Căn bệnh này đáng sợ tới mức nào?
Chúng ta đă có cách đối phó với nó?
Đây là những ǵ bạn cần biết!
Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), bệnh viêm gan do virus là nguyên nhân thứ 7 gây tử vong trên toàn cầu. Hiện nay có từ 6 đến 10 triệu người mắc bệnh này, 1,4 triệu ca tử vong mỗi năm, trong đó nhiều nhất là*viêm gan virus C (48%), B (47%), c̣n lại là viêm gan A và E. Nhóm người tiêm chích ma túy có nguy cơ lây nhiễm*cao nhất*do t́nh trạng dùng chung bơm kim tiêm,*ước tính trong số 16 triệu người tiêm chích ma túy có*khoảng 10 triệu trường hợp*nhiễm*virus* viêm gan C.
Bộ Y tế khuyến cáo, viêm gan virus đứng thứ ba trong số nguyên nhân gây tử vong ở nước ta, trong đó chiếm tỷ lệ cao nhất*là viêm gan siêu vi B. Điều tra gánh nặng bệnh tật toàn cầu cho thấy Việt Nam nằm trong nhóm*có tỷ lệ nhiễm virus viêm gan B và C cao trong quần thể dân cư nói chung, chịu hậu quả nặng nề của bệnh. Tỷ lệ nhiễm virus viêm gan B trung b́nh 8-25%, viêm gan C 2,5-4,1%. Bên cạnh đó c̣n ghi nhận các trường hợp viêm gan A, D, E. Đặc biệt*trong nhóm người tiêm chích ma túy có*đến 54% mắc viêm gan siêu vi C.*
Tỷ lệ dân cư mắc bệnh này có sự khác nhau giữa các địa phương. Cao nhất ở Hà Bắc 25,5%, tiếp đến là Vĩnh Phúc 23,2%, Lâm Đồng 16,74%, Khánh Ḥa 15,48%, TP HCM 11,3%... T́nh h́nh nhiễm virus viêm gan B ở nhóm phụ nữ có thai khá cao. Đây là yếu tố quan trọng gây viêm gan B ở trẻ sơ sinh và là nguyên nhân chính gây viêm gan mạn tính ở trẻ. Các nghiên cứu cho thấy 90% trẻ mắc viêm gan B sau khi sinh hoặc trong những năm đầu đời có nguy cơ chuyển thành viêm gan B mạn tính. Đây được xem là vấn đề y tế nghiêm trọng.
Cục Y tế Dự pḥng nh́n nhận hậu quả lâu dài của nhiễm viêm gan virus dẫn tới bệnh gan mạn tính, xơ gan, ung thư gan*làm tăng gánh nặng chi phí cho ngành y và toàn*xă hội. Trong khi đó công tác dự pḥng và*điều trị bệnh này ở nước ta c̣n nhiều khó khăn, nhất là ở tuyến y tế huyện, xă thiếu cơ sở vật chất, thiết bị điều trị và thuốc men. Đơn vị đủ năng lực điều trị viêm gan tập trung chủ yếu ở các bệnh viện tuyến cuối tại các tỉnh thành lớn. Riêng viêm gan C chưa có văcxin ngừa, việc điều trị chủ yếu là dùng thuốc nhưng bệnh nhân viêm gan C khó có cơ hội tiếp cận các loại thuốc kháng virus mới do giá thành cao, chưa được Bảo hiểm y tế chi trả hoặc chưa được cấp phép lưu hành tại Việt Nam.*Mặt khác, việc không tuân thủ đầy đủ phác đồ điều trị có thể làm giảm hiệu quả điều trị.
Bệnh viêm gan virus B hoàn toàn*có thể pḥng ngừa được nếu sử dụng văcxin sớm và đúng quy định, do vậy*Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo tất cả trẻ em nên được tiêm pḥng văcxin viêm gan B. Đối với trẻ em ở khu vực có tỷ lệ nhiễm virus viêm gan B cao như nước ta, nên tiêm*trong ṿng 24 giờ sau khi sinh và các liều sau đó theo đúng lịch tiêm chủng.*
Trong bối cảnh gánh nặng bệnh gan do virus ngày càng nặng nề, WHO kêu gọi sự chung tay của các quốc gia trong việc pḥng chống bệnh với mục tiêu không c̣n lây truyền viêm gan virus trên thế giới, tất cả bệnh nhân đều được chăm sóc và điều trị an toàn, hiệu quả.*
Ở góc độ khác, tiến sĩ Dương Thị Hồng, Phó Viện trưởng Vệ sinh dịch tễ Trung ương, lo ngại những năm gần đây xảy ra một số trường hợp tai biến liên quan đến tiêm chủng khiến nhiều phụ huynh hoang mang không cho con em đi tiêm. Các bệnh viện cũng ngại triển khai tiêm ngừa v́ lo sợ rủi ro. Từ đó dẫn đến tỷ lệ tiêm văcxin giảm hẳn. Đây là một trong những nguyên nhân khiến các bệnh truyền nhiễm gia tăng, trong đó có viêm gan.
Theo bà Hồng, tỷ lệ tai biến do tiêm chủng ở nước ta trong giới hạn cho phép của WHO, dù vậy ngành y tế đang nỗ lực triển khai những giải pháp nhằm giảm thiểu nguy cơ này. Thời gian qua, Bộ Y tế tổ chức nhiều lớp tập huấn cho cán bộ tiêm chủng nhằm phát hiện sớm các dấu hiệu sốc phản vệ sau tiêm, xử trí kịp thời, đúng phương pháp sẽ cứu sống được các trẻ bị tai biến nặng. Bên cạnh đó c̣n hướng dẫn phụ huynh cách phát hiện sớm các dấu hiệu tai biến để kịp thời đưa đến cơ sở y tế xử trí theo đúng phác đồ.
Khảo sát của WHO tại Việt Nam cho thấy, tỷ lệ bệnh viêm gan C gia tăng do phần lớn người dân và bệnh nhân thiếu kiến thức về bệnh nên không có khái niệm về tầm soát, điều trị và pḥng ngừa lây lan. Rất nhiều người bệnh chủ quan cho rằng ḿnh không có nguy cơ nhiễm virus này nên không tiến hành các xét nghiệm sớm, vô t́nh lây truyền mầm bệnh cho những người xung quanh.*