Bắt nguồn từ tiền lệ của sư tổ Shinran thuộc phái Jodo Shinshu, các nhà sư Nhật Bản được phép lấy vợ, điều này đă khiến cho không ít người cảm thấy ṭ ṃ. V́ sao lại có “ngoại lệ” này tại Nhật Bản? Bài viết dưới đây sẽ cho bạn cái nh́n chân thật nhất về điều đó.
Việc các nhà sư Nhật Bản có thể cưới vợ được cho là bắt nguồn từ tiền lệ của sư tổ Shinran thuộc phái Jodo Shinshu. Vị sư tổ này kết hôn với một người phụ nữ tên là Eshinni, sống cuộc đời nửa tu hành nửa truyền giáo. Giáo phái Jodo Shinshu được hậu duệ của Shinran đời đời lưu truyền về sau. Theo một số ghi chép trong “ Shinran mộng kư” có giải thích tại sao vị sư tổ này lấy vợ.
Năm 1201, Shinran 29 tuổi. Một hôm, khi nằm ngủ bên trong phật đường lục giác, ông nằm mơ ḿnh gặp quan âm cứu thế dưới h́nh hài một ḥa thượng. Vị quan âm nói: “V́ nghiệp duyên kiếp trước mà kiếp này ngươi nhất định sẽ phải phạm đến sắc giới. Vậy nên ta sẽ hóa thân thành một nữ tử xinh đẹp, kiếp này ở bên trấn áp ngươi, khi mất ta sẽ dẫn ngươi đến cơi tây phương cực lạc.”
Thực hư của giấc mơ lạ này không ai lư giải được. Nhưng Shinran cũng không phải là ḥa thượng Nhật Bản đầu tiên lấy vợ. Đến với Kyoto, người ta sẽ nhất định phải đến thăm một trong những thẳng cảnh nổi tiếng, đó là đền thờ Iwashimizu Hachimangu. Vào thế kỷ 10, đă có tăng lữ lấy vợ và sống trong từ quan của đền. Mỗi đền chùa tại Nhật Bản giống như một gia đ́nh riêng, tự quản chế về kinh tế, quyền lực. Con cháu của các đền chùa nên duyên với nhau càng làm củng cố địa vị và thế lực của hai bên.
Sử gia phật học Taira Masayuki của Nhật Bản đă chỉ ra rằng, trước thời Shinran, ở Nhật có một tăng lữ khác không những lũng đoạn chính trị mà c̣n là sư tổ của phái Thiên Đài Tông An cư viện. Ông có 10 người con, trong đó có hai con với hoàng hậu. Việc này vỡ lở khi Thiên hoàng NijoTenno băng hà. Tuy vậy vị sư tổ chưa bao giờ phải bị khép tội. Truyền nhân của An Cư Viện ngoài quan hệ thầy tṛ thông thường họ c̣n có chung huyết thống cha con. Loại h́nh cha truyền con nối này cũng không hiếm gặp trong phật giáo Nhật Bản.
Tại sao ḥa thượng Nhật lài lấy vợ?
Thời Heian (794- 1185), Nhật Bản đă từng tiến hành lệnh ngăn cấm tăng lữ kết hôn. Tuy nhiên về sau, do việc thu thuế gắn theo hộ tịch bị băi miễn và việc quản lư bị buông lỏng, việc ḥa thượng ni cô lập gia đ́nh ngày càng trở nên phổ biến. Hệ quả là các chùa chiền, thần điện đâu đâu cũng có những vị tăng, sư, thánh, nửa tu nửa tục, biến những chốn linh thiêng u tịch trở thành “xuất thế”, giống như mô h́nh những hộ gia đ́nh.
Trong đền chùa cũng phân cấp thành 3 tầng lớp rơ rệt, từ lớp thượng, trung cho đến lớp hạ tầng. Các đền chùa khác nhau có cách phân chia khác nhau. Tầng lớp tăng lữ cao nhất được thừa hưởng quan chức, danh hiệu, tài sản theo mô h́nh cha truyền con nối. Họ nắm lượng lớn tài sản, nhà đất, trang viên... Cũng từ việc việc phân hóa tầng lớp rơ rệt nên việc lấy vợ ở những tăng lữ cấp trung và cấp dưới cùng diễn ra phổ biến hơn cả.
Một số ngôi đền trên núi ở Kyodo vẫn lưu giũ không gian thanh tịnh không dung nạp phàm tục nhưng “phiên bản” đền dưới núi lại hoàn toàn khác. Những ngôi đền này nắm mạng lưới kinh tế rộng lớn, thu hút nhiều môn đồ với nguồn lực tài chính vững chắc. Do các ngôi đền thuộc giai cấp dưới buộc phải tự ḿnh kinh doanh làm ăn nên họ buộc phải ‘nhập thế’ nửa tu nửa tục.
Hiện tượng lấy vợ sinh con không chỉ bắt gặp ở tầng lớp ḥa thượng cấp dưới mà ngay cả tăng lữ quư tộc cấp cao. Trụ tŕ của chùa Kofukuchi ở thành phố Nara trước kia sinh được một trai một gái. Người con trai sau cũng làm ḥa thượng c̣n người con gái được đưa vào cung hầu hạ Thiên hoàng Gotba Tenno.
Ngoài ra, người Nhật Bản c̣n ghi chép lại chuyện một vị cao tăng tại chùa Todaji ở thành phố Nara sau khi mất đi đă để lại một cuộc tranh chấp tài sản giữa vợ và bốn người con trai. Từ thời đại Heian về sau, tầng lớp tăng lữ coi trọng trí tuệ, xem nhẹ các giới luật nhà Phật và việc thiền tịnh, đó cũng là một trong những nguyên nhân giải thích cho việc ḥa thượng Nhật Bản lập gia đ́nh. Thời điểm đó “thanh tăng” không lấy vợ rất ít.
vietbf @ sưu tầm