Vào năm 1996, Mỹ đă tung đ̣n dằn mặt khiến Trung Quốc bị ám ảnh suốt 11 năm qua. Đó là việc Mỹ huy động hai cụm tàu sân bay chiến đấu tới gần eo biển Đài Loan.
Tàu sân bay USS Independence hoạt động gần eo biển Đài Loan năm 1996. Ảnh: Wikipedia.
Tổng thống Donald Trump kư dự luật cho phép các tàu của Hải quân Mỹ thăm Đài Loan đă khiến Trung Quốc nóng mặt. Hôm 8/12, Công sứ Đại sứ quán Trung Quốc tại Mỹ Lư Khắc Tân đe dọa nước này sẽ dùng vũ lực thống nhất Đài Loan nếu tàu chiến Mỹ cập cảng Cao Hùng.
Giới phân tích nhận định tuyên bố này cho thấy Bắc Kinh vẫn c̣n bị ám ảnh trước sức mạnh của tàu sân bay Mỹ trong cuộc khủng hoảng Đài Loan năm 1996, khi Washington điều động hai cụm tàu sân bay chiến đấu nhằm đáp trả hành động đe dọa sử dụng vũ lực của Bắc Kinh ở eo biển Đài Loan, theo National Interest.
Cuộc khủng hoảng bắt đầu vào năm 1995 với việc Trung Quốc đại lục phản đối Đài Loan dự kiến lần đầu tổ chức bầu cử chọn người đứng đầu chính quyền ḥn đảo.
Tháng 8/1995, Bắc Kinh tuyên bố tổ chức một loạt cuộc tập trận tên lửa ở biển Hoa Đông, được cho là để phản ứng với cuộc bầu cử này. Hoạt động này có sự tham gia của Quân đoàn Pháo binh số 2, tiền thân của lực lượng tên lửa chiến lược Trung Quốc hiện nay, cùng nhiều tiêm kích F-7, diễn ra cách Đài Loan hơn 400 km.
Bắc Kinh tiếp tục triển khai lực lượng tên lửa tầm xa tới khu vực duyên hải vào năm 1996 và lên kế hoạch khẩn cấp, trong đó dự kiến tấn công Đài Loan bằng tên lửa trong 30 ngày liên tiếp nếu cuộc bầu cử diễn ra. Dù kế hoạch này không được tiến hành, công tác chuẩn bị của Trung Quốc vẫn bị t́nh báo Mỹ phát hiện.
Tháng 3/1996, Trung Quốc tiếp tục tổ chức tập trận tên lửa quy mô lớn ở một loạt khu vực ngoài khơi bờ biển nước này với hướng bắn gần như nhắm vào Đài Loan. Trên thực tế, Trung Quốc đă phóng ba tên lửa, trong đó hai quả rơi cách Đài Bắc chỉ 48 km, một quả rơi cách thành phố Cao Hùng khoảng 56 km. Loạt tên lửa này đă giáng một đ̣n mạnh vào nền kinh tế Đài Loan, khi gây ảnh hưởng trực tiếp tới tuyến vận chuyển thương mại đường biển.
Siêu tàu sân bay USS Nimitz. Ảnh: Wikipedia.
Vào thời điểm đó, hải quân Mỹ đang triển khai tàu tuần dương USS Bunker Hill hoạt động ở phía nam Đài Loan để giám sát các vụ diễn tập tên lửa của Trung Quốc, trong khi tàu sân bay USS Independence cùng khu trục hạm USS Hewitt, USS O'Brien và khinh hạm USS McClusky đang ở phía đông ḥn đảo này.
Sau khi Trung Quốc tập trận phóng tên lửa, nhóm tàu sân bay USS Nimitz rời vịnh Persian để tới Tây Thái B́nh Dương. Lực lượng hộ tống siêu tàu sân bay USS Nimitz mạnh hơn hẳn so với nhóm tàu USS Independence, gồm tuần dương hạm USS Port Royal, các khu trục hạm USS Oldendorf và USS Callaghan, khinh hạm USS Ford và tàu ngầm tấn công hạt nhân USS Portsmouth.
Tàu sân bay Nimitz và biên đội hộ tống được triển khai trên biển Philippines, sẵn sàng hỗ trợ cụm tàu sân bay USS Independence. Tuy nhiên, không tàu sân bay nào tiến vào eo biển Đài Loan.
Quân đội Trung Quốc lúc này nhận ra rằng họ hoàn toàn không có một vũ khí nào có thể chế áp được tàu sân bay Mỹ, dù chúng hoạt động không xa bờ biển. Bắc Kinh gần như bị áp đảo trước những siêu tàu sân bay này và phải thừa nhận trong cay đắng rằng họ không thể ngăn cản Washington hỗ trợ Đài Loan khi xung đột nổ ra.
Sau sự kiện này, Trung Quốc coi sự thống trị của tàu sân bay Mỹ là biểu hiện của ngoại giao pháo hạm, thể hiện rằng Bắc Kinh luôn ở "chiếu dưới" trên các vùng biển sâu nếu không có tàu sân bay chống lại sự áp đảo của Washington. Điều đó thúc đẩy Trung Quốc tiến hành cải cách, hiện đại hóa quân đội một cách mạnh mẽ.
Chỉ hai năm sau, một doanh nhân Trung Quốc đă mua lại của Ukraine tàu sân bay chưa hoàn thiện Riga từ thời Liên Xô, tuyên bố biến nó thành nơi nghỉ dưỡng và ṣng bạc. Tuy nhiên, Bắc Kinh đă tiến hành quá tŕnh đại tu kéo dài 15 năm, biến nó trở thành tàu sân bay đầu tiên của nước này với tên gọi Liêu Ninh.
Tàu sân bay Riga khi mới được Trung Quốc mua. Ảnh: National Interest.
Trung Quốc cũng phát triển tên lửa đạn đạo diệt hạm DF-21D để đối phó các chiến hạm cỡ lớn như tàu sân bay, buộc hải quân Mỹ phải hoạt động xa Đài Loan và đường bờ biển nước này.
Việc bị Mỹ dùng hai cụm tàu sân bay uy hiếp vào năm 1996 là nỗi ám ảnh với Trung Quốc cho tới nay. Sự kiện này giúp họ rút ra nhiều bài học, trở thành nước duy nhất trên thế giới thấy được giá trị của tàu sân bay và tự đóng một hạm đội hàng không mẫu hạm, song song với việc đầu tư nhiều nguồn lực để t́m cách đánh ch́m chúng, chuyên gia quân sự Kyle Mizokami nhận định.
Therealtz © VietBF