Nhớ 'một câu nhịn chín câu lành', người Việt sẽ không hung dữ
Hơn nhau không phải ở nắm đấm mà là ở khả năng học tập, làm việc, chia sẻ, thương yêu, tử tế với mình, với người trong mối quan hệ với cuộc sống xung quanh!
Hạ cẳng tay, thượng cẳng chân sau khi va chạm giao thông - Ảnh do bạn đọc cung cấp
Cách đây mấy bữa, trên đường đi làm về, tôi thấy một đám đông ở Hàng Xanh (Q.Bình Thạnh, TP.HCM), nghĩ là có kẹt xe. Tới gần mới phát hiện là vừa có vụ va quẹt và hai tài xế đang cãi nhau, người đi đường ngang qua ai cũng lắc đầu.
Chuyện va quẹt trên phố đông như Sài Gòn giờ tan tầm là chuyện cơm bữa, nếu cảm thông và chia sẻ được thì có lẽ người ta sẽ nhẹ nhàng cho qua, tôi nghĩ vậy!
Môi trường nhiều mầm mống bạo lực
Thường người ta sẽ nổi nóng khi gặp một chuyện bất như ý nào đó, như vừa bị sếp la, ra cổng cơ quan bảo vệ đùa một câu, liền sân si. Nỗi buồn, sự bực bội là thứ năng lượng chi phối hành xử khiến người ta không thể kiềm chế được cơn tức dâng lên, lây sang người khác.
Vì vậy, có người dễ nổi nóng đã cảnh báo: "Thấy tôi ‘khó ở’ là tránh xa xa giùm, không ăn mắng ráng chịu". Theo đó, người nóng lâu ngày họ cũng biết tính khí của mình nên có "chống chỉ định" chuyện nói đùa, tiếp xúc lúc họ đang không vui, căng thẳng. Thực ra, khi quá mệt mỏi, phiền muộn trong lòng, ta không còn giữ được mình.
Có người bạn của tôi bình thường hiền queo, ai nói gì cũng cười. Bỗng một ngày, tôi hỏi "sao buồn dữ rứa?" lại bị bạn nạt cho một câu nghe chưng hửng. Trời, bạn mình đây sao? Mới đầu tôi phản ứng vậy, nhưng chợt dừng lại vì nhớ ra, đây không phải là bản chất của bạn. Có thể bạn đang có một nỗi niềm, áp lực từ cuộc sống, gia đình, tình yêu hoặc bản thân đang trải qua bệnh tật, sự cố…
Ai cũng có lúc nóng giận, nếu mình hiểu thì sẽ không khiến ngọn lửa trong họ cháy phừng. Tôi im lặng và không bỏ mặc, cuối cùng cũng nghe được thổ lộ từ bạn. Bạn bị nhiều áp lực trong công việc: sếp chèn ép, đồng nghiệp tìm cách chơi khăm, lương không cao, phải chật vật trang trải cuộc sống…
Tất nhiên, nhiều người khó khăn hơn nhưng họ không nổi nóng. Đó là tính cách và sức chịu đựng của từng người. Sự nóng tính là một thói quen được huấn tập hằng ngày theo nguyên lý:
"Thói quen tạo nên tính cách, tính cách tạo nên số phận".
Vì thế, các chuyên gia tâm lý khi chia sẻ với tôi về thói vũ phu của chồng vẫn thường lưu ý, có thể anh ấy từng bị bạo hành lúc nhỏ, từng sống gần những gia đình lớn tiếng, ồn ào đánh cãi nhau như cơm bữa.
Sự tác động của cuộc sống xung quanh lên tính cách con người theo hướng đó được ông bà xưa đúc kết rằng "gần mực thì đen". Cái đen đó cần có thời gian thanh lọc để dần trắng, nhưng nếu vẫn tiếp tục nuôi dưỡng trong môi trường đen hơn thì sẽ đen đậm hơn.
Ngày nay các văn hóa phẩm mang tính bạo lực vẫn đầy rẫy trên mạng và tồn tại trong cuộc sống, giải trí của nhiều người: từ game online đến phim ảnh. Thường ngày tiếp xúc với sự đánh đấm, máu me trong các "thức ăn tinh thần" đó khiến não quen với những "mùi vị" của bạo lực, từ đó hành xử theo.
Những kẻ "giang hồ mạng" được ngưỡng mộ và thu tiền trăm triệu cũng chính là một "hình tượng" khiến người ta thay đổi suy nghĩ: cần gì học hành, tử tế, chỉ cần có "số má" là có thể lên đời.
Môi trường bên ngoài đã vậy, trong nhà trường, gia đình cũng đầy mầm mống bạo lực, tránh sao người trẻ không hoang mang và hành xử theo cách tương tự. Đây mới là điều đáng lo, và người lớn muốn thay đổi không khí bạo lực lan tràn thì chính bản thân phải nỗ lực để ứng xử nhẹ nhàng với nhau trước.
Nhẫn để yêu thương
Không thể có kết cục tốt với những người nóng nảy. Nhân vật Trương Phi trong Tam Quốc Chí là hình mẫu của nóng tính dẫn đến hư sự và mang họa sát thân. Ai cũng nóng nảy trong hành xử thì chiến tranh sẽ nổ ra, thương vong là tất yếu.
Một câu nói đùa cũng thành chuyện lớn vì con người ta quá nóng, quá hung dữ; đi nhậu lo hát karaoke cũng bị đánh chết thì… ôi thôi, cuộc sống quá kinh khủng. Pháp luật cần nghiêm minh để trừng trị việc vô cớ đánh, giết người nhưng đó là xử lý phần ngọn, còn cái gốc vẫn là giáo dục.
Làm sao để con người có thể chậm lại để phân tích kỹ hơn từng câu nói, từng biểu hiện của người khác, trong đó có thân nhân, bạn bè mình để không chụp mũ rồi hành xử như người điên, người say?
Sống thiền hay bình tĩnh sống, sống chậm, sống có chánh niệm… là những cách sống theo tinh thần "nhẫn để yêu thương". Đầu tiên là thương mình. Một người chỉ được người khác tin tưởng, nể trọng và giao việc khi có sự chín chắn, điềm tĩnh trong xử lý. Như vậy, người sống có lý trí, điềm tĩnh chính là cách sống lợi lạc tự thân.
Còn cái lợi cho người xung quanh, nhất là người thân - thương thì cũng dễ dàng để thấy. Con cái sẽ học được nhiều điều hay ho từ bố mẹ có cách sống nhẹ nhàng, tình cảm. Đó mới là gia tài quý giá để lại cho con.
Hành xử nóng tính dẫn tới hư việc, hại người thì vòng lao lý chờ mình là chắc chắn. Một khi đã gây ra sự cố mới hối thì đâu còn kịp. Nhiều người bình luận thiếu niên 16 tuổi rút dao đâm chết người nhắc mình chuyện chạy xe chính là "anh hùng rơm", chứng tỏ với bạn gái nhưng rồi được gì sau lần ra tay đó? Tù tội và có thể mất luôn bạn gái.
Ai đợi và ai chấp nhận một người giết người làm người yêu, người chồng, người cha tương lai?
Thực ra, sân si - ai cũng có. Cái chính là cách quản lý năng lương tiêu cực đó để những năng lượng tích cực phát triển. Để làm được điều đó, phải xây dựng lối sống nhân văn từ chính mỗi gia đình, người lớn dạy trẻ nhẫn nhịn để an lành như ông bà mình nhắc "một câu nhịn chín câu lành".
Duỗi thẳng các ngón tay (nam tay trái, nữ tay phải) để xem các đốt ngón tay út có độ dài ngắn thế nào nhé
1. Đốt đầu dài nhất
Bạn có sức hút mãnh liệt với người khác giới. Khả năng biểu đạt bằng ngôn ngữ của bạn rất tốt, năng lực quan sát giỏi. Do vậy, bạn gặt hái được nhiều thành công trong công việc và không dễ bị người khác lừa gạt.
2. Đốt đầu ngắn nhất
Năng lực biểu đạt của bạn không tốt, cộng thêm với tính cách nhút nhát và xấu hổ nên đôi khi người khác không hiểu bạn nói gì. Bạn rất cần người có tính cách mạnh mẽ và quyết đoán bên cạnh để giúp đỡ và bảo vệ mình
3. Đốt giữa dài nhất
Dấu hiệu này cho thấy bạn sinh ra đã biết chăm sóc và quan tâm người khác. Ngoài ra, bạn khá kiên trì và nhẫn nại nên được đông đảo mọi người yêu mến.
4. Đốt giữa ngắn nhất
Tính cách của bạn khá cứng nhắc và bướng bỉnh, luôn giữ vững lập trường. Đây là ưu điểm nhưng cũng đồng thời là khuyết điểm của bạn. Nó có thể khiến mọi người phải dè chừng hoặc xa lánh bạn.
5. Đốt cuối dài nhất
Bạn thích cuộc sống tự do tự tại, không phải suy tư lo nghĩ. Bạn nói được và cũng làm được nên nhiều người nể phục. Hơn thế, bạn có biệt tài tranh luận và nói chuyện triết lý nên thường được bổ nhiệm vào những vị trí quan trọng ở nơi bạn đang làm việc.
6. Đốt cuối ngắn nhất
Điều này cho thấy bạn có tính cách hiền dịu, ngây thơ trong sáng và rất dễ tin lời người khác. Bạn cần cẩn trọng hơn trong mọi chuyện, đặc biệt là chuyện tình cảm để tránh bị lừa gạt và đau khổ.
Lâm Vĩnh Bình, gạch nối lịch sử hôm qua và ngày mai?
Tác phẩm “Giá Tự Do” của tác giả Lâm Vĩnh Bình. (Hình: Người Việt)
Ba năm trước đây, tác phẩm “Giá Tự Do” của nhà nghiên cứu, Lâm Vĩnh Bình đã được Đại Hội Nha-Y-Dược Thế Giới kỳ thứ 8, ở Úc, trao tặng giải thưởng văn học chủ đề “Cộng Đồng Người Việt Tị Nạn Sau 39 Năm: Chân Dung, Thành Quả và Tương Lai.”
Mới đây, tác phẩm công phu này lại được Người Việt Books ấn hành tại Hoa Kỳ, 2017.
Tìm hiểu tiểu sử tác giả “Giá Tự Do,” người ta được biết, nhà nghiên cứu, Lâm Vĩnh Bình là một nhân sĩ của cộng đồng người Việt Canada. Ông là tác giả nhiều bài viết về các vấn đề giáo dục, văn hóa, xã hội đã đăng trên báo giấy và báo mạng thế giới.
Năm 1964, họ Lâm tốt nghiệp Ban Sử Địa trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn và cử nhân Văn Khoa Đại Học Sài Gòn. Từ năm 1964 tới 1975, ông lần lượt là giáo sư, hiệu trưởng trường trung học Nguyễn Đình Chiểu ở Mỹ Tho, ngôi trường đầu tiên do người Pháp lập ở Nam Kỳ năm 1879 và cũng là trường trung học lớn nhất ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Sau đó ông là Chánh Sự Vụ Sở Học Chánh tỉnh Định Tường: Quản trị các trường trung, tiểu học công lập, bán công trong một tỉnh có gần nửa triệu dân. Ông cũng được đề cử kiêm nhiệm chức vụ tổng thư ký viện Đại Học Tiền Giang. Ông đảm nhận hai chức vụ này tới Tháng Tư, 1975.
Định cư tại thành phố Montréal, Canada, từ Tháng Năm, 1975, sau khi tốt nghiệp cao học Thư Viện Học tại Université de Montréal, tác giả “Giá Tự Do” đã làm việc tại Đại Học Polytechnique và thành phố Montréal qua nhiều chức vụ chỉ huy cho tới khi về hưu năm 2007.
Đề cập tới lý do đưa tới nỗ lực hoàn toàn tất công trình đáng kể, viết về “Tị Nạn và Lập Cư,” nhà nghiên cứu Lâm Vĩnh Bình cho biết, ông rất băn khoăn về thế hệ con cháu của chúng ta, khi thế hệ cha, ông lần lượt vĩnh viễn ra đi mà, không có:
“…một văn bản ghi lại quá khứ, để chúng biết lý do của cuộc ra đi, hành trình gian khổ của ông cha trên đường vượt biển vượt biên cũng như những ngày tháng họ phải khiêng vác trong các hãng xưởng hay phải đi học lại buổi tối sau một ngày làm việc cật lực cốt để đưa chúng bằng mọi giá trở lại trường học hầu có một ngày mai tươi sáng trên trường đời…”
Gần hơn, trong “Lời Nói Đầu” trước khi bước vào “Giá Tự Do” do Người Việt Books xuất bản tại Hoa Kỳ, 2017, họ Lâm viết:
“…Là người được đào tạo trong ngành sử học và thư viện học, chúng tôi không tránh được nỗi bi phẫn khi đọc những sử liệu gian dối viết bởi những người Cộng Sản và được lập lại, đôi khi được huyễn hoặc thêm bởi những luận điệu thiên vị bởi các tác giả Tây phương mà các thế hệ thứ hai thứ ba đang bị nhồi nhét vì không đọc được chữ Việt.”
“Quyển sách này được viết trong những ưu tư vừa kể. Bị thôi thúc vì nhu cầu cần một tài liệu trung thực cho độc giả đại chúng, bị giằng co vì khả năng giới hạn đối với độ lớn của chủ đề, cuối cùng chúng tôi cố gạt bỏ mọi ý tưởng tiêu cực để thực hiện dự án mà chúng tôi đã thao thức từ ngày bắt đầu vô ngành thư viện. Một mình, như người điếc không sợ súng.”
“Tuy vẫn biết như vậy, cuốn sách vẫn được thực hiện với những nguyên tắc căn bản của ngành biên khảo”
Đúng như lời “bộc bạch” của họ Lâm, tác phẩm “Giá Tự Do” được xây dựng trên số tài liệu phong phú, chọn lọc, khách quan.
Đồng thời ở mỗi chương mục của tác phẩm dày hơn 400 trang khổ lớn này, luôn có những bảng liệt kê, hay những biểu đồ so sánh các con số, cho thấy tác giả thận trọng với từng dữ kiện, cân nhắc từng chi tiết để trả lại sự thật khách quan cho một giai đoạn lịch sử quan trọng và, cũng đầy thương đau của tập thể Việt tị nạn, rải rác khắp năm châu.
Ở tác phẩm “Giá Tự Do,” người đọc gần như không thấy chỉ dấu cảm xúc cá nhân mà, chỉ có những dữ kiện, những con số, tự chúng nói lên sự thật, từng bị chôn vùi, xuyên tạc bởi nhiều học giả, với nhiều lý do, uẩn khúc khác nhau!
Ngay với phần “Thay Lời Kết,” trước khi cuốn sách được khép lại, họ Lâm cũng đã chọn một phần trong “Lời Bạt” của tác phẩm “A Reporter’s Love for Awounded People” xuất bản năm 2013 của ký giả Uwe Siemon-Netto – một nhà báo người Đức, từng có mặt trên các chiến trường miền Nam Việt Nam, từ Pleime tới Mậu Thân/Huế, 1965 tới 1972. Ký giả này đã không che giấu sự bất mãn trước những sự thật của chiến tranh miền Nam, bị bôi bẩn của quá nhiều những “sử gia” và những “học giả!” Ông viết:
“…Tôi không có mặt vào lúc Sài Gòn thất thủ khi toàn bộ các đơn vị Quân Lực VNCH thường xuyên bị bôi bẩn một cách ác độc bởi truyền thông Hoa Kỳ, giờ đây bị những người đồng minh Mỹ của họ bỏ rơi, đã chiến đấu một cách cao thượng, dù biết rằng họ không thể sống sót sau trận đánh cuối cùng này. Tôi đang ở Paris, lòng sầu thảm khi tất cả chuyện này xảy ra và tôi ước gì có dịp tỏ lòng kính trọng với năm vị tướng lãnh VNCH trước khi họ quyên sinh lúc mọi chuyện chấm dứt, một cuộc chiến mà họ có thể thắng: Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Nguyễn Khoa Nam, Trần Văn Hai, và Phạm Văn Phú…”
***
Với nhiều người, tác phẩm “Giá Tự Do” của Lâm Vĩnh Bình, không chỉ là một nỗ lực trả lại sự thật, trả lại danh dự cho tập thể người lính cũng như mấy triệu đồng bào tỵ nạn Việt khắp năm châu, mà “Giá Tự Do” của họ Lâm còn như một ném hương thắp muộn, gửi tới gần nửa triệu đồng bào vùi thân dưới biển sâu, hay mất xác giữ rừng sâu… trên đường đi tìm tự do.
Chính những nén hương thắp muộn, tưởng nhớ tới những người đã nằm xuống kia, của nhà nghiên cứu Lâm Vĩnh Bình, sẽ là đường dẫn tâm linh, giúp những thế hệ trẻ mai sau, cảm nhận được sự thật của bi kịch không thể to lớn hơn trong lịch sử cận đại Việt Nam, giai đoạn 1954-1975. (*)
Ký Ức Về Những Bài Học Thuộc Lòng Thời Tiểu Học VNCH - Phan Văn Phước
Dân miền Nam, những ai bây giờ chừng 55 tuổi trở lên, chắc đều nhớ rõ cách tổ chức độc đáo ở các lớp bậc tiểu học cách đây hơn bốn thập niên. Hồi đó, cách gọi tên các lớp học ngược lại với bây giờ, theo thứ tự từ lớn đến nhỏ. Lớp Năm là lớp Một ngày nay, rồi đến lớp Tư, lớp Ba, lớp Nhì, trên cùng là lớp Nhứt. Lớp Năm, tức là lớp thấp nhất, thường do các thầy cô giỏi nhất hoặc cao niên, dồi dào kinh nghiệm nhất phụ trách.
Sở dĩ như vậy là vì bậc học này được xem là vô cùng quan trọng, dạy học trò từ chỗ chưa biết gì đến chỗ biết đọc, biết viết, biết những kiến thức cơ bản đầu tiên, nghĩa là biến từ chỗ không có gì đến chỗ bắt đầu có.
Học trò, không phân biệt giàu nghèo, khi đến lớp chỉ được dùng một thứ bút duy nhất, là bút ngòi lá tre. Gọi là lá tre bởi vì bút có cái ngòi có thể tháo rời ra được, giống hình lá tre nho nhỏ, khi viết thì chấm vào bình mực. Bình mực, thường là mực tím, có một cái khoen nơi nắp để móc vào ngón tay cho tiện. Thân bình bên trong gắn liền với một ống nhựa hình phễu dưới nhỏ trên to để mực khỏi sánh ra theo nhịp bước của học trò. Khi vào lớp thì học trò đặt bình mực vào một cái lỗ tròn vừa vặn khoét sẵn trên bàn học cho khỏi ngã đổ. Bút bi thời đó đã có, gọi là bút nguyên tử, là thứ đầy ma lực hấp dẫn đối với học trò ngày ấy, nhưng bị triệt để cấm dùng.
Các thầy cô quan niệm rằng rèn chữ là rèn người, nên nếu cho phép học trò lớp nhỏ sử dụng bút bi sớm, thì sợ khi lớn lên, chúng sẽ dễ sinh ra lười biếng và cẩu thả trong tính cách chăng. Mỗi lớp học chỉ có một thầy hoặc một cô duy nhất phụ trách tất cả các môn.
Thầy gọi trò bằng con, và trò cũng xưng con chứ không xưng em với thầy. Về việc dạy dỗ, không thầy nào dạy giống thầy nào, nhưng mục tiêu kiến thức sau khi học xong các cấp lớp phải bảo đảm như nhau. Thí dụ như học xong lớp Năm thì phải đọc thông viết thạo, nắm vững hai phép toán cộng, trừ, lớp Tư thì bắt đầu tập làm văn, thuộc bảng cửu chương để làm các bài toán nhân, chia… Sách giáo khoa cũng không nhất thiết phải thống nhất, nên không có lớp học giống lớp nào về nội dung cụ thể từng bài giảng.
Cứ mỗi năm lại có các ban tu thư, có thể là do tư nhân tổ chức, soạn ra những sách giáo khoa mới giấy trắng tinh, rồi đem phân phối khắp các nhà sách lớn nhỏ từ thành thị cho chí nông thôn. Các thầy cô được trọn quyền lựa chọn các sách giáo khoa ấy để làm tài liệu giảng dạy, miễn sao hợp với nội dung chung của Bộ Giáo dục là được.
Tuyệt nhiên không thấy có chuyện dạy thêm, học thêm ở bậc học này nên khi mùa hè đến, học trò cứ vui chơi thoải mái suốt cả mấy tháng dài. Các môn học ngày trước đại khái cũng giống như bây giờ, chỉ có các bài học thuộc lòng trong sách Việt Văn, theo tôi, là ấn tượng hơn nhiều.
Đó là những bài thơ, những bài văn vần dễ nhớ nhưng rất sâu sắc về tình cảm gia đình, tình yêu thương loài vật, tình cảm bạn bè, tình nhân loại, đặc biệt là lòng tự tôn dân tộc Việt.
Tôi còn nhớ rõ trong sách Tân Việt Văn lớp Năm có bài học thuộc lòng thật hay về bóng đá mà hồi đó gọi bằng một từ rất hoa mỹ, là túc cầu:
Chiều chưa ngã, nắng còn gay gắt lắm
Hai đội cầu hăng hái tiến ra sân
Tiếng hoan hô thêm dũng mãnh bội phần
Để cổ võ cho trận cầu quốc tế.
Đoàn tuyển thủ nước nhà hơi nhỏ bé
Nếu so cùng cầu tướng ở phương xa
Còi xuất quân vừa lanh lảnh ban ra
Thì trận đấu đã vô cùng sôi nổi.
Tiền đạo ta như sóng cồn tiến tới
Khi tạt ngang, khi nhồi bóng, làm bàn
Khiến đối phương thành rối loạn, hoang mang
Hậu vệ yếu phải lui về thế thủ
Thiếu bình tỉnh, một vài người chơi dữ
Nên trọng tài cảnh cáo đuổi ra sân
Quả bóng da lăn lộn biết bao lần
Hết hai hiệp và… đội nhà đã thắng
Ta tuy bé nhưng đồng lòng cố gắng
Biết nêu cao gương đoàn kết đấu tranh
Khi giao banh, khi phá lưới, hãm thành
Nên đoạt giải dù địch to gấp bội…
Bài học thuộc lòng này, về sau tôi được biết, lấy cảm hứng từ chiếc cúp vô địch đầu tiên và duy nhất cho đến bây giờ của Việt Nam tại Đông Á Vận Hội trên sân Merdeka của Malaysia vào cuối thập niên 50, với những tên tuổi vang bóng một thời như Tam Lang, Ngôn, Cù Sinh, Vinh “đầu sói”, Cù Hè, Rạng “tay nhựa”… Tuy không biết chơi bóng đá, nhưng thằng bé là tôi lúc đó rất thích bài học thuộc lòng này nên tự nhiên… thuộc lòng luôn.
Càng đọc càng ngẫm nghĩ, đây đâu phải là bài thơ chỉ nói về bóng đá mà thôi. Nó là bài học đoàn kết của một dân tộc tuy nhỏ bé nhưng gan lỳ, bất khuất khiến cho cả thế giới phải ngước nhìn bằng đôi mắt khâm phục. Bạn thấy lạ lùng chưa, chỉ một bài thơ ngắn nói về một thứ trò chơi thôi, mà lại chứa đựng biết bao nhiêu điều vĩ đại mà những lời đao to búa lớn ồn ào chắc chi đã làm được.
Nói về môn Lịch sử, hồi đó gọi là Quốc sử, đã có sẵn một bài học thuộc lòng khác:
GIỜ QUỐC SỬ
Những buổi sáng vừng hồng le lói chiếu
Trên non sông, làng mạc, ruộng đồng quê,
Chúng tôi ngồi yên lặng, lắng tai nghe
Tiếng thầy giảng khắp trong giờ Quốc sử.
Thầy tôi bảo:
“Các con nên nhớ rõ,
Nước chúng ta là một nước vinh quang.
Bao anh hùng thưở trước của giang san,
Đã đổ máu vì lợi quyền dân tộc.
Các con nên đêm ngày chăm chỉ học,
Để sau này mong nối chí tiền nhân.
Ta tin rằng, sau một cuộc xoay vần,
Dân tộc Việt vẫn là dân hùng liệt.
Ta tin tưởng không bao giờ tiêu diệt,
Giống anh hùng trên sông núi Việt Nam.
Bên những trang lịch sử bốn ngàn năm,
Đầy chiến thắng, vinh quang và hạnh phúc.”
Hình ảnh ông thầy dạy Sử trong bài học thuộc lòng hiện lên, nghiêm nghị nhưng lại thân thương quá chừng, và bài Sử của thầy, tuy không nói về một trận đánh, một chiến công hay một sự kiện quá khứ hào hùng nào, nhưng lại có sức lay động mãnh liệt với đám học trò chúng tôi ngày ấy, đến nỗi mấy chục năm sau chúng tôi vẫn nhớ như in.
Lại có bài song thất lục bát về ông thầy dạy Địa lý, không nhớ tác giả là ai, nhưng chắc chắn tựa đề là “Tập vẽ bản đồ”, phía lề trái còn in cả hình vẽ minh họa của Quần đảo Trường Sa và Hoàng sa:
Hôm qua tập vẽ bản đồ,
Thầy em lên bảng kẻ ô rõ ràng.
Ranh giới vẽ phấn vàng dễ kiếm,
Từ Nam Quan cho đến Cà Mau.
Từng nơi, thầy thuộc làu làu,
Đây sen Đồng Tháp, đây cầu Hiền Lương.
Biển Đông Hải, trùng dương xanh thẳm,
Núi cheo leo thầy chấm màu nâu.
Tay đưa mềm mại đến đâu,
Sông xanh uốn khúc, rừng sâu chập chùng…
Rồi với giọng trầm hùng, thầy giảng:
“Giống Rồng Tiên chói rạng núi rừng,
Trải bao thăng giáng, phế hưng,
Đem giòng máu thắm, bón từng gốc cây.
Làn không khí giờ đây ta thở,
Đường ta đi, nhà ở nơi này,
Tổ tiên từng chịu đắng cay,
Mới lưu truyền lại đêm ngày cho ta.
Là con cháu muôn nhà gìn giữ,
Đùm bọc nhau, sinh tử cùng nhau.
Tóc thầy hai thứ từ lâu,
Mà tài chưa đủ làm giàu núi sông !
Nay chỉ biết ra công dạy dỗ,
Đàn trẻ thơ mong ở ngày mai.
Bao nhiêu hy vọng lâu dài,
Giờ đây, mấy chục năm đã trôi qua, tóc trên đầu tôi cũng bắt đầu hai thứ như ông thầy già dạy Địa trong bài học thuộc lòng ngày ấy, nhưng có một điều mà tôi nghĩ mãi vẫn chưa ra. Ông thầy đang dạy Địa, hay ông thầy đang âm thầm truyền thụ lòng yêu nước, lòng tự tôn dân tộc cho đàn trẻ thơ qua mấy nét vẽ bản đồ?
Lời của thầy thật là nhẹ nhàng, khiêm tốn nhưng cũng thật là tha thiết, chạm vào được chỗ thiêng liêng nhất trong tâm hồn những đứa trẻ ngây thơ vào những ngày đầu tiên cắp sách đến trường, nơi chúng được dạy rằng ngoài ngôi nhà nhỏ bé của mình với ông bà, cha mẹ, anh em ruột thịt, chúng còn có một ngôi nhà nữa, rộng lớn hơn nhiều, nguy nga tráng lệ, thiêng liêng vĩ đại hơn nhiều, một ngôi nhà mà chúng phải thương yêu và có bổn phận phải vun đắp: Tổ quốc Việt Nam.
Thể xác chết đi, nhưng linh hồn bất diệt. Nhiều nghiên cứu khoa học đã chứng minh được sự tồn tại của điều này.
Con người có tồn tại linh hồn? (Ảnh: Adobe Stock)
Câu chuyện của những người có trải nghiệm cận tử
Rất nhiều người đã từng nghe nói đến trải nghiệm cận tử (NDE), là trải nghiệm khi linh hồn (nguyên thần theo cách gọi của văn hóa phương Đông) của một người rời khỏi thân thể trong trạng thái cận kề cái chết hoặc chết lâm sàng (tim ngừng đập, não ngừng hoạt động), sau đó được cứu sống trở lại. Hiện tượng này xuất hiện khá nhiều trong các ghi chép cổ đại. Nhà triết học cổ đại người Hy Lạp Plato đã miêu tả lại cảnh tượng một người lính Hy Lạp qua đời, sau đó hồi phục và kể lại những trải nghiệm khi tiến nhập sang thế giới bên kia. Ở phương Tây, hiện tượng này đã trở nên khá phổ biến sau khi cuốn sách bán chạy nhất của Tiến sĩ Raymond A. Moody “Life after Life (tạm dịch: Sự sống tiếp diễn sau khi chết)” được xuất bản vào năm 1975. Gần đây, hiện tượng này cũng nhận được sự quan tâm của giới y học chính thống.
Cuốn sách Vũ trụ toàn ảnh (The Holographic Universe) xuất bản năm 1991 của Michael Talbot cũng đã trích dẫn một số trường hợp được Bác sĩ Moody thu thập. Trong một ví dụ, một phụ nữ đã rời cơ thể trong quá trình phẫu thuật, linh hồn cô bay lơ lửng trên không, tiến vào sảnh tiếp tân của bệnh viện, và nhìn thấy cô con gái nhỏ đang quàng lệch một chiếc khăn. Sau này cô biết được rằng do người bảo mẫu đã khá sốc trước tin cô nhập viện, nên đã quàng lệch chiếc khăn khi thay đồ cho con cô mà không hay biết. Người bảo mẫu này đã rất chấn động khi được mẹ cô bé kể lại chuyện này, vì chỉ có duy nhất cô và đứa bé ở nhà ngày hôm đó.
Một trường hợp khác, một người phụ nữ đã ly thể (linh hồn ly thể) vào thời khắc cận kề cái chết rồi bay đến hành lang bệnh viện. Cô nghe thấy người anh rể đang than thở với bạn rằng anh sẽ phải hủy chuyến công tác để thay vợ làm hậu sự cho em vợ. Khi người phụ nữ hồi tỉnh, cô đã trách anh rể vì nói ra những lời xui xẻo đó, anh rể cô khi nghe thấy đã vô cùng sửng sốt bàng hoàng.
Cuốn sách “Life at Death (tạm dịch: Sự sống khi chết)” của Kenneth Ring, một giáo sư tâm lý học từ Đại học Connecticut (Mỹ), xuất bản năm 1980, là một cuốn sách khác đề cập đến các nghiên cứu xoay quanh trải nghiệm cận tử. Giáo sư Ring phát hiện ra rằng, những người có trải nghiệm cận tử thường rơi vào thế giới của những dòng chảy không ngừng. Ở đây, không hề tồn tại khái niệm không gian và thời gian. Và họ sẽ gặp gỡ những sinh mệnh tỏa ra luồng ánh sáng trí huệ. “Vũ trụ toàn ảnh” cũng trích dẫn phát hiện của một số nhà nghiên cứu rằng, những người có trải nghiệm cận tử thường miêu tả linh hồn bản thân khi ly thể giống như một chùm năng lượng, và linh hồn này có thể biến hình tùy theo ý muốn. Sau khi ly thể, họ có thể nhìn lại quá khứ bản thân trong một không gian ba chiều. Mỗi chi tiết, mỗi cảm giác đều hiển hiện một cách tức thì, và mọi thứ đều rất sống động.
GS Kenneth Ring. (Ảnh: one-mind-one-energy.com)
Tương lai mỗi người đã được định sẵn?
Không chỉ quá khứ của một người được ghi lại trọn vẹn trong một không gian khác, mà rất có thể tương lai của họ cũng đã được định sẵn rồi. Nhiều người có trải nghiệm cận tử kể lại rằng, khi đến nơi kia họ được bảo rằng thời điểm của họ chưa đến nên họ phải quay trở lại thế giới này và tiếp tục sống. Dựa vào đây Giáo sư Ring nhận định rằng con người đều có số mệnh, và tương lai – ở một khía cạnh nào đó – đã được định trước rồi. Điều đó lý giải vì sao một số người có thể nhìn thấy trước tương lai của mình, cũng như của người khác, thậm chí của nhân loại.
“Vũ trụ toàn ảnh” đã trích một trường hợp được ghi nhận bởi bác sĩ Ring. Trong trải nghiệm cận tử, một đứa trẻ đã được phép nhìn thấy một vài chi tiết trong tương lai của mình, bao gồm việc cậu sẽ kết hôn ở tuổi 28, rồi sẽ có hai đứa con. Cậu thậm chí còn có thể nhìn thấy mình lúc trưởng thành, khi đó đang ngồi chơi với đứa con trong tương lai, và có một vật gì đó kỳ lạ trên tường. Sau đó cậu bé hồi phục và xuất viện.
Đáng ngạc nhiên, tương lai mà cậu nhìn thấy trong trải nghiệm đó đã trở thành hiện thực, từng cái một. Cậu lớn lên, kết hôn lúc 28 tuổi và có 2 con. Một ngày nọ, câu bất giác nhận thấy chính mình đang đứng ở trong khung cảnh năm xưa: cậu ngồi trong một căn phòng với đứa con, khung cảnh tái hiện giống hệt như đúc, và thứ kỳ lạ trên tường cậu nhìn thấy khi đó, chính là chiếc máy sưởi cao áp thời hiện đại – thứ còn chưa được phát minh lúc cậu có trải nghiệm cận tử!!?
Một trường hợp khác. Một phụ nữ có trải nghiệm cận tử kể lại rằng, một sinh mệnh ở không gian khác đã cho cô xem chân dung và tên tuổi của Bác sĩ Moody; cô được bảo rằng khi thời cơ đến, cô sẽ kể với bác sĩ Moody trải nghiệm này của mình. Đó là vào năm 1971, lúc đó sách của BS Moody còn chưa xuất bản, và tất nhiên khi đó ảnh và tên tuổi của BS Moody không có bất kỳ ý nghĩa gì đối với cô. Bốn năm sau, gia đình BS Moody chuyển đến khu phố nơi cô sống. Trong ngày lễ Halloween năm đó, con trai của Moody đến nhà cô xin kẹo (phong tục ngày Halloween). Khi biết tên đứa trẻ, cô vội bảo cậu bé rằng cô có việc cần gặp bố cậu bé
Ngoài trải nghiệm cận tử, “Vũ trụ toàn ảnh” cũng ghi nhận một số trường hợp hồn lìa khỏi xác – giới chuyên môn gọi là trải nghiệm ngoài cơ thể (Out of Body Experience, OBE). Linh hồn một số người có thể rời thân thể, đến một nơi cách xa hàng ngàn dặm, thậm chí tiến nhập vào một không thời gian khác. Hiện tượng này (giới tu luyện gọi là “nguyên thần ly thể”) đều được ghi chép trong các trường phái tu luyện Phật gia và Đạo gia ở Trung Quốc.
Trên thực tế, hiện tượng “nguyên thần ly thể” chỉ là một phần rất nhỏ trong một bức tranh rộng lớn hơn. Đó là bức tranh của sự luân hồi. Trong những năm gần đây, giới y học phương Tây đã làm rất nhiều nghiên cứu để kiếm chức hiện tượng này. Phương pháp phổ biến nhất là khiến con người rơi vào trạng thái thôi miên, mê mê tỉnh tỉnh như trong phương pháp thiền định của Đạo gia hoặc Phật gia, để họ có thể nhìn thấy từng đời từng kiếp trước của mình, thậm chí cả quá trình trung gian trước khi luân hồi chuyển thế. Đây được gọi là phương pháp thôi miên hồi quy tiền kiếp.
Phương pháp thôi miên hồi quy tiền kiếp. (Ảnh: Tinh Hoa)
Các nhà nghiên cứu phát hiện rằng con người có xu hướng chuyển sinh theo từng nhóm, bởi họ có một mối quan hệ nhân duyên nào đó với nhau, những mối liên hệ đan xen trùng điệp…. để rồi trong những năm tháng dài đằng đẵng nơi nhân thế họ sẽ dần dần hoàn trả những gì đã mắc nợ. Đó là “duyên – nợ” mà người ta thường nhắc đến. Trước khi chuyển sinh, cuộc đời một người đã được sắp đặt một cách tổng quan về cơ bản, bao gồm cả những biến cố quan trọng mà dường như chỉ ngẫu nhiên xảy ra trong đời, thứ chúng ta gọi là “định mệnh”.
Nhiều người cho rằng chết là hết và không tin rằng linh hồn con người là bất diệt. Thực ra, cơ thể con người chỉ như tấm áo choàng khoác lên linh hồn, khi thân thể chết đi, chiếc áo sẽ được cởi bỏ, nhưng linh hồn thì vẫn còn ở đó. Tất nhiên, rất nhiều người không tin vào sự tồn tại của linh hồn (hay nguyên thần), bởi vì họ chỉ tin vào những gì mắt thấy tai nghe. Có lẽ điều này cũng đã được hữu ý định trước như vậy, bởi vì chỉ có ở trong mê và đau khổ, người ta mới có thể tôi luyện ý chí của mình, và trân quý hơn giá trị của cuộc sống.
Mặc dù vật lý hiện đại chưa tìm ra bằng chứng cho sự tồn tại của linh hay các không gian khác, nhưng họ cũng không hề phủ nhận điều này. Trên thực tế, lý thuyết M và lý thuyết siêu dây đã chỉ ra khả năng tồn tại của không gian khác.
Vật lý lý thuyết đã chỉ ra khả năng tồn tại của không gian khác. (Ảnh: world2day.net)
Trong biểu đồ phân tử hóa học trong sách giáo khoa, nguyên tử được mô tả giống như những quả cầu nhỏ, nén chặt để kết nối các vật chất thành phần với nhau. Nhưng trên thực tế, thế giới vi quan còn xa mới có thể biểu thị bằng một biểu đồ đơn giản như vậy.
Lấy ví dụ, một hạt electron có thể đồng thời đâm xuyên qua hai khe hở cùng lúc, và chuyển động của các hạt siêu nhỏ có thể được chồng lên nhau như các sóng nước. Bí ẩn của nó quả vượt quá sức tưởng tượng của con người.
Ngày đẹp trời, một cặp vợ chồng khoảng trên 60 tuổi đến văn phòng luật sư. Họ muốn làm thủ tục ly hôn.
Lúc đầu vị luật sư vô cùng ngạc nhiên, nhưng sau khi nói chuyện với đôi vợ chồng, ông đã hiểu đầu đuôi câu chuyện. Trong 40 năm chung sống, cặp vợ chồng này luôn cãi nhau và dường như chẳng bao giờ quyết định gì cho đúng đắn. Họ chịu đựng nhau đến bây giờ là vì các con. Bây giờ con cái của họ đã lớn, đã có gia đình riêng, nên hai vợ chồng già không còn điều gì lo lắng nữa. Họ muốn được tự do sau những năm tháng dài không hạnh phúc. Cả hai vợ chồng đều đồng ý ly hôn. Hoàn tất thủ tục ly hôn cho cặp vợ chồng này là điều không dễ vì tình sâu nghiã nặng.
Vừa ký xong giấy tờ, người vợ già vừa nói với chồng: “Tôi thực sự yêu ông, nhưng tôi không thể chịu đựng hơn được nữa. Tôi thành thật xin lỗi”.
“Không sao, tôi hiểu.”, ông chồng già đáp lại.
Nhìn cảnh này, ông luật sư đề nghị mời hai vợ chồng một bữa cơm tối. Người vợ trả lời: “Sao lại không? Dù ly hôn, ta vẫn sẽ là bạn cơ mà”.
Bên bàn ăn, bầu không khí im lặng, nặng nề đến khó thở.
Món ăn đầu tiên được mang ra là món gà quay. Người chồng lập tức gắp một miếng đùi gà cho vợ: “Bà ăn đi, đây là món bà ưa thích.” Nhìn cảnh này, vị luật sư nghĩ “vẫn còn cơ hội cho họ hàn gắn lại”. Không ngờ người vợ cau mày, đáp lại: “Đây là vấn đề. Ông luôn chủ quan quá nên không bao giờ hiểu được tư tưởng của tôi. Ông không biết tôi ghét đùi gà chừng nào à?”
Điều người vợ không nhìn thấy được là trong bao nhiêu chung sống, người chồng luôn luôn cố gắng làm vui lòng bà, dù là người thiếu nhận xét hay khéo léo. Bà không biết là đùi gà là món yêu thích nhất của ông, cũng như ông không biết bà ghét đùi gà. Dù ông chỉ muốn dành những miếng ngon nhất theo khẩu vị của ông, nhường những thứ tốt nhất cho bà, bà chưa bao giờ cảm nhận được là ông hiểu bà.
Đêm hôm đó, cả hai ông bà đều không ngủ được. Sau nhiều giờ trằn trọc, người chồng không thể chịu đựng nỗi nhớ nhung nữa. Ông hiểu rằng ông yêu bà và không thể sống thiếu bà. Ông muốn van bà quay trở lại làm vợ chồng. Ông muốn xin lỗi, muốn nói “Anh yêu em” thật nhiều. Ông nhấc điện thoại lên và bấm số của bà. Tiếng chuông reo không ngừng, nhưng bà không nhấc. Ông lại cố gắng bấm máy, suốt tối.
Đầu bên kia, bà vợ cũng rất buồn. Bà không hiểu điều gì đã xẩy ra trong những năm tháng sống cùng nhau. Sau 40 năm, ông ấy vẫn chẳng hiểu bà. Bà vẫn yêu ông nhưng bà không thể chịu đựng cuộc sống tẻ nhạt như thế nữa.
Mặc cho chuông điện thoại reo liên hồi, bà không thèm trả lời, dẫu biết rằng người gọi là ông. Bà tự nghĩ: “Nói làm gì nữa khi mọi chuyện đã xong xuôi hết rồi. Mình quyết định ly hôn mà. Bây giờ đâm lao thì phải theo lao, nếu không mất mặt lắm”. Chuông điện thoại vẫn cứ reo rồi bà quyết định tháo dây điện thoại ra. Trong khi đầu bận suy nghĩ rối bời , bà quên bẵng đi là ông bị đau tim…
Sáng hôm sau, bà nhận được tin ông qua đời. Như một người mất trí, bà lao thẳng đến căn nhà của ông, để nhìn thấy thân thể ông trên chiếc divan, tay vẫn giữ chặt máy điện thoại. Ông buồn bã, thất vọng suốt đêm khi bà không cho cơ hội tỏ nỗi lòng và tim ông đã buông suôi. Bà đau đớn vì hối hận. Một cảm giác mất mát quá lớn bao trùm lấy tâm khảm bà.
Khi thanh toán tài sản của ông, bà tìm thấy trong ngăn kéo một hợp đồng bảo hiểm ông ta đã mua cho bà, từ ngày họ cưới nhau. Kèm vào đó, là một lá thư: “Gửi người vợ thân yêu của anh. Lúc em đọc lá thư này, chắc hẳn anh không còn trên cõi đời này nữa. Anh đã mua bảo hiểm này cho em, anh hy vọng nó có thể giúp anh thực hiện lời hứa của mình khi chúng ta lấy nhau. Đến khi anh không còn ở bên cạnh để chăm sóc cho em nữa thì mong số tiền này có thể giúp anh tiếp tục đùm bọc cho em. Đó là điều anh ước nguyện sẽ được làm suốt cuộc đời anh. Anh sẽ mãi mãi bên em và yêu em thật nhiều”.
Nước mắt bà tuôn chảy hai hàng. Bà cảm thấy yêu ông hơn bao giờ hết. Bà muốn nói vạn lời xin lỗi, muốn nói ngàn lời yêu thương nhưng ông không còn nghe được nữa.
Kẻ chẳng biết gì mà không tự biết mình không biết gì, anh ta là thằng điên – Hãy tránh xa!
Kẻ không biết gì và tự biết mình không biết gì, anh ta là người chất phác – Hãy dạy anh ta!
Kẻ biết mà không biết mình biết, anh ta đang ngủ mê -- Hãy đánh thức anh dậy!
Kẻ biết và tự biết mình biết, anh ta là một kẻ khôn ngoan – Hãy theo anh ta!
Men are four:
He who knows not and knows not he knows not, he is a fool – Shun him!
He who knows not and knows he knows not, he is simple – Teach him!
He who knows and knows not he knows, he is asleep – Wake him!
He who knows and knows he knows, he is wise – Follow him!
Tác giả: Rimpoche Nawang Gehlek
Ngô Văn Xuân – chuyển ngữ
Như chúng ta đã biết, sự chết là điều chắc chắn sẽ xẩy ra. Chẳng ai tránh đựơc. Ngay cả đến những vị tâm linh phát triển tột mức cũng không tránh khỏi. Chẳng có ai sống mãi. Chẳng có ai từng đọc cuốn sách này sẽ sống mãi, bất kể gìa, trẻ, đẹp, xấu, giầu, nghèo cuả người đó ra sao. Nhưng thay vì chúng ta trốn tránh những ý tưởng về sự chết, chúng ta nên làm một điều gì đó cho chính mình nếu chúng ta thử nhìn xem điều gì sẽ tới hay chí ít thì cũng hãy tưởng tượng ra điều ấy. Điều này không chỉ giúp chúng ta thu nhỏ nỗi sợ hãi, mà nó còn tạo nền móng cho chúng ta có cơ hội để đổi thay tiến trình tử biệt vào tiến trình giác ngộ. Còn nếu chúng ta không thể hoàn thành đựơc điều này, thì tối thiểu, chúng ta cũng sẽ có một cái chết an lành.
Bất kể sinh lực chúng ta có ngay từ lúc khởi đầu như thế nào, thì cũng chẳng có thể kéo dài mãi đựơc. Thời gian, ngày, tuần, tháng, năm sẽ làm cạn mòn dần sinh lực đã đựơc ban cho ấy. Rồi tới một ngày, giống như một chiếc giếng cạn sau khi toàn bộ số nước đã bốc hơi hết. Những điều kiện sống cuả chúng ta có thể dễ dàng trở thành những nguyên nhân cho cái chết cuả mình. Những hóa chất trong thân xác chúng ta bị hư hoại. Một món ăn không lành mạnh hoặc một liều thuốc nhầm lẫn có thể đưa tới những hiệu ứng phụ.
Giờ đây chúng ta phải chấp nhận thôi. Nếu để chờ tới khi thực sự tắt thở thì đã quá muộn. Cho nên tôi phải chấp nhận rằng tôi nhất thiết phải lên đường và cái chết cũng luôn đi kèm theo tôi. Chẳng ai biết được chính xác khi nào sẽ xẩy ra, nó có thể là tuần tới, tháng tới hay năm tới. Tôi chẳng chắc rằng tôi còn sống ở đây tới ngày mai hay ngay cả một giờ nữa sắp tới đây. Nếu tôi biết đựơc điều ấy, tôi phải dứt khoát sử dụng bất cứ khoảng thời gian nào tôi đang có để chấm dứt sự nóng giận, ràng buộc và cái Tôi. Khi tôi chết, khi thần thức tôi rời khỏi thân xác, tôi đâu có mang theo đựơc gì ngoài một phiên bản thiện nghiệp hay ác nghiệp; đạo đức hay vô đạo đức; tích cực hay tiêu cực? Tôi sẽ rất cần những phiên bản tích cực. Thực ra tôi chỉ cần có một thôi. Nhưng nếu không thể làm đựơc điều ấy, tối thiểu tôi cũng có thể nối kết với số phận tốt đẹp cuả tôi trứơc khi kết nối với bất kỳ nghiệp xấu nào tôi đã từng tích lũy
Dầu rằng cái chết chỉ là sự phân ly cuả thể xác mà tôi đã từng sử dụng trong đời với tâm linh đã cùng đi theo tôi mỗi lần tôi đầu thai, một tình cảm mãnh liệt cũng vẫn cứ nổi lên trong giờ phút cận tử. Chết là sự chấm dứt toàn bộ mọi hoạt động cuả chúng ta trong đời sống, tốt và xấu. Chúng ta sẽ đau khổ với ý tưởng không còn nhìn thấy hoặc trông thấy điều gì nữa, không còn ở bên hoặc nói chuyện với người thân. Không chịu buông bỏ để ra đi là một vấn đề lớn nhất. Hãy nói bất cứ điều gì cho những ai cần phải nói, viết bất cứ điều gì bạn cần phải viết lại. Nhưng chỉ vậy thôi, còn nếu cứ đeo bám vào những giận dữ, bất bình hay những ràng buộc chặt chẽ thì là điều rất tồi tệ, cho cả người chết lẫn người còn ở lại. Điều quan trọng là hãy dùng sự hiểu biết cuả bạn và ý lực của bạn để chặt đứt những cảm nghĩ xấu, và nếu cần, hãy dứt khoát chặt đứt chúng tức khắc.
Đức Phật đã có khá nhiều đệ tử xuất chúng khi ngài còn sống, một trong những vị ấy có tên là Maudgalyayana. Một trong những đệ tử cuả vị này bị ràng buộc rất chặt, vì thế Maudgalyayana quyết định mang theo 2 người trong một lần du hành có phép thần thông. Đầu tiên ông chỉ họ một đống xương lớn. Một đệ tử hỏi; “Đây là cái gì vậy? “. Maudgalyayana bảo, “Đây là toàn bộ xương cốt cuả con trong những tiền kiếp.” Rồi ông quay qua chỉ cho đệ tử kia, người đang rất khổ đau trong những ràng buộc, một bộ xương với một con rắn đang chui qua chui lại giữa các hốc mắt, xương sườn, bò lên bò xuống giữa các khúc xương. Ông bảo người đệ tử này, “Đây là con trong kiếp trước. Con có sự ràng buộc qúa mạnh trong thân xác con mà con không buông bỏ đựơc, cho nên con đã tái sinh thành một con rắn sống trong những bộ xương cũ cuả con.” Đó là một câu chuyện xưa, và cũng có thể là một câu chuyện thần tiên, nhưng dù sao nó cũng cho ta một hình ảnh về sự ràng buộc tác động ra sao.
Chúng ta bắt đầu chuẩn bị ra sao? Điều tốt đẹp nhất để chuẩân bị cho cái chết là hành trì nhẫn nhục, thương yêu và cảm thông trong khi đang sống. Thực hành nhẫn nhục bất cứ nơi nào có thể để sự giận dữ không khởi lên; tự huấn luyện tình thương yêu tinh túy để sự ràng buộc không còn; luôn kiểm tra cái Tôi để nỗi sợ hãi tan biến; và luôn cố gắng hết mình trong việc khai triển tình yêu thương và lòng thông cảm. Nếu bạn thực hành đựơc điều này, bạn sẽ không còn cảm thấy sợ hãi lúc ra đi. Những ý tưởng tích cực sẽ trở thành thói quen và nẩy nở dần một cách tự nhiên. Và nếu bạn bất ngờ gặp ai đó trong giờ cận tử, bạn cũng có thể giúp họ bằng cách nói cho họ những điều bạn biết.
Nhìn lại cuộc đời mình và xem xét những điều thiện lành mình đã làm. Đừng hối tiếc những sai lầm đã phạm. Có rất nhiều việc buộc chúng ta phải lầm lạc. Chúng ta là con người, cho nên chúng ta lầm lạc. Trong lúc hành trì tâm linh, tinh thần, chúng ta luôn mắc sai lầm, vì thế mới gọi là hành trì, thực tập. Cho nên hãy nghĩ tới những điều tốt lành. Chúng ta đã cố gắng sống trong đạo đức suốt cuộc đời mình -điều đó có nghĩa là chúng ta đã cố gắng sống không làm hại ai, và cố gắng giữ những cam kết. Bất kể loại nghiệp xấu nào chúng ta đã tích lũy, nó cũng chẳng thường hằng. Nó luôn thay đổi. Cách để làm cho nó trở thành thiện nghiệp là qua sự thanh tẩy. Kết tích tiêu cực sẽ không còn nếu bạn thực tâm hối hận về hành động đã làm, và tự cam kết sẽ không tái diễn, nếu bạn có thực tập hành thiền, nó sẽ trở thành một thứ thuốc chữa trị chống lại cái xấu, và nếu bạn có làm một sự đền bù nào đó về tinh thần cho những ai bị bạn xúc phạm, nghiệp xấu cũng tiêu tan.
Nếu bạn đã phạm một hành động gây tác hại tới người khác hay cho chính bản thân, đừng khuyếch đại nó lên. Nếu hồi ức của những hành động ấy tới ám ảnh bạn, hãy gạt nó sang một bên. Hãy luôn nhớ rằng trong suốt cả cuộc đời bạn, bạn luôn cố gắng để trở thành người thiện lành, vì thế cho nên bạn không có thời gian để nghĩ tới những hành động xấu. Đừng để chúng quấy rầy bạn. Bạn đã thanh tẩy chúng và bằng các ý tưởng tốt lành, cho nên tất cả sẽ đựơc cân bằng trong một chừng mực nào đó.
Bất kể thiện nghiệp cuả bạn như thế nào, bất kể những hành động tốt đẹp nào bạn đã làm, hãy luôn coi nó là vô lượng, tràn khắp. Hồi tưởng đến từng hành động, trong từng cảnh ngộ cuả sự tốt đẹp trong cuộc đời, bất kể nó nhỏ bé ra sao và nghĩ là nó bao la trùm khắp. Điều này sẽ giữ lại cùng với bạn, cho nên hãy nghĩ tới nó, ghi nhớ nó. Ngay cả khi nó dễ bị quên lãng, hãy tưởng tượng ra nó bao la, vô vàn.
Đừng sợ hãi. Nỗi sợ hãi đã dằn vặt ta suốt cả cuộc đời. Nó chính là cái TA đang nói, đang dựng chuyện. Hãy nghĩ rằng bạn đã nhìn ra điều ấy và hiểu nó một cách rõ ràng. Bạn đã hoàn toàn phá bỏ cái TA. Nếu nỗi sợ hãi còn hiện ra thì hãy coi đó chỉ là một nhận thức sai lạc. Đó là trò chơi cuả cái TA, và cái TA là lầm lạc. Hãy tự nhủ rằng cái TA đã đi rồi.
Đừng ngạc nhiên với những gì bạn đang trải qua. Không có hiện tượng nào là vĩnh hằng. Cho nên bất cứ điều gì xẩy ra trong lúc bạn cận tử, thì hãy nhớ điều đó không vĩnh hằng và hoàn toàn bình thường. Ghi nhớ kỹ những điều này trong giờ phút cận tử là cách để chuẩn bị cho bạn một cuộc chuyển di tốt đẹp cho kiếp sống tới của bạn.
Thực hiện một cuộc hành trì tâm linh là ăn ngủ với nó, chết cùng với nó. Đó là lý do tại sao nó có thể mang tới những khác biệt cho kiếp sống tới cuả bạn. Chừng nào bạn còn coi nó là ở ngoài con người bạn thì nó chẳng mang lại lợi ích gì cho bạn cả. Những cảm tính tiêu cực sẽ ở cùng với bạn chừng nào “một điều gì đó cao cả” còn ở ngoài bạn, ở một nơi nào đó, xa cách thì nó chẳng giúp gì cho bạn cả. Nếu bạn chỉ thỉnh thoảng cầu nguyện một lần thì bạn trông mong gì hiệu dụng cuả điều ấy? Một vài lần cầu phước, hành lễ có thể mang lại cho bạn ít lợi lộc, nhưng chỉ có vậy thôi. Và điều ấy có thể làm đựơc gì? Chả làm gì cho bạn trong việc thanh tẩy các cảm tính tiêu cực. Để đối phó với các cảm tính tiêu cực, bạn phải sống, ăn, uống, ngủ và cùng chết với sự hành trì cuả chính bạn - Chính điều ấy mới tạo nên sự khác biệt ra sao.
Ông bạn Allen Ginsberg cuả tôi thường nói, “Tôi chẳng thể chứng minh đựơc rằng có sự tái sinh hay không, dù còn bán tín bán nghi nhưng tôi vẫn luôn sẵn sàng cho điều ấy; bởi vì tôi không muốn bỏ lỡ cơ hội cho chính mình.” Và ông đã thực sự sẵn sàng cho việc ấy.
Ông đã gọi điện thoại cho tôi khi ông đựơc chẩn đoán là chỉ còn sống đựơc 4 tháng nữa. Ông rất ngạc nhiên khi ông nhận đựơc tin này. Ông nghĩ rằng nếu ai nói ông sắp chết chắc ông sẽ nổi đóa lên ngay. Nhưng khi nghe tin này ông lại cảm thấy ông đã sẵn sàng để ra đi. Ông gọi phôn cho bạn bè để thông báo. Ông khởi sự vui vẻ với cuộc đời trong sự nhận thức nó sắp đi tới kết thúc. Ông sắp xếp lại những vấn đề riêng tư.
Không lâu sau đó, ông bị đột qụy, hôn mê và tôi đã tới bên ông lúc đó. Căn gác mái ông ở đông chật người - rất nhiều nghệ sĩ, nhà thơ, các diễn viên, những người đã biết và yêu thương ông. Khi tôi bước vào phòng, tôi đọc lời cầu nguyện cho ông và tiến hành các nghi thức tôn giáo cho người hấp hối.
Khoảng nửa đêm, khi thấy ông có vẻ sắp ra đi, tôi hoàn tất nghi thức và rời khỏi phòng. Khoảng 2 giờ sáng, tôi nghe nói ông đã thức dậy, nhìn chung quanh sau đó nhắm mắt lìa đời. Ông vẫn còn ở lại trong xác thân trong tình trạng trầm tư, cho mãi tới 11:30 đêm sau ông mới thực sự mất.
Trước khi bạn chết phải chắc chắn là môi trường chung quanh bạn không bị xáo trộn hỗn độn bởi vì điều ấy sẽ tạo ra những cảm tính tiêu cực. Giữ mình thanh lặng không giận hờn, trói buộc. Trường hợp cuả Allen bạn tôi, ông muốn có một cái chết phóng khoáng giữa bạn bè. Những người khác có thể thích sự tĩnh mịch lặng lẽ.
Môi trường khi cận tử nên tùy theo ý mong muốn cuả bạn, và ý muốn ấy phải ưu tiên hơn ý muốn cuả gia đình. Quan tâm tới bất cứ điều gì bạn cần quan tâm tới để cho khi bạn ra đi sẽ không còn ưu tư về những gì còn bỏ lại, như thể bạn là con chim đậu trên tảng đá, đã sẵn sàng tung cánh mà không có gì lôi kéo bạn trở lui. Bất cứ điều gì bạn quyết định sẽ cho đi hay muốn lưu lại thì hãy làm những điều ấy khi bạn còn sáng suốt, minh mẫn. Nếu có thể thì bạn tự mình làm mà đừng ủy quyền cho ai cả. Nếu bạn trình bầy rõ ràng cho vợ con mọi thứ chuẩn bị, sắp xếp thì tốt nhất vì nó sẽ làm giảm thiểu những khó khăn cho vợ con bạn sau khi bạn chết. Bất cứ điều gì bạn cho đi, thì cũng đừng ràng buộc vấn vương với nó. Đừng để mọi sự nóng giận, ràng buộc ảnh hưởng tới những quyết định cuả bạn. Bởi vì những tình cảm này sẽ còn ám ảnh bạn sau đó, đồng thời tạo nên những ngộ nhận cho những người bạn thương yêu. Điều quan trọng là phải rất độ lượng. Điều ấy sẽ giúp bạn buông lỏng những trói buộc.
Chúng ta có sự trói buộc rất mạnh về ẩm thực, quần áo và danh tiếng, hoặc đơn giản hơn, chúng ta bị trói buộc với những người yêu qúy, trọng nể ta. Từ bỏ ẩm thực và những sở hữu có lẽ dễ dàng, nhưng khó khăn hơn khi từ bỏ tiếng tăm. Cho ngay cả những vị hành thiền trong sa mạc nơi ít có người tới ở mà vẫn còn ước mong những người chăn cưù quanh đó sẽ tìm ra họ và thông báo cho mọi người trong làng hay biết nữa là.
Nếu còn điều gì níu giữ bạn lại, hãy gạt bỏ nó ngay tức khắc để sự ràng buộc đó không còn khi bạn sắp ra đi. Nếu không, nó sẽ thực sự tạo ra những rắc rối trong tiến trình ra đi cuả bạn.
Có một câu chuyện vui về điều này. Một trong những vị thầy cuả tôi, ngài Gomo Rimpoche, là người rất vui tính. Ông không xử sự như một vị đại lạt ma tái sinh. Ông cưới vợ, có một gia đình, và hiện rất nổi tiếng là “Cha cuả những đứa trẻ mồ côi nhà số 14,” ở Mussoori. Ông có một số nhỏ đệ tử rất vững vàng. Hai trong số đó là những quan chức trong chính phủ Tây Tạng đã rời Tây Tạng qua Ấn khoảng giữa thập niên 1950. Họ rất già và sức khoẻ yếu kém lắm, và họ rất mong muốn đựơc ra đi trong khi họ còn đủ minh mẫn để hành trì thiền định trong lúc cận tử. Trong nền văn hóa Tây tạng, một cuộc hành thiền như vậy thường được những thiền giả lão luyện thực hiện. Họ nói với Gomo Rimpoche, ngày họ muốn ra đi. Họ làm tất cả mọi sự chuẩn bị, cho đi mọi vật dụng cuả họ, và làm một thoả thuận với những gia nhân.
Nhưng khi ngày ấn định tới, một trong hai người không chết theo như dự định. Lúc đó Gomo Rimpoche đang ở nhà cùng con cái thì có người tới báo cho ông biết vị quan chức thứ nhất đã chết và yêu cầu ông đến để cầu nguyện. Ông thực hiện, sau đó chờ đợi người tới báo tử cuả vị quan chức thứ 2, nhưng chẳng có ai tới cả. Rimpoche lo sợ đã có chuyện gì chẳng lành xẩy ra nên ông đi đến thẳng nhà cuả đệ tử thứ hai xem ra sao. Ông đựơc người nhà cho biết,” Ồ, sáng nay ông ta bị bịnh nặng và phải đem vào nhà thương rồi.”
Rimpoche tới bịnh viện American Hospital và đựơc biết người này đang trong phòng cấp cứu đặc biệt. Họ không cho ông vào thăm, cho nên ông giả trang là người dọn quyét vệ sinh cuả bịnh viện để vào. Ông hỏi đệ tử cuả ông: “Cái gì đã xẩy ra vậy?”. Người này nói: “Con đã có tất cả mọi dấu hiệu để ra đi, nhưng rồi bỗng nhiên bị đảo ngược cả lại, và nó làm con đau đớn qúa phát la toáng lên cho nên gia nhân mang vào bịnh viện.”
Người này là một hành giả thuận thành nên đáng lẽ ra ông ta khá dễ dàng khi chuyển đổi sang vùng thánh địa. Rimpoche đã không thể tìm ra nguyên nhân cuả trục trặc này. Rồi bỗng dưng ông lưu ý tới đệ tử ông hiện đang bận một chiếc áo rất mới và đẹp. Ông hỏi: “Con mua chiếc áo ấy ở đâu vậy?”
Người đệ tử già trả lời: “Aó đẹp quá phải không? Thầy có thích không? Một người bạn con cho con hôm kia và sáng nay con mới bận.”
Rimpoche bảo, “Thầy thích lắm, thôi con cho thầy đi.”
Nhưng người đệ tử do dự: “Thực sự con không biết có nên biếu thầy hay không, vì con cũng thích chiếc áo này lắm.”
Rimpoche nài nỉ: “Thầy muốn chiếc áo này lắm, còn nếu con không cho thầy, thì chúng mình sẽ chẳng còn quan hệ gì với nhau nữa đâu.”
Vì vậy người đệ tử già cởi bỏ chiếc áo và đưa cho Rimpoche. Ngay lập tức Rimpoche xé toang chiếc áo trứơc mặt đệ tử cuả mình. Ngay sau đó viên quan chức này đã êm thấm ra đi.
Bất kể điều gì sẽ xẩy ra trong tiến trình cận tử, bất kể điều gì bạn sẽ trải qua trong thời điểm này, đừng bao giờ quên phải luôn duy trì một tinh thần đầy tràn yêu thương và lòng cảm thông. Đừng để đám mây u ám cuả sự đau khổ, lo lắng buồn phiền ám ảnh. Nếu bạn thực tập ngay từ bay giờ, thì khi cái chết đến bạn sẽ dễ dàng đem ra sử dụng. Những người thực hành tonglen (Pháp cho yêu thương/nhận khổ đau qua hơi thở) sẽ chết với tonglen trong hơi thở cuả mình. Bạn có thể cảm thấy khó khăn trong việc chấp nhận khổ đau cuả người khác để làm ta biến Cái Ta trong bạn. Điều ấy có vẻ đáng sợ thật, nhưng chỉ vì bạn không làm quen với ý tưởng đó thôi. Trong thực tế, bạn chẳng cho ai và nhận về cái gì. Đó chỉ là phương pháp tập luyện tâm tư để chấp nhận bất cứ điều gì sẽ xẩy ra cho bạn. Khi bạn làm quen với nó được rồi, bạn sẽ thấy điều đó là tốt đẹp, thoải mái và lạc thú. Thậm chí nó còn làm cho bạn cảm thấy hạnh phúc là khác.
Dù rằng bạn có thể lưu ý tới mọi vấn đề, sự giận dữ và ràng buộc vẫn cứ còn nổi lên, đặc biệt là sự tức giận với chính ngay cái chết. Người ta thường tự hỏi, Tại sao lại là tôi? Tại sao tôi lại phải chết trong khi tôi đang có một đời sống tốt đẹp như thế này? Bạn phải chết bởi vì điều đó là không tránh khỏi. Hãy tự nhủ rằng chết là tự nhiên, chẳng có gì bất thường ở đây cả. Khi bạn bình thản lặng lẽ ra đi, bước kế tiếp là tác động tâm linh bạn bằng những ý tưởng tích cực. Nếu bạn tin vào Thượng đế, hãy nghĩ về sự cao cả thiêng liêng cuả Thượng đế và ra đi trong ý tưởng ấy. Nếu bạn là một Phật tử, hãy nghĩ về Đức Phật. Hoặc nghĩ về những đạo sư cuả bạn, những vị Phật che chở phù hộ bạn, những vị luôn đi chung cùng Đức Phật. Hoặc nghĩ tới những tình yêu thương trong sáng, sự cảm thông sâu xa. Nếu tất cả những điều ấy bạn đều không thể tập trung thần thức đựơc thì với một cảm nhận minh mẫn cuả tinh thần tham dự và hào hứng, bạn hãy nghĩ đến một vùng đất đẹp, ở đó mọi thứ đều vô vàn cởi mở, ở đó có những vị thánh, tiên đang chờ đón để giúp đỡ bạn.
Giữ vững những điều này cho tới lúc bạn chìm vào vô thức. Sự mường tượng này sẽ giúp cho cuộc đời sau cuả bạn tốt đẹp hơn lên nhiều.
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.