Trung Quốc không là siêu cường quốc và cũng không phải là nước có khả năng thống trị trong vùng.
Ngay sau khi các hội nghị Asian ở Bắc Kinh và G20 ở Bisbane (Úc) vào trung tuần tháng 10 vừa chấm dứt, viện nghiên cứu Kokoda Foundation của Úc công bố một bản báo cáo cho rằng Trung Quốc có thể là một cường quốc kinh tế, nhưng nước này sẽ không trở thành một cường quốc bao trùm trong vùng.
Khi xem xét các yếu tố trong hướng phát triển của Trung Quốc để có thể trở thành một siêu cường có khả năng chi phối và can thiệp hữu hiệu trên toàn cầu để đạt được các mục tiêu của họ, th́ người ta cũng thấy rằng các dự đoán về một nước Trung Hoa có khả năng thống trị châu Á sẽ là quá sớm, nếu không nói là không thực tế.
Các tác giả của bản báo cáo vừa kể nhận định về lập luận cho rằng, với sự tăng trưởng kinh tế và khả năng quân sự (hiện nay) Trung Quốc vốn dĩ đă là một cường quốc rồi, là không đứng vững. Những giới hạn của nền kinh tế Trung Quốc, sự thiếu vắng các mối quan hệ song phương chặt chẽ và sự yếu kém về khả năng quân sự, khiến Trung Quốc không trở thành quốc gia tiên tiến (về chính trị và kinh tế) có ảnh hưởng bao trùm trong vùng sớm sủa được.
Với mức tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc năm nay khoảng 7%, thấp nhất từ 5 năm qua, tuy là mức tăng trưởng mà nhiều nước phải ghen tị, nhưng theo các chuyên gia th́ chính sự sụt giảm năng suất kinh tế này là dấu hiệu rơ nhất cho thấy Trung Quốc không thể tiếp tục giữ được mức tăng trưởng như đă thấy.
Bản báo cáo của viện nghiên cứu Kokoda cũng cho biết, hiệu năng kinh tế của Trung Quốc vào năm 2012 được ước đoán vào khoảng 1/5.5, tức là nếu đầu tư 5.5 đồng th́ chỉ cho ra thành phẩm có giá trị 1 đồng. Những diễn tiến và thực tế trong kinh nghiệm phát triển kinh tế của nhiều nước Đông Á trong những năm qua cho thấy, tỷ suất hiệu năng đó chỉ phản ánh sự phung phí lớn lao cũng như không hiệu quả trong đầu tư kinh tế. Điều này không thể kéo dài măi được. Kinh tế gia Xiaolu Wang và Yixiao Zhou, đồng tác giả của luận án “'Deepening Reform for China's Long-term Growth and Development ('Cải Cách Sâu Rộng cho Con Đường Tăng Trưởng và Phát Triển Dài Hạn ở Trung Quốc') cũng đồng ư với nhận định vừa kể và cho rằng: đối với nền kinh tế trung b́nh như của Trung Quốc th́ hiệu suất đầu tư bị sụt giảm quá nhiều, như đă diễn ra trong 10 năm qua, phản ánh t́nh trạng kém hiệu năng trên con đường phát triển của Trung Quốc.
Hơn thế nữa, Trung Quốc không thể tạo ra được một bước nhảy vọt để từ một nước có thu nhập trung b́nh lên hàng những quốc gia có thu nhập cao. Gia tăng tiêu chuẩn mức sống của người dân là một đ̣i hỏi cần thiết để được xếp hạng trong danh sách các quốc gia có ảnh hưởng. Làm như vậy đ̣i hỏi Trung Quốc phải gia tăng rất lớn cho ngân sách an sinh xă hội, trợ cấp thất nghiệp cũng như y tế đại chúng. Hiện nay ngân sách an sinh xă hội chỉ chiếm khoảng 10.5% và cho y tế 6.1% trong ngân sách của Trung Quốc.
Mặc dù quốc pḥng chiếm đến 15% ngân sách của Trung Quốc, nhưng theo bản báo cáo của Kokoda Foundation th́ Trung Quốc cũng không thể trở thành một siêu cường quân sự cho đến khi nào nước này có khả năng hành động mang tính quyết định trên phạm vi toàn cầu.
Thực tế cho thấy hải quân Trung Quốc hiện nay chỉ là hải quân của vùng nước xanh lá cây (tức vùng duyên hải của Trung Quốc và vùng phía bắc biển Đông của Việt Nam), chứ chưa phải là hải quân nước xanh lam, tức viễn dương, để có khả năng hoạt động toàn cầu. Vụ t́m kiếm xác chiếc máy bay MH370 của Mă Lai (bị mất tích vào đầu tháng ba năm 2014) dưới đáy biển phía tây nước Úc và nam Ấn Độ Dương, đă cho thấy khả năng rất giới hạn về khoa học kỹ thuật và đặc biệt là giới hạn về khả năng của hải quân Trung Quốc. Trung Quốc phải mượn cảng Albani (Tây Úc) để làm căn cứ tạm cho tàu bè và máy bay của họ.
Nếu so sánh giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ th́ sự cách biệt về các khả năng nêu trên là “một trời một vực”. Không tính lực lượng hàng không mẫu hạm, th́ từ sau thế chiến thứ hai Hoa Kỳ đă thiết lập những căn cứ hải và không quân, cũng như có những thoả thuận với các quốc gia thân hữu để sử dụng những phương tiện đó, rải rác trên khắp thế giới. Trong khi Trung Quốc không có một căn cứ nào như vậy bên ngoài lănh thổ của họ, ngoại trừ các căn cứ nhỏ trên 3 ḥn đảo thuộc Hoàng Sa và Trường Sa mà họ lấn chiếm của Việt Nam. Nếu biết rằng tàu bè và máy bay đều chỉ có tầm hoạt động giới hạn, th́ mới thấy những căn cứ sửa chữa và tiếp liệu như Hoa Kỳ đă có quan trọng dường nào (nếu không nói là mang tính quyết định). Ngay cả 3 căn cứ của Trung Quốc trên biển Đông vừa nêu, tuy hiển nhiên là sự đe doạ sống c̣n đối với Việt Nam, nhưng đối với Hoa Kỳ th́ lại rất dễ dàng bị vô hiệu hoá bằng một cuộc tấn công từ xa mà Trung Quốc không thể nào chống đỡ được.
Dù rằng Trung Quốc đă phát triển những vũ khí có thể gây nguy hiểm cho lực lượng quân sự Mỹ khi tiến gần đến (lănh thổ) Trung Quốc, nhưng thực tế đă cho thấy Trung Quốc không có khả năng dùng toàn lực để phong toả Đài Loan hoặc để thực hiện được một cuộc tấn công toàn lực đổ bộ xâm chiếm đảo quốc này.
Hệ quả của các cuộc tranh chấp lănh hải với Nhật Bản và mấy nước lân cận đă khiến Trung Quốc trở thành quốc gia không có bạn bè. Cuộc khảo sát của viện nghiên cứu PEW vào đầu năm nay cho biết, trong số 8 quốc gia Á Châu được khảo sát th́ có đến 5 nước ác cảm đối với Trung Quốc. Sự thiếu thiện cảm này làm giảm sút ảnh hưởng của Bắc Kinh cũng như gây trở ngại cho khả năng chi phối các vấn đề trong vùng mà Trung Quốc mong muốn. Ông Varathan, một kinh tế gia cao cấp của ngân hàng Mizuho (Nhật Bản) cũng đồng ư rằng, tuy Trung Quốc vẫn đang cố gắng đổ tiền đầu tư hầu t́m kiếm bạn bè ở trong vùng, nhưng họ không có được uy tín của quyền lực mềm mà một nước có ảnh hưởng cần phải có.
Lê Vĩnh
|