra rằng, sự quan tâm của Mỹ chỉ thực sự xuất hiện khi mà người Mỹ phát hiện ra rằng, tầm ảnh hưởng của Trung Quốc đă phát triển quá mạnh mẽ và bao trùm cả khu vực, cán cân lực lượng tại Đông Nam Á đă đi ngược lại lợi ích của phía Hoa Kỳ.
|
Truyền thông Nga nói Trung Quốc đă lợi dụng sự lơ là của Mỹ để triệt để mở rộng ảnh hưởng về mọi mặt ở khu vực và thế giới |
Theo thời gian, nhận thức về việc cần thiết phải tăng cường sự hiện diện của Mỹ trong khu vực Đông Nam Á chỉ xuất hiện vào những năm cầm quyền cuối cùng của nhiệm kỳ tổng thống George W. Bush nhưng được thể hiện đầy đủ trong chiến lược chính sách đối ngoại của chính quyền Barack Obama.
Định hướng chiến lược được ca ngợi của Tổng thống Barack Obama trong chính sách năm 2009 với khẩu hiệu "Quay trở lại châu Á", đồng thời với sự thay đổi trọng tâm địa chính trị của Hoa Kỳ trong khu vực Châu Á cũng có nghĩa là một sự gia tăng rất lớn vai tṛ của Đông Nam Á trong chiến lược chính trị - quân sự của Mỹ ở Thái B́nh Dương.
Một kế hoạch toàn diện cho sự trở lại của Mỹ với châu Á chính thức tuyên bố vào năm 2011 với những dự kiến tăng cường hệ thống các mối quan hệ đồng minh hiện có trong khu vực, làm sâu sắc thêm mối quan hệ với các nước đang phát triển, mở rộng sự tham gia của Mỹ trong quan hệ hợp tác đa phương hóa, đa dạng hóa, mở rộng thương mại và hợp tác đầu tư vào các nước trong khu vực, đẩy mạnh tiến tŕnh dân chủ hóa và nhân quyền.
Trong bối cảnh t́nh h́nh Đông Nam Á hiện nay, điều này có nghĩa là cần phải tăng cường củng cố và phát triển các quan hệ liên minh với Philippines và Thái Lan, hội tụ với các nước có tiềm năng phát triển trong khu vực như Việt Nam, Singapore, Indonesia và Malaysia, tăng sự tham gia vào hoạt động của các tổ chức đa phương của khu vực, bao gồm cả hợp tác với ASEAN, thúc đẩy tiến tŕnh dân chủ hóa trong các quốc gia trong vùng Đông Nam Á.
Để quá tŕnh "trở lại châu Á" được thực hiện tối ưu nhất, bằng chứng là sự phát triển của các sự kiện, phương pháp hiệu quả nhất là sự can thiệp trực tiếp của Washington vào mối quan hệ hiện tại giữa Trung Quốc và một số các nước ASEAN và châu Á có những tranh chấp lănh thổ trên biển Đông.
Như vậy, cùng với sự tham gia của Washington bằng việc tăng cường quan hệ đồng minh Mỹ - Philippines mùa hè năm 2010, vấn đề biển Đông trong một thời gian dài nằm trong trạng thái không định h́nh đă có những chuyển biến mới.
Trong giai đoạn từ 2010 đến 2011, những hoạt động hợp tác quân sự song phương theo cơ chế liên minh quân sự được tăng cường mạnh mẽ, Mỹ giúp Philippines hiện đại hóa hải quân. Tháng 1.2011, cuộc đối thoại chiến lược song phương Philippines-Mỹ lần đầu tiên được tiến hành, được đánh dấu bằng việc kư kết một thỏa thuận thành lập các nhóm công tác nghiên cứu các vấn đề nhằm tăng cường hợp tác song phương trong lĩnh vực bảo vệ lănh thổ và an ninh hàng hải.
Tháng 11/2011, bộ trưởng ngoại giao của Hoa Kỳ và Philippines đă kư Tuyên bố Manila tăng cường hợp tác song phương trong lĩnh vực quốc pḥng. Các cuộc diễn tập quân sự chung Mỹ-Philippines đă diễn ra thường xuyên hơn.
Sự tham gia của Mỹ trong các vấn đề của Biển Đông được cụ thể hóa bằng một động lực mạnh mẽ trong phát triển của quan hệ Mỹ - Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực quân sự-chính trị.
Những thể hiện gần đây nhất cho thấy mối quan tâm của Washington trong việc phát triển quan hệ với Việt Nam.
Mỹ cần sự ủng hộ lớn từ nhiều quốc gia trong cuộc đối đầu tiềm tàng với Trung Quốc. Theo ước tính của các chuyên gia Mỹ, trong tương lai gần Việt Nam có thể phát triển thành quốc gia có "quyền lực trung b́nh" thể hiện một tác động đáng kể trong khu vực Đông Nam Á.
|
Tổng tham mưu trưởng QĐND Việt Nam, thượng tướng Đỗ Bá Tỵ lần đầu tiên đă đến thăm Lầu Năm Góc trong chuyến thăm hạ tuần tháng 6/2013, đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ hợp tác quốc pḥng Việt-Mỹ |
V́ vậy, ngoài việc thực hiện thường xuyên các diễn đàn đối thoại thường niên Mỹ - Việt Nam từ năm 2008 trong khuôn khổ "Đối thoại về các vấn đề chính sách, an ninh quốc pḥng" năm 2010 song phương đă đưa ra cơ chế tham vấn "Đối thoại trong các lĩnh vực quốc pḥng", thực hiện thường xuyên các cuộc họp giữa các đại diện của Bộ quốc pḥng hai nước Việt Nam – Hoa Kỳ.
Các chiến hạm của Hải quân Hoa Kỳ bắt đầu thường xuyên thực hiện các chuyến viếng thăm các hải cảng Việt Nam.
Trong tháng 8/2010, trong bối cảnh xung đột Mỹ-Trung Quốc ngày càng tăng về vấn đề tự do hàng hải trên biển, lần đầu tiên trong lịch sử quan hệ Việt – Mỹ đă có một tuần diễn tập hải quân chung v́ mục đích nhân đạo giữa hai nước trên vùng nước biển Đông.
Nói chung, những sáng kiến mà Hoa Kỳ và Việt Nam thực hiện trong những năm gần đây cho thấy ư định của hai nước đang nỗ lực đưa quan hệ song phương lên một tầm cao mới.
Mặc dù vậy, vẫn c̣n thấy được trở ngại trong sự phát triển quan hệ của hai nước mà song phương phải nỗ lực vượt qua như sự khác biệt về chính trị giữa hai nước và những vấn đề c̣n lại của chiến tranh v.v...
Trong khuôn khổ sứ mệnh mà Tổng thống Mỹ Barak Obama đặt ra là tăng cường mối quan hệ đồng minh với các nước Đông Nam Á, các hoạt động nhằm thắt chặt hơn mối quan hệ với Thái Lan– đồng minh thứ 2 của Mỹ ở khu vực - cũng được đẩy mạnh.
Thái Lan và Mỹ đă có những giai đoạn liên minh chặt chẽ trong các cuộc chiến tranh ở Triều Tiên, Việt Nam và Vịnh Persian.
Không có căn cứ quân sự tại Thái Lan, Mỹ đă được phép sử dụng căn cứ không quân quân sự của Thái Lan Utapao vào năm 2004, điều này cũng giới hạn một phần chiến lược của Mỹ ở Đông Nam Á.
Utapao hiện không phải là căn cứ đóng quân thường xuyên của Mỹ, mà chỉ là vị trí, nơi Mỹ có thể tiến hành các chiến dịch có giới hạn thời gian và các cuộc diễn tập quân sự song phương, đa phương ở khu vực này.
Thái Lan đóng vai tṛ quan trọng trong việc chuẩn bị cơ sở vật chất và tổ chức huấn luyện của quân đội Mỹ như một cơ sở đặc thù cho các cuộc diễn tập quân sự thực binh của Mỹ ở châu Á.
Mỗi năm, Hoa Kỳ và Thái Lan tiến hành hơn 40 cuộc tập trận chung, bao gồm cuộc tập trận đa quốc gia quy mô lớn hàng năm "Gold Cobra" trên lănh thổ Thái Lan, một trong những cuộc tập trận chung lớn nhất trong khu vực do Bộ Tư lệnh Thái B́nh Dương Mỹ tổ chức và tiến hành.
Tuy nhiên, trong thập kỷ qua cũng đánh dấu một sự phân kỳ các lợi ích chiến lược và xung đột thương mại tăng lên trong quan hệ giữa Mỹ và Thái Lan.
Giai đoạn nguội đi của mối quan hệ liên minh song phương bắt đầu sau cuộc đảo chính quân sự ở Thái Lan 9/2006.
Sự kiện này liên quan đến đến vấn đề tồn tại một chính phủ dân chủ ở Thái Lan, Washington đă dừng cung cấp viện trợ quân sự cho Thái Lan cho đến tháng 12/2007, khi tiến hành cuộc bầu cử chính phủ mới.
Mặc dù cả hai nước đă thiết lập lại sự hợp tác quân sự trên mọi lĩnh vực, những ở Washington vẫn tồn tại một sự không chắc chắn về liên minh chính trị - quân sự và sự duy tŕ những giá trị dân chủ của chính quyền Thái Lan.
Sự không ổn định chính trị, những đợt sóng bạo lực trong các cuộc biểu t́nh trên đường phố đă làm cho Washington mất đi sự tin tưởng vào chính quyền Thái lan như một h́nh mẫu về chính quyền dân chủ trong khu vực Đông Nam Á.
Một loạt những điều kiện hoàn cảnh có thể làm suy giảm đi mối quan hệ liên minh giữa Mỹ và Thái Lan, điển h́nh là sự không ổn định về t́nh h́nh chính trị, xu hướng đ̣i ly khai của các tỉnh phía Nam, mối quan hệ ngày một tăng giữa Thái Lan và Trung Quốc.
Nhiều chuyên gia đối ngoại của Mỹ đă chỉ ra những thoái trào trong quan hệ đồng minh Mỹ - Thái và cho rằng, Washington nên định hướng vào sự phát triển các mối quan hệ hợp tác với Indonesia hơn là với Thái Lan.
Cũng có thể không hoàn toàn ngẫu nhiên mà bà Hillary Clinton, trong chuyến công du Đông Nam Á đầu tiên sau khi nhận vị trí Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ đă thăm chính thức Indonesia vào tháng 2/2009.
|
Hải quân Mỹ và Indonesia tập trận chung |
Indonesia đă thu hút sự quan tâm của Washington do một số các đặc điểm, trong đó nổi bật là ảnh hưởng của ḿnh trong khu vực ASEAN (Indonesia thậm chí c̣n được gọi là trung tâm địa chính trị của ASEAN), và có vị trí chiến lược vô cùng quan trong ở điểm giao nhau của các tuyến đường hàng hải thương mại huyết mạch nối Trung Đông và khu vực Đông Á (có vị trí gần Malacca, Lombok và eo biển Sunda
Indonesia cũng là nước lớn nhất trong khu vực Đông Nam Á, có nền kinh tế năng động, chính quyền Indonesia thực hiện thành công việc chuyển đổi thành nhà nước dân chủ (Indonesia là đất nước có nền dân chủ lớn nhất ở Đông Nam Á và lớn thứ ba trên thế giới.), đồng thời Indonesia cũng là quốc gia Hồi giáo lớn nhất trên thế giới, nhưng thực hiện chính sách đối ngoại khá mềm dẻo, năng động và có trách nhiệm.
Từ quan điểm đó, Washington đă đánh giá như một yếu tố quan trọng hoặc một mắt xích liên kết chủ chốt trong việc định h́nh mối quan hệ của Mỹ với thế giới Hồi giáo.
Mối quan hệ song phương giữa Mỹ và Indonesia phát triển rất nhanh chóng, sau cuộc tấn công khủng bố 11/9/2001, cả hai nước đă có những hành động mạnh mẽ cùng phối hợp nỗ lực chống khủng bố quốc tế.
Tổng thống đương nhiệm tại thời điểm đó của Indonesia, bà Megawati Sukarnoputri (tháng 7/2001 - tháng 10/2004) là một trong những nhà lănh đạo thế giới đầu tiên lên án các vụ khủng bố 11/9, đồng thời bày tỏ sự cảm thông cho người dân Mỹ.
Trong chuyến thăm cấp nhà nước của ḿnh tại Mỹ tháng 9. 2001, cả hai nước đă ban hành một tuyên bố chung Mỹ - Indonesia, trong đó đại diện hai nhà nước cam kết sẽ "mở ra một kỷ nguyên mới của hợp tác song phương dựa trên các giá trị dân chủ của mỗi nước và chia sẻ những quan tâm chung trong việc thúc đẩy sự ổn định và thịnh vượng trong khu vực."
Cũng có những điểm mờ trong mối quan hệ Mỹ Indonesia, sự hợp tác tích cực giữa Mỹ và Indonesia trong lĩnh vực hoạt động chống khủng bố chỉ bắt đầu sau khi các cuộc tấn công khủng bố xảy ra trên đảo Bali tháng 10/2002 và tại Jakarta vào tháng 8/ 2003.
Chính v́ vậy, trong buổi gặp mặt chính thức giữa Tổng thống Bush và Bà Megawati Sukarnoputri tháng 10/.2003, cuộc chiến chống khủng bố chung đă được coi là ưu tiên hàng đầu trong chính sách và quan hệ đối ngoại của hai nước.
Một sự kiện làm tăng cường mối quan hệ song phương Mỹ - Indonesia là quyết địch dỡ bỏ giới hạn về viện trợ quân sự của Mỹ đối với Indonesia vào được đưa ra vào năm 2005 do có những vi phạm về nhân quyền trên đất nướ này (điển h́nh là các vụ bạo lực xảy ra năm 1992 ở Đông Timo).
Việc dỡ bỏ những những hạn chế này là minh chứng cho b́nh thường hóa các quan hệ trong lĩnh vực quân sự. Kết quả cho thấy, sự phân bổ những khoảng ngân sách viện trợ và bán vũ khí trong chương tŕnh viện trợ quân sự cho Indonesia nhằm mục đích ổn định t́nh h́nh chính trị và bảo đảm an ninh đă tăng lên nhiều lần.
Tháng 11/2008, Tổng thống Indonesia Yudhoyono đề nghị phía Mỹ tăng cấp độ của quan hệ song phương lên tầm đối tác toàn diện.
Và hai năm sau đó, sau khi tham khảo ư kiến thích hợp và kỹ lưỡng trong những lĩnh vực ưu tiên hợp tác, trong chuyến thăm chính thức đầu tiên của tổng thống Mỹ Barac Obama đến Indonesia tháng 10/2010, các bên đă kư kết một thỏa thuận hợp tác song phương toàn diện, nâng quan hệ Mỹ-Indonesia lên tầm cao mới.
|
Hạm đội tàu sân bay Mỹ thời gian gần đây thường xuyên hiện diện tại Biển Đông nhằm giữ ǵn an ninh hàng hải |
Theo
Trịnh Thái Bằng/ Tiền Phong
VTC News