Buồn vui đời tỵ nạn
Xứ người, “miền đất tạm dung” của chúng ta trong nhiều thập kỷ qua, có lẽ sẽ dần dần trở thành nơi định cư vĩnh viễn của nhiều người, khi quê hương vẫn còn trong tay của nhóm tư bản đỏ, của những tên cộng sản Hà Nội, và khi Saigon, EM đã bị đổi tên!.
Hoài niệm về những ngày đã từng sống ở quê nhà còn chăng chỉ là những kỷ niệm, những kỷ niệm đã giữ mãi trong lòng , theo ta trong những thăng trầm của đời sống.
Nhìn lại quê cũ, là nỗi buồn sâu kín như lời thơ của nhà thơ Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc Lâu, và thi bá Vũ Hoàng Chương đã dịch như sau:
“Gần xa chiều xuống đâu quê quán?”
“Đừng dục cơn sầu nữa sóng ơi”
Xin mời quý độc giả của Thời Báo và quý thính giả của Thời Báo Radio, tham dự những cuộc hội thoại với chủ đề “buồn vui đời tỵ nạn”, nơi mà quý vị có thể kể cho mọi người nghe về những vui buồn trong cuộc sống xứ người, những kỷ niệm khi còn ở quê nhà, về một cuộc tình thời trẻ.v.v.Chúng tôi cũng sẽ phát thanh một bài hát của quý vị hay giọng ngâm nếu nhận được bài hát qua CD hay qua internet. Cuộc hội thoại sẽ được phát thanh trên Thời Báo Radio, đăng với hình ảnh trên tuần báo Thời Báo và đăng trên Thời Báo Website.
Qúy vị không cần đến văn phòng Thời Báo. Chúng tôi sẽ phỏng vấn quý vị qua điện thoại. Khi đã nhận lời tham dự, chúng tôi sẽ giúp quý vị chọn chủ đề và sẽ gửi các câu hỏi đến trước, để quý vị chuẩn bị. Một người có thể tham dự nhiều cuộc hội thoại với các chủ đề khác nhau,và ở các thời điểm khác nhau, không cùng một lúc.
Xin quý vị liên lạc với chúng tôi qua email
nguyen.suzy@gmail.co m hay qua điện thoại 416-925-5746

Phan Ni Tấn :“Nhà thơ của Phố Núi”
TH (Tuần Hoàng)Trong chương trình hội thoại “Buồn Vui Đời Tỵ Nạn” kỳ này, chúng tôi có dịp hàn huyên với nhạc sĩ Phan Ni Tấn, một khuôn mặt quen thuộc trong những hoạt động văn nghệ tại Canada và Hải ngoại.
Thay mặt cho quý thính giả, quý độc giả của Thời Báo xin chào anh Tấn.
PNT (Phan Ni Tấn): xin thân chào anh Hoàng và độc giả và thính giả của Thời Báo.
TH: Chúng tôi xin nói qua một chút về tiểu sử của nhạc sĩ Phan Ni Tấn
Ns Phan Ni Tấn sinh ở Ban Mê Thuột, học sinh trường trung học Ban Mê Thuột. Ông tốt nghiệp đại học khoa học Saigon năm 1969. Tốt nghiệp trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức khóa 1/70 và phục vụ tại thành phố Pleiku vào năm 1971. Ông tham gia phong trào du ca Sài Gòn vào năm 1969 và du ca Lòng Mẹ Ban Mê Thuột vào năm 1972.
Sau ngày miền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản, nhạc sĩ Phan Ni Tấn đã bị đi tù cộng sản. Tháng 11 năm 1979 ông vượt biên đến Thái Lan, và định cư tại thành phố Toronto, Canada từ năm 1980 cho đến nay.
Trong lãnh vực văn học nghệ thuật, ngoài những nhạc phẩm, ông còn là một nhà văn, nhà thơ từng cộng tác với nhiều tờ báo Việt ở hải ngoại như tạp chí Văn, Văn Học, Nhân Văn, Làng Văn, Phố Vằn, Diễn Đàn Tự Do, Phụ Nữ Diễn Đàn, Thời Báo..v.v.
Ông đã có những tác phẩm xuất bản từ năm 1969 với tập nhạc Hát Cho Mẹ và Quê Hương. Các tác phẩm khác của ông như Lục Bát Phan Ni Tấn(1973), Dậy Lửa Trường Sơn (1983), Hồi Ký Thơ (1987), Tuyển tập hai mươi người viết tại Canada (1995),Hai mươi năm Văn Học Việt Nam Hải Ngoại (1995), Câu Thơ Về Người (1996), Tình khúc Phan Ni Tấn (2004), Sinh Nhật Cây Đàn (2005), Quê Núi (2010), Nẻo Nhà (2010), Ngoài ra hai CD Sài Gòn (blue) Xanh và Ngụm Quê Nhà sẽ ấn hành trong tương lai.
Các nhạc phẩm tiêu biểu của ông như Lý Con Sáo Bạc Liêu, Pleiku Em Ở Núi Rừng, Đứa Con Của Mẹ Núi, Phải Lòng Con Gái Bến Tre, Tay Vịn Cần Thơ, Thư Về Ban Mê Thuột..v.v.
pnt03
-TH : Anh vừa là một nhạc sĩ, một nhà thơ, một nhà văn, thì thưa anh có những khó khăn nào để đóng vai trò cùng một lúc của ba lãnh vực văn học nghệ thuật?
-PNT; Có nhiều người sáng tác thật là dễ dãi, rất đáng phục. Ngày xưa tôi cũng vậy, nhưng bây giờ khi dấn thân vào con đường văn học nghệ thuật lâu ngày chầy tháng khiến tôi hết sức cân nhắc và thận trọng. Là vì tác phẩm nào tôi viết ra ít nhiều phải có cái thiện mỹ để cống hiến cho người và cho đời.
TH: Và những dễ dàng khi phải đảm nhiệm cùng một lúc ba vai trò?
-PNT: Tôi nghĩ câu trả lời trên cũng đủ rồi.
-TH: Khi anh làm thơ hay viết nhạc, viết văn thì những động lực nào đã thúc đẩy anh? Đó có phải là vì hoàn cảnh, vì thời cuộc, là những tâm sự của anh?
-PNT: Thưa, cả ba. Cầm bút như… cầm gươm. Tức cảnh sanh tình mà. Nghĩa là khi dấn thân vào chữ nghĩa thì hoàn cảnh và thời cuộc là hai yếu tố tạo nên tâm sự của mình. Thí dụ, sau ngày mất nước tôi cũng rơi vào cái gọi là “Ngụy quân Ngụy quyền” bị bắt đi tù cải tạo thì hầu như ai cũng đều hoang mang, lo lắng cho cái sinh tử phận mình. Đêm đêm âm thầm ngậm cái đói ở trong lòng thì đó chẳng phải là vì hoàn cảnh, vì thời buổi sa cơ thất thế hay sao. Đây là trường hợp của bọn tù chúng tôi phải ăn để sống. Nghia là ở trong tù cải tạo gặp cái giống gì nhúc nhích đều ăn hết. Con cóc chẳng hạn. Đói quá thì… tức cảnh thành thi:
Mặc cóc là cậu ông trời
Tao đã tóm được thì đời nào tha
Trời già lấm tấm lệ sa
Cũng không cảm hóa cái ta đói lòng
Xù xì da thịt trôi sông
Còn lại nuốt hết vô trong bụng này.
Cóc là một món có nhiều chất đạm cứu đói, Thằn lằn cũng vậy:
Có điều không hẹn mà nên
Gặp nhau đây thật chẳng hên cho mầy
Chúng bỏ tao đói suốt ngày
Thì đành nuốt sống chú mầy cầm hơi
Ngục tù là một trò chơi
Tử sinh như nước đầy vơi nhục nhằn
Dẫu sao mầy cũng yên phần
Trách tao chi tội bớ thằn lằn con.
Cũng trong những bữa tiệc tù bất đắc dĩ này tôi nhớ một ngày đầu năm bọn tù chúng tôi được ăn một bữa thịt để đời:
Con lợn ủn ỉn ngoài mương
Đầu năm tán mệnh trong soong canh này
Con trâu cày đám ruộng gầy
Cũng đem xẻ thịt phanh thay chia tù
Ba năm rừng núi âm u
Tôi nhai chóp chép mối thù chữa tan.
TH: Cố Nhạc sĩ Phạm Đình Chương đã từng cho biết, khi phổ bài “Đêm Nhớ Trăng Saigon” của thi sĩ Du Tử Lê, ông đã mất trên 3 tháng trời mới hoàn thành, vì đó là thể thơ lục bát. Thưa anh, anh cần thời gian trung bình bao lâu trong việc phổ một bài thơ, và có thể là loại thơ lục bát là loại thơ khó phổ nhạc nhất chăng?
-PNT: Khi hát một bài nhạc phổ từ lục bát tôi thường nói với người nghe là phổ thơ lục bát dễ vô cùng mà cũng khó vô song. Dễ là vì cứ theo cái trầm bổng của luật thơ mà phổ, nhưng cũng chính vì thế mà các nhạc sĩ thường rơi vào sự trùng hợp, na ná giống nhau. Đó là cái khó khi phổ thơ lục bát.
Không riêng gì cố nhạc sĩ Phạm Đình Chương đã mắc phải trường hợp như anh cho biết mà nhiều nhạc sĩ khác cũng thế thôi. Riêng cá nhân tôi kinh nghiệm phổ nhạc từ thơ nhiều khi chỉ cần một tiếng đồn hồ là hoàn tất, nhưng cũng có khi cả đời phổ cũng không xong.
TH: Trong số các bản nhạc của anh, ngoài những bài nói về miền cao nguyên, anh còn những bài nói về miền Nam như Lý con sáo Bạc Liêu, Phải lòng con gái Bến Tre.. thưa anh, có phải những bài nhạc này có một chút gì đến cuộc sống tình cảm của anh?
-PNT: Tôi không quen tưởng tượng để viết ra một cái gì. Phải đặt chân đến vùng đất nào đó, phải lặn sâu trong hoàn cảnh nào đó tôi mới cảm hoá được mà viết ra. Đó cũng là một khuyết điểm làm trở ngại cho việc sáng tác của tôi. Tôi sinh ra ở cao nguyên thì âm hưởng nhạc miền cao cuộn chảy ở trong tôi là điều hiển nhiên. Nhưng quê nội tôi ở Tiền Giang và tôi cũng từng sống ở Cần Giuộc thành ra nhạc miền Nam cũng ảnh hưởng đến âm nhạc của tôi rất nhiều.
TH: Anh có những kỷ niệm nào đáng nhớ nhất về Cao Nguyên, về thành phố Ban Mê Thuột?
-PNT: Nhiều lắm, hầu như cái nào cũng đáng nhớ thì kể làm sao cho hết. Chọn một cái để nhớ nghe. Mối tình đầu bằng thơ chẳng hạn:
Mùng 1 Tết trịnh trọng mình khiêng thêm một tuổi
Bạc trên đầu theo gió phất phơ bay
Cái tuổi ngon lành như mấy sợi trời mây
Mình nuốt hết niềm vui vào trong bụng
Mùng 1 Tết lụm khụm cõng hồn đời nao núng
Nghe trái tình vẫn trào bọt thân tâm
Ngắm mấy em đào em mận du xuân
Mình phành ngực mình sung thiên bất tử
Theo hưng phấn cỡi hồn phi về quá khứ
Nếm cái môi non còn cất thuở ban sơ
Con bé ăn nước mắm đi hẹn với anh khờ
Đôi môi con nít ôn mệ ơi nó mặn
Con nít chừ chắc cũng đang già lắm
Theo chồng con trôi giạt biết phương nào
Kiểu hun đứng suốt đời hai đứa khát khao
Cái môi mình dính vào cái đôi môi mọng…
Chuyện đáng nhớ kế đó là chuyện chiến tranh, nhưng để dịp khác đi
TH: Nhà thơ Vũ Hữu Định khi tả về thành phố Pleiku đã nói đến một nơi có những thiếu nữ “má đỏ môi hồng” , là nơi mà quanh đi quẩn lại “đã về chốn cũ”. Thưa anh, anh có thể kể tóm tắt cho quý độc giả và thính giả về một thành phố Pleiku của anh?
-PNT: Hồi thanh niên tôi có học một thời gian ngắn ở trường Trung học Pleiku lúc mới thành lập trường, rồi đổi về Sài Gòn. Hồi đó tôi cũng có học võ Bình Định với anh Bảy Nẫu (tôi có viết một truyện ngắn kỷ niệm ở Pleiku với anh và tôi). Năm 1970 dưới hình thù một người lính, tôi trở lại Pleiku. Đêm đêm nằm ở Quân Đoàn II cạnh phi trường Cù Hanh nghe đoàn trực thăng bay đi hành quân mà thương cho đất nước và dân tộc của mình. Trong thời gian đó, lản lộn giữa đoàn xe nhà binh và mùi thuốc sung, tôi đã từng “đi lên đi xuống” con đường Hoàng Diệu, là con đưòng sầm uất của Pleiku, đi uống cà phê Dinh Điền nổi tiếng thơm ngon một thời, lội qua eo Biển Hồ đi tìm các em Thượng nhỏ xinh xinh, khét nắng, đi lên núi Hàm Rồng rồi đi vào chiến tranh. Mùa hè năm 1972, ông anh tôi tử trận ở quận Lệ Trung, nằm giữa Pleiku và Kontum v.v…
TH: Nhiều người đã cho rằng anh là một nhà thơ của phố núi, của miền cao nguyên VN, anh nghĩ sao về nhận định này?
-PNT: Cha tôi người miền Nam gặp Má tôi người miền Trung sinh tôi trên cao nguyên thì muôn đời tôi vẫn thuộc về núi rừng là đúng rồi.
TH: Anh định cư tại Toronto từ năm 1980 cho đến nay, anh có những kỷ niệm gì với thành phố, với cộng đồng người Việt ở Toronto?

-PNT: Từ 1980 đến nay đã 33 năm rồi có biết bao là kỷ niệm buòn vui với thành phố và con người ở đây làm sao mà kể cho hết được. Mình qua câu hỏi kế tiếp nghe
TH: Nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 mới đây đã có nhận xét về nền ca nhạc ở trong nước, và chúng tôi xin trích như sau: “Việt Nam hiện tại chỉ có giải trí, không có nghệ thuật. Bây giờ, nhạc để xem nhiều hơn là để nghe. Người ta làm giải trí kiếm tiền, coi qua rồi bỏ chứ hiếm người tâm huyết làm nghệ thuật. Điều này khiến tôi buồn lắm vì con đường nghệ thuật của mình không có những người chung chí hướng để làm tốt vai trò nghệ sỹ. ”
Anh nghĩ sao về nhận xét này?
-PNT: Sự thật mất lòng. Nhưng nhận định của nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 làm cho những ai từng lơ là với giá trị của nền âm nhạc Việt Nam phải khựng lại, phải suy nghĩ lại để tìm lại chỗ đứng đích thực cho con đường mình đã và đang phục vụ quần chúng.
TH: Anh có nhận định gì về tương lai của nền văn nghệ Việt Nam hải ngoại?
-PNT: Tôi phải công nhận là ở hải ngoại có rất nhiều tài năng văn học nghệ thuật thực sự. Nhưng đáng tiếc là ho (nói chung) và chúng tôi (nói riêng) không có nhiều cơ hội để đưa những tác phẩm của mình đến với giới thưởng ngoạn, không có dịp may để phát triển tài năng trên cánh đồng trù phú của nên văn học Việt Nam, Thành ra những tác phẩm cũ trước 1975 vẫn ngự trị trong lòng quần chúng. Dù sao âm nhạc còn hiện hữu trong đời sống con người là còn tạo nên một vũ trụ với nhân tình gần gũi
TH: Anh có những dự định, những hoạt động nào trong tương lai trong lãnh vực văn học nghệ thuật?
-PNT: Có nhiều lắm. Nào là chuyện hát hò thiện nguyện cho những cơ quan đoàn thể muốn tổ chức gây quỹ đúng với ý nghĩa chân thiện mỹ. Nào là dự tính phổ biến những sáng tác mới của mình với giọng hát của chính mình và của bạn bè. Nào là chuyện in ấn các tập thơ, tập nhạc, tập truyện còn ứ đọng lâu nay trong ngăn kéo v.v…
TH: Xin cám ơn nhạc sĩ Phan Ni Tấn về những thời giờ quý báu, và trước khi chấm dứt chương trình hội thoại kỳ này, chúng tôi xin mời quý thính giả cùng lắng nghe nhạc sĩ Phan Ni Tấn qua nhạc phẩm:
“Đứa Con Của Mẹ Núi”
Nguyễn Tuấn Hoàng
TB