Kiếm dài hơn dao, hẹp, nhẹ và mỏng hơn đao. Đây là loại vũ khí được sử dụng trong nhiều cuộc chiến trên khắp thế giới từ thời thượng cổ cho tới thế chiến II. Kiếm Việt Nam có gì đặc biệt so với kiếm Nhật Bản và Trung Quốc?
Ở mỗi vùng tùy thuộc vào tính chất địa lý và con người mà kiếm có hình dạng và tính chất khác nhau.
Kiếm Trung Quốc
Kiếm Trung Quốc khá đa dạng về kích thước. Một số thì thanh mảnh, sử dụng một tay một kiếm (đơn kiếm), hai tay hai kiếm (song kiếm) còn lại Loại to, nặng nhưng gọi là trọng kiếm không sắc bằng kiếm thường, sát thương chủ yếu bằng sức nặng để cắt.
Trung Quốc có một nền võ thuật lâu đời và vững mạnh, kiếm pháp cũng không nằm ngoài quy luật này. Kiếm Trung Quốc có từ thời cổ đại khi con người tìm ra đồng và sắt. Trải qua suốt 6000 năm lịch sử, kiếm Trung Quốc dần hoàn thiện và đa dạng hơn. Điểm đáng quan tâm là hình dáng của những cây kiếm Trung Hoa có khá nhiều hình dáng “độc dị”. Điển hình như cặp song câu kiếm với hình cong như móc câu nhằm tấn công cũng như tước vũ khí đối thủ.
Qua mỗi thời kì, kiếm Trung Quốc có những nét đặc trưng riêng. Kiếm thời nhà Minh lưu truyền đến nay, sử dụng trong luyện tập võ thuật và làm lễ trong Đạo Giáo. Từ thời Tống, Trung Quốc xuất hiện nhiều môn phái sử dụng kiếm như: Toàn Chân Giáo, Võ Đang, Nga My, Ngũ Nhạc Kiếm Phái,… .
Kiếm Nhật Bản
Nói về kiếm của Nhật Bản thì khá đa dạng điển hình như: Katana, Nihontō, Ōdachi Tachi, Tamahagane, Tantō,….Nhưng đặc trưng nhất phải nói đến Katana. Kiếm Nhật là một loài trường kiếm, có lưỡi dài và cán dài, cán kiếm thường được cầm bằng hai tay khi chiến đấu.
Kiếm chỉ có một lưỡi, sắc bén, có sức sát thương cao. Kiếm thường được đeo ở thắt lưng và mũi kiếm xoay lên trên.
Theo một số nhà khoa học, sở dĩ kiếm katana đạt được độ cứng và bền là vì khi luyện kiếm, các nghệ nhân thường cho thêm oxit titan vào trong hợp kim. Điều này làm cho kiếm có độ sắc bén nhất, ngoài ra còn giúp chống oxy hóa, khiến cho thanh kiếm luôn sáng bóng.
Kiếm Việt Nam
Thời cổ đại, lưỡi kiếm Việt Nam thẳng và rộng bản, có 2 cạnh sắc, dùng để chém lẫn đâm. Về hình dạng, kiếm Đông Sơn tương tự như kiếm tìm thấy ở Trung Quốc, Nhật Bản. Hoa văn trang trí trên chuôi và đốc kiếm rất đa dạng, có thể là hình chiến binh hay các con vật như gà, voi… Những kiếm mang tính chất nghi lễ của người tầng lớp trên có thể gắn cả nhạc, chuông.
Thời Trung, Cận đại, người Việt sử dụng cả kiếm thẳng 2 cạnh sắc, chuôi cầm 1 tay như của Trung Quốc lẫn loại trường kiếm lưỡi cong, 1 cạnh sắc, chuôi dài và phải cầm cả 2 tay (vẫn thường được biết đến là đao).
Ngày nay, loại trường đao cong này vẫn có thể nhìn thấy trên những bức tượng võ sĩ ở các lăng tẩm của giới quý tộc thời Lê, Mạc, Trịnh ở Thanh Hóa, Bắc Giang, trong bảo tàng Lịch sử quân sự Hà Nội (kiếm Tây Sơn) hay trong các lễ hội dân gian như hội đền Đô, Bắc Ninh.
Về danh kiếm thì Việt Nam nổi lên có thanh Thuận Thiên kiếm của Lê Lợi, gắn với sự tích trả gươm và rùa thần Kim Quy. Hay Ô Long Đao – Binh khí huyền thoại của người anh hùng áo vải Quang Trung.