Cha mẹ sinh con những mong tuổi già có người chăm sóc. Những đứa con được cha mẹ nâng như nâng trứng, hững như hứng hoa mà lại trả ơn cha mẹ như thế này sao? Đó là Hồ Duy Trúc - tướng cướp cầm đầu băng nhóm gây ra hàng loạt vụ cướp chấn động Sài Gòn 4 năm về trước không thể ngờ rằng, người đau lớn nhất về những tội ác mà hắn gây ra lại chính là cha mẹ, anh chị em và vợ con.
Gian truân còn một kiếp người!
Lần đầu tiên sau ngày Trúc bị tuyên án, tôi có dịp ngồi đối diện với người đàn bà náo loạn pháp đình từng phát ngôn với những câu nói gây phẫn nộ dư luận: “Ai biểu đi xe tay ga, đeo hột xoàn chi cho nó chém”. Thế nhưng, trước mắt tôi là một con người hoàn toàn khác, nét mặt ẩn sâu nhiều đau khổ. Không còn thái độ hùng hổ, gào thét mà cách nói chuyện của bà luôn tỏ ra sợ sệt.
Ngồi khép mình bên bên quán cafe, giọng bà thỉnh thoảng đứt quãng khi kể về cuộc đời mình, về những đứa con và những thân phận đang đu bám vây quanh.
Mỗi lần tính toán, bà Út lại giơ ngón tay lên nhẩm tính.
Bà bảo, tội ác của Trúc, bà đón nhận vì ngay với bản thân cũng không thể dung thứ cho lỗi lầm con trai gây ra. Nhắc lại hành động ở chốn pháp đình, người đàn bà qua tuổi 60 cúi gầm mặt, giăi bày thời điểm đó cứ nghĩ khi con trai bị tuyên án, dẫn giải ra xe đặc chủng - đó cũng là khoảnh khắc bà mất con mãi mãi.
Đơn giản, với thiên chức của một người mẹ, dù con trai có là tử tù, có là tên tướng cướp bị xã hội nguyền rủa nhưng với bà, Trúc vẫn là đứa con do mình đứt ruột đẻ đau. Tình máu mủ khi nghĩ đến phút giây tiễn biệt lần cuối, bà không kìm nén được cảm xúc, gào thét điên dại.
Có lẽ Trúc không thể ngờ rằng, hành vi của mình đã bồi thêm đòn đánh chí mạng vào một người mẹ đă chịu quá nhiều bất hạnh. Để đến bây giờ, sau những biến cố cuộc đời, người mẹ già của Trúc vẫn chưa một ngày bình yên với nhiều nỗi lo toan phiền muộn.
Cuộc đời bà Nguyễn Thị Út trôi nổi, nếm trải quá đủ bầm dập, cay đắng. Út mồ côi cả cha lẫn mẹ từ bé. Những người anh, người chị của Út chưa kịp lớn đă tha phương cầu thực rồi thất lạc, đến nay bà không biết chính xác ḿnh có bao nhiêu anh em ruột và ai mất ai c̣n.
Từ bé bà sớm thất học, sống trong sự đùm bọc của hàng xóm láng giềng. Năm 16 tuổi, bà đi ở đợ cho một chủ tiệm may và phải ḷng với anh thợ điện. Cuộc hôn nhân không cưới hỏi để lại cho Út 5 mặt con. Trong đó một cháu chết khi chưa đầy tuổi, một con gái khác hơn 2 tuổi bị bắt cóc ở Sài G̣n. Người con trai thứ 2 từ nhỏ đă bị tật nguyền. Những đứa con chào đời với hoàn cảnh bi kịch nhất khiến người chồng không hôn thú rời bỏ Út, biệt xứ không ai hay tin.
Người đàn bà yếu mềm vừa qua tuổi thanh xuân đã phải đón nhận nhiều giông tố. Ngôi nhà Út và các con ngày xưa là một mái tranh tồi tàn, nơi đó có những tiếng khóc trẻ thơ, những giọt nước mắt và những tiếng ai oán khi đêm về. Út sống khép mình, từ chối mọi lời chạm ngõ làm quen của nhiều người đàn ông khác.
Mối lương duyên của ông Tùng - bà Út nước mắt nhiều hơn vui.
Rồi duyên số vô tình, Út gặp ông Hồ Duy Tùng- người đàn ông kém 2 tuổi. Cuối thập niên 70, Út đi bước nữa và lần lượt thêm 7 đứa con nối nhau ra đời. Hồ Duy Trúc là con áp út, cũng là đứa con trai chung duy nhất của mối lương duyên chắp vá. Tính ra, sau 12 lần sinh nở, bà có mấy đứa con chết yểu v́ nhiều lư do, đứa mất tích, đứa bại liệt lê lết ăn xin đầu đường xó chợ, gia đình đưa về chăm sóc không chịu.
Những đứa con còn lại, số phận cũng đen đặc trong gam màu cay đắng. “Lời nguyền lỡ làng” về mối tình của bà tiếp tục trút gánh sang các cô con gái. Buồn thay, đến thời điểm này mấy người con gái đường tình duyên cũng lắm éo le… giống mẹ!.
6 người con gái, chỉ có 1 cô được cưới hỏi đàng hoàng; số c̣n lại đều v́ “có con với người ta nên gọi bố của chúng là chồng”. Sau khi sinh vài đứa con, cả 6 chị em đều lần lượt thành gái “cụt đọt”, hoặc bỏ chồng hoặc bị chồng bỏ ném lại cho ông bà ngoại những đứa cháu c̣n đỏ hỏn rồi rời nhà đi phiêu dạt khắp nơi mưu sinh, trốn chạy số phận.
Gánh nặng tiếp tục đè oặt lên đôi vai bà khi con gái sau các cuộc ly hôn, “thành quả” mang theo về nhà là 12 đứa cháu ném cho ông bà ngoại chăm sóc. Những đứa cháu quần áo lấm lem, bồng bế nhau tự chơi đùa dựa dẫm nhau sống qua ngày. Hàng ngày, có mấy đứa lớn quần áo chắp vá thì theo chân ông bà ngoại đẩy xe ra chợ bán chuối.
Quầy hàng của bà Út nằm bên cạnh đường, trên sạp bày bán chuối sáp, món hàng duy nhất cả đại gia đình hơn mười mấy con người trông dựa vào. Bao năm qua, tấm thân già như xác ve ấy đội nắng phơi sương nơi đầu đường xó chợ kiếm từng đồng từng cắc nuôi đàn con, cháu.
Gia đình bi thảm, ăn chuối sống qua ngày
Những năm 90, khán giả Việt Nam chắc hẳn còn nhớ bộ phim “Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên”. Bộ phim từng gây được tiếng vang lúc còn là tác phẩm văn học của nhà văn Laura Ingalls Wilder, sau đó được chuyển thể thành phim cùng tựa đề vào năm 1970. Rất nhanh chóng, tác phẩm điện ảnh đình đám này trở thành một hiện tượng. Tại Việt Nam, bộ phim đến thời điểm này vẫn là một ấn tượng khó phai của thế hệ 7x, 8x.
Nội dung phim dựa trên cốt truyện có thật, được kể bởi người con gái thứ hai trong gia đ́nh Ingalls - Laura. Gia đ́nh Ingalls là một gia đ́nh nông dân nghèo, gồm 5 thành viên. Họ luôn phải đấu tranh với cuộc sống khổ cực hàng ngày, với miếng cơm, manh áo cơ cực đớn hèn. Có lúc vật chất đưa họ vào chỗ bế tắc, tuyệt vọng, cùng cực nhất. Nhưng họ vẫn vượt qua cùng nhau bằng chính t́nh yêu thương vô bờ của những thành viên trong gia đ́nh dành cho nhau.
Bi kịch cuộc đời vẫn chưa buông tha cho bà Út, ông Tùng ở tuổi xế chiều.
Bức thông điệp mà những nhà làm phim NBC muốn gửi tới người xem, là cho dù có chuyện gì xảy ra, cuộc sống này vẫn luôn tươi đẹp, gia đình luôn là điểm tựa vững chắc, mang lại niềm tin và sự chở che, yêu thương, nguồn sức mạnh cũng như động lực cho mọi người.
Có lẽ, hoàn cảnh hiện tại của gia đình bà Út cũng không khác nào cốt truyện của “Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên”. Trớ trêu thay, chính Hồ Duy Trúc - đứa con lỗi lầm đang trả giá trong trại giam là người “viết toàn bộ kịch bản” của chính gia đình mình. Bởi từ sau ngày Trúc đền tội, những giông tố liên tục đổ ập xuống gia đình bà Út. Và trong mớ hỗn độn nghèo đói, bĩ cực nhất, đôi vợ chồng già lại nai lưng ra làm bệ đỡ, chỗ dựa cho chính các con trông cậy.
Trong ngôi nhà chắp vá, rách nát nằm cuối con hẻm tại KP1, phường Mỹ Hương, TP.Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận, tài sản lớn nhất của vợ chồng bà Út là hàng trăm nải chuối xanh được bày ra liệt trên nền đất. Mấy chục năm qua, nhờ buôn bán chuối nên ông bà có vá víu được cuộc sống tạm bợ cho đàn con và đám cháu chắt.
Tuy nhiên, nguồn thu nhập chính cũng bấp bênh chẳng kém số phận của đại gia đình bà Út. Mỗi ngày may mắn, hai vợ chồng cũng kiếm được 100-200 ngàn đồng tiền lãi. Ngày nào mưa gió, vắng khách, quán ế ẩm, hai ông bà mang chuối sáp (loại chuối xanh được luộc chín) về nhà. Hôm đó, cả gia đình lại ăn chuối cầm hơi.
Bao năm qua, nguồn thu nhập chính của gia đ́nh Trúc trông cậy vào chiếc xe bán chuối ven đường.
Ngoài món chuối, đám cháu chắt của bà Út cũng được nếm đầy đủ các hương vị: Nhịn đói, húp nước cháo, ăn mì tôm sống thường xuyên. Những đứa trẻ như cỏ dại, mong manh trong tấm áo rách được truyền lại từ đứa lớn sang đứa bé lớn lên từng ngày. Tụi nhỏ mai này chưa biết đi về đâu khi con chữ bẻ đôi, sống trong môi trường thiếu tình thương, không ai có thể đoán định được tương lai. Chỉ có điều, ông Tùng, bà Út hy vọng, đám cháu, chắt của mình không trượt ngã vào con đường như Trúc.
Tuổi già như bà Út, ông Tùng không biết cầm cự được đến bao lâu sau các cuộc biến cố. Lúc này, điều duy nhất họ luôn cầu nguyện là bản thân “không được ốm đau bệnh tật”, chỉ chừng đó thôi cũng là niềm diễm phúc. Bởi rằng, chừng đó con người đang bám trụ vây quanh nếu lỡ ông bà rơi vào tình huống xấu nhất, đám trẻ dại ấy đi đâu, về đâu?.