Một trong những nhân vật kỳ lạ nhất của thời Thế chiến II, phi công kiêm chiến sĩ của Thủy quân lục chiến Mỹ, Gregory 'Pappy' Boyington, người cho đến tận ngày nay vẫn hấp dẫn như thuở ban đầu đó. Sự nghiệp chinh chiến của ông trong việc hạ gục các phi công Nhật đă bắt đầu ngay trước khi Mỹ tham chiến và khi đó ông rời quân đoàn để t́nh nguyện tham gia vào nhóm 'Những chú hổ bay' trong năm 1941.
Năm 1942, Boyington tái gia nhập Thủy quân lục chiến và bay ở mặt trận Nam Thái B́nh Dương nơi ông chỉ huy Phi đội Cừu đen huyền thoại đă bắn rơi 26 chiến cơ Nhật Bản, được trao tặng Huân chương Danh dự cộng với Huân chương Thập tự hải quân. Boyington bị bắn hạ và tưởng rằng đă hy sinh, nhưng sau đó lại trở về từ một trại tù binh chiến tranh.
Các phi công huyền thoại của Phi đội Cừu Đen tại Nam Thái B́nh Dương. Ảnh nguồn: US Naval Institute.
Một người lính bốc đồng
Gregory Boyington sinh năm 1912 và lớn lên ở Gregory Hallenbeck. Năm 1930, sau khi tốt nghiệp trung học, ông đi học Đại học Washington và ở đó đă gia nhập vào Quân đoàn huấn luyện sĩ quan dự bị lục quân (Army ROTC). Boyington cũng làm cho các nhóm bơi lội và đấu vật. Ông làm đủ thứ việc trong thời đại học, từ các băi đỗ xe đến làm công nhân cầu đường, hoặc trong các trại khai thác gỗ và khoáng sản vào mỗi mùa hè. Năm 1934, sau khi tốt nghiệp với tấm bằng kỹ sư hàng không, Boyington làm việc cho hăng Boeing và nhanh chóng kết hôn sau đó.
Phi công huyền thoại của Thủy quân lục chiến Mỹ, Gregory “Pappy” Boyington. Ảnh nguồn: Wikipedia.
Năm 1937, Boyington trở thành phi công Hải quân 1937 và gia nhập Thủy quân lục chiến chỉ vài tháng sau đó với chức vụ Thiếu úy. Trong bộ quân phục, Boyington nhận ra rằng ḿnh luôn nóng ḷng muốn phá bỏ những quy tắc và quy định cứng nhắc, cũng như những hành vi bốc đồng thái quá của ḿnh, khiến ông hết lần này đến lần khác chạm trán với cấp trên. Nhiều năm sau này chính Boyington thừa nhận rằng “kẻ thù tồi tệ nhất chính là tôi”. Trong những năm tháng tiền chiến, việc thăng chức thường ́ ạch, và Boyington cần nhiều hơn mức lương trung úy của ḿnh để chăm sóc gia đ́nh đang thêm thành viên.
V́ vậy, Boyington đă từ chức nhiệm vụ của ḿnh năm 1941 và đăng kư làm lính đánh thuê với Nhóm t́nh nguyện Mỹ (AVG), một tổ chức c̣n nổi tiếng với biệt danh “Những con hổ bay”. Sau này ông Boyington nhớ lại trong nhật kư của ḿnh: “AVG trả lương mỗi tháng cho tôi là 675 USD cộng với khoản tiền thưởng 500 USD cho mỗi “miếng da đầu” được xác nhận là đă bị triệt hạ. Số tiền kiếm được năm 1941 tương đương với số tiền 5.000 USD / tháng trong năm 1988. Với bà vợ cũ, 3 đứa con, nợ nần, và chi tiêu cá nhân của ḿnh, tôi thật sự cần việc hơn lúc nào hết”.
Sự khai sinh phi đội bay và thủ lĩnh huyền thoại
Boyington gần như liên tục gặp rắc rối với sếp của ḿnh, song điều đó không ngăn được việc ông Chennault nh́n thấy tiềm năng lănh đạo của cấp dưới, v́ thế ông trao quyền làm chỉ huy bay cho Boyington. Trong thời gian phục vụ trong phi đội “Những con hổ bay”, Boyington đă bắn rơi 2 chiến cơ Nhật và được ghi nhận là đă cố gắng phá hủy 1,5 chiếc khác trên mặt đất. Ông cũng sống sót trong một vụ rơi máy bay, rời đi với 2 đầu gối rách nát. Vài tháng sau khi Mỹ bị đẩy vào Thế chiến II, Boyington đă phá vỡ hợp đồng với Chennault, trở về Mỹ để tái gia nhập Thủy quân lục chiến.
Claire Lee Chennault, thủ lĩnh "Những chú hổ bay" trong Thế chiến 2. Ảnh nguồn: Lone Star Fight Museum.
Được thăng cấp Thiếu tá, Gregory Boyington đă được triển khai đến Guadalcanal từ đầu năm 1943 với tư cách là sĩ quan điều hành của Phi đội chiến đấu Thủy quân (VMF) 122. Tháng 7-1943, ông trở thành chỉ huy của VMF-112, và đến tháng 9 cùng năm, Boyington được giao phụ trách Phi đội chiến đấu Thủy quân 214 (VMF-214). Chính ở VMF-214 mà Boyington có biệt danh là “Pappy” (nhơng nhẽo) và trở thành huyền thoại từ đó. Buổi ban đầu những người đàn ông muốn đặt tên cho phi đội của họ là “Những đứa con hoang của Boyington” nhưng giới chức từ chối bởi lư do rằng giấy tờ dân sự sẽ không khi nào in nó. V́ thế họ đành để tên là “Cừu Đen”. Đối với phù hiệu của ḿnh, họ đă chọn một chiếc khiên có h́nh con cừu đen được vây quanh bởi 12 ngôi sao và đội vương miện bằng chiếc máy bay của họ là chiếc F4U Corsair, với một thanh biểu tượng nham hiểm tượng trưng cho “bất cần đời”.
Những người của Boyington ban đầu đặt biệt danh cho cho ông là “Ông Nội” nhưng sau đó đổi thành “Nhơng nhẽo” nhằm phù hợp với một bài hát nổi tiếng đương thời bởi v́ ở tuổi 31, nh́n ông già dặn hơn so với hầu hết lính thủy quân lục chiến khác. Phi đội Cừu Đen chiến đấu suốt 84 ngày, họ hủy diệt hoặc làm hư hại 203 chiến cơ Nhật bao gồm 97 chiếc bị tiêu diệt trên không. Họ cũng đánh phá, ném bom, phá hủy nhiều cơ sở mặt đất của địch, cũng như đánh ch́m một số tàu tiếp tế và vận chuyển quân. Với tư cách là chỉ huy của họ, Boyington không chỉ dẫn đầu Cừu Đen mà c̣n dẫn đầu trong việc tấn công và gây hấn với quân Nhật.
Trong một lần tấn công vào sân bay Kahili ở Bougainville (Papua New Guinea) nơi đồn trú của 60 chiến cơ Nhật, Boyington đă dẫn đầu 24 chiến cơ thành một ṿng tṛn bao vây quân Nhật nhằm tấn công địch liên tục. Khi đạt được ư đồ, họ đă bắn rơi 20 chiến cơ địch mà không để bị bắn rơi chiếc nào phía ḿnh. Trong suốt 32 ngày chiến đấu đầu tiên của ḿnh, cá nhân phi công Boyington đă bắn rơi 14 chiến cơ địch. Có ngày ra quân chỉ trong một nhiệm vụ chiến đấu, ông đă hạ 5 máy bay Nhật. Đến tháng 12-1943, Boyington xác nhận ḿnh đă hạ đo ván 25 máy bay địch. Vào ngày 3-1-1944, Boyington đă dẫn đầu 48 máy bay càn quét trên không phận Rabaul và giành kỷ lục bắn rơi máy bay trong thời Thế chiến II cũng là kỷ lục cao nhất mà Mỹ đạt được, bằng cách bắn hạ chiếc máy bay Nhật thứ 26.
Thật không may đó cũng là lần cuối cùng Boyington tấn công v́ chỉ vài phút sau đó ông đă bị bắn rơi. Một cuộc t́m kiếm quy mô đă thất bại trong việc xác định nơi có mặt Boyington và ông được tuyên bố là “Mất tích trong chiến đấu” (MIA). Song đồng đội không hề hay biết rằng Boyington vẫn c̣n sống. Mặc dù bị găm đầy mảnh đạn ở háng, cánh tay và vai, một vết rách lớn trên da đầu, một viên đạn ở bắp chân và tai trái gần như bị đứt ĺa, Boyington vẫn cố gắng nhảy dù từ chiếc máy bay Corsair cháy rực lửa xuống bến cảng Rabaul (Papua New Guinea).
Kỳ tích sống sót của một huyền thoại
Cơ thể thương tích đầy ḿnh, Boyington đă rơi xuống 4 chiếc máy bay đậu gần đó, rồi tất cả cùng ch́m nghỉm trước khi ông được cứu bởi một tàu ngầm Nhật và bị bắt làm tù binh. Những ǵ diễn ra tiếp sau đó là thời gian tù đày khổ ải, bị hắt hủi, bị đánh đập và thường đói khát hoặc bị bỏ đói, kết quả là ông bị sụt gần 31 kg. Boyington t́m cách chịu đựng và sống sót cho đến khi thử thách cuối cùng đă chấm dứt vào ngày 29-8-1945, khi ông được giải phóng và trở về Mỹ. Ở quê nhà, Boyington được chào đón nồng nhiệt như là thành viên sống sót của Phi đội Cừu đen; tên tuổi và h́nh ảnh của ông được phủ trên tạp chí Life trong ấn phẩm phát hành vào ngày 1-10-1945.
Một số chiến cơ trong Phi đội Cừu Đen. Ảnh nguồn: US Naval Institute.
Chẳng mấy chốc sau đó Boyington nhận lệnh đến Washington, D.C để nhận Huân chương danh dự của Nhà Trắng từ chính tay Tổng thống Truman. Trích dẫn của Truman trong việc trao huy chương này được thể hiện trong giai đoạn ngày 12-9-1943 đến ngày 3-1-1944 có đoạn: “Thiếu tá Boyington đă tấn công địch bằng sự kiên tŕ, ḷng dũng cảm và táo bạo, dẫn đầu phi đội chiến đấu để lại hậu quả thảm khốc cho các lực lượng hàng hải, cơ sở trên bờ và không quân của người Nhật. Kiên quyết với những nỗ lực làm tê liệt địch, Thiếu tá Boyington đă dẫn đầu đội h́nh 24 chiến cơ quần thảo trên bầu trời Kahili vào ngày 17-10…. Dưới tài chỉ huy khéo léo, các chiến sĩ của chúng ta đă hạ đo ván 20 máy bay địch trong ngày tiếp theo mà không để thiệt hại bất kỳ máy bay nào. Cá nhân thiếu tá Boyington đă bắn hạ 26 chiến cơ địch trong số nhiều máy bay Nhật bị phi đội của ông bắn rơi, và ông đă phát triển nên sự sẵn sàng chiến đấu trong cương vị chỉ huy của ḿnh, đó là yếu tố đặc biệt trong các thành tựu trên không của quân Đồng Minh tại khu vực chiến lược quan trọng này”.
Trong đời tư, Boyington “Nhơng nhẽo” nổi tiếng là người nghiện rượu. V́ chứng này mà ông gặp nhiều trục trặc trong công việc chuyên môn và đời tư dẫn đến nhiều cuộc ly hôn không mong muốn: ông đă lập gia đ́nh ít nhất 4 lần. Rượu chè, những trục trặc trong hôn nhân, nợ nần đầm đ́a và với danh tiếng là “kẻ gây rối” đă ngăn cản sự nghiệp của Boyington trong Thủy quân lục chiến sau Thế chiến II.
Boyington đă nghỉ hưu vào ngày 1-8-1947 với cấp hàm Đại tá. Rồi đó là ông làm nhiều nghề trong lĩnh vực dân sự bao gồm cả làm trọng tài trong một số giải vật chuyên nghiệp. Ông cũng viết nên cuốn hồi kư mang tựa đề “Cừu đen Baa Baa” được xuất bản vào năm 1958, cộng với một cuốn tiểu thuyết viết về “Những con hổ bay”. Cừu đen Baa Baa đă được thành loạt phim công chiếu trên NBC, nó được phát sóng trong 2 mùa từ năm 1976 đến 1978, và nhân vật Boyington được đóng bởi nam diễn viên Robert Conrad.
Năm 1981, Boyington đă tham gia cuộc hạnh ngộ Phi đội Cừu đen được tổ chức bởi Bảo tàng Hàng không và không gian quốc gia (NASM) ở Washington, D.C. Sự kiện có sự hiện diện của 18 cựu quân nhân VMF-214 c̣n sống, bao gồm việc ra mắt chiếc F4U-1 Corsair được phục chế mà chỉ huy của họ đă kư tên bằng bút danh.
Ngày nay chiếc máy bay này được treo trần của Ṭa nhà phụ sân bay Dulles của NASM, c̣n chữ kư của Boyington có thể được nh́n thấy trên mặt đất. Ngoài nghiện rượu nặng, phi công Boyington c̣n nghiện thuốc lá kéo dài suốt 10 năm. Cuối cùng ông đă qua đời v́ ung thư phổi vào năm 1988 ở tuổi 77. Boyington được chôn cất ở Nghĩa trang Quốc gia Arlington với đầy đủ các danh hiệu quân đội của người nhận được Huân chương Danh dự. Mộ ông nằm cạnh mộ của vơ sĩ Joe Louis. Có mặt tại lễ tang, một người bạn của Boyington đă ghi lại điếu văn: “Pappy đâu cần phải đi xa để t́m một trận đấu hay”.