MỘT CÂU CHUYỆN Ý NGHĨA
Ông Winston Churchill –
Cựu Thủ tướng Anh từng nói rằng “chúng ta sinh sống bằng những gì chúng ta kiếm được, nhưng chúng ta tạo lập đời mình bằng chính những gì mà chúng ta cho đi”.
Thế giới này là một nơi tuyệt vời. Bạn cho đi thứ gì thì sẽ nhận được những điều tốt đẹp đáp lại!
Câu chuyện ý nghĩa dưới đây sẽ giúp mỗi chúng ta nhìn thấy được “nhân” và “quả” của cuộc đời mình, nó cũng sẽ là bài học để mỗi khi bạn đứng trước một hoàn cảnh cần phải gieo hạt tốt, bạn sẽ không ngần ngại hành động.
THOÁT CHẾT VÌ HÀNH ĐỘNG THEO NHÂN – QUẢ
Câu chuyện kể về vị danh tướng Dwight Eisenhower. Ông là một vị tướng 5 sao trong Lục quân Hoa Kỳ và là Tổng thống Hoa Kỳ thứ 34 từ năm 1953 đến 1961. Trong thời Thế chiến thứ 2, ông phục vụ với tư cách là tư lệnh tối cao các lực lượng đồng minh tại Châu Âu, có trách nhiệm lập kế hoạch và giám sát cuộc tiến công xâm chiếm thành công vào nước Pháp và Đức năm 1944 – 45 từ mặt trận phía Tây.
Vào thời đó, một hôm ông Eisenhower cùng với đoàn tùy tùng vội vã lái xe về tổng hành dinh quân đội ở Pháp để tham dự một cuộc họp khẩn cấp.
Lúc đó trời đang mùa đông lạnh buốt lại thêm mưa tuyết rơi phủ đầy khắp nơi. Xe đang chạy thì ông bất ngờ để ý nhìn thấy có hai vợ chồng già người Pháp ngồi ở bên lề đường đang run rẩy vì cái lạnh giá buốt.
Ông lập tức ra lệnh cho đoàn tùy tùng ngừng lại và muốn phái một thông dịch viên tiếng Pháp tới hỏi thăm cặp vợ chồng này.
Một viên tham mưu nhắc nhở ông là nên để cho nhân viên công vụ tại địa phương lo chuyện này, phái đoàn phải đi nhanh lên vì sợ trễ cuộc họp. Ông nói nếu đợi cảnh sát địa phương tới thì sợ là quá muộn và hai người này sẽ chết cóng.
Sau khi hỏi thăm, ông Eisenhower biết được là họ đang muốn tới Paris để gặp con trai nhưng xe của họ bị chết máy giữa đường.
Ông bảo hai vợ chồng già mau lên xe của ông. Ông liền ra lệnh thay đổi lộ trình, đưa cặp vợ chồng tới Paris trước, rồi ông và đoàn tùy tùng mới lái xe tới tổng hành dinh để dự cuộc họp.
Không ngờ chính sự chuyển hướng bất ngờ ngoài kế hoạch này đã cứu mạng ông! Quân Quốc Xã có tin tình báo nên biết chính xác hành trình của ông và đã bố trí sẵn các tay súng bắn tỉa nấp rình tại các ngã tư. Nếu ông tới thì sẽ bị hạ sát ngay chỗ đó. Nhưng hóa ra chỉ nhờ vào lòng tốt gieo đúng lúc đã giúp ông đổi lộ trình và tránh thoát cuộc mưu sát.
THOÁT CHẾT
Câu chuyện thâm thúy trên đang nói với chúng ta một triết lý mà không phải ai cũng thấu hiểu, tin tưởng.
Sự cho đi hay “gieo hạt” là một quy luật vũ trụ, sự cho đi có ý nghĩa, giá trị chính là ở thời điểm và cách cho. Bạn gieo hạt đúng lúc, có thể thay đổi cả số mệnh và cuộc đời của bạn.
Vì vậy, nếu bạn đang khó khăn, bế tắc,… hãy nhìn lại hành trình mà bạn đã đi qua, sự cho đi đã đúng và đủ hay chưa. Đừng đòi hỏi quá nhiều cho bản thân khi chúng ta chưa biết cho đi nhiều hơn.
Trên cơ sở triết lý Duyên khởi, Phật giáo cho rằng, những hiểm họa về môi trường, biến đổi khí hậu toàn cầu, vấn nạn nghèo đói... mà nhân loại ngày nay đang đối mặt là chính từ hậu quả của tư duy và hành động “Tham, Sân, Si” của con người đối với thế giới tự nhiên.
>> Phật giáo và môi trường
Thời đại mà chúng ta đang sống được gọi là “thời đại công nghệ 4.0” tức là thời đại của khoa học kĩ thuật tiên tiến, của máy móc hiện đại. Song song với sự hiện đại và tiện ích đó con người phải đối diện với những vấn đề ô nhiễm môi trường, những thiệt hại sinh thái gây ra và tất cả những điều ấy đang bắt đầu đe doạ đến sức khoẻ con người.
Nếu Tỳ – kheo vì Tam bảo mà trồng xuống ba loại cây: Một là cây ăn quả; hai là, cây có hoa; ba là, cây có lá: điều này chỉ có phước không có tội
Nếu Tỳ – kheo vì Tam bảo mà trồng xuống ba loại cây: Một là cây ăn quả; hai là, cây có hoa; ba là, cây có lá: điều này chỉ có phước không có tội
Phật giáo là tôn giáo có ý thức bảo vệ môi trường một cách sâu sắc, không chỉ coi trọng bảo vệ tâm hồn bên trong con người mà đồng thời chú ý sự cân bằng sinh thái bên ngoài.
Trên cơ sở triết lý Duyên khởi, Phật giáo cho rằng, những hiểm họa về môi trường, biến đổi khí hậu toàn cầu, vấn nạn nghèo đói,... mà nhân loại ngày nay đang đối mặt là chính từ hậu quả của tư duy và hành động “Tham, Sân, Si” của con người đối với thế giới tự nhiên.
Trồng hoa, trồng cây ăn quả, để tịnh hoá làm sạch không khí, bảo vệ nguồn nước, lợi người ích vật, ích mình lợi người, tất nhiên có thể tăng thêm công đức.
Trồng hoa, trồng cây ăn quả, để tịnh hoá làm sạch không khí, bảo vệ nguồn nước, lợi người ích vật, ích mình lợi người, tất nhiên có thể tăng thêm công đức.
Trong Tỳ – ni – mẫu kinh quyển 5, Đức Phật cho biết: “Nhược Tỳ – kheo vì Tam bảo chủng tam chủng thụ: Nhất giả, quả thụ nhị giả hoa thụ; tam giả, diệp thụ: thử đãn hữu phước vô quá” (Nếu Tỳ – kheo vì Tam bảo mà trồng xuống ba loại cây: Một là cây ăn quả; hai là, cây có hoa; ba là, cây có lá: điều này chỉ có phước không có tội)
Trong Tăng nhất A hàm kinh quyển 10, Đức Phật cũng nói rằng: “Viên quả thí thanh lương, kiều lương độ nhân dân, cận đạo tác thanh xí, nhân dân đắc hưu tức”. Trồng hoa, trồng cây ăn quả, để tịnh hoá làm sạch không khí, bảo vệ nguồn nước, lợi người ích vật, ích mình lợi người, tất nhiên có thể tăng thêm công đức.
Bài liên quan
Những bức ảnh ấn tượng về môi trường đoạt giải thưởng Ciwem
Với tư cách là một tôn giáo truyền thống của người Việt Nam, Phật giáo đã đóng vai trò tích cực trong việc hình thành nếp sống và ý thức tham gia bảo vệ môi trường hiện nay bằng nhiều cách, thể hiện cụ thể trên các mặt sau:
Thứ nhất, bảo vệ mạng sống. Lối sống ăn chay không ăn thịt của nhà Phật còn có cơ sở từ thuyết Nghiệp và Nhân quả rất có ý nghĩa đối với ý thức và hành động về môi trường. Theo Phật giáo, muốn thoát khổ, chấm dứt vòng luân hồi, con người phải tạo nghiệp thiện, mà trước hết là không được sát hại sinh linh, cũng như không khuyến khích sát hại sinh linh. Đó chính là ý thức về môi trường sống thiện, mang tính nhân bản, rất có ý nghĩa giáo dục về môi trường trong cuộc sống của chúng ta ngày nay.
Phật giáo là tôn giáo có ý thức bảo vệ môi trường một cách sâu sắc, không chỉ coi trọng bảo vệ tâm hồn bên trong con người mà đồng thời chú ý sự cân bằng sinh thái bên ngoài.
Phật giáo là tôn giáo có ý thức bảo vệ môi trường một cách sâu sắc, không chỉ coi trọng bảo vệ tâm hồn bên trong con người mà đồng thời chú ý sự cân bằng sinh thái bên ngoài.
Thứ hai, lối sống giản dị, tiết kiệm, cân bằng, “thiểu dục tri túc” của Phật tử sẽ góp phần làm giảm sức ép vào môi trường và hệ sinh thái tự nhiên.
Thứ ba, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục Phật tử nhận thức mối liên hệ mật thiết giữa con người với thế giới tự nhiên qua giáo lí duyên khởi và vô ngã, từ đó gây dựng niềm tin về một đạo đức ứng xử “thiện” với tự nhiên, môi trường nhằm tiến tới một thế giới chung an bình, tốt đẹp.
Vì vậy, để bảo vệ môi trường sống trong điều kiện hiện nay, theo Phật giáo, cần phải hoạch định được phương thức giáo dục và định hướng sống “thiện” với tự nhiên, giúp tín đồ hình thành thói quen có ý thức tự giác cao với những hệ quả của hành vi bản thân đối với môi trường.
Giáo dục của nhà Phật về vấn đề ăn chay với việc bảo vệ môi trường
Thứ bảy, 08/06/2019 | 11:15
Phật giáo không chỉ khuyên con người về nhân quả, nghiệp báo, làm lành lánh dữ, hướng dẫn con đường giải thoát … mà còn có những bài giảng liên quan đến bảo vệ môi trường.
>>Phật giáo và môi trường
Nhìn lại lịch sử Đức Phật, chúng ta có thể thấy cả cuộc đời Ngài đều gắn liền với thiên nhiên. Ảnh minh họa
Nhìn lại lịch sử Đức Phật, chúng ta có thể thấy cả cuộc đời Ngài đều gắn liền với thiên nhiên. Ảnh minh họa
Bài liên quan
Ăn chay bảo vệ môi trường!
Vấn đề bảo vệ môi trường đã và đang là điểm nóng và thu hút sự quan tâm của toàn nhân loại. Trước những biến động dữ dội hằng ngày, hằng giờ diễn ra hành tinh như thiên tai, hạn hán, núi lửa, sóng thần, các nhà khoa học, tổ chức, cá nhân đang ra sức vận động mọi người hãy chung tay bảo vệ môi trường vì một thế giới tốt đẹp hơn. Nhiều chương trình bảo vệ môi trường như hưởng ứng “Giờ Trái Đất”, “Ngày môi trường thế giới”, kêu gọi mọi người không dùng các sản phẩm làm từ các con thú … Việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường của con người trong giáo lý nhà Phật cũng vô cùng sâu sắc và mang giá trị to lớn.
Năm 624 TCN, tại vườn Lâm Tỳ Ni, Thái tử Tất Đạt Đa đản sanh. Sau khi xuất gia học đạo, ngài tu ở rừng khổ hạnh lâm. Dưới gốc cây Bồ đề, Đức Phật chứng quả giác ngộ vô thượng.
Bài pháp thoại đầu tiên của đức Phật cho năm anh em Kiều Trần Như là ở Lộc Uyển – Vườn Nai, xứ Ba La Nại. Cuối cùng Đức Phật thị tịch ở rừng Sa La. Có thể thấy rằng, cả cuộc đời của Như Lai từ khi thị hiện cho đến lúc nhập Niết Bàn đều gắn liền với môi trường, cây cỏ thiên nhiên. Đây không phải là trường hợp ngẫu nhiên mà thực tế mọi chuyện đều phải được soi chiếu bằng tuệ giác của bậc Giác Ngộ mới có thể hiểu hết ý nghĩa của nó.
Không chỉ cuộc đời tu tập và hành đạo của đức Phật ở trong rừng, cạnh những dòng suối trong lành, tịch tịnh mà ngay trong giới luật của hàng Tỳ kheo lúc bấy giờ trong việc bảo vệ môi trường cũng rất nghiêm ngặt.
Không chỉ cuộc đời tu tập và hành đạo của đức Phật ở trong rừng, cạnh những dòng suối trong lành, tịch tịnh mà ngay trong giới luật của hàng Tỳ kheo lúc bấy giờ trong việc bảo vệ môi trường cũng rất nghiêm ngặt. Ảnh minh họa
Không chỉ cuộc đời tu tập và hành đạo của đức Phật ở trong rừng, cạnh những dòng suối trong lành, tịch tịnh mà ngay trong giới luật của hàng Tỳ kheo lúc bấy giờ trong việc bảo vệ môi trường cũng rất nghiêm ngặt. Ảnh minh họa
Thực tế, khi đức Phật còn tại thế, bảo vệ môi sinh chưa đặt thành vấn đề, thế nhưng đức Phật với trí tuệ sáng suốt và lòng từ bi cứu khổ của Ngài, Ngài đã là bậc vĩ nhân hướng dẫn con người thực thi nếp sống hài hòa với thiên nhiên, bảo vệ môi sinh là bảo vệ sự sống con người.
Cụ thể, với trách nhiệm của bậc Đạo sư, Ngài đã chủ động tạo ra một môi trường tu học thích hợp cho những đệ tử xuất gia và tại gia của Ngài, Đức Phật đã chủ động tìm cách xây dựng cho mình và cho hội chúng Tăng già một nếp sồng hòa hài với thiên nhiên, một đạo tràng tu tập thích hợp hường tới giác ngộ và Niết bàn.
Nhìn lại cuộc đời đức Đức Phật, chúng ta sẽ nhận ra Ngài là một bậc Giáo chủ độc nhất sinh ra dưới cây Vô ưu tại vườn Lâm Tỳ Ni, hành trì Thiền định cho đến giác ngộ dưới gốc cây Bồ Đề, thuyết pháp lần đầu tiên tại vườn Nai ở Ba La Nại, và cuối cùng nhập Niết Bàn dưới hai cây SaLa tại Kusinara.
Bài liên quan
Trồng cây trên mạng internet góp phần bảo vệ môi trường
Đời sống của Ngài là gần gũi thiên nhiên, thân cận núi rừng, xa chốn phồn vinh. Trong 45 thuyết độ sanh, Ngài để lại cho chúng ta hình ảnh một bậc đạo sư đi bộ từ làng này qua làng khác, từ đô thị này qua đô thị khác.
Sau khi khất thực trở về, Ngài thường ngồi trong một khu rừng gần đấy để an nghĩ hoặc thuyết pháp, hoặc ngồi thiền cho đến chiều. Nếp sống này được kinh điển ghi lại, như là vấn đề cảnh thức gìn giữ môi trường, giảm thiểu ô nhiễm: “Nhất bát thiên gia phạn, Cô thân vạn lý du, Kỳ vị sanh tử sự, Giáo hóađộ xuân thu” (Một bát ăn ngàn nhà, Một thân đi vạn dặm. Vì vấn đề sanh tử, Giáo hóa độ ngày qua).
Đức Phật luôn luôn tán thán núi rừng, và xem núi rừng là nơi trú ẩn lý tưởng cho những vị xuất gia hành đạo: “Làng mạc hay rừng núi, Thung lũng hay đồi cao, La hán trú chỗ nào. Đất ấy thật khả ái” và Phật khẳng định: “Khả ái hay núi rừng, Chỗ người phàm không ưa. Vị ly tham ưa thích, Vì không tìm dục lạc”. (Pháp cú 98 – 99).
Trong những bài thuyết pháp, Ngài thường dùng các ẩn dụ tìm thấy trong thiên nhiên, trong môi trường sống để minh họa cho giáo lý sống động thiết thực hiện tại. Nói đến sự cách biệt giữa pháp thiện và pháp ác, Ngài dạy: “Rằng xa thật là xa khoảng cách giữa mặt đất và vòm trời. Rằng xa thật là xa khoảng cách giữa bờ bên này đến bờ bên kia. Rằng xa thật là xa, khoảng cách giữa mặt trời mọc với chỗ mặt trời lặn, nhưng còn cách xa, cách xa hơn nữa là khoảng cách giữa pháp bất thiện và pháp kẻ ác” (Tăng Chi tr. 410).
Nhìn lại cuộc đời đức Đức Phật, chúng ta sẽ nhận ra Ngài là một bậc Giáo chủ độc nhất sinh ra dưới cây Vô ưu tại vườn Lâm Tỳ Ni, hành trì Thiền định cho đến giác ngộ dưới gốc cây Bồ Đề, thuyết pháp lần đầu tiên tại vườn Nai ở Ba La Nại, và cuối cùng nhập Niết Bàn dưới hai cây SaLa tại Kusinara. Ảnh minh họa
Nhìn lại cuộc đời đức Đức Phật, chúng ta sẽ nhận ra Ngài là một bậc Giáo chủ độc nhất sinh ra dưới cây Vô ưu tại vườn Lâm Tỳ Ni, hành trì Thiền định cho đến giác ngộ dưới gốc cây Bồ Đề, thuyết pháp lần đầu tiên tại vườn Nai ở Ba La Nại, và cuối cùng nhập Niết Bàn dưới hai cây SaLa tại Kusinara. Ảnh minh họa
Ngày nay, tiếp nối con đường hoằng dương chánh pháp, các chư Tôn đức Tăng Ni trong nhiều bài pháp thoại của mình đều giáo dục Phật tử biết bảo vệ môi trường bằng nhiều việc làm thiết thực như ăn chay, tránh sát sanh, tránh mặc những trang phục làm từ da thú…
Trong nhiều bài pháp thoại như Ăn chay của Hòa thượng Thích Trí Quảng; Ăn chay vì thế giới hòa bình của Thượng tọa Thích Nhật Từ; Trái đất này là của chúng ta, Ăn chay và ăn mặn, Ăn chay, sức khỏe và môi trường, Tận thế do đâu của Đại đức Thích Phước Tiến đều là những bài dạy bổ ích cho không chỉ riêng hàng Phật tử mà có ý nghĩa với mọi người trên khắp thế giới này. Trong bài pháp của mình, các Thầy đã nêu lên vấn nạn ô nhiễm môi trường, thiên tai, hạn hán đều xuất phát từ lòng tham của con người.
Bài liên quan
Phật giáo với vấn đề bảo vệ môi trường
Với ham muốn bồi đắp cho thân này mà con người đã giết hại rất nhiều động vật. Để phục vụ cho nhu cầu của mình, hàng ngàn khu chăn nuôi gia súc hình thành. Những thống kê được đưa ra rất chính xác và dựa trên các số liệu cụ thể: các nhà khoa học đã nghiên cứu và thấy rằng các chất thải của việc chăn nuôi gia súc thải ra môi trường nước, không khí gấp 4 lần chất thải của xe hơi và các khu công nghiệp (Ăn chay bảo vệ môi trường của Đại đức Thích Phước Tiến).
Thêm vào đó, việc chăn nuôi gia súc gia cầm, lượng khí metan thải ra từ các vật nuôi đã góp phần làm biến đổi khí hậu, tăng hiệu ứng nhà kính. Trong bài pháp thoại Ăn chay vì thế giới hòa bình của Thượng tọa Thích Nhật Từ đã nêu lên mức độ tổn thất nước ngọt, không khí, đất của công nghệ sản xuất thực phẩm mặn là rất lớn: Để chế biến 450 gram thịt mất 9,46 m3 nước; Cứ 7 tấn gà bị giết thì có 1, 6 tấn chất thải tung ra ngoài không khí, tạo ra 550 triệu tấn khí metan, ảnh hưởng đến sự nóng lên toàn cầu; Cách đây khoảng 40 năm. độ dày của đất màu là 53 cm trên hành tinh thì nay chỉ nơi cao nhất chỉ là 15 cm. Mỗi năm, chúng ta mất khoảng 25 tỷ tấn đất màu. Tất cả những thiệt hại ấy bắt nguồn từ chính nhu cầu ăn uống các sản phầm làm từ động vật của con người.
Như vậy, nhờ kết hợp khéo léo, uyển chuyển từ các con số khoa học cụ thể, các bài giảng của các giảng sư đã trở nên rất gần gũi và có sức tác động mạnh mẽ đến ý thức của người dân trong việc chung tay bảo vệ vì một thế giới sanh – sạch – đẹp.
Ngày nay, nhiều người buộc phải thừa nhận giá trị thực sự mà ăn chay đem lại lợi lạc cho sức khỏe con người và góp phần bảo vệ môi trường. Phật giáo đã góp phần giáo dục con người về nhân cách, đạo đức, lối sống và cả ý thức chung về một thế giới hòa bình, trong lành và xinh đẹp.
11,6 tỉ hạt vi nhựa có trong một gói trà túi lọc cao cấp
Thứ sáu, 27/09/2019 | 16:46
Một số túi trà bằng nhựa dạng túi lọc cao cấp có thể để lại hàng tỉ hạt vi nhựa trong tách trà của bạn, các nhà nghiên cứu Canada cho biết.
>>Phật giáo và môi trường
Như chúng ta đã biết, các hạt vi nhựa được tìm thấy rộng rãi trong môi trường, trong nước máy và nước uống đóng chai, và cả trong một số loại thực phẩm.
Bài liên quan
Ẩn họa khi uống nước trong chai nhựa
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho biết các hạt như vậy trong nước uống dường như không gây rủi ro. Nhưng tổ chức này vẫn kêu gọi cần có nhiều nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này do hiện thời những phát hiện chỉ dựa trên "thông tin hạn chế".
Quay trở lại với trà túi lọc. Trong khi hầu hết các túi trà được làm từ giấy, một số thương hiệu cao cấp đã chuyển sang sử dụng một loại túi lưới nhựa cho sản phẩm của họ.
Các nhà nghiên cứu đến từ Đại học McGill ở Montreal, Canada đã mua bốn loại trà thương mại khác nhau. Họ lấy trà bên trong ra và đặt các túi trà rỗng vào nước nóng 95 độ C giống như khi đang pha trà.
Kết quả họ phát hiện chỉ cần một túi trà nhựa thôi đã giải phóng khoảng 11,6 tỉ hạt vi nhựa (microplastic) và 3,1 tỉ hạt nano nhỏ hơn vào tách nước. Các hạt này hoàn toàn không thể thấy được bằng mắt thường.
Ảnh minh họa: CBS/Shutterstock
Ảnh minh họa: CBS/Shutterstock
Bài liên quan
73.000 mảnh nhựa đi vào cơ thể người mỗi năm
Mức độ "các hạt được giải phóng từ loại túi trà làm bằng nhựa này cao hơn nhiều lần so với số lượng vi nhựa được báo cáo trước đây trong các loại thực phẩm khác", theo nhóm nghiên cứu.
Nhà nghiên cứu Laura Hernandez nói rằng họ đã rất ngạc nhiên trước dữ liệu thu thập được.
Bà lưu ý đây là cơ hội để người tiêu dùng, cũng như những người muốn giảm việc sử dụng nhựa, nhận thức rõ hơn về việc mua hàng của họ.
"Thật sự là không cần phải đóng gói trà túi lọc bằng nhựa, mà sau cùng sẽ trở thành nhựa sử dụng một lần", Hernandez nhận định. "Điều đó khiến bạn không chỉ ăn nhựa mà còn là gánh nặng cho môi trường".
Nghiên cứu được công bố trên tạp chí Khoa học và Công nghệ môi trường.
Hỏa táng giúp cho người sống xem nhẹ thân này, và thấy được thân này rất giả tạm, chúng ta không bị chấp mắc vào cuộc đời và hơn thế nữa giải quyết được vấn đề đất, người sống sẽ không phải lo thiếu đất.
>>Phật giáo thường thức
Từ xa xưa đến giờ, nhân loại chúng ta xử lý thân xác khi tắt thở thì có nhiều hình thức xử lý, có dân tộc họ thủy táng, dân tộc ta từ trước tới nay thì địa táng, chôn xuống đất, có nơi họ hỏa táng như Ấn Độ, phương Tây cũng hỏa táng rất nhiều, cũng có nơi họ thú táng, điểu táng, tức quăng xác cho chim, cho thú ăn, có nơi thì không táng, họ treo xác lên trên cây… có nơi lại ướp xác như ở Ai Cập.
Tục Thủy táng.
Tục Thủy táng.
Nhân loại chúng ta có nhiều cách xử lý thân xác sau khi chết, ở Việt Nam ta, từ trước tới nay đa phần là địa táng.
Bài liên quan
Đức Phật giảng như thế nào về cái chết và quy luật sinh lão bệnh tử trên đời?
Vậy sau khi chết, chúng ta nên chôn xác hay thiêu xác? Theo quan điểm nhà Phật rất rõ ràng, cái thấy biết của nhà Phật, một chúng sinh hữu tình có hai phần là phần thân xác và phần tâm linh, theo thế gian gọi là hồn và xác. Hồn là phần quan trọng, xác chỉ là đất, nước, chết rồi chỉ về với cát bụi, nhà Phật gọi xác là thân tứ đại, trong Ngũ uẩn thì xác thuộc về Sắc uẩn. Còn bốn uẩn còn lại là thuộc về tinh thần. Phần tinh thần khi bốn uẩn đó tan rã thì Sắc uẩn về với cát bụi, còn bốn uẩn còn lại sẽ di chuyển về kiếp sau, tái sinh một đời sống mới.
Nhà Phật coi thân xác như chiếc áo, mỗi kiếp chúng ta mặc vào rồi hết hạn lại cởi bỏ ra, cho nên trong nhà Thiền từng nói: “Sinh như đắp chăn đông, Tử như cởi áo hạ”. Khi chúng ta học Phật cũng phải quan niệm về thân này như vậy, thân này không phải là của mình, không phải là chính mình, trước hết là của cha mẹ cho mình mượn, chúng ta mượn máu huyết của cha mẹ, sau đó ra đời mượn đất nước đắp vào. Đến lúc chết rồi thì phải trả lại.
Khi một người chết thì ta nên xử lý thế nào? Theo tập tục truyền thống của dân tộc ta là đem chôn, nó trở thành một truyền thống. Trong những năm gần đây thì hình thức hỏa táng sau khi chết khá phát triển, và rất nhiều gia đình tiến bộ, nhiều người tiến bộ tự nguyện ghi di chúc cho con cháu sau khi chết hãy đem đi hỏa táng, và nhiều gia đình hỏa táng rất yên ổn, không có vấn đề gì. Nhưng cũng có gia đình gặp những chuyện bất an sau khi hỏa táng.
Nhà Phật coi thân xác như chiếc áo, mỗi kiếp chúng ta mặc vào rồi hết hạn lại cởi bỏ ra, cho nên trong nhà Thiền từng nói: “Sinh như đắp chăn đông, Tử như cởi áo hạ”.
Nhà Phật coi thân xác như chiếc áo, mỗi kiếp chúng ta mặc vào rồi hết hạn lại cởi bỏ ra, cho nên trong nhà Thiền từng nói: “Sinh như đắp chăn đông, Tử như cởi áo hạ”.
Khi chúng ta giải quyết phần tâm linh không tốt, khiến cho vong linh chấp trước, phần thần thức mến tiếc thân xác đó, họ cảm thấy mình nóng, cũng giống như chiếc đồng hồ rơi xuống đất, ai đó lấy chân di đi thì bản thân ta thấy tiếc, thấy đau, vì đó là chiếc đồng hồ của ta. Thân xác cũng vậy, nếu mang vào lò thiêu thì thần thức sẽ thấy rất nóng, đó là sự chấp trước, do tâm chấp trước sinh ra.
Bài liên quan
Chết là lẽ đương nhiên
Để xử lý tốt việc này, đối với người trước khi mất, chúng ta phải khai thị, nói cho người đó rõ quan niệm về thân, thần thức với thân có thể rời nhau để họ không chấp vào thân, hoặc người đó giác ngộ, họ tự nguyện rằng sau chết sẽ chấp nhận hỏa táng hoặc chúng ta có thể khai thị cho người đó để họ giác ngộ trước khi chết, hoặc khi người đó mất rồi, chúng ta sẽ khai thị cho vong linh, để cho vong linh không chấp trước vào thân đó nữa thì không vấn đề gì cả.
Đây là một việc làm rất quan trọng, bởi vì dân tộc Việt đã từ lâu quen với tập tục chôn sau khi chết, cho nên chúng ta phải giải quyết khâu tư tưởng này trước đối với người sống và đối với vong linh đều phải khai thị. Thì sẽ rất tốt và không có vấn đề gì xảy ra. Nhiều người quan niệm sau khi chết sẽ thấy nóng và về báo mộng thì không phải thế, đó là khi vong linh chấp trước vào thân xác, sau khi được giác ngộ, được hiểu thì sẽ không có vấn đề gì xảy ra.
Bồ tát Quảng Đức sau khi tự thiêu cũng được chúng đệ tử đem nhục thân về hỏa thiêu.
Bồ tát Quảng Đức sau khi tự thiêu cũng được chúng đệ tử đem nhục thân về hỏa thiêu.
Bài liên quan
Xóa đi sự cách biệt giữa sống và chết
Đức Phật của chúng ta cũng được các chúng đệ tử đưa đi hỏa táng. Các vị Thánh tăng trước đây cũng hỏa táng, hỏa táng rất sạch sẽ, văn minh, chúng ta không phải lấp xuống, đào lên. Khi hỏa táng, vong linh sẽ không chấp trước vào thân xác, và khi hỏa táng, vong linh rất dễ siêu thoát. Còn khi chúng ta địa táng, xây mồ mả đẹp thì vong linh lại chấp trước vào đó thì sẽ rất khó siêu thoát. Hỏa táng giúp cho người sống xem nhẹ thân này, và thấy được thân này rất giả tạm, chúng ta không bị chấp mắc vào cuộc đời và hơn thế nữa giải quyết được vấn đề đất, người sống sẽ không phải lo thiếu đất.
Đức Phật làm điều gì cũng đều biết trước, Ngài là tấm gương về việc hỏa táng. Cho nên chúng ta nên hỏa táng, bản thân vong linh cũng rất lợi ích, người sống cũng rất nhàn hạ
Cuộc sống của con ở trong chùa cứ trôi đi từng ngày bình yên và thanh thản. Hết giờ đi học ở trường lại trở về với ngôi chùa thân yêu và cũng là ngôi nhà thứ hai của con nơi đó con có sư phụ và các bạn.
>>Góc nhìn Phật tử
“Bạch sư phụ! Con vào chùa ở với sư phụ được không ạ? Con muốn ở trong chùa với sư phụ,…”. Sư phụ mỉm cười và cho con được ở lại chùa từ ngày ấy.
Thấm thoát con đã đến chùa cũng được mấy năm. Những ngày đầu tiên, thực sự con không quen với những thời khóa sinh hoạt ở đây. Ban đầu, tất cả những điều đó đã khiến con có cảm giác “khó chịu” nhưng bây giờ quen rồi thì lại khác.
Thấm thoát con đã đến chùa cũng được mấy năm. Những ngày đầu tiên, thực sự con không quen với những thời khóa sinh hoạt ở đây. Ban đầu, tất cả những điều đó đã khiến con có cảm giác “khó chịu” nhưng bây giờ quen rồi thì lại khác.
Thấm thoát con đã đến chùa cũng được mấy năm. Những ngày đầu tiên, thực sự con không quen với những thời khóa sinh hoạt ở đây. Ban đầu, tất cả những điều đó đã khiến con có cảm giác “khó chịu” nhưng bây giờ quen rồi thì lại khác.
Cổ nhân có câu: “Nhập gia thì phải tùy tục”, vì vậy 4h30 sáng con thường lên chùa tham gia thời khóa công phu buổi sáng cùng với Ni chúng.
Bài liên quan
Những cổ vật độc đáo ở ngôi chùa làng biển
Có thể nói phải dậy sớm như một “cực hình” với con nhưng bây giờ nghĩ lại thấy dậy sớm cũng có nhiều thú vị. Bởi dậy sớm được tụng Kinh, niệm Phật đã mang lại cho con nhiều năng lượng cho một ngày mới.
Kết thúc thời khóa công phu sớm, con đi chấp tác theo sự phân công từ trước. Người thì nấu cơm cho đại chúng, người thì dọn dẹp nhà Mẫu hay nhà Tổ hoặc Chánh điện…người quét sân, người dọn vệ sinh.
Mặc dù, mỗi người một công việc khác nhau nhưng con cảm nhận trong lòng ai cũng có những niềm vui hỷ lạc được biểu hiện trên từng khuôn mặt. Bởi con biết, mọi người vẫn đang có mặt cho nhau trong từng hơi thở của cuộc sống ở Thiền môn.
Mỗi lần lau dọn các ban thờ, thắp nến, đốt nhang… đặc biệt là ngắm nhìn những bức tượng, con cảm nhận được chư Phật, chư Bồ Tát như đang ở ngay trước mắt. Con cảm nhận được sự gần gũi và thân quen đến lạ lùng!
Mỗi lần lau dọn các ban thờ, thắp nến, đốt nhang… đặc biệt là ngắm nhìn những bức tượng, con cảm nhận được chư Phật, chư Bồ Tát như đang ở ngay trước mắt. Con cảm nhận được sự gần gũi và thân quen đến lạ lùng!
Con thích nhất là được chấp tác trên Chánh điện và nhà Tổ. Mỗi lần lau dọn các ban thờ, thắp nến, đốt nhang… đặc biệt là ngắm nhìn những bức tượng, con cảm nhận được chư Phật, chư Bồ Tát như đang ở ngay trước mắt. Con cảm nhận được sự gần gũi và thân quen đến lạ lùng!
Bài liên quan
Lễ Khai Pháp Trường Hạ Tiên Hương Phật lịch 2563 – DL. 2019 tại Nam Định
Ở chùa vốn nhiều cây xanh. Mùa lá rụng đến, những chiếc lá vờn theo gió mà “đua nhau” thả mình xuống sân. Khiến sân chùa lúc nào cũng vương nhiều lá nhưng việc này không làm con bận lòng mà có lẽ con phải cảm ơn những chiếc là vàng rơi ấy đã tạo cho con được quét sân nhiều hơn, lâu hơn. Mỗi nhát chổi đưa ra,, con lại có cơ hội để niệm bốn chữ “A Di Đà Phật” và những lần như vậy con thấy trong lòng nhẹ nhàng hơn, phiền não như phần nào được gỡ bỏ.
Có những lần con nấu cơm cho sư phụ và anh chị em tá túc tại chùa. Sư phụ có dạy, khi nấu cơm thì phải đặt cái tâm hoan hỷ của mình vào từng món ăn. Có như vậy, món ăn và người thọ nhận thức ăn mới cảm thấy ngon, hỷ lạc và nuôi dưỡng thân tâm.
Nghe lời sư phụ, mỗi khi nấu ăn, con thường giữ chánh niệm, đặt sự tập trung của mình vào từng công đoạn nấu ăn từ khâu chuẩn bị đến lúc nấu và sắp cơm. Vì vậy mà mỗi lần ăn cơm, con đều được tán dương và “khen ngợi”, nhiều khi con cũng thấy mừng vì ngày mới, mình đã mang lại được một niềm vui cho người khác.
Ngôi chùa thân yêu và cũng là ngôi nhà thứ hai của con nơi đó con có sư phụ và các bạn. Con được sống trong sự yên tĩnh, chính niệm; con được trở về với chính mình, ôm trọn những niềm vui, buông xả những muộn phiền trong cuộc sống bộn bề.
Ngôi chùa thân yêu và cũng là ngôi nhà thứ hai của con nơi đó con có sư phụ và các bạn. Con được sống trong sự yên tĩnh, chính niệm; con được trở về với chính mình, ôm trọn những niềm vui, buông xả những muộn phiền trong cuộc sống bộn bề.
Mỗi sáng, sau khi ăn cơm xong, bao giờ cũng vậy con lên phòng của sư phụ, chắp tay và chào Sư phụ rồi mới đi học. Và mỗi ngày đi học về, hôm nào kịp thời khóa tụng Kinh thì con lên chùa cùng đại chúng, nếu không thì con ở dưới nhà ăn tối và nghỉ ngơi.
Có lẽ, điều con cảm thấy ý nghĩa và có phước duyên nhất là được ở gần sư phụ. Những lúc sư phụ rảnh hoặc khi con gặp những chướng duyên, con thường ở gần sư phụ để được chỉ dạy.
Và lần nào cũng vậy, sư phụ luôn mỉm cười và lắng nghe con tâm sự, sau đó là cho con những lời động viên hoặc chỉ dạy. Khiến con cảm thấy trong lòng nhẹ nhàng hơn, những khó khăn dần được tháo gỡ. Niềm vui cứ được nuôi dưỡng mỗi ngày.
Niềm vui khi được tự tay căm hoa dâng Phật nhân lễ Phật đản ở chùa.
Niềm vui khi được tự tay căm hoa dâng Phật nhân lễ Phật đản ở chùa.
Như vậy, cuộc sống của con ở trong chùa cứ trôi đi từng ngày bình yên và thanh thản. Hết giờ đi học ở trường lại trở về với ngôi chùa thân yêu và cũng là ngôi nhà thứ hai của con nơi đó con có sư phụ và các bạn. Con được sống trong sự yên tĩnh, chính niệm; con được trở về với chính mình, ôm trọn những niềm vui, buông xả những muộn phiền trong cuộc sống bộn bề.
Niệm ơn sư phụ đã làm bóng cả, che mát cho cuộc đời của con!
Kinh Pháp Hoa: Chỉ bày Tri kiến Phật có sẵn nơi mỗi chúng sinh
Thứ ba, 05/03/2019 | 17:31
Kinh Pháp Hoa là bộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức và phổ cập rộng trong quần chúng. Giáo nghĩa trọng yếu của kinh Pháp Hoa là chỉ bày Tri kiến Phật có sẵn nơi mỗi chúng sinh.
>>Những cuốn sách Phật giáo nên đọc
Kinh Pháp Hoa là bộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức và phổ cập rộng trong quần chúng.
Giáo nghĩa trọng yếu của kinh Pháp Hoa là chỉ bày Tri kiến Phật có sẵn nơi mỗi chúng sinh. Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm). Lại là thể của thân tâm, thường trụ không sanh không diệt. Bất luận là hàng nam nữ xuất gia thiện trí, hay hạng phàm nhân tại gia, cho đến kẻ ác tạo tội ngũ nghịch như Đề-bà-đạt-đa và những chúng sanh khác như loài rồng… cũng đều có Tri kiến Phật. Nếu biết và tin nơi mình có Tri kiến Phật, liền khởi nhân tu hành thì sẽ được thành tựu quả Phật.
Kinh Pháp Hoa không ức dương đặc biệt cho một trình độ căn cơ nào, mà bao dung tế độ hết thảy mọi chúng sinh không bỏ sót một loài nào. Nhưng vì căn cơ chúng sinh không đồng, nên phải tùy theo trình độ mà giáo hóa có sai biệt, để cho người cao cũng như người thấp đều nhận được lợi ích, và cuối cùng đưa đến chỗ cứu kính bình đẳng là quả Phật. Do đó, kinh Pháp Hoa rất được nhiều thành phần xuất gia, cũng như cư sĩ tôn quý, tín ngưỡng, thiết lập nhiều đạo tràng trì tụng, lễ kính, tu tập.
Mời quý vị Phật tử cùng lắng nghe Hoà thượng Tuyên Hoá giảng Kinh Pháp Hoa, trọn bộ 7 tập:
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Nếu chúng ta không giải thích kinh thì khác gì kể chuyện, chẳng có ý nghĩa gì.
>>Chuyện Kinh Bách Dụ
Chuyện 2
Đáng đời vợ ngu giả chết
Xưa kia có một chàng trai cưới được cô vợ rất xinh đẹp, anh ta rất thương yêu và chiều chuộng vợ; nhưng cô ả thương yêu chồng không thật lòng vì ả ngoại tình. Vì thế, cho dù anh ta thương yêu, chiều chuộng cỡ nào, nhưng ả vẫn không hài lòng.
Ban đầu cô ả và gã tình nhân lén lút qua lại, nhưng thời gian gần nhau quá ngắn làm họ cảm thấy không được thỏa mãn với giây phút bên nhau.
Một hôm, người chồng đi buôn bán rất xa. Cô ả cho rằng đây là cơ hội rất tốt, cùng người tình xa chạy cao bay; nhưng ả sợ người chồng về tìm không thấy, truy tìm sự việc thì biết phải làm sao. Vì thế, ả bàn tính với người hàng xóm: “Sau khi tôi đi, bà hãy tìm dùm một tử thi phụ nữ để thay tôi, nói dối chồng tôi là vợ anh đã chết”.
Trải qua thời gian không lâu, người chồng trở về. Bà hàng xóm làm theo lời ả dặn, khuyên can: “Vợ của anh đã chết rồi, anh đừng đau buồn quá, cuộc đời là vậy!” Quả nhiên, người chồng tin thật chẳng chút nghi ngờ, đau đớn khóc kể rất lâu, mới lo hậu sự cho vợ. Anh ta đem thi hài hỏa táng, rồi nhặt hài cốt đựng trong hũ mang theo bên mình, để bày tỏ sự chung thủy.
Đạo nghĩa gia đình theo lời Phật dạy
Đạo nghĩa gia đình theo lời Phật dạy
Bài liên quan
Câu chuyện vợ chồng Phật tử Lý Liên Kiệt
Cách “thêm bớt” để đạo vợ chồng luôn hạnh phúc
Cô ả đi theo tình nhân bôn ba xuôi ngược ở không cố định, chịu bao cực khổ thiếu thốn. Gã tình nhân thỏa mãn dục vọng đâm ra chán chê ả. Do đó, ả hối hận, lặng lẽ trở về nhà đến trước chồng nói:
- Thiếp chính là vợ yêu của chàng.
Người chồng nói:
- Vợ tôi đã chết rồi.
- Đó là thiếp giả chết, thi hài này là của người khác.
- Tôi không tin, vợ của tôi rõ ràng đã chết rồi, chính tôi lo hậu sự cho nàng. Làm sao có chuyện tử thi người khác được? Đừng gạt tôi, cô hãy đi đi.
Bất luận cô ả cầu xin, giải thích như thế nào, anh ta vẫn không chịu tin, vẫn giữ vững lập trường của mình. Cuối cùng hai người cãi nhau ồn ào, cô ả đành gạt lệ ra đi.
Bài học đạo lý
Con người là tối linh trong muôn vật, có lý trí, có tình cảm, lại còn có đạo đức, có lương tâm; nhưng cũng rất gian xảo, dối trá và tàn nhẫn. Vì sao? Bởi vì từ vô thỉ đến nay họ luân hồi trong sáu đường, tiêm nhiễm tính thiện, lý trí và đạo đức thì rất ít; nhưng thói xấu gian trá, tàn nhẫn, tính ác lại rất sâu nặng. Chúng ta trồng nhân gì thì gặt quả ấy, cho nên có sự khác biệt giữa gian trá và lương thiện.
Thế gian có đúng-sai, tà-chính, công có công lý; bị cáo, nguyên cáo ở tòa án đều có lý nhất định. Tất cả mọi việc đều y theo pháp luật mà xử cho công bằng chính trực; chúng ta dựa theo công lý mới có thể xét xử sự việc đúng hay sai. Cho nên mọi việc đều có công lý và chân lý, nếu không thì thế giới này nổi loạn; người, trời trong sáu đường cũng trở thành luận bàn suông.
Nhưng kiến chấp vẫn là chứng bệnh nặng nhất của nhân loại; bất luận là người thông minh hay kẻ ngu si không có tài năng đều có kiến chấp, họ khăng khăng cố chấp đến chết vẫn không chịu mình sai.
Trái lại họ còn nói: “Nếu tôi không có kiến chấp thì bị người khác sai khiến, lợi dụng và không có lập trường của mình”. Họ làm việc thì do dự không quyết định.
Gió đông thổi đến thì ngã bên tây, gió tây thổi đến thì ngã bên đông. Làm sao tài giỏi được?
Nhưng kiến chấp vẫn là chứng bệnh nặng nhất của nhân loại; bất luận là người thông minh hay kẻ ngu si không có tài năng đều có kiến chấp, họ khăng khăng cố chấp đến chết vẫn không chịu mình sai.
Trí thức cũng có giới hạn, cho nên phần đông mọi người y theo người mà không y theo pháp. Đức Phật là bậc thánh đứng đầu, pháp Ngài nói ra không có sai lầm.
Trí thức cũng có giới hạn, cho nên phần đông mọi người y theo người mà không y theo pháp. Đức Phật là bậc thánh đứng đầu, pháp Ngài nói ra không có sai lầm.
Đức Phật dạy: Có bốn thứ y theo:
1. Y theo pháp chẳng y theo người.
2. Y theo trí chứ chẳng y theo thức.
3. Y theo nghĩa chứ không y theo ngôn ngữ.
4. Y theo kinh Liễu nghĩa chẳng Y theo kinh Bất liễu nghĩa.
Bài liên quan
Ý nghĩa khi Đức Phật một tay chỉ trời, một chỉ đất và câu nói ‘Duy ngã độc tôn’
Tầng nghĩa phía sau những thủ ấn của các bậc Thiền sư
Lời bậc thánh nói chắc chắn lợi ích cho thiên hạ Ngài mới nói, cho nên lời nói không có dối gạt, không có sai lầm. Nhưng người bình thường nói thì rất khó tin, vì lời họ nói ra bao nhiêu đi nữa đều có xen lẫn sự khoe khoang và danh lợi.
Vả lại trí thức cũng có giới hạn, cho nên phần đông mọi người y theo người mà không y theo pháp. Đức Phật là bậc thánh đứng đầu, pháp Ngài nói ra không có sai lầm.
Theo trí chứ chẳng dựa vào thức. Vì thức chỉ là biểu hiện những điều thấy nghe, chưa đạt đến cứu cánh thật sự. Trí là thâm nhập, trong đó có nhân trước quả sau mà nghiên cứu đạt đến nhận thức triệt để; vì vậy phải theo trí chứ chẳng dựa vào thức.
Theo nghĩa chứ không theo ngôn ngữ. Ngôn ngữ như ngón tay, nghĩa như mặt trăng; chúng ta theo phương hướng ngón tay mà thấy được mặt trăng, chẳng phải thấy ngón tay. Cho nên phải theo ý nghĩa lúc đó đã nói, không thể y theo ngôn ngữ mà bỏ bớt lời văn.
Đức Phật thuyết pháp dựa vào người, dựa theo nơi chốn mà nói ra nhiều pháp môn, có rất nhiều kinh điển Ngài nói theo phương tiện; cho nên nói y theo kinh Liễu nghĩa, đừng theo kinh Bất liễu nghĩa; giống như chúng ta đi học từ tiểu học, trung học lên đại học; nếu như chúng ta chấp cứng kiến thức thời tiểu học thì không thể tiến bộ được.
Vì thế, y theo kinh Liễu nghĩa chẳng theo kinh Bất liễu nghĩa. Câu chuyện vợ ngu giả chết lừa chồng là ý nghĩa chỉ kiến chấp sai lầm của con người.
Vị Quốc sư đầu tiên của Việt Nam - Thiền sư Khuông Việt
Thứ năm, 08/08/2019 | 11:03
Ngày nay, rất ít người biết đến bài từ “Vương Lang Quy” tài tình mà Thiền sư Khuông Việt làm trong buổi tiễn sứ thần Trung Quốc về nước. Mỗi khi nhắc tới Thiền sư Khuông Việt, người ta vẫn thường nhắc tới Thiền sư như một vị quốc sư với tài năng ngoại giao lỗi lạc.
>>Chân dung từ bi
Danh tiếng cũng như huyền thoại về Thiền sư - tấm gương sáng về tinh thần đạo pháp dấn thân cùng dân tộc vẫn được lưu truyền từ ngàn đời nay trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Ngày nay dường như không ai không biết về bài từ “Vương Lang Quy” tài tình mà thiền sư Khuông Việt làm trong buổi tiễn sứ thần Trung Quốc về nước. Chính vì vậy, mỗi khi nhắc tới thiền sư Khuông Việt, người ta vẫn thường nhắc tới ông như một vị quốc sư với tài năng ngoại giao lỗi lạc. Ảnh minh họa
Ngày nay dường như không ai không biết về bài từ “Vương Lang Quy” tài tình mà thiền sư Khuông Việt làm trong buổi tiễn sứ thần Trung Quốc về nước. Chính vì vậy, mỗi khi nhắc tới thiền sư Khuông Việt, người ta vẫn thường nhắc tới ông như một vị quốc sư với tài năng ngoại giao lỗi lạc. Ảnh minh họa
Thiền sư Khuông Việt sinh năm 933, có tên tục là Ngô Chân Lưu - là cháu đích tôn của vua Ngô Quyền (Thiền sư là con trai cả của Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, và là anh của sứ quân Ngô Xương Xí). Nhiều người biết rằng, Khuông Việt vốn chỉ là pháp hiệu, còn tên của ông là Ngô Chân Lưu. Tuy nhiên, có lẽ ít người biết rằng, Ngô Chân Lưu cũng chỉ là tên giả. Trên thực tế, Thiền sư Khuông Việt tên thật là Ngô Xương Tỷ. Quê ở làng Cát Lợi, phủ Thường Lạc, nay là xã Phục Linh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Đó là thời kỳ đất nước loạn lạc, chính thể chưa yên sau khi vua Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán (938) giành độc lập. Sau khi vua Ngô Quyền mất, lẽ ra cha của thiền sư là Ngô Xương Ngập nối ngôi nhưng bị Dương Tam Kha cướp ngôi.
Bài liên quan
Thiền sư Tông Diễn và hành trình tìm mẹ, cứu mẹ ly biệt
Thiền sư Khuông Việt là một đại trí thức, có công lớn trong việc dựng nước. Tư tưởng và học vấn uyên thâm của Ngài được hình thành và phát triển trên cơ sở của việc học tập Nho giáo sau đó là Phật giáo. Thời kỳ lịch sử cuối thế kỷ X và đầu thế kỷ XI ở nước ta, việc học chưa có điều kiện phát triển. Sau khi học Nho, Ngô Chân Lưu xuất gia tại chùa Phật Đà. Năm 20 tuổi, Thiền sư cùng trụ trì chùa Phật Đà đến chùa Khai Quốc (trước ngoài đê sông Hồng, nay là chùa Trấn Quốc) cầu pháp, thụ đại giới với Thiền sư Vân Phong. Sau đó, Thiền sư được truyền tâm ấn, trở thành vị tổ đời thứ tư dòng thiền Vô Ngôn Thông (dòng thiền vào nước ta năm 820, phát triển rực rỡ nhất vào thời Lý và là tiền thân của phái thiền Trúc Lâm - Yên Tử thời Trần sau này).
Thiền sư Khuông Việt là người xây dựng chùa Non Nước ở núi Vệ Linh (núi Sóc). Năm 969, vua Đinh Tiên Hoàng mời Ngài về Hoa Lư vấn thiền. Thấy Thiền sư quả thực thông tuệ, vua đã phong cho chức Tăng Thống và ban hiệu Khuông Việt tức Khuông phò nước Việt). Những buổi thiết triều, Ngài đều được dự bàn việc nước. Triều đại thay đổi, vua Lê Đại Hành nắm quyền, thiền sư Khuông Việt, Thiền sư Pháp Thuận vẫn là những trụ cột trí thức của triều đình.
Thiền sư được vua Lê Đại Hành phong làm Quốc sư vừa phụ trách việc tôn giáo vừa là cố vấn của vua. Quốc sư đã đóng góp nhiều kế sách về mưu lược, tổ chức kháng chiến chống quân Tống xâm lược và giành thắng lợi. Với tài ngoại giao, chính trị mưu lược của mình, Quốc sư Khuông Việt chủ trương hòa bình với nhà Tống, năm 986, Ngài và thiền sư Đỗ Pháp Thuận phụng mệnh vua tiếp Lý Giác là sứ giả của nhà Tống. Và Quốc sư đã viết bài từ “Vương Lang Quy” nổi tiếng để tiễn sứ giả của nhà Tống về nước. Khúc từ này vốn có tên là “Ngọc Lang Quy”, mà truyền bản nhà Nguyễn viết thành “Vương Lang Quy”. Đây có thể nói là lần đầu tiên văn chương nghệ thuật đã công khai đưa vào phục vụ sự nghiệp chính trị ngoại giao.
Khi vua Lê Ngọa Triều băng hà, Quốc sư Khuông Việt cùng Thiền sư Vạn Hạnh đã ủng hộ tích cực và suy tôn Lý Công Uẩn lên ngôi vua. Khi vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long, thế vận nước ngày một hưng thịnh, Quốc sư Khuông Việt đã dời bỏ triều đình về chùa mở trường đào tạo tăng tài. Người đệ tử nổi tiếng của Quốc sư là Thiền sư Đa Bảo - người có vai trò rất lớn đối với triều đình vua Lý Thái Tổ.
Chùa Non Nước (Sóc Sơn)- nơi tương truyền Quốc sư Khuông Việt về tu hành những năm cuối đời
Chùa Non Nước (Sóc Sơn)- nơi tương truyền Quốc sư Khuông Việt về tu hành những năm cuối đời
Ngày 15/2 năm Thuận Thiên thứ 2 tức năm 1011, khi sắp cáo tịch, Quốc sư dạy đệ tử Đa Bảo kệ rằng:
“Trong cây vốn có lửa
Có lửa, lửa mới bừng
Nếu bảo cây không lửa
Cọ xát do đâu bùng”.
Quốc sư Khuông Việt viên tịch ngày 22/3/1011 (âm lịch), thọ 82 tuổi, để lại các tác phẩm như: “Thiền uyển tập anh ngữ lục”, “Truyền đăng lục”, “Vương lang quy”.
Trải qua ba triều Đinh, Lê, Lý, với tầm kiến văn sâu sắc, uyên thâm đạo pháp, bằng uy tín và vị thế to lớn, Quốc sư Khuông Việt đã làm cho nước Đại Việt ngày một ổn định và hưng vượng. Có thể thấy cuộc đời của Thiền sư Khuông Việt là một tấm gương sáng về sự tu học và xả thân vì dân tộc.
Đã tròn 1000 năm kể từ ngày Thiền sư Khuông Việt viên tịch, nhưng những gì mà Ngài làm cho Phật pháp và dân tộc ta vẫn còn nguyên giá trị. Bây giờ và mãi mãi về sau, Ngài vẫn là một tấm gương sáng cho các thế hệ noi theo. Ảnh: Minh họa
Đã tròn 1000 năm kể từ ngày Thiền sư Khuông Việt viên tịch, nhưng những gì mà Ngài làm cho Phật pháp và dân tộc ta vẫn còn nguyên giá trị. Bây giờ và mãi mãi về sau, Ngài vẫn là một tấm gương sáng cho các thế hệ noi theo. Ảnh: Minh họa
Đã hơn 1000 năm kể từ ngày Thiền sư Khuông Việt viên tịch, nhưng những gì mà Ngài làm cho đạo pháp và dân tộc ta vẫn còn nguyên giá trị. Bây giờ và mãi mãi về sau, Ngài vẫn là một tấm gương sáng cho các thế hệ noi theo. Để tri ân Thiền sư, nhiều địa phương đã lấy pháp danh của Ngài đặt tên đường, tên trường, tên tạp chí, thậm chí không chỉ trong nước ta mà ở Pháp (Paris) và Na Uy cũng có chùa mang danh của Thiền sư.
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Nếu chúng ta không giải thích kinh thì khác gì kể chuyện, chẳng có ý nghĩa gì.
Vì thế, chúng ta biết phát huy ý nghĩa trong kinh, hoặc phát huy kiến giải của mình theo ý nghĩa trong kinh thì càng thú vị vô cùng. Quyển sách này tuy nói giải thích rộng, nhưng thực ra vẫn là giải thích một ít mà thôi. Mỗi câu, mỗi chữ trong kinh Phật mang ý nghĩa sâu sắc vô cùng, huống chi một câu chuyện.
Chuyện 1
Người ngu ăn muối
Thuở xưa, có một người ngu. Một hôm, hắn đi thăm người bà con ở rất xa. Đến nơi, chủ nhà đón tiếp hắn rất ân cần niềm nở, lại còn nấu những món ăn ngon để tiếp đãi; nhưng khi nấu thức ăn, chủ nhà quên nêm muối nên các món ăn đều bị lạt. Hắn vừa nếm liền nói với chủ nhà:
- Hôm nay, anh nấu thức ăn đều là những món đắt tiền, tiếc là hơi lạt nên mất ngon.
Chủ nhà vội vã đáp:
- Ồ, xin lỗi! Tôi quên nêm muối.
Những người làm việc thiếu trách nhiệm có thể đời này họ không làm nên được gì; nhưng nếu có người chạy theo danh lợi không biết chán thì cũng gây nên sự tranh chấp, tính toán mà tạo thành ác nghiệp; hoặc có người cả đời bôn ba xuôi ngược luôn bị phiền não trói buộc, cho đến nhiều đời nhiều kiếp trôi lăn trong luân hồi không dứt.
Những người làm việc thiếu trách nhiệm có thể đời này họ không làm nên được gì; nhưng nếu có người chạy theo danh lợi không biết chán thì cũng gây nên sự tranh chấp, tính toán mà tạo thành ác nghiệp; hoặc có người cả đời bôn ba xuôi ngược luôn bị phiền não trói buộc, cho đến nhiều đời nhiều kiếp trôi lăn trong luân hồi không dứt.
Bài liên quan
Kinh hạt muối là gì?
Đắc đạo dù chỉ thông suốt 1 câu kinh
Chủ nhà liền xuống bếp đem muối lên nêm vào các món ăn rồi trộn đều; sau đó mời khách nếm thử, mỗi món ăn đều rất vừa miệng, ngon tuyệt vời. Hắn hỏi chủ nhà:
- Anh nêm thứ gì mà làm cho thức ăn ngon tuyệt vời thế?
Chủ nhà đáp:
- Tôi nêm muối.
Muối là gia vị chính trong các loại gia vị, cho nên nó làm cho thức ăn ngon. Hắn nghĩ: “Muối là món ăn ngon, khi trở về ta mua muối ăn ngon hơn, khỏi phải nấu nhiều món ăn”. Vì thế, trên đường về hắn mua một bao muối, vừa về đến nhà hắn vội vàng mở ra, bốc một nắm bỏ vào miệng. Chao ôi! Mặn chát không chịu nổi. Hắn cho rằng mình bị người bà con chơi xỏ.
Bài học đạo lý
Kính thưa các vị! Mỗi người ở thế gian đều có trí thức của riêng mình, trí thức cũng có sâu cạn chẳng đồng; nó là vũ khí cải tạo mình và làm lợi ích cho người khác. Nếu như chúng ta dùng trí thức không thích hợp thì có thể tự hại mình và nguy hiểm cho xã hội, còn như biết dung hòa thì mới có thể phát huy hiệu lực và tác dụng; giống như thuốc hay mà uống không đúng bệnh thì biến thành thuốc độc.
Thí dụ này muốn nói đến người luôn thích ăn ngon và người keo kiệt không dám ăn, cả hai đều ăn uống không điều độ; chủ nghĩa hưởng thụ quá mức và khổ hạnh đều không cân bằng cuộc sống. Muôn sự ở thế gian cần phải ở mức độ vừa phải; nếu quá mức hoặc quá thấp thì có thể làm hỏng sự việc. Ví dụ, những người làm việc thiếu trách nhiệm có thể đời này họ không làm nên được gì; nhưng nếu có người chạy theo danh lợi không biết chán thì cũng gây nên sự tranh chấp, tính toán mà tạo thành ác nghiệp; hoặc có người cả đời bôn ba xuôi ngược luôn bị phiền não trói buộc, cho đến nhiều đời nhiều kiếp trôi lăn trong luân hồi không dứt.
Trong thế gian làm việc phải thích hợp thì lập nghiệp mới thành công. Dùng vật thích hợp mọi việc đều tốt đẹp, dùng người đúng việc thì họ đem hết tài năng ra phục vụ. Có thiên thời, địa lợi, nhân hòa thì mọi việc đều thông suốt; nếu không thì việc gì cũng gặp chướng ngại.
Sự vật ở thế gian đều phải dựa vào trí huệ của chính mình để vận dụng. Vì thế, Phật giáo là tôn giáo trí huệ, từ văn, tư, tu để chứng đắc. Nếu người biết tu hành thì nhiều đời kiếp hưởng phước báo chẳng hết.
Thưở xưa, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni trong thời kỳ tu nhân có nghe người đọc nửa bài kệ: “Các hành vô thường là pháp sinh diệt…” như được của báu, Ngài liền xả thân để đi cầu pháp, nhờ đó mà thành Phật. Ngày nay, mọi người lại đem ba tạng kinh điển làm học vấn nghiên cứu, đọc nhiều mà không chịu thực hành, không nương theo pháp để tu; do đó, nói hưởng nhiều châu báu mà không được lợi ích của Phật pháp.
Các vị Tổ sư trong Thiền tông thường dùng một lời hay nửa câu để khai ngộ trí huệ cho người tham học. Có người suốt đời ở trong thiền đường, vùi đầu trong kinh điển tham cứu. Vì sao họ không khai ngộ được? Cơ duyên, thiện căn, trí huệ, đối cơ, đối pháp, gặp duyên thì ứng; nếu không thì uổng phí công phu tu tập biết bao mà chẳng được gì. Cho nên, người thật tu dù hiểu một chút Phật pháp vẫn có thể được lợi ích, nhưng người không có căn lành, không duyên phận thì dù hiểu nhiều cũng chẳng được gì.
“Một cân đức hạnh đáng giá bao nhiêu tiền?”. Họ cho rằng đạo đức, lương thiện không đáng một đồng xu. Một ngày hai mươi bốn giờ, thật sự chúng ta không rảnh một chút hay sao? Có phải chúng ta luôn nghĩ đến danh lợi đầy ắp trong đầu, thì làm sao rảnh rang được!
“Một cân đức hạnh đáng giá bao nhiêu tiền?”. Họ cho rằng đạo đức, lương thiện không đáng một đồng xu. Một ngày hai mươi bốn giờ, thật sự chúng ta không rảnh một chút hay sao? Có phải chúng ta luôn nghĩ đến danh lợi đầy ắp trong đầu, thì làm sao rảnh rang được!
Bài liên quan
Ở đất nước hạnh phúc nhất thế giới, thủ tướng làm gì vào cuối tuần?
Thiền sư Matthieu Ricard chia sẻ bí quyết để sống hạnh phúc
Có những người phạm pháp nói: “Một cân đức hạnh đáng giá bao nhiêu tiền?”. Họ cho rằng đạo đức, lương thiện không đáng một đồng xu. Nhưng đối với người tu hành mà nói thì đức hạnh là của báu vô thượng; giống như một đồ vật, có người xem như bảo bối, có người coi như cỏ rác; đây chính là cách nhìn của mỗi người có tác dụng hay không.
Giống như những người tín ngưỡng Phật giáo nói: “Hiện nay, tôi không rảnh niệm Phật, cũng không có thời gian để tu hành; đợi con cái trưởng thành, tôi sẽ nỗ lực tu cũng không muộn”.
Một ngày hai mươi bốn giờ, thật sự chúng ta không rảnh một chút hay sao? Có phải chúng ta luôn nghĩ đến danh lợi đầy ắp trong đầu, thì làm sao rảnh rang được! Người có tín tâm lấy Phật pháp làm của báu, người không có tín tâm xem Phật pháp làm trò tiêu khiển khi nhàn rỗi.
Chúng ta có tu hành Phật pháp được hay không chính là chỗ này. Người có khả năng tu hành dù một chút cũng làm của quý, người không biết tu hành thì nghe nhiều lại trở thành sở tri chướng. Vì thế, chúng ta học Phật phải chuyển pháp luân, đừng bị pháp chuyển. Căn bản ý nghĩa câu chuyện là ở đây.
Tin Phật chân thật có lợi ích chăng? Những lợi ích đó là gì? Làm sao biết ai đó có lòng tin chân thật?”. Đó là những vấn đề mà bài kết tập này tập trung khai triển từ những lời dạy của Đức Phật trong kinh tạng Nikàya (Pali) và Hán tạng giúp cách nhìn tổng quan về niềm tin vào Đức Phật.
Vị Thánh đệ tử nào, bạch Thế Tôn, đi đến nhứt tâm và hoàn toàn tin tưởng ở Như Lai; vị ấy không có thể phân vân hay nghi ngờ đối với Như Lai, hay đối với lời giảng dạy của Như Lai.
Với vị Thánh đệ tử có lòng tin, được chờ đợi rằng: Vị ấy sẽ trú tinh cần, tinh tấn để đoạn tận các pháp bất thiện, để làm sanh khởi các thiện pháp, nỗ lực, kiên trì, tinh tấn, không có quăng bỏ gánh nặng đối với thiện pháp
(Tương Ưng Căn, Thiên Đại Phẩm, Tương Ưng Bộ)
Tin Phật chân thật có lợi ích chăng? Những lợi ích đó là gì? Làm sao biết ai đó có lòng tin chân thật?”. Đó là những vấn đề mà bài kết tập này tập trung khai triển từ những lời dạy của Đức Phật trong kinh tạng Nikàya (Pali) và Hán tạng ngõ hầu giúp quý đạo hữu có nhìn tổng quan về tính tương đồng của hai truyền thống Phật Giáo về niềm tin vào Đấng Thiện Thệ. Ngoài ra, Bài kết tập bổ sung những lời dạy của chư tổ sư thánh hiền khiến cho lời dạy của Thế Tôn hiển thực hơn. Có thể kể ra nơi đây 10 lợi ích trong vô số lợi ích khi tin Phật.
1. Hướng về Chư Thiên
Những ai chỉ đủ lòng tin và thương mến Như lai, thì tất cả được hướng về chư Thiên như đã được Đức Phật thuyết trong bài kinh số 22 Dụ Con Rắn của Trung Bộ. Đức Phật trong phần pháp khéo giảng đã chỉ ra bảy hạng đệ tử: Bậc A La Hán, bậc Bất Lai, bậc Nhất Lai, bậc Dự Lưu, bậc Tùy Pháp Hành, bậc Tùy Tín Hành, và bậc Đủ lòng tin Như Lai. Trong đó bậc cuối cùng cho thấy với những ai chỉ đủ lòng tin và thương mến Như Lai, thì sẽ hướng về Chư Thiên như đoạn kinh sau
Chư Tỷ-kheo, như vậy pháp được Ta khéo giảng làm cho tỏ lộ, làm cho khai thông, làm cho khai thị, được loại trừ khỏi các vải quấn cũ. Chư Tỷ-kheo, vì pháp được Ta khéo giảng, làm cho tỏ lộ, làm cho khai thông, làm cho khai thị, được loại trừ các vải quấn cũ, nên những vị nào chỉ đủ lòng tin nơi Ta, chỉ đủ lòng thương mến đối với Ta, thì tất cả những vị ấy được hướng về chư Thiên.
Những ai có lòng tin chân thật và quy y Phật, thì sẽ không bị tái sanh vào đọa xứ mà lại được sanh thiên.
Những ai có lòng tin chân thật và quy y Phật, thì sẽ không bị tái sanh vào đọa xứ mà lại được sanh thiên.
2. Không đọa địa ngục, được sinh Thiên
Bốn câu kệ trong Chuyện Pháp Tối Thắng của Tiểu Bộ Kinh cho thấy những ai có lòng tin chân thật và quy y Phật, thì sẽ không bị tái sanh vào đọa xứ mà lại được sanh thiên.
Những ai quy y Phật
Sẽ không đi đọa xứ,
Từ bỏ thân làm người
Sẽ tràn đầy thiên giới.
(Tiểu Bộ Kinh, Chuyện Tiền Thân Đức Phật I, Chương 1 Pháp Tối Thắng)
3. Có thể được giải thoát hoặc sinh về Tịnh Độ
Với những ai nhất tâm hướng về Như Lai với lòng tin không lay động thì khi lâm chung với tâm ý này sẽ được giải thoát như lời Thế Tôn trong Tương Ưng Căn, Tương Ưng Bộ như đoạn kinh sau:
Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo:
Ví như, này các Tỷ-kheo, một cái nhà có nóc nhọn, hay một giảng đường có nóc nhọn, với cửa sổ hướng về phía Ðông, khi mặt trời mọc và các tia nắng chiếu vào ngang qua cửa sổ, chúng dựa vào chỗ nào?
- Chúng dựa trên bức tường phía Tây, bạch Thế Tôn.
- Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, lòng tin của Bà-la-môn Unnàbha hướng về, căn cứ, được an trú trên Như Lai. Lòng tin ấy kiên cố, không bị Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Ma, Phạm thiên hay một ai ở đời có thể chiếm đoạt. Nếu trong lúc này, này các Tỷ-kheo, Bà-la-môn Unnàbha bị mệnh chung, không có một kiết sử nào có thể cột để kéo Bà-la-môn Unnàbha trở lui về đời này.
(Tương Ưng Bộ V - Tập V Thiên Đại Phẩm. Chương IV. Tương Ưng Căn (b). Phẩm Về Già. 42. II. Bà-La-Môn Unnàbha (S.v,217)
Người có hân hoan, nên hỷ sanh. Người có hỷ, nên thân được khinh an. Với thân khinh an, vị ấy cảm giác lạc thọ. Người có lạc thọ, tâm được định tĩnh.
Người có hân hoan, nên hỷ sanh. Người có hỷ, nên thân được khinh an. Với thân khinh an, vị ấy cảm giác lạc thọ. Người có lạc thọ, tâm được định tĩnh.
Làm sao với niềm tin nhất tâm hướng về Như Lai có thể được giải thoát, có lẽ vì lúc đó tâm hành giả được chánh trực vì Tâm không bị Tham, Sân, Si chi phối do dựa vào Như Lai, như đã được Đức Phật dạy cách niệm Phật cho cư sĩ Mahànàma trong Tăng Chi Bộ, Chương Sáu Pháp như sau:
Ở đây, này Mahànàma, Thánh đệ tử tùy niệm Như Lai:
"Đây là Thế Tôn... Phật, Thế Tôn". Khi nào, này Mahànàma, Thánh đệ tử niệm Như Lai, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối ; trong khi ấy, tâm vị ấy được chánh trực, nhờ dựa vào Như Lai. Và này Mahànàma, một Thánh đệ tử, với tâm chánh trực, được nghĩa tín thọ, được pháp tín thọ, được hân hoan liên hệ đến pháp. Người có hân hoan, nên hỷ sanh. Người có hỷ, nên thân được khinh an. Với thân khinh an, vị ấy cảm giác lạc thọ. Người có lạc thọ, tâm được định tĩnh.
(Tăng Chi Bộ, Chương Sáu Pháp. X (10) Mahànàma)
Tương tự như vậy với lòng tin chân thật, nhất tâm tin vào Bản Nguyện Bi Trí Viên Mãn của Đức Phật A Di Đà, không một chút phân vân, không một chút nghi ngờ, hành giả với tâm mong cầu thoát sanh về Thế Giới Cực Lạc, thì sẽ được như nguyện như đã được Như Lai tuyên thuyết như sau:
Hết thảy hữu tình khắp cả mười phương thế giới, nghe tin danh hiệu công đức Vô Lượng Thọ Phật, lập tức nhập địa vị chánh định, sinh về cõi Phật An Lạc thanh tịnh.
(Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Phật Danh Hiệu Lợi Ích Đại sự Nhân duyên Kinh. Hán dịch Thiên Trúc Tam Tạng Khang Tăng Khải (Tào Ngụy). Việt dịch Bửu Quang đệ tử Như Hòa, tr.2 A4]
“Chúng sanh ở phương khai, nghe danh hiệu Di Đà Như Lai, cho đến chỉ phát một niệm tin ưa, vui vẻ hâm mộ, chỗ có căn lành đó đem hồi hướng nguyện vãng sanh Cực Lạc, tùy nguyện liền được vãng sanh, được vị bất thối chuyển cho đến thành Phật.” [,Kinh Đại Bảo Tích- theo Hương Đạo số 19 -2008. tr.23]
“Có những chúng sanh nghe danh hiệu Đức Phật A Di Đà, lòng tin vui mừng nhẫn đến phát một niệm chí tâm hồi hướng nguyện cầu sanh Cực Lạc, thì liền được vãng sanh ở bực bất thối chuyển…” [,Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Như Lai. Hán dịch. Tam tạng pháp sư Khương Tăng Khải. Việt dịch Hòa Thượng Thích Trí Tịnh tr.83]
Bài liên quan
Niệm Phật và những lợi ích nhiệm màu
Quy y Tam bảo là gì, ý nghĩa, lợi ích của Quy y Tam bảo
Những lời dạy của một số tổ sư tương ưng với lời Phật dạy cho thấy sức mạnh của lòng tin chân thật vào Thiên Nhơn Sư (sức mạnh của tín lực):
Liên Tông Bảo Giám có kệ: “Nhất niệm khởi mà muôn vật đều biết, lòng tin sanh là chư Phật hiện.”
Trong khi đó Ngẫu Ích Đại Sư tổ thứ chín của Tịnh Độ Tông cho rằng: “Vãng sanh hay không đều do tín nguyện quyết định.”, hay “Công phu niệm Phật quý ở chỗ lòng tin chân thật.”
Thân Loan, Tổ sư của Tịnh Độ Chân Tông đặt trọn tín tâm vào bản nguyện lực của Đức Phật A Di Đà. Ngài cho rằng; “Niệm Phật không để củng cố tự lực của mình mà Niệm Phật chính là hoan hỷ đón nhận tha lực nơi chính thân mình.”
(Tịnh Độ Nhật Bản, tr.183. Nguyên tác Kakehashi Jitsuen, Việt dịch: Hòa Thượng Thích Như Điển)
Hay Ngài Long Thọ có kệ: “Có người trồng căn lành, nghi ngờ hoa chẳng nở, Có lòng tin trong sạch, Hoa nở liền thấy Phật” (Chương Kệ Di Đà – Phẩm Dị Hành: Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận – Bồ Tát Long Thọ).
“Trụ vào tâm tha lực (nguyện lực của Đức A DI ĐÀ) mà niệm Phật thì chỉ trong khoảnh khắc, đã được dự vào sự lai nghinh của Đức Phật A DI ĐÀ” (Niệm Phật Tông yếu – Pháp Nhiên Thượng Nhân, tr. 21).
Rõ ràng, với lòng tin chân thật, thì hành giả sẽ được vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ, và công phụ niệm Phật sẽ có thể thành tựu khi tâm rời khỏi tham, sân, si, hân hoan niệm danh hiệu Phật.
Niệm Phật không để củng cố tự lực của mình mà Niệm Phật chính là hoan hỷ đón nhận tha lực nơi chính thân mình.
Niệm Phật không để củng cố tự lực của mình mà Niệm Phật chính là hoan hỷ đón nhận tha lực nơi chính thân mình.
4. Không bị phá hoại bởi Ma Vương và bất kể ai trên cõi đời này
Việc này đã được Đức Thích Tôn tuyên thuyết trong Tương Ưng Căn thuộc Tương Ưng Bộ như sau:
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, lòng tin của Bà-la-môn Unnàbha hướng về, căn cứ, được an trú trên Như Lai. Lòng tin ấy kiên cố, không bị Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Ma, Phạm thiên hay một ai ở đời có thể chiếm đoạt.
5. Chỗ y cứ khi có Pháp sự khởi lên
Thế giới ngày nay tràn đầy nổi khổ và niềm đau do tham ái mà ra. Chiến tranh, xung đột và bạo lực diễn ra khắp đó đây mỗi ngày. Con người thường hay bảo thủ, bảo vệ quan kiến của mình, tranh đua, hơn thua với nhau cũng chỉ vì cố chấp.
Ngay cả bốn chúng đệ tử của Như Lai cũng tranh luận, hơn thua với nhau: Pháp này là chánh, pháp kia là tà dẫn đến bất hòa trong Tăng Ni cũng như các Phật tử tại gia.
Nếu vậy, hành giả ngày nay nên y cứ vào Đức Phật, y cứ vào Lời dạy của Ngài. Lời Phật dạy đã được lưu trữ trong các tạng kinh để làm chỗ nương tựa, chỗ y cứ khi có pháp sự xảy ra.
Điều này được Đức Thế Tôn chỉ dạy cho hai cư sĩ họ thích Mahànàma và Godhà khi hai cư sĩ tranh luận về những hành giả thành tựu quả dư lưu: Cư sĩ Mahànàma cho rằng những đệ tử của Như Lai thành tựu bốn pháp: tin Phật bất động, tin Pháp bất động, tin Tăng bất động và các học giới trong sạch, thì sẽ được quả dự lưu trong khi đó cư sĩ Godhà cho rằng chỉ thành tựu ba pháp (Tin Tam Bảo bất động) là quả dự lưu. Hai cư sỹ đã đem việc này trình lên Đức Phật, và được Phật phân giải như đoạn kinh được trích từ Tương Ưng Bộ như sau:
Bài liên quan
Những đại cư sĩ nào có thể thuyết pháp thay Đức Phật?
Những lời Phật dạy sâu sắc trong Kinh Pháp Cú
- Hãy chờ một lát, này Mahànàma, hãy chờ một lát, này Mahànàma. Thế Tôn biết rõ việc này, thành tựu hay không thành tựu những pháp này. Này Godhà, chúng ta hãy đi đến Thế Tôn và sau khi đến, hãy hỏi về ý nghĩa này.
Rồi họ Thích Mahànàma và họ Thích Godhà đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, họ Thích Mahànàma bạch Thế Tôn:
Ở đây, bạch Thế Tôn, con đi đến họ Thích Godhà; sau khi đến, nói với họ Thích Godhà:
"Này Godhà, theo như Hiền giả biết, một người là bậc Dự lưu thành tựu bao nhiêu pháp... giác ngộ?"
Ðược nói vậy, bạch Thế Tôn, họ Thích Godhà nói với con:
"Này Mahànàma, theo như tôi biết, một người là bậc Dự lưu thành tựu ba pháp... giác ngộ. Thế nào là ba? Ở đây, này Mahànàma, vị Thánh đệ tử thành tựu tịnh tín bất động đối với đức Phật: 'Ðây là là bậc Ứng Cúng,... Phật, Thế Tôn'... đối với Pháp... đối với chúng Tăng... Này Mahànàma, theo như tôi biết, một người là bậc Dự lưu thành tựu ba pháp này thời không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ. Còn này Mahànàma theo như Hiền giả biết, một người là bậc Dự lưu thành tựu bao nhiêu pháp... giác ngộ?"
Ðược nói vậy, bạch Thế Tôn, con nói với họ Thích Godhàa
"Này Godhà, theo như tôi biết, một người là bậc Dự lưu thành tựu bốn pháp... giác ngộ. Thế nào là bốn? Ở đây, này Godhà, vị Thánh đệ tử thành tựu tịnh tín bất động đối với đức Phật: 'Ðây là là bậc Ứng Cúng,... Phật, Thế Tôn"... đối với Pháp... đối với Tăng... thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính... đưa đến Thiền định. Này Godhà, theo như tôi biết, một người là bậc Dự lưu thành tựu bốn pháp... giác ngộ".
Ðược nghe nói vậy, bạch Thế Tôn, họ Thích Godhà, nói với con:
"Hãy chờ một lát, này Mahànàma, hãy chờ một lát, này Mahanàma. Thế Tôn sẽ biết rõ việc này, là thành tựu hay không thành tựu những pháp này".
Ở đây, bạch Thế Tôn, nếu nói vấn đề pháp sự khởi lên (dhamma samuppàda), và một bên là Thế Tôn, một bên là chúng Tỷ-kheo. Bên nào là Thế Tôn, bên ấy con theo. Vì bạch Thế Tôn, đó là tịnh tín của con. Mong Thế Tôn chấp nhận.
Ở đây, bạch Thế Tôn, nếu có vấn đề pháp sự khởi lên, và một bên là Thế Tôn, một bên là chúng Tỷ-kheo và chúng Tỷ-kheo-ni. Bên nào là Thế Tôn, bên ấy con theo. Vì bạch Thế Tôn... Mong Thế Tôn chấp nhận.
Ở đây, bạch Thế Tôn, nếu có vấn đề pháp sự khởi lên, và một bên là Thế Tôn, một bên là chúng Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo-ni và nam cư sĩ. Bên nào là Thế Tôn... Mong Thế Tôn chấp nhận.
Ở đây, bạch Thế Tôn, nếu có vấn đề pháp sự khởi lên, và một bên là Thế Tôn, một bên là chúng Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo-ni, và nữ cư sĩ. Bên nào là Thế Tôn... Mong Thế Tôn chấp nhận.
Ở đây, bạch Thế Tôn, nếu có vấn đề pháp sự khởi lên, và một bên là Thế Tôn, một bên là chúng Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ, chúng Thiên giới, chúng Ma giới, chúng Phạm thiên giới, quần chúng Sa-môn và Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Bên nào là Thế Tôn, bên ấy con theo. Vì bạch Thế Tôn, đó là tịnh tín của con. Mong Thế Tôn chấp nhận.
Họ Thích Mahànàma đã nói như vậy, này Godhà, Ông có nói gì không?
Họ Thích Mahànàma đã nói như vậy, con không có nói gì trừ lời nói "Thiện", trừ lời nói "Tốt".
(Tương Ưng Bộ, Tương Ưng Dự Lưu b)
Nếu vậy, hành giả ngày nay nên y cứ vào Đức Phật, y cứ vào Lời dạy của Ngài. Lời Phật dạy đã được lưu trữ trong các tạng kinh để làm chỗ nương tựa, chỗ y cứ khi có pháp sự xảy ra.
Nếu vậy, hành giả ngày nay nên y cứ vào Đức Phật, y cứ vào Lời dạy của Ngài. Lời Phật dạy đã được lưu trữ trong các tạng kinh để làm chỗ nương tựa, chỗ y cứ khi có pháp sự xảy ra.
6. Không quăng bỏ gánh nặng đối với Thiện Pháp
Những ai với lòng tin chân thật nhất hương đến Phật, thì luôn kiên tâm với thiện pháp như lời dạy trong Tương Ưng Căn như sau:
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Anga, tại thị trấn của dân chúng Anga tên là Apana.
Tại đấy, Thế Tôn bảo Tôn giả Sàriputta:
- Này Sàriputta, có vị Thánh đệ tử nào đi đến nhứt tâm và hoàn toàn tin tưởng ở Như Lai; vị ấy có thể có phân vân hay nghi ngờ đối với Như Lai, hay đối với lời giảng dạy của Như Lai?
- Vị Thánh đệ tử nào, bạch Thế Tôn, đi đến nhứt tâm và hoàn toàn tin tưởng ở Như Lai; vị ấy không có thể phân vân hay nghi ngờ đối với Như Lai, hay đối với lời giảng dạy của Như Lai. Với vị Thánh đệ tử có lòng tin, được chờ đợi rằng: Vị ấy sẽ trú tinh cần, tinh tấn để đoạn tận các pháp bất thiện, để làm sanh khởi các thiện pháp, nỗ lực, kiên trì, tinh tấn, không có quăng bỏ gánh nặng đối với thiện pháp.
(Tương Ưng Bộ - Tập V Thiên Đại Phẩm. Chương IV. Tương Ưng Căn (b) V. Phẩm Về Già. 50. X. Tín, hay Ngôi Chợ (S.v,225))
7. Nhân thành tựu quả dự lưu
Tin Phật chân thật là nhân tố quan trọng để hành giả thành tựu bốn dự lưu phần: Khi tin Phật, hành giả sẽ tin lời Phật dạy (Pháp) và tin Chúng Tăng và giữ ngũ giới trong sạch, hoặc hoan hỷ thí xả. Những ai thành tựu bốn dự lưu phần này, sẽ chính thức bước vào dòng thánh đầu tiên. Họ tự tuyên bố: từ nay về sau không còn bị thối đọa, đã đoạn tận sanh vào ác thú, và nhất quyết chứng quả giác ngộ. Bốn dự lưu phần này bàng bạc trong năm bộ kinh Nikàya, nhất là trong Tương Ưng Bô, phần Tương Ưng Dự Lưu.
8. Tâm được hoan hỷ, an lành
Như đã được Như Lai dạy cách niệm Phật trong Chương Sáu Pháp của Tăng Chi: những ai tin Phật chân thật, khi hướng về Như Lai, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối, tâm được chánh trực, được nghĩa tín thọ, pháp thọ, tâm hân hoan đến pháp do dựa vào Như Lai….
Nghe được câu Niệm Phật,
An lành được lợi lớn.
(Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh- Phẩm 26, tr.91)
Nếu có người nghe danh hiệu Phật, có lòng tin chắc là thật, thời mọi người nên đem hương hoa như núi Tu Di, phan lọng trùm cả đại thiên để cúng dường, vì người này tin Phật vậy.
Nếu có người nghe danh hiệu Phật, có lòng tin chắc là thật, thời mọi người nên đem hương hoa như núi Tu Di, phan lọng trùm cả đại thiên để cúng dường, vì người này tin Phật vậy.
9. Một trong mười hạng người xứng đáng được cúng dường
Này các Tỷ-kheo, mười hạng người này đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời. Thế nào là mười?
Như lai, bậc A-la-hán, Chánh đẳng Giác, bậc Ðộc giác, bậc Giải thoát cả hai phần, bậc Tuệ giải thoát, bậc Thân chứng, bậc Kiến chí, bậc Tín giải thoát, bậc Tùy pháp hành, bậc Tùy tín hành, bậc Chuyển tánh.
Này các Tỷ-kheo, mười hạng người này đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời.
(Tăng Chi Bộ kinh-Chương 10: Mười Pháp, Phẩm: Đáng được cúng dường)
Phải chăng bậc Chuyển Tánh là những người chỉ đủ lòng tin, và thương mến Như Lai, như lời dạy của Ngài trong Trung Bộ Kinh số 22 Dụ Con Rắn như đã được đề cập ở trên. Sau bậc Tùy Tín Hành là những hạng người chỉ đủ lòng tin và thương mến Đức Phật.
Trong khi đó ở Tam Tụ Luật Nghi Kinh, phẩm I của Kinh Đại Bảo Tích cho rằng những người nghe danh hiệu Phật mà có lòng tin chân thật, thời phải đem hương hoa cúng dường như đoạn trích sau:
Nếu có người nghe danh hiệu Phật, có lòng tin chắc là thật, thời mọi người nên đem hương hoa như núi Tu Di, phan lọng trùm cả đại thiên để cúng dường, vì người này tin Phật vậy. (Đại Bảo Tích: Phẩm I: Pháp Hội Tam Tụ Luật Nghi, tr.60).
Người có lòng tin chân thật: thứ nhất là muốn gặp người có giới đức; thứ hai muốn nghe diệu pháp, và thứ ba: Hoan hỷ thí xả như lời Phật dạy trong Tăng Chi Bộ.
Người có lòng tin chân thật: thứ nhất là muốn gặp người có giới đức; thứ hai muốn nghe diệu pháp, và thứ ba: Hoan hỷ thí xả như lời Phật dạy trong Tăng Chi Bộ.
10. Nhân để hướng tâm thành tứ vô lượng tâm giải thoát, tuệ giải thoát
Ba pháp nhận biết người có lòng tin chân thật:
Qua ba điều sau này sẽ biết người có lòng tin chân thật: thứ nhất là muốn gặp người có giới đức; thứ hai muốn nghe diệu pháp, và thứ ba: Hoan hỷ thí xả như lời Phật dạy trong Tăng Chi Bộ như sau:
Một thời Thế Tôn trú tại Gomagga, trong khu rừng Simsapà, dạy các Tỷ kheo: Do ba sự kiện này, này các Tỷ kheo, một người được biết là có lòng tin. Thế nào là ba? Ưa thấy người có giới hạnh; ưa nghe diệu pháp; với tâm ly cấu uế xan tham, sống trong nhà, bố thí rộng rãi với bàn tay sạch sẽ, thích thú sự từ bỏ, sẵn sàng khi được yêu cầu, thích phân phát vật bố thí.
Do ba sự kiện này, này các Tỷ kheo, một người được biết là có lòng tin.
(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ I, chương 3, phẩm Nhỏ, phần Sự kiện, VNCPHVN ấn hành, 1996, tr.268)
Lời kết
Những ai có lòng tin chân thật với Thế Tôn, thường kiên tâm với những thiện Pháp, muốn nghe diệu pháp, tư duy pháp, hành trì pháp để chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Những ai tin Phật thường hay bố thí, cúng dường, phụng sự cho tha nhân, cho Tam Bảo khiến cho chánh pháp, thiện pháp loan tỏa khắp muôn nơi.
Ý nghĩa của Vũ Điệu Triệu Thỉnh Bát đại Hóa thân Đức Liên Hoa Sinh
Thứ năm, 21/02/2019 | 11:40
Theo dòng Mật Tông, Thượng sư Liên Hoa Sinh được coi là đức Phật thứ hai thị hiện chốn nhân gian, hóa thân Phật A Di Đà, được Đức Phật Thích Ca huyền ký trong nhiều kinh điển. Ngày mai, lễ Khai đàn Pháp hội Cầu an Đại bi Quan Âm 2019, Vũ điệu sẽ được trình diễn tại Đại bảo tháp Mandala Tây Thiên.
Vào ngày 22/02/2019, Lễ Khai đàn Pháp hội Cầu an Đại bi Quan Âm 2019, Vũ điệu Tám Hóa Thân Liên Hoa Sinh sẽ được trình diễn tại Đại bảo Tháp Mandala Tây Thiên bởi chư Tăng cao cấp theo đúng truyền thống hàng ngàn năm để triệu thỉnh 8 Hóa Thân Đức Liên Hoa Sinh giáng lâm.
Chúng ta hãy cùng phatgiao.org.vn tìm hiểu về ý nghĩa của Vũ điệu Triệu thỉnh Bát đại Hóa Thân Đức Liên Hoa sinh tại Tây Thiên, Việt Nam. Và nếu có nhân duyên được chiêm ngưỡng Vũ điệu thù thắng có năng lực gia trì mạnh mẽ này, thì quả thật là sẽ rất thú vị khi được tìm hiểu thêm về nền văn hóa Phật giáo Himalaya.
Thượng sư Liên Hoa Sinh được coi là Đức Phật thứ hai từng thị hiện chốn nhân gian, hóa thân của Phật A Di Đà, và được Đức Phật Thích Ca huyền ký trong nhiều kinh điển.
Thượng sư Liên Hoa Sinh được coi là Đức Phật thứ hai từng thị hiện chốn nhân gian, hóa thân của Phật A Di Đà, và được Đức Phật Thích Ca huyền ký trong nhiều kinh điển.
Thượng sư Liên Hoa Sinh được coi là Đức Phật thứ hai từng thị hiện chốn nhân gian, hóa thân của Phật A Di Đà, và được Đức Phật Thích Ca huyền ký trong nhiều kinh điển.
Vào thế kỷ thứ 8, Đức Liên Hoa Sinh đã từ Ấn Độ đến vùng đất tuyết, hàng phục các quỷ thần quấy nhiễu người dân và cải hóa họ thành các Hộ pháp của Đạo Phật, xây dựng các tự viện, trao truyền giáo pháp Kim Cương thừa của Đức Phật Thích Ca cho người dân trên khắp dãy Himalaya.
Ngài thị hiện vô số thần thông nhưng hơn hết, lòng từ bi và trí tuệ giác ngộ của Ngài đã cảm hóa toàn bộ người dân tại vùng đất này, bởi vậy người dân và Phật tử khắp nơi luôn tin kính Ngài là hóa thân của Đức Phật A Di Đà.
Xét về tự tính tuyệt đối, các Bậc Giác ngộ không rời Pháp thân, nhưng với lòng từ bi, các Ngài thị hiện vố số hình tướng các Báo thân và Hóa thân để chúng sinh có thể kết nối và được lợi ích. Các Ngài sẽ hóa thân thị hiện tùy thuận theo nhu cầu và căn cơ của chúng sinh.
Từ Pháp thân, Đức Phật A Di Đà hóa hiện Báo thân là Đức Phật Quan Âm, và Hóa thân là Đức Liên Hoa Sinh.
Cũng như vậy, tuy an trụ trong tự tính tâm bất khả tư nghì, Đức Liên Hoa Sinh cùng lúc thị hiện vô số hóa thân với các công hạnh khác nhau để mang sự giải thoát cho chúng sinh.
Trong số đó, có 8 Hóa thân với các công hạnh chính của Ngài được người dân Himalaya tán thán và tưởng nhớ qua các giáo pháp.
Từ Pháp thân, Đức Phật A Di Đà hóa hiện Báo thân là Đức Phật Quan Âm, và Hóa thân là Đức Liên Hoa Sinh. Có 8 hóa thân của Ngài được tái hiện trong chương trình ngày mai tại Mandala Tây Thiên.
Từ Pháp thân, Đức Phật A Di Đà hóa hiện Báo thân là Đức Phật Quan Âm, và Hóa thân là Đức Liên Hoa Sinh. Có 8 hóa thân của Ngài được tái hiện trong chương trình ngày mai tại Mandala Tây Thiên.
1. Hóa thân Guru Pema Jungney:
Ngài mang mặt nạ xanh với ba mắt, đội vương miện ngũ trí (hoặc năm đầu lâu), cầm trên tay Chày Kim cương và Chuông Kim cương. Danh hiệu này xuất phát từ sự tích đản sinh của Ngài. Ngài không sinh ra từ bụng mẹ mà hóa sinh trong một đóa hóa sen xanh giữa một hồ nước ở xứ Udiyana (Pakistan ngày nay) trong hình tướng đồng tử. Đức vua của xứ này là Indrabodhi khi đó không có con nên đã nhận Ngài làm con nuôi và dự định trao ngai vàng cho Ngài.
Hóa thân Guru Pema Jungney của Đức Liên Hoa Sinh mang mặt nạ xanh, đội vương miện Ngũ Trí hoặc 5 đầu lâu...
Ngài mang mặt nạ xanh với ba mắt, đội vương miện ngũ trí (hoặc năm đầu lâu), cầm trên tay Chày Kim cương và Chuông Kim cương. Danh hiệu này xuất phát từ sự tích đản sinh của Ngài. Ngài không sinh ra từ bụng mẹ mà hóa sinh trong một đóa hóa sen xanh giữa một hồ nước ở xứ Udiyana (Pakistan ngày nay) trong hình tướng đồng tử. Đức vua của xứ này là Indrabodhi khi đó không có con nên đã nhận Ngài làm con nuôi và dự định trao ngai vàng cho Ngài.
Hóa thân Guru Pema Jungney của Đức Liên Hoa Sinh mang mặt nạ xanh, đội vương miện Ngũ Trí hoặc 5 đầu lâu...
Hóa thân Guru Pema Jungney của Đức Liên Hoa Sinh mang mặt nạ xanh, đội vương miện Ngũ Trí hoặc 5 đầu lâu...
Hoa sen, loài hoa tinh khiết, dù mọc lên giữa bùn lầy nhưng không bao giờ bị vướng bẩn mùi tanh của bùn, nêu biểu cho tự tính trong sáng của tâm, không bao giờ bị ảnh hưởng bởi các xúc tình. Hóa thân này có ý nghĩa khi sinh ra Đức Liên Hoa Sinh đã đầy đủ các phẩm chất giác ngộ, tự tại sinh tử.
Bài liên quan
Thung lũng đỏ diệu kỳ giữa núi đồi Tây Tạng
Đào tạo tăng sĩ Phật giáo và quan chức quản lý tự viện ở Tây Tạng
2. Hóa thân Guru Shakya Sengye:
Với chiếc mặt nạ là diện của đức Phật và tóc kết lọn xanh, Ngài mang trên mình Tăng phục màu vàng, trên tay Ngài là bình bát. Đức Liên Hoa Sinh được kính ngưỡng là một hóa thân của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, và cũng giống như đức Phật Thích Ca, khi còn là Thái tử thừa kế ngôi vua, Ngài đã xả ly tất cả vinh hoa phú quý, thực hành thiền định tại nhiều nơi để đạt giác ngộ giải thoát và có thể cứu độ chúng sinh.
Guru Shakya Sengye hóa thân của Đức Liên Hoa Sinh với chiếc mặt nạ là diện của Đức Phật.
Guru Shakya Sengye hóa thân của Đức Liên Hoa Sinh với chiếc mặt nạ là diện của Đức Phật.
Trong hóa thân này, dù đã là một bậc giác ngộ từ khi đản sinh, Ngài vẫn lấy thân mình làm gương cho chúng sinh, thọ nhận giới phẩm và qua đó nhận Truyền thừa bắt nguồn từ Đức Phật, thực hành giới, định, tuệ để đạt giác ngộ, hoằng truyền giáo pháp cứu độ chúng sinh. Những chân lý vũ trụ được Ngài tuyên thuyết được ví như tiếng hống của sư tử, đánh thức chúng sinh khỏi giấc ngủ mê trong vô minh.
3. Hóa thân Guru Nyima Oezer:
Khoác y màu vàng, mặt nạ vàng với râu màu xanh, trên tay Ngài là pháp khí nêu biểu các tia sáng của mặt trời. Ngài thực hành thiền định trong nhiều năm tại các nghĩa địa và khu đất hỏa táng, thọ nhận giáo pháp mật thừa từ các Dakini và thành tựu các tantra, hàng phục quỷ thần và cải hóa họ thành những bản tôn hộ trì Phật pháp.
Guru Nyima Oeze hóa thân của Đức Liên Hoa Sinh với năng lực khiến mặt trời không lặn trong nhiều giờ. Ngài thực hành thiền định trong nhiều năm tại các nghĩa địa và khu đất hỏa táng, thọ nhận giáo pháp mật thừa từ các Dakini và thành tựu các tantra, hàng phục quỷ thần và cải hóa họ thành những bản tôn hộ trì Phật pháp
Guru Nyima Oeze hóa thân của Đức Liên Hoa Sinh với năng lực khiến mặt trời không lặn trong nhiều giờ. Ngài thực hành thiền định trong nhiều năm tại các nghĩa địa và khu đất hỏa táng, thọ nhận giáo pháp mật thừa từ các Dakini và thành tựu các tantra, hàng phục quỷ thần và cải hóa họ thành những bản tôn hộ trì Phật pháp
Trong một lần thị hiện năng lực của mình, ngài đã khiến mặt trời dừng không lặn trong nhiều giờ, và đã được tôn kính với danh hiệu này.
4. Hóa thân Guru Loden Chogse:
Ngài mang mặt nạ đỏ, tóc Ngài kết búi và trên đầu đội vương miện, với y màu đỏ, trên tay cầm trống và bảo bình.
Guru Loden Chogse hóa thân của Đức Liên Hoa Sinh mang mặt nạ đỏ, y màu đỏ, tay cầm trống và bảo bình.
Guru Loden Chogse hóa thân của Đức Liên Hoa Sinh mang mặt nạ đỏ, y màu đỏ, tay cầm trống và bảo bình.
Sau khi thọ nhận giáo pháp Kim Cương thừa từ các bậc đại học giả của Ấn Độ và thành tựu các pháp thực hành, các bản tôn hộ trì đã hiển diện trước Ngài.
Bài liên quan
Những điều chỉ có ở Bhutan - quốc gia hạnh phúc nhất thế giới
Triển lãm Hình ảnh nhân vật Phật giáo kỷ niệm 50 năm mối quan hệ Ấn Độ - Bhutan
5. Guru Padmasambhava:
Khoác trên mình y của tăng, mang mặt nạ trắng với mũ thiền trí. Trong hóa thân này, Ngài đã tới xứ Zahor và nhận công chúa Mandavara, một bậc Dakini giác ngộ, làm minh phi trí tuệ. Tức giận vì tưởng con gái của mình đã bị người lạ này mê hoặc, vua xứ Zahor cho bắt và thiêu sống Ngài. Đức Liên Hoa Sinh đã để cho quân lính bắt trói, rồi thị hiện biến đống củi đốt dưới chân thành một hồ nước và an tọa trên một đóa hoa sen ở giữa hồ nước này.
Guru Padmasambhava hóa thân của Đức Liên Hoa Sinh khoác trên mình y của tăng, mang mặt nạ trắng với mũ thiền trí. Ngài từ chối ngai vua nhưng ở lại nơi này ban truyền giáo pháp trong nhiều năm, giúp 100,000 người dân xứ Zahor đạt giác ngộ. Hồ nước nơi Ngài thị hiện thần thông được đặt tên là Tso Pema, nằm tại Ấn Độ
Guru Padmasambhava hóa thân của Đức Liên Hoa Sinh khoác trên mình y của tăng, mang mặt nạ trắng với mũ thiền trí. Ngài từ chối ngai vua nhưng ở lại nơi này ban truyền giáo pháp trong nhiều năm, giúp 100,000 người dân xứ Zahor đạt giác ngộ. Hồ nước nơi Ngài thị hiện thần thông được đặt tên là Tso Pema, nằm tại Ấn Độ
Kinh ngạc và nhận ra bậc giác ngộ trước mặt, đức vua và người dân đỉnh lễ và cúng dàng vương quốc lên Đức Liên Hoa Sinh. Ngài từ chối ngai vua nhưng ở lại nơi này ban truyền giáo pháp trong nhiều năm, giúp 100,000 người dân xứ Zahor đạt giác ngộ. Hồ nước nơi Ngài thị hiện thần thông được đặt tên là Tso Pema, nằm tại Ấn Độ ngày nay và là một điểm hành hương quan trọng của vô số Phật tử.
6. Hóa thân Guru Pema Gyalpo:
Ngài mang mặt nạ trắng, đầu đội vương miện bá vương, trên hai tay Ngài là một chiếc trống và Chuông Kim cương. Trong chuyến thăm quê hương sau khi Ngài thành đạo, vị vua mới của đất nước muốn thiêu chết Ngài nhưng lửa thiêu trong nhiều ngày không tài nào làm hại đức Liên Hoa Sinh.
Guru Pema Gyalpo hóa thân của đức Liên Hoa Sinh, mang mặt nạ trắng, trên hai tay ngài là trống và chuông kim cương.
Guru Pema Gyalpo hóa thân của đức Liên Hoa Sinh, mang mặt nạ trắng, trên hai tay ngài là trống và chuông kim cương.
Nhận ra đây là minh chứng cho thành tựu tâm linh của Ngài, họ quy y Phật pháp và cúng dàng ngai vua lên Ngài.
7. Hóa thân Guru Sengye Drathok:
Khoác trên mình y màu xanh, Ngài mang mặt nạ xanh tướng uy mãnh với ba mắt, vương miện đầu lâu, trên tay cầm chày Phổ ba Kim cương. Trong lịch sử Đại học Phật giáo Nalanda (Ấn Độ), có một lần 500 pháp sư huyền thuật đã thách đấu với các học giả trong trường với mục đích hủy hoại Phật pháp. Khi các học giả đang yếu thế trước ngoại đạo, một Dakini đã xuất hiện, dạy cho các vị bài kệ Bảy Lời Cầu Nguyện Đức Liên Hoa Sinh để thỉnh cầu Ngài trợ giúp.
Guru Sengye Drathok hóa thân của Đức Liên Hoa Sinh. Ngài mang mặt nạ xanh tướng uy mãnh với ba mắt, vương miện đầu lâu, trên tay cầm chày Phổ ba Kim cương.
Guru Sengye Drathok hóa thân của Đức Liên Hoa Sinh. Ngài mang mặt nạ xanh tướng uy mãnh với ba mắt, vương miện đầu lâu, trên tay cầm chày Phổ ba Kim cương.
Sau đó, Đức Liên Hoa Sinh đã xuất hiện, trợ giúp các học giả Nalanda trong hùng biện cũng như đẩy lùi huyền thuật. Khi các bậc thầy ngoại đạo định dùng phép thuật để sát hại Ngài, Ngài thị hiện thân uy mãnh, đánh tan tà thuật với sấm chớp, rồi phát ra tiếng hống như của sư tử, âm thanh của chân lý tuyệt đối làm thức tỉnh tà kiến bên trong các bậc thầy ngoại đạo.
Ngài mang một chiếc mặt nạ uy mãnh màu đỏ với 3 mắt, tay Ngài trì giữ chày kim cương với một chiếc khăn khatag được buộc ở chuôi chày. Dorje Droloe là hóa thân Phật Uy mãnh và trí tuệ của Đức Liên Hoa Sinh.
Guru Dorje Droloe hóa thân của Đức Liên Hoa Sinh chuyên hàng phục quỷ thần nào phá hoại Phật pháp. Ngài mang một chiếc mặt nạ uy mãnh màu đỏ với 3 mắt, tay Ngài trì giữ chày kim cương với một chiếc khăn khatag được buộc ở chuôi chày
Guru Dorje Droloe hóa thân của Đức Liên Hoa Sinh chuyên hàng phục quỷ thần nào phá hoại Phật pháp. Ngài mang một chiếc mặt nạ uy mãnh màu đỏ với 3 mắt, tay Ngài trì giữ chày kim cương với một chiếc khăn khatag được buộc ở chuôi chày
Ngài cưỡi trên lưng một con hổ được minh phi trí tuệ hóa thành, bay đến và thiền định tại các hang động được đặt tên là “Hang Hổ” tại khắp dãy Himalaya, trong số đó nổi tiếng nhất là hang động Taksang tại Bhutan ngày nay. Ngài hàng phục các quỷ thần chuyên phá hoại Phật pháp và buộc họ phải phát nguyện hộ trì giáo pháp.
Vũ điệu thù thắng Triệu thỉnh Bát đại Hóa thân Thượng sư Liên Hoa Sinh có năng lực gia trì mạnh mẽ
Trong nghi thức vũ điệu Tám Hóa thân, hóa thân chính Guru Rinpoche (mặt nạ với diện Đức Liên Hoa Sinh đầu đội mũ hoàng gia của Ngài) thường xuất hiện đầu tiên, hai bên Ngài là hai minh phi trí tuệ là Mandavara và Yeshe Tsogyal, cùng một thị giả cầm lọng ở sau.
Hóa thân chính Guru Rinpoche (mặt nạ với diện Đức Liên Hoa Sinh đầu đội mũ hoàng gia của Ngài) thường xuất hiện đầu tiên, hai bên Ngài là hai minh phi trí tuệ là Mandavara và Yeshe Tsogyal, cùng một thị giả cầm lọng ở sau
Hóa thân chính Guru Rinpoche (mặt nạ với diện Đức Liên Hoa Sinh đầu đội mũ hoàng gia của Ngài) thường xuất hiện đầu tiên, hai bên Ngài là hai minh phi trí tuệ là Mandavara và Yeshe Tsogyal, cùng một thị giả cầm lọng ở sau
Theo sau ngài lần lượt theo thứ tự là Guru Dorje Droloe (mặt nạ đỏ uy mãnh), Guru Senge Drathok (mặt nạ xanh uy mãnh), Guru Nyima Ozer (mặt nạ vàng), Guru Loden Chogse (mặt nạ đỏ), Guru Padma Gyalpo (mặt nạ trắng), Guru Padmasambhava (mặt nạ trắng, mũ thiền giả), Guru Pema Jungney (mặt nạ xanh), và cuối cùng là Guru Shakya Senge (mặt nạ với diện đức Phật Thích Ca).
Các Hóa thân đứng thành vòng tròn hoặc hai hàng và cùng phô diễn vũ điệu, sau đó cùng an tọa và ban gia trì cho các thành viên tham dự buổi lễ. Các bản tôn daka, không hành mẫu dakini, thiên nhân mang các sức trang hoàng bằng xương xuất hiện và tán thán Đức Liên Hoa Sinh.
Chiêm ngưỡng vũ điệu triệu thỉnh Bát đại hóa thân đức Liên Hoa Sinh tại Mandala Tây Thiên là một điều may mắn để hiểu thêm và cảm nhận được một nền văn hóa Phật giáo lâu đời và có nhiều huyền bí cũng như sức mạnh năng lượng.
Chiêm ngưỡng vũ điệu triệu thỉnh Bát đại hóa thân đức Liên Hoa Sinh tại Mandala Tây Thiên là một điều may mắn để hiểu thêm và cảm nhận được một nền văn hóa Phật giáo lâu đời và có nhiều huyền bí cũng như sức mạnh năng lượng.
Rồi lần lượt từng Hóa thân cử hành vũ điệu theo lời tụng và nhạc khí cúng dàng. Bậc thượng sư giác ngộ chủ đàn cùng các bậc Thầy đang an tọa sẽ tung hoa và gạo ngũ sắc để thể hiện sự tôn kính và chào đón Đức Liên Hoa Sinh.
Kết thúc vũ điệu, các Hóa thân lần lượt rời khu vực sân khấu.
Clip Vũ điệu Triệu thỉnh Tám Hóa thân của Đức Liên Hoa Sinh tại Mandala Tây Thiên lần đầu tiên:
Chiêm ngưỡng vũ điệu triệu thỉnh Bát đại hóa thân đức Liên Hoa Sinh tại Mandala Tây Thiên là một điều may mắn để hiểu thêm và cảm nhận được một nền văn hóa Phật giáo lâu đời và có nhiều huyền bí cũng như sức mạnh năng lượng.
Nhiều khi chúng ta như điên khùng với nhau. Thí dụ mình tưởng mình thông minh, sáng suốt, nhưng ai vừa nói “Chị ngu quá!” mình liền la đông đổng lên, ý rằng ta không ngu. Nhưng thật ra đã chứng tỏ mình đang ngu. Ta hãy chỉ cười, nói: “Phải, tôi ngu.” Nói vậy còn gì nữa để la, thì đâu có khổ.
Trong nhà thiền thường nói, khi ngộ đạo rồi mắt thấy như mù, tai nghe như điếc. Như mù nhưng không phải mù, như điếc nhưng không phải điếc. Giả sử chúng ta đi chợ, nghe người ta xôn xao đủ thứ, nhưng mình không dính, không chú ý. Khi về người nhà hỏi: “Bữa nay đi chợ thấy cái gì?” Mình nói: “Không thấy gì hết.” Nhưng sự thật mình có thấy không? Có thấy nhưng không dính thành ra như không thấy. Còn nếu ta để tâm vào việc gì thì khi được hỏi, mình liền trả lời: “Thấy thế này, thế kia.” Đó là ta đã tích lũy pháp trần vào trong tâm rồi.
Cho nên việc tu có nhiều điểm rất hay mà chúng ta không biết. Như ra đường bị ai nói xúc phạm tới danh dự mình, về nhà ít nhất ta cũng kể lại với người thân nghe. Kể một người nghe mình cũng chưa vừa lòng, phải kể cho người này người kia nghe chừng một trăm lần, như vậy mình đã thuộc lòng trong ký ức sâu quá rồi. Vì vậy khi ngồi thiền nó trồi lên, bỏ được một lát nó trồi lên nữa. Đó là vì chúng ta đã ghi nhớ quá sâu đậm.
Không phải tay lần chuỗi, thân tọa thiền mới tu. Lần chuỗi tọa thiền mà ai động tới liền la hét là không phải tu. Người không tỏ vẻ tu hành gì hết, nhưng đi đứng tự nhiên thoải mái, ai nói gì thì nói, bỏ qua không để lòng, ấy mới thật là chân tu.
Không phải tay lần chuỗi, thân tọa thiền mới tu. Lần chuỗi tọa thiền mà ai động tới liền la hét là không phải tu. Người không tỏ vẻ tu hành gì hết, nhưng đi đứng tự nhiên thoải mái, ai nói gì thì nói, bỏ qua không để lòng, ấy mới thật là chân tu.
Giống như lúc còn bé đi học, mỗi khi muốn thuộc bài, mình phải đọc tới đọc lui nhiều lần mới thuộc. Đem vô sâu là do ôn tới ôn lui nhiều lần. Lỡ nhớ rồi, khi muốn quên cũng phải tập bỏ thường xuyên mới quên được, không có cách nào khác hơn. Vậy mà vừa có chuyện buồn, chuyện giận là chúng ta đem ra kể liền. Gặp ai kể nấy, kể hoài như vậy quên sao được. Khi ngồi thiền nó trồi lên lại than: “Khổ quá! Con tu khó.” Khó là tại ai? Tại mình chớ tại ai, tích lũy nhiều thì nó trồi lên nhiều.
Bây giờ chúng ta thấy chỉ thấy, không thèm quan tâm chú ý gì cả. Thấy tất cả mà tâm không giữ, không dính thì tu dễ không khó. Nếu tu là tìm cái gì ở đâu xa thì khó, đằng này nó đã sẵn nơi mình rồi, chỉ quay lại là hiện tiền. Chúng ta không thấy được cái chân thật là do pháp trần đầy cứng bên trong, nên quay lại thấy toàn tạp nhạp.
Những giờ ngồi thiền là những giờ quay lại, mình thấy pháp trần lăng xăng lộn xộn nên nói thấy loạn tưởng nhiều quá. Thấy loạn tưởng nhiều là tu tiến nhiều. Vì ngày xưa, mỗi khi chúng dấy lên mình chạy theo nên không thấy chúng, bây giờ chúng dấy lên mình biết liền bỏ, đó là tu tiến. Tuy nó còn nhưng mình đã làm chủ được chút chút. Hồi xưa nó dẫn mình chạy theo hoàn toàn, bây giờ nó trồi lên mình từ chối không theo, đó là tiến rõ ràng. Nhưng nhiều khi Phật tử thấy nó rồi sợ, tu gì mà vọng tưởng quá chừng. Sự thật có tiến, tiến từng bước, chớ không phải không tiến.
Bước tiến tiếp theo là ngoài giờ ngồi thiền, khi tiếp xúc với mọi cảnh mọi vật, chúng ta thấy biết rõ ràng nhưng bỏ qua, không chú tâm, đó là ta tu trong mọi lúc mọi nơi. Không phải tay lần chuỗi, thân tọa thiền mới tu. Lần chuỗi tọa thiền mà ai động tới liền la hét là không phải tu. Người không tỏ vẻ tu hành gì hết, nhưng đi đứng tự nhiên thoải mái, ai nói gì thì nói, bỏ qua không để lòng, ấy mới thật là chân tu.
Nhiều khi chúng ta như điên khùng với nhau. Thí dụ mình tưởng mình thông minh, sáng suốt, nhưng ai vừa nói “Chị ngu quá!” mình liền la đông đổng lên, để nói rằng ta không ngu. Nhưng thật ra như vậy là đã chứng tỏ mình đang ngu.
Nếu không ngu ta chỉ cười, nói: “Phải, tôi ngu.” Nói vậy còn gì nữa để la, thì đâu có khổ. Vậy mà ai nói mình ngu liền cự lộn, rồi đủ thứ chuyện thưa kiện… có khổ không? Thế là cả hai đàng đều khùng điên với nhau hết.
Bài liên quan
HT Thích Thanh Từ: Ngày Phật Thành Đạo hãy tự ngẫm tới mình!
Những chuyện hết sức nhỏ như vậy, nhưng mình không biết tu, nên cứ tích lũy trong tâm thành ra sanh bệnh. Bây giờ muốn bỏ chúng ta phải gỡ lần những thứ đó, từ từ ngồi thiền sẽ được nhẹ nhàng yên ổn. Ai nói gì mình cũng cười. Đức Phật ngày xưa bị Bà-la-môn theo sau mắng chửi, Ngài im lặng không nói, không nhận, thế mà Bà-la-môn phải chịu phép, không dám mắng chửi nữa, khỏe khoắn làm sao.
Phật là bậc giác ngộ nên thấy người mê Ngài thương, không phản đối, không chống cự gì cả nhưng lại nhiếp phục được họ. Còn chúng ta bây giờ nghe nói một câu không vừa lòng liền phản đối, chống cự, rốt cuộc càng thêm lớn chuyện. Như vậy ta cũng giống những người mê kia, không hơn không kém, phải không? Mình là người tỉnh thì phải hơn kẻ mê. Họ nói bậy mình chỉ cười thôi thì không xảy ra chuyện gì hết. Như vậy có khỏe không?
Cho nên người biết tu xả bỏ hết những gì không quan trọng. Quan trọng là đừng để sáu trần lôi dẫn đi, phải quay về với cái chân thật của chính mình. Cái chân thật ấy ai cũng có nhưng vì vọng tưởng che lấp nên mình không nhận ra. Cho nên Thiền sư Nam Tuyền Phổ Nguyện nói, người tu thiền như con ngỗng chúa uống sữa chừa nước lại. Câu nói nghe muốn bể cả đầu! Làm sao mà uống sữa chừa nước được? Hai thứ ấy hòa lẫn nhau, lọc thế nào?
HT Thiền sư Thích Thanh Từ:Phật là bậc giác ngộ nên thấy người mê Ngài thương, không phản đối, không chống cự gì cả nhưng lại nhiếp phục được họ. Còn chúng ta bây giờ nghe nói một câu không vừa lòng liền phản đối, chống cự, rốt cuộc càng thêm lớn chuyện.
HT Thiền sư Thích Thanh Từ:Phật là bậc giác ngộ nên thấy người mê Ngài thương, không phản đối, không chống cự gì cả nhưng lại nhiếp phục được họ. Còn chúng ta bây giờ nghe nói một câu không vừa lòng liền phản đối, chống cự, rốt cuộc càng thêm lớn chuyện.
Những câu như vậy, tôi cũng mất nhiều năm lắm mới thấy rõ ý nghĩa của nó. Cái gì là sữa? Cái gì là nước? Vọng tâm và Chân tâm nơi mình hòa lẫn nhau, không phải một cũng không phải hai. Vậy làm sao để lọc Chân tâm ra khỏi vọng tâm? Ở đây, chúng ta chỉ cần khéo một chút là thấy liền. Cái biết trong sáng hiện tiền đó là sữa, còn cái biết lăng xăng lộn xộn là nước. Cái biết lăng xăng lộn xộn thì chúng ta không theo, chỉ sống với cái biết yên tĩnh, trong sáng. Đó là mình đã loại nước, uống sữa. Được thế ta là ngỗng chúa.
Những phút giây yên tĩnh, chúng ta ngồi chơi không nghĩ gì hết. Lúc đó tai vẫn nghe, mắt vẫn thấy mà không nghĩ suy điều chi. Như vậy cái biết đó mình đã có sẵn, nhưng vừa dấy nghĩ cái này cái nọ liền quên mất cái biết hằng hữu. Bây giờ chỉ cần không chạy theo các thứ xao động thì nó hiện tiền. Nếu chúng ta đừng đuổi theo những gì mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm… ăn cứ ăn uống cứ uống, làm tất cả việc mà đừng dính, nếu không phải Phật thì ít nhất mình cũng là Bồ-tát con rồi.
Vì vậy không dính với sáu trần là biết quay đầu, còn dính với sáu trần là đã lao đi trong sanh tử, không có gì khó khăn hết. Trong nhà thiền có câu chuyện của anh hàng thịt, khi nghe một câu nói của vị Thiền sư, liền tỉnh ngộ và làm bài kệ:
Tạc nhật dạ-xoa tâm,
Kim triêu Bồ-tát diện,
Dạ-xoa dữ Bồ-tát,
Bất cách nhất điều tuyến.
Dịch:
Hôm qua tâm dạ-xoa,
Bữa nay mặt Bồ-tát,
Dạ-xoa và Bồ-tát,
Không cách một đường tơ.
Bồ-tát và dạ-xoa chỉ cách nhau ở một cái nhìn. Nhìn ra là mê, xoay lại là giác, dễ như trở bàn tay không có gì ngăn cản hết. Vậy mà chúng ta làm không nổi, cứ ì ạch hoài. Thiền đặc biệt ở chỗ đó, nhưng vẫn phù hợp với những gì Phật dạy ngày xưa. Tôi sẽ dẫn kinh để chứng tỏ điều này.
Trong kinh A-hàm kể lại, một hôm sau thời tọa thiền trong rừng, đức Phật xả thiền ngồi chơi tự tại. Chợt Ngài thấy có một con rùa bò về phía mình, phía sau con dã can đuổi theo định cắn đuôi con rùa, con rùa liền rút đuôi vào trong mai. Dã can chụp lấy chân, con rùa liền rút chân vào trong mai. Cứ như vậy dã can chụp cắn tứ tung, rùa cũng rút hết các bộ phận vào trong mai. Con dã can chụp hoài không được bèn bỏ đi.
Kết thúc câu chuyện Phật nói: “Người tu cũng thế, nếu biết giữ sáu căn không cho chạy theo sáu trần thì không có ma vương nào bắt được.” Còn nếu chạy theo sáu trần bị nó cắn đứt đầu đứt cổ. Chuyện thật là hay.
Thêm một câu chuyện nữa. Phật kể trong một đàn khỉ, có con khỉ nhỏ đi sau đàn thấy mấy con lớn đi trước ăn nhiều trái cây ngon, còn mình thiệt thòi quá. Nó bèn tách đàn, đi một mình để được ăn ngon. Khi thấy miếng mồi ngon, nó liền đưa tay chụp, không ngờ đó là cái bẫy nhựa, nên tay nó bị dính nhựa. Nó liền đưa tay kia gỡ nên tay kia bị dính luôn. Con khỉ liền lấy chân phải quào, chân phải dính; lấy chân trái quào, chân dính luôn. Nó quật cái đuôi để gỡ, đuôi cũng dính. Cuối cùng còn cái miệng, nó liền đưa miệng cạp, thế là miệng dính luôn. Như vậy tổng cộng sáu bộ phận đều dính nhựa hết. Gã thợ săn chỉ cần tới lượm con khỉ bỏ vô giỏ là xong.
Phật nói: “Cũng vậy, nếu người nào sáu căn dính với sáu trần, cũng như con khỉ kia để sáu bộ phận dính với nhựa, người đó sẽ bị ma vương dẫn đi dễ dàng, không nghi ngờ.” Như vậy Phật dạy chúng ta tu như thế nào? Là giữ sáu căn đừng cho dính mắc với sáu trần. Đây là một lẽ thật chớ không phải tưởng tượng. Đó là tôi đã dẫn trong kinh A-hàm.
Đến kinh Kim Cang, Lục Tổ ngộ được từ câu: “Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm; ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, tức là không dính mắc vào các trần mà sanh tâm Bồ-đề. Tâm Bồ-đề là tâm thanh tịnh, không dính mắc thì tâm Bồ-đề hiện tiền. Còn dấy niệm là tâm sanh diệt. Sau khi ngộ rồi, Lục Tổ thốt lên: “Đâu ngờ tâm mình xưa nay thanh tịnh!” Vì thanh tịnh nên không sanh diệt, còn loạn tưởng là tâm sanh diệt. Ngay đó Ngũ Tổ truyền tâm ấn và trao y bát cho Ngài.
Sự tu chẳng có gì lạ hết. Phật Tổ không hai đường, chỉ vì phương tiện truyền bá khác nhau thôi. Thấy như vậy, hiểu như vậy, chúng ta mới nhận ra việc tu không phải chuyện quanh co, khó khăn, mà trái lại rất đơn giản. Ngài Lâm Tế nói: “Đâu ngờ Phật pháp của Hoàng Bá rất ít”, nghĩa là rất là đơn giản.
Cho nên trọng tâm của việc tu là nghe và hiểu được ý Phật dạy, rồi ứng dụng thực hành. Đó mới là người biết tu
Theo phân kỳ lịch sử Phật giáo, hiện ta đang sống ở thời kỳ Mạt pháp nói chung, nhưng phân kỳ nhỏ hơn thì thời điểm này, đang là thời kỳ Mạt thượng pháp (2.500 - 2.600) thời kỳ tiếp theo là Mạt trung pháp (2.600 - 2.700) và thời kỳ Mạt hạ pháp (2.700 - 2.800).
Theo cuốn sách “Huyền ký của đức Phật truyền theo dòng thiền tông” (xin đọc chú thích của BTV về cuốn sách này ở dưới bài) của thiền gia, soạn giả Nguyễn Nhân, NXB Tôn giáo ấn hành năm 2017 cho rằng, Huyền ký của đức Phật không truyền theo các kinh điển phổ thông, mà truyền theo dòng thiền tông, tức pháp môn Thanh tịnh thiền hay còn gọi là Như Lai thiền, bởi có hai nguyên nhân: “Thứ nhất, vì pháp môn Thanh tịnh thiền này, chỉ dành riêng cho người nào tu theo đạo của Như Lai họ muốn Giác ngộ giải thoát. Thứ hai, sáu (6) dạng người được liệt kê dưới đây, họ tu theo đạo của Như Lai dạy, nhưng không dám xem Huyền ký này, huống chi là nói đến thực hành tu:
- Một là người: ham danh, mê lợi.
- Hai: thích có thần thông.
- Ba: thích cầu xin và lạy lục người khác.
- Bốn: thích làm nô lệ cho người khác.
- Năm: thích nương tựa người khác.
- Sáu: thích cúng kiếng.
Vì vậy, đức Phật trao truyền Tập Huyền ký này cho ông Ma Ha Ca Diếp (người đầu tiên) và sau đó thứ 2 là A Nan Đà, thị giả của đức Thế Tôn, nối dòng Thanh tịnh thiền này và tiếp theo Tôn giả A Nan Đà là các Tổ khác nối dòng thiền Thích Ca Văn…
Đề ngăn ngừa việc đưa mê tín dị đoan vào ngôi nhà Như Lai, trong Huyền ký của đức Phật ta thấy, Ngài dạy các đệ tử nhiều vấn đề thuộc về nhân sinh quan vũ trụ có ảnh hưởng trực tiếp đến phạm trù đạo đức và vấn đề bảo vệ ngôi nhà chính pháp. Chúng ta cùng nghe dưới đây một pháp thoại ngắn giữa Tỳ kheo Uất Phương Lam và đức Thế Tôn trong pháp Hội Thanh tịnh thiền về vấn đề nêu trên, (xin trích nguyên văn nội dung pháp thoại này, trong cuốn sách nói trên của soạn giả Nguyễn Nhân).
Tỳ kheo Uất Phương Lam (là vị thứ 12) trong pháp hội, ra trước đức Phật, trịch vai áo, quỳ gối, chắp tay bạch cùng đức Phật rằng: “Kính bạch đức Thế Tôn, con chưa hiểu như sau: Hiện nay, trong nước ta (tức Ấn Độ thời đó) có rất nhiều hội đạo. Thầy nào cũng tổ chức cúng, lạy và cầu xin Thượng Đế tha tội và ban phước cho họ. Vây, việc làm của những ông thầy và những tín đồ này có đúng sự thật không, kính xin đức Thế Tôn dạy con?
Đức Phật dạy:
- Này ông Tỳ kheo Uất Phương Lam, nơi trái đấ tnày là nói hẹp, còn một tam giới là nói nhỏ. Bất cứ ai sống nơi thế giới nhân quả vật lý Âm Dương này, đều phải tuân theo quy luật của nó gồm 3 phần căn bản đó là:
Một: làm phước thì tạo nghiệp tốt.
Hai: làm ác thì tạo nghiệp xấu.
Ba: muốn giải thoát ra ngoài sức hút vật lý của trái đất này thì đừng tạo nghiệp, nhưng phải biết công đức giải thoát.
Hiện nay, các ông thầy các nơi có những vị thầy tổ chức cúng lạy và cầu xin Thượng Đế tha tội và ban phước là có nguyên do như sau:
Nguyên do thứ nhất: Xung quanh những ông thầy này ai cũng muốn như vậy, bắt buộc các thầy phải làm để thỏa mãn lòng ham muốn của những người xung quanh. Như nói ở trên, quy luật nhân quả, mình làm phước thì tự nhiên có phước lưu vào Tàng thức của mình để nó kéo mình đi hưởng phước, mình làm ác cũng vậy. Người này không ai xen vào việc làm của người khác được.
Sở dĩ, những thầy bảo là do ông Thượng Đế ban phước, là vì xung quanh thầy này có quá nhiều người ham muốn như vậy, nên thầy này tổ chức nói và làm theo ý muốn của những người này. Trước, để thỏa mãn lòng ham muốn của họ. Sau, thầy này có tiền xài mà không phải lao động mệt nhọc.
Các ông suy nghĩ xem, nơi trái đất vật lý âm dương này, chỉ có 5 loài sống chung: Thần, Người, Ngạ quỷ, Súc sinh, Địa ngục.
Các ông Thượng Đế làm chúa ở cõi Trời Thượng Đế, tần số âm dương của ông Thượng Đế rất mạnh, không thể nào đến thế giới này được. Ở cõi Trời Thượng Đế không làm mà cũng có ăn, muốn gì được lấy. Nếu ông Thượng Đế có xuống đây, ông cũng không dám.
Vì sao vậy?
- Vì tính của con người kỳ cục lắm:
- Cha mẹ sinh mính ra mà còn đem ra chửi.
- Vợ chồng là tình nghĩa trăm năm mà còn ghét, khi ghét rồi, thì dùng đủ thứ thủ đoạn.
- Huynh đệ là máu mủ tình thâm, mà còn không ưa nhau.
- Như Lai dạy cho con người biết đường giải thoát, mà còn mạ lỵ ( tức chửi) Như Lai là ông Thầy dạy đạo Tà!
- Loài người sống chung với nhau trên quả địa cầu này, mà tìm cách giết hại nhau v.v…
Ông Thượng Đế đâu phải là người thân của mình, mà đem của cho mình. Hơn nữa, trong Càn khôn vũ trụ này có Hằng hà sa số ông Thượng Đế, nếu có ông nào gan xuống đây, cũng không dám lại gần con người.
Vì sao vậy ?
- Vì tính con người kỳ cục lắm: Xin người khác cho, có khi còn không thèm cảm ơn. Còn xin mà không cho, là con người chửi ngay, có khi còn rượt đánh người không cho nữa. Thử hỏi, có ông Thượng Đế nào dám xuống đây không.
Ông Tỳ kheo Uất Phương Lam, nghe đức Phật giải đáp câu hỏi của mình, ông hết sức vui mừng và đảnh lễ đức Phật, rồi quay về chỗ cũ."
Là phật tử chắc chúng ta ai cũng hiểu khái lược về 3 bộ kinh Đại thừa:
1- Bộ kinh Thủ Lăng Nghiêm: Đức Phật dạy rất rõ về tính Phật là Thấy-Nghe-Nói và Biết, cũng như các phần khác.
2- Bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa: Đức Phật dạy rõ về tính của mỗi người không chịu nhận, mà đi cầu xin và lạy người khác đó là 3 anh chàng ngốc đề cập trong kinh.
3- Bộ kinh Kim Cang: Đức Phật dạy phá bỏ tất cả chứng đắc của người dụng công tu hành bằng 2 câu:
- Người dụng công tu hành mà thấy bất cứ hình tướng gì đều là hư dối.
- Người tu theo đạo của Ta, mà nhìn hình Ta, cầu lạy Ta, người đó hành đạo Tà!
Những người tu theo đạo Phật, ai cũng biết rõ ràng các câu dạy của đức Phật nói trên, nhưng không chịu nghe theo lời dạy của Ngài. Mà lại làm theo Ma Vương.
Đức Phật dạy về luân hồi:
- Con người đóng vai trò chính về Giác ngộ giải thoát cũng như luân hồi. Nhưng chúng ta tu theo đạo của Ngài, mà Ngài dạy chúng ta không chịu nghe, lại nghe lời Ma Vương dạy.
Đức Phật dạy ai cũng có Phật tính mà không chịu nhận Phật tính của chính mình và sống với Phật tính ấy, mà đi lạy lục cầu khẩn người khác ban Phật tính cho mình (đó là 3 anh chàng ngốc mà đức Phật dạy trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa)
Dẫn chứng về con người là “Trung tâm luân hồi” đức Phật dạy:
“Tính của con người có 16 thứ: Thọ, Tưởng, Hành, Thức, Danh, Sắc, Thực, Thùy, Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ái, Kiến, Sợ. Chính 16 thứ này mà nó dẫn con người đi trong 6 nẻo luân hồi và 1 đường làm thực vật.
Một là Thọ: Con người có cái thọ, nên nghe ai nói gì cũng Thọ nhận, mà không cần biết đó là đúng hay sai, đem chứa vào trong Tàng thức của tính người, rồi đi dạy lại người khác.
Hai là Tưởng: Con người có cái tưởng, cũng vì cái tưởng này, mà nó tưởng tượng ra đủ chuyện trên đời cũng để dạy người khác như:
- Tưởng mình cầu xin và lạy ai đó để giúp mình giải thoát.
- Tưởng mình cầu xin ai đó ban phước và lộc cho mình.
- Tưởng mình nương tựa ai đó, để người này cứu khổ mình.
Ba là Hành: Nhờ cái hanh này mà làm theo cái tưởng của chính mình. Nhưng cái dở của con người là không biết cái nào là chân thật, nên hành đại.
Bốn là Tham: Con người có cái tham, nên nghe ai nói đúng lòng tham của mình là nghe và làm theo, dù cho có dâng hết tài sản của mình cũng không màng.
Năm là Sợ: Con người có cái sợ, cũng vì cái sợ này, mà ai hù dọa cũng sợ.
Năm phần nói trên là căn bản dẫn con người đi luân hồi nơi trái đất này, trong một tam giới cũng như làm thực vật không ngày cùng.”
Để giúp loài người thấu hiểu sự sống nơi trái đất này cũng như một tam giới, theo danh từ giáo lý đức Phật gọi là “Giác ngộ”. Hai là, giúp cho loài người biết công thức vượt ra ngoài sức hút vật lý điện từ âm dương nơi trái đất này, cũng theo danh từ giáo lý có 2 cách gọi đó là, Giải thoát: tức vẫy vùng để vượt ra ngoài sự cuốn hút của vật lý âm dương, hay gọi là trở về bản tính thanh tịnh mười phương chư Phật sống.
Theo Huyền ký, chúng ta đang sống ở thời kỳ mà đức Phật và Tổ, thầy dạy: Ma cường Pháp nhược, vậy nên, trong Huyền ký truyền theo dòng Thanh tịnh thiền tông, đức Phật dạy Tỳ kheo Ca Chiên Diên:
“Loài người sống vào thời kỳ này, hoàn toàn lệ thuộc vào vật chất, xem vật chất là trên hết, còn giác ngộ giải thoát, chỉ là phần phụ, nên họ không cần.
- Điểm quan trọng nhất các ông có biết gì không? Đức Phật hỏi mà không ai biết là gì, nên đức Phật nhắc lại lời nguyền của Ma Vương, khi Ma Vương phá Như Lai không được.
Ma Vương có nói:
- Này ông Cồ Đàm: Hiện nay Ta không làm gì được ông. Ông nên nhớ rằng: khi ông về Phật giới, những người tu theo ông, chứ sự thật họ làm theo lời dạy bảo của Ta, càng cách xa ông càng lâu, thì đệ tử của ông hoàn toàn làm theo lời dạy bảo của Ta cả”.
Cũng đề cập về nội dung Bảo vệ và giữ gìn ngôi nhà chính pháp của Như Lai. Trong pháp hội này, thị giả của đức Phật là ông A Nan Đà (vị thứ 17 là người cuối cùng trong pháp hội) ra trước đức Phật đầy đủ lễ nghi, trình thưa hỏi 5 câu. Trong đó câu thứ 5 thị giả A Nan hỏi đức Phật:
Trước khi nhập Niết Bàn, đức Thế Tôn có dạy gì cho chúng con nữa không? (xin trích nguyên văn lời dạy của đức Phật về câu hỏi này, trong cuốn sách nói trên của Soạn giả Nguyễn Nhân).
Đức Phật dạy:
“Lời sau cùng Như Lai dạy ông có 4 phần, ông ghi vào tập Huyền ký này, để các ông cũng như loài người vào các đời sau biết:
Một: Giác ngộ, tức hiểu biết rõ ràng quy luật luân hồi nơi trái đất này cũng như trong một tam giới.
Hai: Biết rõ công thức Giải thoát ra ngoài sự cuốn hút của vật lý điện Từ Âm Dương nơi trái đất này.
Ba: Nơi trái đất này có 5 loài sống chung:
- Loài Thần: Có nhiệm vụ là lập ra đạo để làm thỏa mãn cái Tưởng và ham muốn của con người, tức đưa cái tưởng và ham muốn của con người vào an trú trong đạo.
- Loài Người: Có nhiệm vụ là Tưởng tượng ra để dẫn con người đi trong 6 nẻo luân hồi và 1 con đường làm thực vật (tức Hoa báo)
Bốn: Thờ phượng ở trái đất này các ông phải hiểu như sau:
- Hiện tại trái đất này có các nơi cất: Nhà thờ, Đình, Miếu, để thờ Thần nơi trái đất này. Con người có các nơi thờ phượng như vậy, yên lòng đem cái Tưởng và ham muốn của mình vào cho Thần giữ, nên cái Tưởng và ham muốn của con người có nơi an trú nên được dịu lại.
- Sau nay, Như Lai nhập Niết Bàn, các ông lập chùa Như lai, là để nhớ lời dạy của Như Lai là Giác ngộ và giải thoát, biết quy luật luân hồi cũng như công thức trở về Phật giới. Nhưng những người đời sau họ làm sai lời dạy này. Họ lợi dụng đạo của Như Lai và bịa ra như sau:
1- Như Lai ban phước,
2- Như Lai có thần thông
3- Như Lai rất linh thiêng
Vào các đời sau, hàng ngàn người tu theo đạo của Như Lai, chỉ có 1 hay 2 người tu đúng đạo mà thôi. Còn những số người còn lại, họ lợi dụng đạo của Như Lai để kiếm danh và lợi. Họ mặc áo tu, làm bình phong, để dụ những người ngu khờ đến lạy và cúng tiền. Những người này, là những người làm đúng lời nguyền của Ma Vương đó.
Các ông hãy nghe rõ lời quan trọng sau cùng của Như Lai
Các ông hãy nghe rõ lời quan trọng sau cùng của Như Lai:
1- Trái đất này là nơi 5 loài sống chung:
• Loài Thần:
- Có nhiệm vụ làm hiện tượng lạ, để cho loài người tin là có Thần linh, không dám làm sai trái.
- “Mượn xác” người có sắc diện đẹp và ăn nói lưu loát lập ra đạo để cho loài người ai thích đạo mà đem cái Tưởng và Tham vào đó an trú.
- Như Lai không đến thế giới này được, vì nơi thế giới này không chịu nổi số lớn điện từ Quang. Duy nhất Như Lai chỉ phân thân, ứng thân, hay hóa thân đến chùa Thiền tông để trợ giúp pháp môn này truyền theo dòng Thiền tông mà thôi.
Đức Phật tiếp tục dạy ông A Nan Đà:
- Này ông A Nan Đà, một lần nữa, ông hãy ghi rõ ràng lời Như Lai dạy trong tập Huyền ký này có 3 phần chính yếu, để cho các người đời sau hiểu:
Một: Người nào tu theo đạo của Như Lai, mà tu để Giác ngộ và giải thoát, người đó tu đúng với đạo của Như Lai dạy.
Hai: Chùa nào lập ra dạy tu hành, người tổ chức đó, dạy đúng với lời dạy của Như Lai với những pháp môn tu (dụng công) mà không phải là pháp môn Thanh tịnh thiền hay còn gọi là Như Lai thiền, thì chỉ đạt được kết quả thành tựu trong Vật lý vẫn còn đi trong luân hồi.
Ba: Chùa nào lập ra dạy tu: Tụng, cúng, xin xăm, bói quẻ…tức là chùa đó dạy tu để vui với Thần, kết thân với Cô Hồn và các Vong linh.
Ông A Nan Đà, nghe đức Phật dạy xong những lời cuối cùng, ông khóc và bạch cùng đức Phật:
- Con xin vâng lời đức Thế Tôn dạy. Ông bạch xong lạy tạ đức Phật rồi lui ra.”
Qua lời dạy của đức Phật với Tôn giả A Nan trong đoạn Huyền ký trên, càng làm cho chúng ta hiểu sâu sắc thêm thế nào là chính pháp và phi pháp. Và khi tà pháp xâm nhập vào đời sống xã hội: sẽ làm lụn bại tâm hồn con người, theo Phật dạy, chúng ta có 4 cái mất:
1-Tự đánh mất chính mình.
2-Mất sự sáng suốt.
3-Gia đình bất hòa mất hạnh phúc.
4-Quốc gia mất hùng cường.
Nhờ Huyền ký của Như Lai mà chúng ta càng thấu hiểu hơn về chính pháp, không bị lầm lẫn với pháp ngoại đạo và tín ngưỡng dân gian. Từ thực tế này, qua lịch sử chúng ta thấy, ngay từ khi dẹp xong nạn giặc phương Bắc xâm phạm bờ cõi Đại Việt, sau nghìn năm đô hộ và ảnh hưởng văn hóa Hán. Sơ tổ Trúc lâm Trần Nhân Tông là Tổ thứ 34 nối dòng Thanh tịnh thiền Thích Ca Văn đã thấm nhuần Huyền ký của đức Phật, kiên quyết bài trừ tệ nạn mê tín, dị đoan đưa vào Ngôi nhà Như Lai, đồng thời dẹp bỏ các đền, miếu thờ dâm thần, tà thần, lấy lại hào khí chính pháp cho dân tộc.
Đạo Phật là đạo trí tuệ minh triết có tầm ảnh hưởng toàn cầu, trong đó có không ít các học giả, các nhà khoa học hàng đầu thế giới quan tâm đến giáo lý vi diệu của đạo Phật, bởi tính khoa học của giáo lý đem lại. Theo bước chân Phật, là phật tử của Ngài, hơn ai hết chúng ta phải cùng nhau tinh tấn bảo vệ và giữ gìn Ngôi nhà chính pháp của Như Lai, coi chính pháp là mạng sống của mình. Như vậy, cũng chưa đủ để đền đáp thâm ân đức Phật, huống hồ lại dửng dưng và làm trái với lời dạy trong Huyền ký của Như Lai.
Cư sĩ Nguyễn Đức Sinh
-
Tài liệu tham khảo:
- Huyền ký của đức Phật truyền theo dòng thiền tông - Soạn giả Nguyễn Nhân (NXB TG ấn hành 2017).
- Thiền học đời Trần (Nhiều tác giả - NXB TG năm 2003)
Lời biên tập viên:
Cuốn "Huyền ký của đức Phật" đang có nhiều ý kiến khác nhau về tính chính xác của các sự kiện, dữ liệu. Theo báo Giác Ngộ, "với loạt ấn phẩm của soạn giả Nguyễn Nhân được cho là “Huyền ký của Đức Phật” liên quan tới Thiền tông đã và đang làm nhiều người quan tâm, phê bình gay gắt. “Ai sẽ chịu trách nhiệm và chịu trách nhiệm như thế nào, trước việc cấp phép truyền bá một loạt ấn phẩm thiếu chuẩn xác và xuyên tạc Phật giáo như vậy?”.
"Theo đó, loạt ấn phẩm khiến dư luận hồ nghi và bức xúc trước công tác thẩm định của các cơ quan quản lý nhà nước thuộc ngành xuất bản hiện nay, là 10 tập về “Giải đáp bí mật Thiền tông” và “Huyền ký” do Nguyễn Nhân biên soạn. Với nội dung hết sức “lạ lẫm”, nếu không muốn nói là sai lệch với các giáo lý Phật giáo. Song, loạt ấn phẩm này vẫn được NXB Tôn Giáo (thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ) và NXB Hồng Đức (thuộc Hội Luật gia Việt Nam) cấp phép, được in ấn và phổ biến. Không những thế, một số kênh truyền hình thuộc Đài Truyền hình quốc gia (VTV1, VTV2, VTV4) đã quảng bá, làm nhiễu loạn thông tin về các giá trị tôn giáo tại nước ta hiện nay". (Đọc bài đầy đủ trên báo Giác Ngộ tại đây).
Bài viết trên đây của cư sỹ Nguyễn Đức Sinh trên đây trích dẫn một số tư liệu trong cuốn sách này như một hướng tham khảo. Trong bài viết, tác giả cư sỹ Nguyễn Đức Sinh cũng trích dẫn và tham khảo cuốn "Thiền học đời Trần" nhằm đưa ra một quan điểm Phật học mà trong bài đã nhấn mạnh. Sự tham khảo đó được trích dẫn trong mục lục tài liệu tham khảo mà tác giả dẫn dưới bài viết.
Các ông hãy nghe rõ lời quan trọng sau cùng của Như Lai:
1- Trái đất này là nơi 5 loài sống chung:
• Loài Thần:
- Có nhiệm vụ làm hiện tượng lạ, để cho loài người tin là có Thần linh, không dám làm sai trái.
- “Mượn xác” người có sắc diện đẹp và ăn nói lưu loát lập ra đạo để cho loài người ai thích đạo mà đem cái Tưởng và Tham vào đó an trú.
- Như Lai không đến thế giới này được, vì nơi thế giới này không chịu nổi số lớn điện từ Quang. Duy nhất Như Lai chỉ phân thân, ứng thân, hay hóa thân đến chùa Thiền tông để trợ giúp pháp môn này truyền theo dòng Thiền tông mà thôi.
Đức Phật tiếp tục dạy ông A Nan Đà:
- Này ông A Nan Đà, một lần nữa, ông hãy ghi rõ ràng lời Như Lai dạy trong tập Huyền ký này có 3 phần chính yếu, để cho các người đời sau hiểu:
Một: Người nào tu theo đạo của Như Lai, mà tu để Giác ngộ và giải thoát, người đó tu đúng với đạo của Như Lai dạy.
Hai: Chùa nào lập ra dạy tu hành, người tổ chức đó, dạy đúng với lời dạy của Như Lai với những pháp môn tu (dụng công) mà không phải là pháp môn Thanh tịnh thiền hay còn gọi là Như Lai thiền, thì chỉ đạt được kết quả thành tựu trong Vật lý vẫn còn đi trong luân hồi.
Ba: Chùa nào lập ra dạy tu: Tụng, cúng, xin xăm, bói quẻ…tức là chùa đó dạy tu để vui với Thần, kết thân với Cô Hồn và các Vong linh.
Ông A Nan Đà, nghe đức Phật dạy xong những lời cuối cùng, ông khóc và bạch cùng đức Phật:
- Con xin vâng lời đức Thế Tôn dạy. Ông bạch xong lạy tạ đức Phật rồi lui ra.”
Qua lời dạy của đức Phật với Tôn giả A Nan trong đoạn Huyền ký trên, càng làm cho chúng ta hiểu sâu sắc thêm thế nào là chính pháp và phi pháp. Và khi tà pháp xâm nhập vào đời sống xã hội: sẽ làm lụn bại tâm hồn con người, theo Phật dạy, chúng ta có 4 cái mất:
1-Tự đánh mất chính mình.
2-Mất sự sáng suốt.
3-Gia đình bất hòa mất hạnh phúc.
4-Quốc gia mất hùng cường.
Nhờ Huyền ký của Như Lai mà chúng ta càng thấu hiểu hơn về chính pháp, không bị lầm lẫn với pháp ngoại đạo và tín ngưỡng dân gian. Từ thực tế này, qua lịch sử chúng ta thấy, ngay từ khi dẹp xong nạn giặc phương Bắc xâm phạm bờ cõi Đại Việt, sau nghìn năm đô hộ và ảnh hưởng văn hóa Hán. Sơ tổ Trúc lâm Trần Nhân Tông là Tổ thứ 34 nối dòng Thanh tịnh thiền Thích Ca Văn đã thấm nhuần Huyền ký của đức Phật, kiên quyết bài trừ tệ nạn mê tín, dị đoan đưa vào Ngôi nhà Như Lai, đồng thời dẹp bỏ các đền, miếu thờ dâm thần, tà thần, lấy lại hào khí chính pháp cho dân tộc.
Đạo Phật là đạo trí tuệ minh triết có tầm ảnh hưởng toàn cầu, trong đó có không ít các học giả, các nhà khoa học hàng đầu thế giới quan tâm đến giáo lý vi diệu của đạo Phật, bởi tính khoa học của giáo lý đem lại. Theo bước chân Phật, là phật tử của Ngài, hơn ai hết chúng ta phải cùng nhau tinh tấn bảo vệ và giữ gìn Ngôi nhà chính pháp của Như Lai, coi chính pháp là mạng sống của mình. Như vậy, cũng chưa đủ để đền đáp thâm ân đức Phật, huống hồ lại dửng dưng và làm trái với lời dạy trong Huyền ký của Như Lai.
Cư sĩ Nguyễn Đức Sinh
-
Tài liệu tham khảo:
- Huyền ký của đức Phật truyền theo dòng thiền tông - Soạn giả Nguyễn Nhân (NXB TG ấn hành 2017).
- Thiền học đời Trần (Nhiều tác giả - NXB TG năm 2003)
Lời biên tập viên:
Cuốn "Huyền ký của đức Phật" đang có nhiều ý kiến khác nhau về tính chính xác của các sự kiện, dữ liệu. Theo báo Giác Ngộ, "với loạt ấn phẩm của soạn giả Nguyễn Nhân được cho là “Huyền ký của Đức Phật” liên quan tới Thiền tông đã và đang làm nhiều người quan tâm, phê bình gay gắt. “Ai sẽ chịu trách nhiệm và chịu trách nhiệm như thế nào, trước việc cấp phép truyền bá một loạt ấn phẩm thiếu chuẩn xác và xuyên tạc Phật giáo như vậy?”.
"Theo đó, loạt ấn phẩm khiến dư luận hồ nghi và bức xúc trước công tác thẩm định của các cơ quan quản lý nhà nước thuộc ngành xuất bản hiện nay, là 10 tập về “Giải đáp bí mật Thiền tông” và “Huyền ký” do Nguyễn Nhân biên soạn. Với nội dung hết sức “lạ lẫm”, nếu không muốn nói là sai lệch với các giáo lý Phật giáo. Song, loạt ấn phẩm này vẫn được NXB Tôn Giáo (thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ) và NXB Hồng Đức (thuộc Hội Luật gia Việt Nam) cấp phép, được in ấn và phổ biến. Không những thế, một số kênh truyền hình thuộc Đài Truyền hình quốc gia (VTV1, VTV2, VTV4) đã quảng bá, làm nhiễu loạn thông tin về các giá trị tôn giáo tại nước ta hiện nay". (Đọc bài đầy đủ trên báo Giác Ngộ tại đây).
Bài viết trên đây của cư sỹ Nguyễn Đức Sinh trên đây trích dẫn một số tư liệu trong cuốn sách này như một hướng tham khảo. Trong bài viết, tác giả cư sỹ Nguyễn Đức Sinh cũng trích dẫn và tham khảo cuốn "Thiền học đời Trần" nhằm đưa ra một quan điểm Phật học mà trong bài đã nhấn mạnh. Sự tham khảo đó được trích dẫn trong mục lục tài liệu tham khảo mà tác giả dẫn dưới bài viết.
Cuộc sống của con ở trong chùa cứ trôi đi từng ngày bình yên và thanh thản. Hết giờ đi học ở trường lại trở về với ngôi chùa thân yêu và cũng là ngôi nhà thứ hai của con nơi đó con có sư phụ và các bạn.
>>Góc nhìn Phật tử
“Bạch sư phụ! Con vào chùa ở với sư phụ được không ạ? Con muốn ở trong chùa với sư phụ,…”. Sư phụ mỉm cười và cho con được ở lại chùa từ ngày ấy.
Thấm thoát con đã đến chùa cũng được mấy năm. Những ngày đầu tiên, thực sự con không quen với những thời khóa sinh hoạt ở đây. Ban đầu, tất cả những điều đó đã khiến con có cảm giác “khó chịu” nhưng bây giờ quen rồi thì lại khác.
Thấm thoát con đã đến chùa cũng được mấy năm. Những ngày đầu tiên, thực sự con không quen với những thời khóa sinh hoạt ở đây. Ban đầu, tất cả những điều đó đã khiến con có cảm giác “khó chịu” nhưng bây giờ quen rồi thì lại khác.
Thấm thoát con đã đến chùa cũng được mấy năm. Những ngày đầu tiên, thực sự con không quen với những thời khóa sinh hoạt ở đây. Ban đầu, tất cả những điều đó đã khiến con có cảm giác “khó chịu” nhưng bây giờ quen rồi thì lại khác.
Cổ nhân có câu: “Nhập gia thì phải tùy tục”, vì vậy 4h30 sáng con thường lên chùa tham gia thời khóa công phu buổi sáng cùng với Ni chúng.
Bài liên quan
Những cổ vật độc đáo ở ngôi chùa làng biển
Có thể nói phải dậy sớm như một “cực hình” với con nhưng bây giờ nghĩ lại thấy dậy sớm cũng có nhiều thú vị. Bởi dậy sớm được tụng Kinh, niệm Phật đã mang lại cho con nhiều năng lượng cho một ngày mới.
Kết thúc thời khóa công phu sớm, con đi chấp tác theo sự phân công từ trước. Người thì nấu cơm cho đại chúng, người thì dọn dẹp nhà Mẫu hay nhà Tổ hoặc Chánh điện…người quét sân, người dọn vệ sinh.
Mặc dù, mỗi người một công việc khác nhau nhưng con cảm nhận trong lòng ai cũng có những niềm vui hỷ lạc được biểu hiện trên từng khuôn mặt. Bởi con biết, mọi người vẫn đang có mặt cho nhau trong từng hơi thở của cuộc sống ở Thiền môn.
Mỗi lần lau dọn các ban thờ, thắp nến, đốt nhang… đặc biệt là ngắm nhìn những bức tượng, con cảm nhận được chư Phật, chư Bồ Tát như đang ở ngay trước mắt. Con cảm nhận được sự gần gũi và thân quen đến lạ lùng!
Mỗi lần lau dọn các ban thờ, thắp nến, đốt nhang… đặc biệt là ngắm nhìn những bức tượng, con cảm nhận được chư Phật, chư Bồ Tát như đang ở ngay trước mắt. Con cảm nhận được sự gần gũi và thân quen đến lạ lùng!
Con thích nhất là được chấp tác trên Chánh điện và nhà Tổ. Mỗi lần lau dọn các ban thờ, thắp nến, đốt nhang… đặc biệt là ngắm nhìn những bức tượng, con cảm nhận được chư Phật, chư Bồ Tát như đang ở ngay trước mắt. Con cảm nhận được sự gần gũi và thân quen đến lạ lùng!
Bài liên quan
Lễ Khai Pháp Trường Hạ Tiên Hương Phật lịch 2563 – DL. 2019 tại Nam Định
Ở chùa vốn nhiều cây xanh. Mùa lá rụng đến, những chiếc lá vờn theo gió mà “đua nhau” thả mình xuống sân. Khiến sân chùa lúc nào cũng vương nhiều lá nhưng việc này không làm con bận lòng mà có lẽ con phải cảm ơn những chiếc là vàng rơi ấy đã tạo cho con được quét sân nhiều hơn, lâu hơn. Mỗi nhát chổi đưa ra,, con lại có cơ hội để niệm bốn chữ “A Di Đà Phật” và những lần như vậy con thấy trong lòng nhẹ nhàng hơn, phiền não như phần nào được gỡ bỏ.
Có những lần con nấu cơm cho sư phụ và anh chị em tá túc tại chùa. Sư phụ có dạy, khi nấu cơm thì phải đặt cái tâm hoan hỷ của mình vào từng món ăn. Có như vậy, món ăn và người thọ nhận thức ăn mới cảm thấy ngon, hỷ lạc và nuôi dưỡng thân tâm.
Nghe lời sư phụ, mỗi khi nấu ăn, con thường giữ chánh niệm, đặt sự tập trung của mình vào từng công đoạn nấu ăn từ khâu chuẩn bị đến lúc nấu và sắp cơm. Vì vậy mà mỗi lần ăn cơm, con đều được tán dương và “khen ngợi”, nhiều khi con cũng thấy mừng vì ngày mới, mình đã mang lại được một niềm vui cho người khác.
Ngôi chùa thân yêu và cũng là ngôi nhà thứ hai của con nơi đó con có sư phụ và các bạn. Con được sống trong sự yên tĩnh, chính niệm; con được trở về với chính mình, ôm trọn những niềm vui, buông xả những muộn phiền trong cuộc sống bộn bề.
Ngôi chùa thân yêu và cũng là ngôi nhà thứ hai của con nơi đó con có sư phụ và các bạn. Con được sống trong sự yên tĩnh, chính niệm; con được trở về với chính mình, ôm trọn những niềm vui, buông xả những muộn phiền trong cuộc sống bộn bề.
Mỗi sáng, sau khi ăn cơm xong, bao giờ cũng vậy con lên phòng của sư phụ, chắp tay và chào Sư phụ rồi mới đi học. Và mỗi ngày đi học về, hôm nào kịp thời khóa tụng Kinh thì con lên chùa cùng đại chúng, nếu không thì con ở dưới nhà ăn tối và nghỉ ngơi.
Có lẽ, điều con cảm thấy ý nghĩa và có phước duyên nhất là được ở gần sư phụ. Những lúc sư phụ rảnh hoặc khi con gặp những chướng duyên, con thường ở gần sư phụ để được chỉ dạy.
Và lần nào cũng vậy, sư phụ luôn mỉm cười và lắng nghe con tâm sự, sau đó là cho con những lời động viên hoặc chỉ dạy. Khiến con cảm thấy trong lòng nhẹ nhàng hơn, những khó khăn dần được tháo gỡ. Niềm vui cứ được nuôi dưỡng mỗi ngày.
Niềm vui khi được tự tay căm hoa dâng Phật nhân lễ Phật đản ở chùa.
Niềm vui khi được tự tay căm hoa dâng Phật nhân lễ Phật đản ở chùa.
Như vậy, cuộc sống của con ở trong chùa cứ trôi đi từng ngày bình yên và thanh thản. Hết giờ đi học ở trường lại trở về với ngôi chùa thân yêu và cũng là ngôi nhà thứ hai của con nơi đó con có sư phụ và các bạn. Con được sống trong sự yên tĩnh, chính niệm; con được trở về với chính mình, ôm trọn những niềm vui, buông xả những muộn phiền trong cuộc sống bộn bề.
Niệm ơn sư phụ đã làm bóng cả, che mát cho cuộc đời của con!
Mỗi việc xuất hiện trong cuộc đời đều có ý nghĩa riêng của nó. Có những việc vừa đến bạn liền nhận ra ngay ý nghĩa nó xuất hiện trong đời mình. Lại có những việc mãi đến sau này bạn mới nhận ra.
>>Phật pháp và cuộc sống
Những thứ không đạt được, chúng ta sẽ luôn cho rằng nó đẹp đẽ, nó đáng quý... Nhưng rồi một ngày nào đó khi bạn hiểu sâu sắc, bạn sẽ phát hiện:
Có những ước mơ chỉ là ước mơ dù bạn đã nổ lực hết mình, nhưng nhờ những ước mơ ấy mà bạn trở nên mạnh mẽ, yêu cuộc sống hơn và biết cố gắng từng ngày.
Có những lời hứa vẫn mãi chỉ là lời hứa dù bạn luôn mong đợi, nhưng nhờ những lời hứa ấy bạn biết hy vọng và nuôi dưỡng niềm tin.
Có những ước hẹn mãi chỉ là hẹn ước với một người đã ra đi, nhưng nhờ có nó, bạn mới thấy được giá trị đích thực của hạnh phúc khi có người trở về.
Có những nỗi đau không thể nguôi ngoai dù có được bàn tay của thời gian xoa dịu, nhưng chính những nõi đau ấy giúp bạn trưởng thành hơn.
Có những sai lầm không bao giờ sửa chửa được, nhưng chúng sẽ làm bạn biết suy nghĩ cẩn trong hơn khi đưa ra những quyết định sau này.
Có những lần tinh cờ gặp nhau đơn giản chỉ để biết mặt rồi nhanh chống lãng quên, nhưng sẽ có lúc bạn nhân ra rằng những người bạn gặp trong đời không phải là sự ngẫu nhiên mà là có nhân duyên sắp đặt.
Có những người bạn đã lâu không gặp, nhưng những khi bạn gặp khó khăn, trở ngại, những người bạn ấy sẽ luôn bên cạnh chia sẽ cùng bạn.
Có những cuộc tìm kiếm gần như vô vọng, nhưng nhờ có nó bạn biết được sức mạnh và điều kỳ diệu của tình yêu.
Nếu buổi sáng thức dậy, bạn vẫn có một mái nhà để che mưa, che nắng, một chốn nghỉ ngơi thì bạn đang là người đầy đủ hơn rất nhiều người khác trên thế giới.
Nếu buổi sáng thức dậy, bạn vẫn có một mái nhà để che mưa, che nắng, một chốn nghỉ ngơi thì bạn đang là người đầy đủ hơn rất nhiều người khác trên thế giới.
Bài liên quan
'Vô thường' trong cuộc sống
Bạn thấy đấy, mỗi việc xuất hiện trong cuộc đời đều có ý nghĩa riêng của nó. Có những việc vừa đến bạn liền nhận ra ngay ý nghĩa nó xuất hiện trong đời mình. Lại có những việc mãi đến sau này bạn mới nhận ra. Thậm chí có những việc bạn chẳng buồn quan tâm vì sao nó đến, thì cũng không có nghĩa là nó không mang ý nghĩa gì!
Thế nên:
Nếu buổi sáng thức dậy, bạn thấy vẫn khoẻ mạnh, bạn là người may mắn hơn rất nhiều người khác đang phải chịu cảnh ốm đau bệnh tật trong bệnh viện.
Nếu buổi sáng thức dậy, bạn không phải chịu cảnh bom rơi đạn lạc hay trải qua nỗi khổ cực trong tù, không phải chịu những đau khổ do bị tra tấn hoặc đói khát, bạn đã không thuộc về con số 500 triệu người đang phải chịu đựng như vậy trên thế giới này.
Nếu buổi sáng thức dậy, bạn vẫn có một mái nhà để che mưa, che nắng, một chốn nghỉ ngơi thì bạn đang là người đầy đủ hơn rất nhiều người khác trên thế giới.
Nếu buổi sáng thức dậy, bạn thấy cha mẹ bạn vẫn còn sống cùng bạn, bạn là người thực sự may mắn trên cuộc đời này.
Hãy biết ơn, nâng niu và quí trọng những gì mình đang có!
Hãy biết ơn, nâng niu và quí trọng những gì mình đang có!
Nếu với mỗi bước chân bước đi trên con đường đời, bạn biết ngẩng cao đầu với nụ cười trên môi, bạn biết bày tỏ lòng cảm ơn với tình cảm chân thành, biết lắng nghe và dám nói lời xin lỗi, bạn đang là người hạnh phúc vì đa số mọi người đều có thể làm như vậy nhưng họ lại không làm.
Nếu bạn nhận thấy mình còn có thể biết khóc, biết cảm thông với mọi người, biết siết chặt tay biểu lộ cảm xúc, sẵn lòng trao ánh mắt động viên khích lệ,…, bạn đang là người may mắn vì sở hữu những phương thuốc nhiệm màu nhất làm giảm đi sự đau khổ của con người.
Nếu bạn còn có thể đọc được những dòng chữ này ở đây, hẳn bạn đã may mắn hơn bao nhiêu người không biết chữ.
Vậy nên, hãy biết ơn, nâng niu và quí trọng những gì mình đang có!
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.