Nhớ 'một câu nhịn chín câu lành', người Việt sẽ không hung dữ
Hơn nhau không phải ở nắm đấm mà là ở khả năng học tập, làm việc, chia sẻ, thương yêu, tử tế với mình, với người trong mối quan hệ với cuộc sống xung quanh!
Hạ cẳng tay, thượng cẳng chân sau khi va chạm giao thông - Ảnh do bạn đọc cung cấp
Cách đây mấy bữa, trên đường đi làm về, tôi thấy một đám đông ở Hàng Xanh (Q.Bình Thạnh, TP.HCM), nghĩ là có kẹt xe. Tới gần mới phát hiện là vừa có vụ va quẹt và hai tài xế đang cãi nhau, người đi đường ngang qua ai cũng lắc đầu.
Chuyện va quẹt trên phố đông như Sài Gòn giờ tan tầm là chuyện cơm bữa, nếu cảm thông và chia sẻ được thì có lẽ người ta sẽ nhẹ nhàng cho qua, tôi nghĩ vậy!
Môi trường nhiều mầm mống bạo lực
Thường người ta sẽ nổi nóng khi gặp một chuyện bất như ý nào đó, như vừa bị sếp la, ra cổng cơ quan bảo vệ đùa một câu, liền sân si. Nỗi buồn, sự bực bội là thứ năng lượng chi phối hành xử khiến người ta không thể kiềm chế được cơn tức dâng lên, lây sang người khác.
Vì vậy, có người dễ nổi nóng đã cảnh báo: "Thấy tôi ‘khó ở’ là tránh xa xa giùm, không ăn mắng ráng chịu". Theo đó, người nóng lâu ngày họ cũng biết tính khí của mình nên có "chống chỉ định" chuyện nói đùa, tiếp xúc lúc họ đang không vui, căng thẳng. Thực ra, khi quá mệt mỏi, phiền muộn trong lòng, ta không còn giữ được mình.
Có người bạn của tôi bình thường hiền queo, ai nói gì cũng cười. Bỗng một ngày, tôi hỏi "sao buồn dữ rứa?" lại bị bạn nạt cho một câu nghe chưng hửng. Trời, bạn mình đây sao? Mới đầu tôi phản ứng vậy, nhưng chợt dừng lại vì nhớ ra, đây không phải là bản chất của bạn. Có thể bạn đang có một nỗi niềm, áp lực từ cuộc sống, gia đình, tình yêu hoặc bản thân đang trải qua bệnh tật, sự cố…
Ai cũng có lúc nóng giận, nếu mình hiểu thì sẽ không khiến ngọn lửa trong họ cháy phừng. Tôi im lặng và không bỏ mặc, cuối cùng cũng nghe được thổ lộ từ bạn. Bạn bị nhiều áp lực trong công việc: sếp chèn ép, đồng nghiệp tìm cách chơi khăm, lương không cao, phải chật vật trang trải cuộc sống…
Tất nhiên, nhiều người khó khăn hơn nhưng họ không nổi nóng. Đó là tính cách và sức chịu đựng của từng người. Sự nóng tính là một thói quen được huấn tập hằng ngày theo nguyên lý:
"Thói quen tạo nên tính cách, tính cách tạo nên số phận".
Vì thế, các chuyên gia tâm lý khi chia sẻ với tôi về thói vũ phu của chồng vẫn thường lưu ý, có thể anh ấy từng bị bạo hành lúc nhỏ, từng sống gần những gia đình lớn tiếng, ồn ào đánh cãi nhau như cơm bữa.
Sự tác động của cuộc sống xung quanh lên tính cách con người theo hướng đó được ông bà xưa đúc kết rằng "gần mực thì đen". Cái đen đó cần có thời gian thanh lọc để dần trắng, nhưng nếu vẫn tiếp tục nuôi dưỡng trong môi trường đen hơn thì sẽ đen đậm hơn.
Ngày nay các văn hóa phẩm mang tính bạo lực vẫn đầy rẫy trên mạng và tồn tại trong cuộc sống, giải trí của nhiều người: từ game online đến phim ảnh. Thường ngày tiếp xúc với sự đánh đấm, máu me trong các "thức ăn tinh thần" đó khiến não quen với những "mùi vị" của bạo lực, từ đó hành xử theo.
Những kẻ "giang hồ mạng" được ngưỡng mộ và thu tiền trăm triệu cũng chính là một "hình tượng" khiến người ta thay đổi suy nghĩ: cần gì học hành, tử tế, chỉ cần có "số má" là có thể lên đời.
Môi trường bên ngoài đã vậy, trong nhà trường, gia đình cũng đầy mầm mống bạo lực, tránh sao người trẻ không hoang mang và hành xử theo cách tương tự. Đây mới là điều đáng lo, và người lớn muốn thay đổi không khí bạo lực lan tràn thì chính bản thân phải nỗ lực để ứng xử nhẹ nhàng với nhau trước.
Nhẫn để yêu thương
Không thể có kết cục tốt với những người nóng nảy. Nhân vật Trương Phi trong Tam Quốc Chí là hình mẫu của nóng tính dẫn đến hư sự và mang họa sát thân. Ai cũng nóng nảy trong hành xử thì chiến tranh sẽ nổ ra, thương vong là tất yếu.
Một câu nói đùa cũng thành chuyện lớn vì con người ta quá nóng, quá hung dữ; đi nhậu lo hát karaoke cũng bị đánh chết thì… ôi thôi, cuộc sống quá kinh khủng. Pháp luật cần nghiêm minh để trừng trị việc vô cớ đánh, giết người nhưng đó là xử lý phần ngọn, còn cái gốc vẫn là giáo dục.
Làm sao để con người có thể chậm lại để phân tích kỹ hơn từng câu nói, từng biểu hiện của người khác, trong đó có thân nhân, bạn bè mình để không chụp mũ rồi hành xử như người điên, người say?
Sống thiền hay bình tĩnh sống, sống chậm, sống có chánh niệm… là những cách sống theo tinh thần "nhẫn để yêu thương". Đầu tiên là thương mình. Một người chỉ được người khác tin tưởng, nể trọng và giao việc khi có sự chín chắn, điềm tĩnh trong xử lý. Như vậy, người sống có lý trí, điềm tĩnh chính là cách sống lợi lạc tự thân.
Còn cái lợi cho người xung quanh, nhất là người thân - thương thì cũng dễ dàng để thấy. Con cái sẽ học được nhiều điều hay ho từ bố mẹ có cách sống nhẹ nhàng, tình cảm. Đó mới là gia tài quý giá để lại cho con.
Hành xử nóng tính dẫn tới hư việc, hại người thì vòng lao lý chờ mình là chắc chắn. Một khi đã gây ra sự cố mới hối thì đâu còn kịp. Nhiều người bình luận thiếu niên 16 tuổi rút dao đâm chết người nhắc mình chuyện chạy xe chính là "anh hùng rơm", chứng tỏ với bạn gái nhưng rồi được gì sau lần ra tay đó? Tù tội và có thể mất luôn bạn gái.
Ai đợi và ai chấp nhận một người giết người làm người yêu, người chồng, người cha tương lai?
Thực ra, sân si - ai cũng có. Cái chính là cách quản lý năng lương tiêu cực đó để những năng lượng tích cực phát triển. Để làm được điều đó, phải xây dựng lối sống nhân văn từ chính mỗi gia đình, người lớn dạy trẻ nhẫn nhịn để an lành như ông bà mình nhắc "một câu nhịn chín câu lành".
Ở xứ Việt thời nay, bệnh vào đến bệnh viện đã là một sự khốn khổ, khốn nạn. Đồng tiền phải đi trước, dù cấp cứu gần chết thì phải đóng tiền mới có người hỏi tới, không thì nằm đó chờ. Một người bệnh ít nhất phải có một người đi theo nuôi bệnh bởi lực lượng y tá, điều dưỡng không thể chăm sóc người bệnh. Con nuôi cha mẹ, vợ nuôi chồng, chồng theo nuôi vợ, con cháu nuôi ông bà.. Không thể không có mặt được. Không chỉ để rót miếng nước, đút miếng cháo, đưa viên thuốc mà còn phải có mặt ở đấy để khi bác sĩ, y tá cần thì đáp ứng ngay. Bệnh nhân nếu ở phòng chăm sóc đặc biệt tức là đã có một chân vào cửa tử thì người nhà càng phải cần có mặt để được gọi tên bất cứ lúc nào. Đến các bệnh viện nhà nước mà xem, đa số bệnh nhân đều là người nghèo đến từ các tỉnh, có người không đủ tiền mua thuốc, và người đi nuôi bệnh thường là sống nhờ cơm từ thiện. Chồng vừa nuôi vợ bệnh vừa chạy xe ôm là chuyện thường tình. Họ nghèo lắm, nghèo đến xác xơ. Nhà có người bệnh, nhất là những bệnh nan y kéo dài ngày chữa trị thì từ gia đình khá khá biến thành hộ nghèo và người nghèo trở thành tàn mạt điêu đứng cũng là chuyện thường tình. Bán trâu, bán ruộng, bán vườn rồi bán nhà khăn gói lên thành phố chữa bệnh cho người thân, trắng tay cũng là chuyện thường tình.
Cán bộ lãnh đạo khi bệnh có phòng riêng, có bác sĩ riêng, có y tá, điều dưỡng riêng, có chế độ chăm sóc cũng riêng. Đa số lại chữa trị ở nước ngoài với cả cặp đô la, cả túi hột soàn mang theo để chi tiêu, chưa kể đến ngân sách nhà nước dành cho họ. Họ đâu thấm cảnh chạy vạy từng đồng mua thuốc, bông, băng. Người thân của họ đâu phải nằm ở hành lang, ở sân bệnh viện để nuôi bệnh, họ đâu phải xếp hàng để kiếm miếng cơm từ thiện qua ngày. Cho nên họ mạnh miệng cho rằng thu phí người nuôi bệnh là hợp lý. Tuyên bố như thế là chưa thấm được nỗi đau của dân, chưa đồng cảm với nỗi khổ của dân. Dân đã nghèo tận đáy khi trở thành người bệnh mà tận thu như thế là một việc làm tàn nhẫn. Có thể gọi là vô đạo. Đồng ý là bệnh viện hoạt động phải có kinh phí thế nhưng đã gọi là một chế độ vì dân, do dân và lo cho dân mà còn tính với dân miếng nước dội cầu, một chút ánh sáng của bóng đèn thì chính phủ đó có còn nên tồn tại không? Ngân sách hàng năm dành cho y tế cũng không nhỏ, sao lại nghĩ đến chuyện tận thu những người đi nuôi bệnh, những người đã nghèo đến tận cùng khi đến bệnh viện.
Ngày xưa ở miền Nam, các bệnh viện công còn gọi là nhà thương thí, ở đó bệnh nhân được chữa trị không mất tiền, còn được nuôi ăn. Người nuôi bệnh có chỗ còn được cung cấp các bữa ăn do các tổ chức xã hội phân phát. Họ không hô hào vì dân nhưng họ đồng cảm với hoàn cảnh với người bệnh. Đó là cách đối xử nhân văn, nhân đạo giữa con người với nhau. Còn bây giờ chúng ta hành xử với nhau như thế nào? Các ngài cứ nghĩ việc tận thu, càng nhiều càng tốt, sống chết mặc bay với những lý lẽ nghe qua tưởng chừng rất hợp lý.
"Ngày 10-4, trao đổi với báo chí về vấn đề BV có được thu phí người nuôi bệnh hay không, Thứ trưởng Thường trực Bộ Y tế Nguyễn Viết Tiến cho rằng hiện nay các BV đã thực hiện tự chủ tài chính, chủ trương của Bộ Y tế cố gắng tạo điều kiện cho các cơ sở y tế làm chủ về kinh phí để có nguồn trả lương cho nhân viên và thực hiện nhiều công tác khác. Do đó theo Thứ trưởng Nguyễn Viết Tiến, những khoản thu hợp pháp, không sai luật thì BV vẫn được quyền thu.
Trở lại vấn đề thu phí người nuôi bệnh, Thứ trưởng Bộ Y tế nhìn nhận nhiều người không phải là bệnh nhân vào BV nhưng sử dụng điện, nước, vệ sinh, ảnh hưởng môi trường. “BV phải cử nhân viên hoặc thuê người dọn dẹp vệ sinh và trả tiền cho các khoản điện, nước này. Về nguyên tắc, BV là đơn vị tự chủ kinh phí nên người vào sử dụng dịch vụ phải trả tiền là hợp lý”.
Cái hợp lý mà các ngài đang đề cập đến là sự hợp lý tàn nhẫn vô nhân đạo. Sự tận thu này đã đẩy người bệnh đã nghèo càng khổ thêm, họ càng túng quẫn hơn khi phải thêm một khoản kinh phí không biết tìm đâu. Họ lại phải nhịn ăn, bán thêm ruộng vườn để đáp ứng việc tận thu của các ngài. Khốn nạn thật!
"Phở Nước Mỹ Hay Chính Đó Là Nước Mỹ Của Tôi" - Trung Bảo
Bạn có thể rời bỏ nước Mỹ nhưng nước Mỹ sẽ không rời bỏ bạn. Một trong số những điều luôn khiến tôi luôn nhớ về nước Mỹ, lạ lùng thay, lại là phở.
Những ngày cuối năm, thong thả ngồi bên sân nhà để đọc lại những điều cũ mình đã viết, nỗi nhớ nước Mỹ lại chợt trở về trong mùi phở. Nhất là khi đọc bản tin quán phở 79 ở khu Little Saigon, miền Nam California, vừa nhận giải thưởng danh giá James Beard Foundation Awards, ví như “Oscar của ẩm thực.”
Trước khi đến Mỹ, món ăn tôi ưa thích vẫn là bún bò Đà Nẵng. Bún bò Đà Nẵng khác bún bò ở Huế, ít mùi mắm ruốc hơn và không ăn kèm rau sống. Thế nhưng đến Mỹ và sống vài năm ở đây, sở thích ấy thay đổi, bây giờ đi đâu tôi cũng ăn phở.
Có lẽ, không cần dài dòng về việc món phở theo chân người Việt đi ra xứ người thế nào để rồi trở thành một món định danh cho nơi nào có cộng đồng Việt Nam sinh sống. Không chỉ người Việt nấu phở, ở Mỹ đôi khi vẫn bắt gặp quán phở của người… Nam Hàn. Dĩ nhiên dở hơn nhiều.
Một trong các thói quen của tôi khi ở Mỹ đó là hễ đi đến vùng nào lại cố tìm quán phở để ăn cho biết. Ăn phở như vậy thật ra chỉ để kiếm tìm những câu chuyện tha hương của người Việt, như những mảnh ghép tứ tán khắp phương trời, gắn cùng vận nước nổi trôi.
Trong một quán phở rất nhỏ dọc đường từ Houston đi Dallas, ông chủ quán phở trung niên ngạc nhiên khi nghe chúng tôi vừa lái xe đi qua khoảng 5-6 tiểu bang của nước Mỹ. Ông qua Mỹ từ năm 1983 và “chừng đó năm chỉ lo bán phở mà chưa từng đâu xa hơn thành phố đang sống.”
Hoặc, trong một quán phở bên rìa Las Vegas rực rỡ đèn màu, nằm khiêm tốn dọc đường như một lữ quán cho khách bộ hành rong ruổi.
Phở không còn là một món ăn mà phở như một cột mốc để giữ người Việt nhìn về ký ức.
Tôi vẫn nói với bạn bè từ khi còn ở nước Mỹ, phở ở Mỹ ngon hơn phở Việt Nam. Ngon không chỉ bởi nguyên liệu dồi dào, sạch sẽ mà ngon bởi vì bước vào một quán phở như phở 79 người ta được ăn lại tô phở như mùi vị ký ức của mình.
Chẳng tuần nào ở Little Saigon mà tôi lại không đến xếp hàng trước quán phở 79. Mặc cho bạn bè và người thân “cực lực phản đối” vì ép họ ăn mãi một món. Không biết tôi có phải là người chung thuỷ không nhưng quả thật nếu không ăn phở 79 thì tôi không ăn phở nơi nào khác nếu ở Little Saigon. Đến nỗi, bây giờ rời nước Mỹ mà bạn bè ở đó vẫn nhắn tin trêu ghẹo chuyện mê phở 79, tin nhắn về chuyện quán này vừa được trao giải là một ví dụ. Phở gắn kết người Việt là đó chứ còn đâu.
Một nhà báo gần đây có bài viết ví phở ở Mỹ và chuyện dân chủ. Đó là một bài viết thú vị. Còn tôi, phở 79 chỉ đơn giản gắn liền với một quãng đời tuổi trẻ vui vẻ với nước Mỹ, với bầu trời xanh ngắt của California, với ngôi trường cổ kính, với những người bạn – người anh đầy thân mến. Đó không chỉ là cái vị béo ngậy của tô nước dùng hầm kỹ từ đuôi bò, miếng thịt bò mềm của món tái, vị thơm ngát của những nhánh rau hay ngọt mát của cọng giá sống. Đó là một phần cuộc đời của tôi đã để lại nước Mỹ với đầy những hoài bão, mơ ước, niềm vui, nỗi nhớ…
Sau khi đổ xăng, ông Minh lên xe lái về nhà. Đi được một đoạn, ông nghe thấy tiếng kim khí chạm vào xi măng rồi tiếng loong coong tiếp theo. Đang chạy trên đường phố nhiều xe, ông không ngừng lại để coi xem vật gì rơi. Một thoáng nghĩ, ông đoán đó là chiếc nắp bình xăng để trên mui xe đã rơi mất tiêu. Lại quên rồi. Ông tự nhủ, với một chút chán nản.
Về đến nhà, ông ngần ngại một lúc rồi than vãn với bà vợ là hồi này mình già nên hay quên quá, và kể cho vợ nghe mất cái nắp bình xăng.
Vợ mỉm cười, nói: Đây đâu có phải là lần đầu mà ông lo. Ông nhớ khi gia đình mình lái xe về quê cách đây mấy năm, ông quên đến hai lần. Và phải mua nắp khác thay vào.
Cô con gái đứng gần đó, chêm vào: Bố ơi, bố có nhớ hồi xưa khi bố còn đi làm, đã bao nhiêu lần trước khi ra khỏi nhà, bố cứ kiếm cặp kính đọc sách của bố, trong khi bố gài nó trên mái tóc. Lúc đó bố đâu đã ở tuổi này.
Ngồi nghĩ lại, ông Minh thấy bà vợ và con gái nói cũng đúng. Đã nhiều lần, cách đây cả chục năm, lâu lâu ông cũng không biết để chìa khóa xe ở đâu, đi chợ bảo mua vài món đồ rồi cũng quên một món, chứ đâu có phải chỉ từ ngày ông về hưu ở tuổi 60 mới hay quên. Vậy mà mỗi khi nghĩ đến cái tuổi đó, ông cũng mang một thoáng suy tư.
Bước vào cái tuổi mà khi mình làm cái gì không giống ai thì thiên hạ cứ bảo ông bà ấy già rồi.
Gặp người bạn xa vắng đã lâu, mình có vui miệng nói ít nhiều câu chuyện thì người phối ngẫu lại nhắc khéo để mình ngưng bớt lại, kẻo nói dài dòng, phiền lòng người nghe.
Đau nhức xương cánh tay và đầu gối, kể lể với bác sĩ thì được trả lời: cụ ơi, cụ già rồi thì nó vậy đó, không sao đâu; hoặc tối ngủ hay thức giấc nửa khuya, không ngủ lại được thì lương y cũng bảo người già thường hay bị bệnh như vậy.
Trăm dâu đổ đầu tằm, cái gì cũng đổ tại già.
Riêng cái vụ “hay quên” thì vô số người, ngay cả bác sĩ đôi khi cũng phán rằng già thì nó lão suy, nói trước quên sau. Và có người cứ canh cánh sợ là già thì sẽ rơi vào tình trạng “lú lẫn, sa sút trí tuệ”.
Mà nói đến bệnh sa sút trí tuệ thì cũng đáng e ngại thật. Một thăm dò ý kiến tại Mỹ coi xem con người sợ gì nhất. Sợ đau tim, ung thư, mù lòa, rớt máy bay, nghèo túng, hoặc thả vào chuồng cọp... Mỗi người có mỗi mối sợ khác nhau, nhưng lo sợ nhất vẫn là mất trí nhớ, lú lẫn, rồi chẳng biết mình là ai, ở đâu, quên ăn quên ngủ, phụ thuộc hoàn toàn vào gia đình.
Có người bảo, quên như vậy càng sướng chứ sao. Chẳng phải lo nghĩ, chẳng cần để ý tới chuyện đời.
Nhưng, một lão bà vừa mới chôn cất chồng, mà về nhà liên tục kêu tên ông, tìm kiếm ông hết phòng này qua phòng khác. Đôi khi hiểu rõ trắng đen thì vật vã khóc than. Sự việc kéo dài suốt mấy năm trường, cho tới khi bà tạ thế. Bà đã ở trong tình trạng mất trí, lú lẫn. Và như vậy thì sướng nỗi gì!
Trở lại với chuyện hay quên thì cũng có nhiều lý do.
-Một độc giả hỏi thăm là có ông chú 70 tuổi hay bị quên tên người này người khác và ông cụ phải nhờ mọi người nhắc dùm. Khi không thỏa mãn thì ông trở nên hung hăng, đập phá, khó thở, phải uống viên thuốc an thần mới dịu xuống.
Hỏi kỹ thì được biết ông đã bị tai biến não, và cơn suy tim. Sở dĩ ông hay quên vì huyết lên não giảm. Mà huyết giảm thì thiếu nuôi dưỡng, tế bào thần kinh kém hoạt động, và ông ta không nhớ tên người, đồng thời tính tình trở thành bất thường, đôi khi hoang tưởng.
-Một lão bà than phiền không biết để cặp kính đọc sách báo ở đâu; vào phòng tắm rồi không biết để làm gì; mới nghe một câu chuyện mà nửa giờ sau đã quên; bạn bè than phiền bà hẹn tới chơi rồi không tới. Vì quên.... Bà hỏi có thuốc gì phục hồi trí nhớ cho bà.
Lấy thêm chi tiết thì được biết chồng bà mới mất cách đây nửa năm, rồi bà quá thương tiếc mà không ăn không ngủ được, buồn chán chẳng thiết làm gì, ngay cả những thú vui khi trước.
Bà được thầy thuốc cho uống thuốc chữa bệnh trầm cảm mấy tuần lễ thì tình trạng hay quên thuyên giảm. Bà đã bị bệnh sầu não, buồn phiền vì mất người chồng thân yêu.
-Dùng nhiều dược phẩm cũng là rủi ro của kém trí nhớ. do tác dụng phụ của thuốc.
Thuốc lợi tiểu để trị cao huyết áp là một thí dụ. Thuốc làm giảm muối và nước trong máu, hóa chất trong cơ thể thay đổi. Nếu liều lượng quá cao thì huyết áp xuống quá thấp. Não bộ người già rất nhậy cảm với những thay đổi này, sẽ trở nên kém hoạt động về ghi nhớ và tập trung. Và hay quên.
Thuốc an thần, thuốc ngủ cũng ảnh hưởng tới trí nhớ. Cho nên thầy thuốc cần lưu ý ở điểm này và bệnh nhân cũng cần cho thầy thuốc hay mọi khác thường xẩy ra khi dùng thuốc.
-Một vài bệnh kinh niên cũng ảnh hưởng tới trí nhớ.
-Sau nhiều ngày đằng vân giá vũ du thuyết liên lục địa, về đến nhà được ít ngày thì nhà chính khách thấy trong người mỏi mệt, không tập trung tư tưởng được, hay quên và có khó khăn trong giải quyết công việc thường lệ. Nhiều khi nhân viên thấy ông ngồi thẫn thờ như người mất hồn, đi đứng không vững. Thầy thuốc cho là ông bị căng thẳng thần kinh, vì làm việc quá sức. Và đề nghị ông đi nghỉ dưỡng sức.
Ông làm theo nhưng khó khăn vẫn không bớt.
Một hôm ông té xỉu, đưa vào bệnh viện cấp cứu. Bác sĩ khám bệnh và phát giác nhịp tim ông rất thấp và không đều. Một máy điều hòa nhịp tim được gắn cho ông và ông trở lại bình thường. Ấy là do ông có bệnh tim mà không hay.
Hay quên trong những trường hợp kể trên đâu có phải là vì tuổi hạc, tuổi cao. Nhưng nếu được xác định là bị bệnh Alzheimer, sa sút trí tuệ, lú lẫn thì quả là bệnh của một số người tuổi cao, người già. Vì thống kê cho hay, 4% người cao tuổi có thể bị bệnh nàỵ.
Trong bệnh Alzheimer, não bộ bị thoái hóa, hóa chất não suy giảm, máu huyết nuôi não cũng ít đi, mà nguyên nhân chưa được tìm ra. Hậu quả của các thay đổi này đưa tới một căn bệnh của thế kỷ. Bác sĩ Lewis Thomas, Khoa Trưởng Đại Học Y Yale coi đây là một bệnh xấu xa nhất trong các bệnh.
Bệnh không những tàn phá bệnh nhân mà còn gây hậu quả tai hại cho gia đình, bạn bè người bệnh. Nó bắt đầu với sự mất khả năng học hỏi, tính toán, suy nghĩ để rồi đưa đến sự khép kín hoàn toàn về tâm trí. Bệnh nhân tiếp tục sống không hồn cho tới ngày nào đó một bội nhiễm sưng phổi, những suy nhược tổng quát giải thoát cho họ.
Kết luận
Óc ghi nhận dữ kiện như một cái máy thu âm, bộ phận hải mã như là một cái nút kiểm soát. Bình thường, nút bấm này tắt, và chỉ mở để ghi khi nào dữ kiện được coi là quan trọng.
Một dữ kiện không quan trọng thường lởn vởn trong đầu một lúc rồi tan biến đi. Cho nên nếu ta có quên tên một người nào đó trong tiệc cưới cũng là chuyện bình thường, giống như là lâu lâu ta quên, không biết chìa khóa xe, chìa khóa nhà để ở đâu.
Nhưng lái xe đi làm mỗi ngày trên cùng con đường mà lạc lối; quên những hẹn quan trọng; kể đi kể lại cùng câu chuyện trong một cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với bạn bè, thì là điều đáng ngại.
Những thắc mắc, lo âu, tự hỏi: Ta già rồi chăng? Hay ta đang mắc chứng não suy trầm trọng?
Liệu trí nhớ có bỏ ta ra đi như những con chuột tìm đường chạy trốn khỏi con tầu sắp chìm đắm dưới biển cả mênh mông!
Sáng nay, ông thức dậy sớm hơn thường lệ. Nói là thức dậy sớm chứ thực ra, suốt đêm hôm qua ông có chợp mắt được chút nào đâu. Ông mãi suy nghĩ về việc thằng Thành, con ông phải đi về Việt Nam làm việc theo sự chỉ định của công ty. Ông không dám trách móc về việc làm của nó. Ông chỉ biết buồn vì thằng con của ông không còn chọn lựa nào khác. Ông biết vậy nhưng cũng đã thăm dò thằng con.
Con không thể xin chuyển qua làm bộ phận khác và ở lại đây với Ba được sao"
Hỏi chỉ để hỏi mà thôi. chứ thực ra ông đã biết câu trả lời như thế nào rồi. Trong thời buổi người khôn của khó lúc này, người ta còn tranh giành, đấu đá lẫn nhau để có công ăn việc làm. Trong khi thằng con ông được đề cử đi mà ông lại mong muốn nó từ chối. Thật là nghịch lý. Biết đi là tốt cho con, nhưng ông vẫn cảm thấy áy náy sao đó trong thâm tâm. Phải chi hắn được đổi qua một nước nào khác, không phải Việt Nam thì ông không cần bận tâm cho lắm.
Nghe ông hỏi như vậy. Nó cảm động lắm. Nó nói với ông rằng, con biết con đi Ba ở lại một mình đơn chiếc rất buồn. Nhưng nếu con không đi thì coi như mình tự ý bỏ việc. Trong khi đó, rất nhiều người cầu mong để có được cơ hôi này. Thôi thì để con nói chuyện với vợ chồng con Tâm thu xếp để Ba về trên đó sống với tụi nó một thời gian.
Ấm nước reo sôi trên bếp đã lâu, ông vẫn không nghe thấy. Ông mãi lo suy nghĩ về những tháng ngày sắp tới, khi thằng Thành đi xa. Cho đến khi Thành từ trên gác đi xuống, nó thấy ông cứ ngồi tư lự, mắt dõi ra sân vườn mông lung. Thường ngày, ông không có động thái như vậy. Những ngày tháng khi bà còn sống, sáng ra ông thường ngồi bên ấm trà nóng bà đã pha sẵn, đọc báo hoặc coi tin tức, chờ bà làm điểm tâm và chuẩn bị cơm trưa cho cha con ông. Xong đâu vào đó, ông chỉ biết xách gói ra đi. Kể từ khi bà qua đời cách đây không lâu, ông phải tự pha lấy trà và thay bà chuẩn bị cơm nước cho cả hai cha con.
Nó lên tiếng hỏi:
Nước sôi rồi. Sao Ba chưa pha trà" Ba có bị sao không"
Nếu hôm nay Ba không được khỏe, thì goị điện thoại xin nghỉ bệnh đi Ba.
Ông chợt giật mình bừng tỉnh.
À không! Ba không sao cả. Để Ba đi lấy cơm cho con mang đi làm.
Không cần đâu Ba. Hôm nay mấy người trong chổ làm rủ nhau đi ra ăn ngoài. Lâu lâu con cũng cần phải đi ăn với họ một bữa cho vui với anh em. Để con gọi xin cho Ba nghỉ bệnh ngày hôm nay. Nếu có gì, thì Ba gọi vô chỗ làm cho con. Trưa con về đưa Ba đi bác sĩ.
Thôi! chắc không sao đâu. Ba nghỉ ở nhà bữa nay được rồi. Chắc tại tối qua ngủ không được nên sáng nay Ba hơi mệt thôi. Con đi làm đi kẻo trể. Ông nói vậy để cho thằng con yên tâm mà đi làm, chứ trong thâm tâm ông nghĩ lung lắm.
Thành đi rồi. Ông trở lại với căn nhà trống trải, vắng lặng. Nhìn lên bàn thờ, nơi có di ảnh của vợ ông. Ký ức đau thương ngày xưa lại đổ về trong tâm trí của một con người đã có tuổi. Càng nghĩ, ông càng cảm thương cho người vợ hiền vắn số.
*
Ngày trước, thời chiến chinh binh lửa. Trai gái làng cưới nhau xong là ông đi. Lâu lâu ông mới được phép đôi ba ngày. Thời gian làm sao đủ cho đôi vợ chồng son mặn nồng ân ái. Nói chi đến thời gian săn sóc cho nhau. Lúc có bầu thằng Thành. Bà một thân, một mình theo đoàn người chạy loạn băng qua đại lộ kinh hoàng vô tạm cư tại Đà Nẵng. Ông theo đơn vị, trấn thủ nơi miền địa đầu đất nước, làm sao mà lo lắng được cho bà. Ngày đứa con đầu lòng chào đời, ông cũng không ở bên cạnh để có lời ủi an. Rồi tiếp đến, những tháng bà mang bầu con Tâm và sinh nó ra. Ông cũng biền biệt.
Cho đến những ngày sau 1975, bà dắt díu hai đứa con thơ, tìm về nơi làng quê cũ thì được tin ông đã phải tập trung cải tạo. Vợ chồng con cái vẫn không thể sum vầy. Một lần nữa, bà thân cò một mình lăn lội kiếm sống vừa thăm chồng, vừa nuôi con.
Biền biệt gần mười năm ông mới được về nhà. Ông cũng chỉ gặp lại được người vợ thân yêu cùng đứa con gái. Con Tâm nhìn ông với ánh mắt xa lạ, ngỡ ngàng. Ông không được gặp lại đứa con trai trân quý. Thằng Thành đã được bà gửi "về ngoại" sống như những gì bà xa gần đã nói với ông trong những lần thăm nuôi trước.
Thằng Thành ra đi, để lại trong bà một sự thương xót vô biên. Bà vừa mừng, vừa lo cho nó. Mừng là vì nó đã thoát được cảnh sống lầm than nơi quê hương khốn khổ. Dẫu sao đi nữa, nó cũng sẽ có được một tương lai tốt đẹp. Bà hy vọng và mừng là vì thế. Lo, bà lo vì một thân, một mình nó lênh đênh trên biển cả, biết bao hiểm nguy có thể vây ập đến và nuốt chửng người con yêu quý cuả bà. Rồi, ngày tháng cô đơn lạc lõng trong các trại tị nạn, không một người thân bên cạnh, có ai lo lắng cho nó những khi trái gió trở trời. Bà ngày đêm khấn nguyện cho nó được bình yên. Bà như đứt từng khúc ruột mỗi khi nghĩ đến thằng con.
Cho đến một hôm, bà thật sự mừng rỡ khi nhận được thư của nó. Nét chữ nghuệch ngoạc cùng với nhiều lỗi chính tả. Nhưng bà rất mừng, mừng đến chảy cả nước mắt vì nó vẫn còn một chút gì đó của riêng nó, của quê hương nơi nó được sinh ra. Trong thư nó nói rằng nó nhớ và thương bà lắm nên mới nhờ người ta chỉ cho nó viết thư thăm bà. Nó kể lể đủ thứ chuyện nơi trại tị nạn nó đang sống. Nó nói rằng ở nơi đây, nó chỉ có ăn xong đi học. Vừa học tiếng Việt, vừa học tiếng Anh. Nó không phải cực khổ đi mót lúa, mót khoai như những ngày đang ở nhà. Nói tới đây nó nói nó thương bà và con Tâm rất nhiều. Nó cũng thêm rằng nó đã được phái đoàn Mỹ phỏng vấn và sẽ được đi định cư tại Mỹ một ngày gần đây. Nó hứa là khi qua tới Mỹ, nó sẽ để dành tiền mua quà gửi về cho bà và con Tâm, em của nó.
Tháng ngày trôi qua. Nó được một gia đình người Mỹ tốt bụng bảo lãnh và nuôi nấng cho ăn học. Trong những thư về nhà, nó nói rằng nơi thành phố nó đang sống không tìm thấy một người Việt Nam nào cả. Suốt ngày ở trường và ở nhà nó đều phải nói tiếng Mỹ. Nó nhớ tiếng Việt lắm nên những khi có thời gian, nó sẽ viết thư bằng tiếng Việt cho gia đình và bạn bè nó còn trong trại tị nạn.
*
Cuối cùng thì gia đình ông cũng đến được đất Mỹ nhờ chương trình nhân đạo H.O. Gia đình đoàn tụ. Cha mẹ con cái, anh em gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Ông mừng vì đã gặp lại được thằng con yêu quí. Bà thì khỏi phải nói. Cứ xuýt xoa khen hoài thằng Thành, bảo rằng nó mau lớn, càng lớn khuôn mặt nó càng giống ông như đúc. Đối với nó, thoáng chút ngỡ ngàng khi gặp laị mọi người ở phi trường. Ngỡ ngàng cũng phải. Kể từ ngày bà sinh nó cho đến hôm nay, phải nói chưa bao giờ ông được bồng ẵm nó. Tình cha con phân cách theo chiều dài cuộc chiến, càng chia lìa vì đất nước điêu linh. Đối với nó, gia đình là những gì được gói ghém trong tấm hình đen trắng bạc màu ông bà gửi cho nó trong thời gian xa nhà.
Gia đình, vợ chồng con cái sum họp, sống với người bảo trợ một thời gian. Thằng Thành vẫn đến trường học hành như ngày nào. Thêm vào đó nó có bổn phận hướng dẫn cho con Tâm để bắt kịp việc học ở trường. Nó cảm thấy hạnh phúc khi sống bên mái ấm gia đình và tỏ ra hiểu biết hơn khi giúp được cho ba mẹ và em nó trong thời gian đầu hội nhập. Còn đối với con Tâm, nhờ sự hướng dẫn của anh Thành nó, việc hội nhập coi như không mấy gì khó khăn.
Riêng ông bà thì gặp không ít trở ngại trong cuộc sống. Những năm tháng tù đày và khốn khó ở quê nhà, cộng với tuổi tác ngày càng già nua, bệnh hoạn đã làm cho sức lực của cả hai không còn được sung mãn. Công việc làm ăn nơi gia đình ông bà đang sống toàn là những nặng nhọc. Mặc dầu đã có sự hỗ trợ của máy móc tối tân, nhưng cũng cần phải có sức khỏe mới hoàn tất được công việc. Ngược lại, sức khỏe của ông bà không cho phép. Cộng thêm vào đó, tiếng người không được rành rẽ cho mấy. Dù rằng đã cố gắng học hành, nhưng ông bà cũng không thể nào bắt kịp nhịp sống khi tuổi già ngày một chồng chất, càng tỉ lệ nghịch với sự bén nhạy của trí tuệ. Không lẽ cả gia đình cứ ngồi để đón chờ sự thương hại và bố thí tiếp tục của gia đình người bảo trợ" Càng nghĩ, ông càng đớn đau cho thân phận mình và con cái. Đau cho mình thì ít mà thương cho con cái thì nhiều. Từ ngày sinh tụi nó ra cho đến bây giờ, ông chưa làm được gì cho thằng Thành và con Tâm cả, có chăng chỉ một mình thân bà mà cũng chỉ được bữa đói, bữa no. Đứa cô đơn lưu lạc nơi xứ người khi còn nhỏ dại, bên mình không có một người mình không có một người thân. Đứa ở lại quê nhà với mẹ nhưng hoàn cảnh cũng chẳng khác chi. Giờ đây, toàn gia đình qua được nơi xứ tự do này ông tâm nguyện sẽ làm tất cả những gì để có thể bù đắp lại những gì mất mát mà bà đã phải gánh chịu. Bù lại những thiếu vắng cha con mà vì hoàn cảnh ông không thể cưu mang cho hai đứa con trước đây. Ông chỉ mong ước mai này con ông được học hành đến nơi đến chốn, cho dù có cực khổ đến đâu thì ông vẫn vui lòng.
Đang băn khoăn lo lắng cho cuộc sống gia đình. Ông bất ngờ nhận được điện thoại người bạn cùng hoàn cảnh ông ngày trước, hiện mới được định cư nơi miền tây nắng ấm. Qua câu chuyện điện thoại với người bạn, ông phần nào cảm thấy cuộc sống sinh nhai nơi miền viễn tây có phần dễ dàng hơn nơi ông và gia đình đang cư ngụ. Để cho chắc chắn, ông đã thân hành làm một chuyến chu du về miền đất hứa, nơi có những người bạn từng sát cánh với ông trong đơn vị ngày cũ, cũng như cùng chung số phận với ông trong những năm tháng tù đày. Trước là thăm bạn bè và người thân, sau là tìm đường sống cho toàn bộ gia đình. Quả nhiên, cuộc sống nơi đây có phần dễ sống hơn nơi tiểu bang đèo heo gió hút mà gia đình ông đang sống. Việc làm nơi đây tìm kiếm cũng tương đối dễ dàng.
Thêm vào đó, ngành công nghệ thông tin đang trên đà phát triển nên các hãng xưởng lắp ráp linh kiện điện tử hầu hết tập trung nơi đây đang rất cần nhân công. Có những lúc quá cần người, nhiều người không cần giỏi tiếng Anh cũng được mướn. Họ chỉ cần những người làm việc siêng năng và cần cù. Việc huấn luyện còn lại thì đã có người đi trước chỉ bảo người đến sau. Cuối cùng thì công việc cũng xong nhờ vào sự chịu khó của những người công nhân gốc Á châu, mà phần lớn là người Việt.
Thế là gia đình ông, một lần nữa di cư về nơi mảnh đất sống này. Buổi sáng chia tay với gia đình người bảo trợ. Ông nghẹn ngào nói lời cám ơn gia đình đã cưu mang thằng Thành nhiều năm, cũng như gia đình ông trong thời gian lưu lại nơi đây. Lời cám ơn chân tình, cảm động của ông đã làm cho mọi người trong gia đình bảo trợ rơm rớm nước mắt.
Sau thời gian ngắn, ổn định nơi vùng đất mới. Ông xin đi làm trong một hãng sản xuất "chip" điện tử. Công việc cũng không lắm nặng nhọc và khó khăn, chỉ cần sự tỉ mỉ và cần cù siêng năng của người làm. Điều đó, đã không thiếu trong bản chất con người của ông. Ông làm việc tận tuỵ, không bỏ sót một giờ làm thêm nào.
Riêng bà cũng không chịu ngồi yên trong nhà ngày một nhàm chán. Không chữ nghĩa nhưng cũng đã có công việc cho bà phụ cắt chỉ ở một hãng may gia công. Thành và Tâm ngoài giờ học ở trường và làm bài ở nhà còn phụ giúp bà nhận hàng vắt sổ thêm ở nhà vào những ngày nghỉ và cuối tuần. Về sau này, ngành may gia công không còn được hưng thịnh như xưa. Bà cũng không quản ngaị khó khăn, xin đi làm việc cho những nhà hàng Việt Nam, khi cắt thịt, khi rửa rau...bất cứ làm việc gì bà cũng không từ nan. Đồng tiền kiếm được mỗi tháng từ công việc làm không nhiều, nhưng cũng đủ góp phần chi tiêu trong cuộc sống gia đình và ông bà cảm thấy cuộc sống có ý nghĩa hơn.
Tưởng rằng cuộc sống của gia đình êm đềm kể từ đây, khi một đời bà đã tận tụy lo cho chồng con. Bà mong chờ niềm hạnh phúc của người mẹ được nhìn thấy ngày con cái mình nên người. Bà đã đau với cái đau của chồng con trong những tháng năm loạn lạc. Nhưng bà đã không thể nhìn thấy niềm hạnh phúc đang đến gần với bà và gia đình. Bà không thể chờ đợi để nghe thằng Thành hãnh diện nói lời cám ơn ông bà trong bài diễn văn ra trường của nó bằng cả hai ngôn ngữ Anh-Việt. Bà cũng không kịp nhìn thấy những giọt nước mắt của con Tâm khóc cha ngày khoác áo cô dâu về nhà chồng. Bà ra đi để lại trong ông một sự hụt hẫng vô biên, một nỗi đau của người chồng, người cha chưa thể cưu mang cho gia đình một niềm hạnh phúc đủ đầy.
Căn nhà càng trống vắng hơn kể từ ngày con Tâm theo chồng đi công tác nơi miền xa. Niềm thương nhớ người vợ hiền và con gái càng dày xéo nỗi đau trong tâm hồn ông. Sự chăm sóc, quan tâm của thằng Thành cũng không thể làm ông nguôi ngoai trong những lúc cô đơn trống vắng. Nhưng nó là nguồn ủi an, là lẽ sống của ông. Tâm thân ông đang nương nhờ vào đó trong những tháng ngày còn lại trên cõi đời.
*
Buổi sáng, sau khi dọn dẹp những thứ cần thiết trước khi ra phi trường về sống với vợ chồng con Tâm. Cha con bùi ngùi chia tay nhau. Ông ngậm ngùi nói với con trai rằng: Ba hy vọng con hiểu được vì sao gia đình mình đến đây. Ba cũng hy vọng con hiểu rõ do đâu mà mẹ con bỏ cha con mình để ra đi sớm như vây.. Con là điểm tựa, là niềm tự hào của gia đình, của ba. Ông nói mà nghe đau nhói trong con tim.
Dường như một nỗi đau vẫn còn đâu đó trong tấm thân già của một người cha.
Trong vụ cướp xảy ra sáng thứ Tư trong khu thương xá góc Westminster và Brookhurst, hình giám sát an ninh cho thấy một tên cướp đang giật bóp của nạn nhân ở phía trước, trong khi tên cướp thứ nhì đang chạy theo để hỗ trợ.
Một tin rất buồn đã xảy ra tại môt khu chợ đông đúc của người Việt tại Quận Cam. Khoảng 9:45 sáng thứ Tư, trước cửa chợ Hòa Bình, gần sát Bank Of America, góc đường Brookhurst và Westminster, thành phố Garden Grove, một phụ nữ 32 tuổi, vừa ở nhà băng đi ra tới cửa chợ Hòa Bình thì bị một tên cướp giật ví. Người phụ nữ trẻ này chống cự lại và không muốn buông tay khỏi cái ví, nên bị tên cướp kéo lê đến cửa chiếc xe nơi có hài tên ngồi chờ sẵn. Cô té xuống rồi bị chiếc xe của tên cướp cán qua người. Nạn nhân được đưa đến bệnh viện nơi đây cho biết cô đã qua đời. Còn ba tên cướp kia bỏ chạy và bị cảnh sát đuổi theo đến Los Angeles thì bị bắt. (Cũng gần nơi này, một thanh niên một mình đi lấy tiền cash vào ban đêm bị cướp bắn chết gần hai năm trước.)
Cách đây vài tháng, một phụ nữ làm tiệm Nail ở Las Vegas, vì bị người khách hàng quịt, bỏ chạy không trả tiền làm công khoảng $35, đã chạy theo bám vào chiếc xe của người khách quịt tiền, nhưng không may, té xuống và chết.
Vài năm trước đây, trước cửa một ngôi chợ trên đường Bolsa (giờ đã đóng cửa), thành phố Westminster, một phụ nữ bị giật ví và cũng giằng co với tên cướp rồi bị tên cướp kéo lê đi, té dập đầu xuống đất và qua đời bởi vết thương trên đầu. Đau lòng trước sự kiện này, người viết đã tìm cách gặp gỡ vị Cảnh Sát Trưởng tiền nhiệm của thành phố Westminster để trao đổi vài phương pháp tự vệ cho phụ nữ khi bị cướp cạn tấn công, giật ví cũng như khi bị bọn hiếp dâm bắt cóc. Đến nay, vì sự việc kia lại tái diễn ngay tại Thủ Đô Tị Nạn Quận Cam, người viết xin trình bầy lại lời khuyên của vị Cảnh Sát Trưởng như sau:
- Thứ nhất: Mạng sống quý hơn vàng
Nếu chẳng may là nạn nhân của sự giật ví, thì nên buông tay, mặc cho tên cướp lấy đi, cho dù trong ví có nhiều tiền chăng nữa. Vì nếu còn mạng sống thì sẽ tạo dựng lại được số tiền đã mất, còn nếu chết đi rồi, thì vừa mất mạng vừa mất tiền, chưa kể gia đình tan nát. Trường hợp nhà nghèo không có tiền chôn cất, còn làm khổ người ở lại! Ngoài ra, nếu mất thẻ Credit, thẻ nhà băng, thẻ căn cước, thẻ bảo hiểm xe, bảo hiểm sức khỏe, tất cả mọi loại thẻ… thì chỉ cần thông báo với nơi cấp thẻ là mình bị cướp lấy mất, cơ quan cấp thẻ sẽ cho mình thẻ khác, không tốn tiền! Trường hợp tên cướp sử dụng thẻ credit của mình để tiêu xài, thì mình cũng không chịu trách nhiệm, kể từ giờ mà mình bị cướp lấy mất. Nơi cấp thẻ sẽ hỏi mình bị mất giờ nào, ngày nào, và sẽ không đòi mình phải trả tiền từ giờ phút đó. Để có thể báo cáo ngay với cơ quan cấp thẻ, thì nên ghi lại từng số thẻ và số điện thoại của nơi cấp thẻ và cất ở nhà, trường hợp bị cướp thì về nhà lấy.
-Thứ hai: Không thể chiến đấu với cướp
Vì sức lực của một người phụ nữ bình thường làm sao mà đấu lại với một tên cướp khỏe mạnh, hung hãn, đang đói, thèm tiền và liều mạng! Một khi mà tên cướp đã có chủ ý đi cướp thì chắc chắn hắn đã chuẩn bị từng cách cướp giật rồi, tay chân đã sẵn sàng ra đòn, trong khi đó, thì người phụ nữ lại không chuẩn bị chút nào, cho dù có liếc dọc, liếc ngang, thì cũng không thể đề phòng một tên cướp nhảy vọt tới rất nhanh. Theo nghiên cứu của cảnh sát, thì với khoảng cách 10 feet (3 thước), tức là bề ngang của một căn phòng gia đình, chỉ cần 5, 6 giây là tên cướp có thể phóng tới chụp được cái ví.
- Thứ ba: Cướp thường mang theo vũ khí
Nếu người phụ nữ mạnh mẽ mà có thể giằng co được ngang ngửa, thì lập tức chúng rút vũ khí ra, có thể là dao hay súng. Lúc đó, lấy tay không mà chọi với vũ khí ư? Trong trường hợp mới nhất, một tên khỏe nhất đi giật ví, hai tên còn lại chờ ở xe, nếu thấy người bị cướp mà trên cơ tên cướp thì lập tức hai tên kia ra tay ngay, và đòn mà chúng đưa ra đều chí mạng, chỉ một nhát dao hay một viên đạn là nạn nhân chết ngay, vì chủ trương của bọn cướp là Nhanh và Gọn để không bị nhận diện, bị an ninh hay cảnh sát bắt.
Vậy, lời khuyên của cảnh sát là không bao giờ để nhiều tiền trong ví. Nếu cần đến ngân hàng lấy tiền thì nên đi với một người đàn ông khỏe mạnh, không nên đi với phụ nữ. Nếu số tiền tương đối lớn thì phải có hai người đi kèm, và số tiền lấy được nên trao cho người đàn ông giữ, bỏ trong bụng. Ngoài ra, không nên dùng loại ví đeo tòng teng trên vai, thòng xuống dưới ngang hông, vì dễ bị giật. Đừng mang ví “đồ hiệu” đi chợ, đi ngân hàng. Không đeo đồ trang sức đắt tiền, đồng hồ vàng chóe, nhẫn hột xoàn lóng lánh! Đi lãnh tiền, không đi giầy cao gót, mặc quần áo sang trọng, đội tóc giả vàng óng… nghĩa là không nên khêu gợi cho kẻ cướp để ý. Khi vừa bước ra khỏi cửa ngân hàng thì nên chậm chân (không nên đứng lại) và liếc ngang dọc, nếu thấy có người đứng vẩn vơ đâu đó, thì nên cảnh giác đi vòng, hoặc bước trở vào và nhờ security đưa mình ra xe.
Trong các trường hợp khác, không phải ra ngân hàng lãnh tiền, mà là đi chợ, đi shopping mua hàng, vào tiệm ăn... một mình, thì nên để ý những điều sau đây:
- Không đậu xe cạnh các xe Van, xe SUV to cồng kềnh. Khi ra về hoặc đi vào tiệm, không đi ngang qua các xe lớn vì có thể bị cướp bất ngờ tung cửa ra và ôm kéo mình vào xe. Việc này chỉ xảy ra có 30 giây mà thôi. Nếu khi ra về, thấy có một xe Van đậu gần xe mình thì lùi lại, và kiếm Security đưa mình ra, nếu không có Security, thì nhờ người bán hàng đưa mình ra xe. Không chụp lấy một người đang đứng vẩn vơ gần đó mà nhờ họ đưa ra xe! Chính cái tên đứng vẩn vơ đó là tên bắt cóc!
- Khi ra xe, nên nhìn vào bên trong các xe, dù nhỏ, đậu gần xe mình. Nếu thấy có người ngồi, cũng nên lảng đi, đừng vào xe mình nữa, mà nhờ Security đưa mình ra xe. Khi đến chỗ xe mình, thì phải nhìn ngay vào băng ghế sau. Bọn tội phạm có đủ chìa khỏa để mở bất cứ xe nào rồi nằm phục ở băng ghế sau, đợi mình bước vào là chụp cổ.
- Nếu đã vào xe rồi, mà thấy có xe đi theo xe mình thì vòng lại, tìm chỗ cửa tiệm hay chỗ sáng nhất mà đậu lại rồi vào tiệm nhờ người đưa ra, hoặc gọi ngay 911.
- Khi ra xe, mà thấy kính xe trước bị ném trứng vào thì không nên vào xe nữa mà trở lại tiệm nhờ người giúp, vì sẽ có một tên đứng chờ đó, ngỏ lời giúp mình. Không nên nghe lời một kẻ nào nhờ kéo giúp xe, nhờ cho đi một quãng ra xe hắn, nhờ xem giờ. Nếu có một tên nào nói là “bánh xe của cô bị xẹp, tôi chữa giùm cho” thì nên quay lại với Security… nghĩa là TUYỆT ĐỐI KHÔNG NÓI CHUYỆN VỚI KẺ LẠ! (Never talk to stranger!)
- Trường hợp bất ngờ đang đi mà bị cướp ôm chầm lấy rồi dí dao vào người thì phải cố vùng vẫy, la hét tối đa, nhất định không chịu tên cướp đẩy vào xe, vì thà là bị chết ngay đó, còn có người thân đi chôn, chứ nếu đã vào xe chúng rồi, thì chỉ có đường chết và bị vất xác trong bãi hoang nào đó, không ai tìm ra. Một phương pháp của võ thuật đường phố (Võ cuội) làm chúng nhả ra nhanh là dùng hết sức mạnh mà cắn vào tai, mũi, miệng, má, cổ họng… Nếu bị ôm từ đằng sau, thì co chân lên, dùng hết sức mạnh đạp gót giầy cao gót vào bàn chân chúng. Một chiêu khác là lén tìm ngón tay Út của tên cướp mà bẻ ngược lại tối đa. Khi bị ôm trước mặt thì thúc đầu gối vào hạ bộ tên cướp, hoặc đấm, đá mạnh vào đó, là tên cướp quỵ xuống ngay. Một độc chiêu là chụp lấy chỗ yếu nhất của tên cướp mà bóp mạnh…
- Chiêu võ thuật thực sự khi bị ôm từ đằng sau là... tụt người xuống. Thân hình phụ nữ thường nhỏ con hơn cướp nên tụt xuống dễ dàng rồi đạp gót chân lên bàn chân của tên cướp, hoặc quay lại đấm vào chỗ kín của hắn. Nếu bị cướp dùng hai bàn tay bóp cổ mình thì áp dụng chiêu “chắp tay bái lạy,” hai bàn úp sát vào nhau bất ngờ thọc ngược lên cổ hắn rồi bung hai tay ra hai bên, nhất định là gỡ ra được rồi tiện tay, chọc mấy ngón tay vào cổ hắn thật mạnh.
- Trường hợp tệ nhất là bị cướp nhốt vào thùng xe phía sau, thì dùng chân mò vào chỗ đèn “signal” trái hay phải mà đạp mạnh cho đến khi cái đèn bung ra. Người đi sau sẽ thấy cái đèn đột nhiên bung ra là sẽ gọi cảnh sát giùm mình. Nếu không tìm thấy đèn thì cũng dùng chân đạp lung tung, tạo tiếng kêu cho người khác nghe thấy…
- Một trường hợp khác: bị cướp leo lên xe mình, dí dao hay súng vào mạnh sườn mình, bảo lái đi thì lái thật nhanh rồi cho đụng xe vào bất cứ vật gì (xe khác, bức tường, gốc cây…) vì thà là bể đầu, dập ngực nhưng có cơ hội sống sót còn hơn bị hiếp rồi bị phân thây ở góc rừng nào đó. Không bao giờ nghe lời dụ dỗ của tên cướp: “Ngoan ngoãn thì tao thả!” Điều đó không bao giờ xảy ra, vì chẳng có tên cướp nào muốn để nhân chứng sống sót mà tìm ra thủ phạm.
Tóm lại, MẠNG SỐNG QUÝ HƠN VÀNG. Các cụ nói: “Lấy của che thân, chứ không ai lấy thân che của!” Hơn nữa, thận trọng là đức tính cần thiết trong một xã hội nhiễu nhương, đầy dẫy tội ác này.
Cuốn “Hơn Nửa Đời Hư” in ở Sài Gòn của nhà văn Vương Hồng Sển. (Hình: ****)
Ai cũng biết Tháng Tư chỉ có 30 ngày. Riêng ngày “30 Tháng Tư năm 1975” thì người dân Sài Gòn không thể nào nhớ lộn, không thể nào nói hay viết lầm được.
Nhưng nhà văn Vương Hồng Sển, trong cuốn “Nửa Đời Còn Lại” đã viết ít nhất hai lần “ngày 31 Tháng Tư năm 1975.” Lần đầu, trong bản in năm 1996 của nhà xuất bản Văn Nghệ, California, ở trang 285, cụ viết: “…tôi xin được lẩn thẩn lấy theo sức học đáy giếng mà luận việc trên cao để được tỏ chút nỗi lòng một dân Nam thấp hèn buổi 31-4-1975.
Xin nhắc lại, Vương Hồng Sển viết: “…một dân Nam thấp hèn buổi 31 Tháng Tư, 1975.”
Cụ còn “viết lộn” thêm một lần nữa, trang 291: “…tôi đây đã trải cảnh chịu đựng sau ngày 31-4-1975 ở Sài Gòn, làm tôi bắt nhớ Nguyễn Du năm 1802,…”
Các “bạn trẻ” dưới 60 tuổi có thể không biết nhà văn Vương Hồng Sển là ai; độc giả sống ở miền Bắc càng ít người biết đến cụ.
Vương Hồng Sển là một “nhân chứng” cho những nhà viết sử. Cụ thường kể chuyện đời mình, để ghi lại cuộc biển dâu diễn ra chung quanh. Lâu lâu mới châm biếm chuyện chính trị. Cụ thường kể chuyện “Sài Gòn Năm Xưa,” tên một cuốn hồi ký. Cụ rỉ rả bàn về thú chơi đồ cổ, coi hát bội. Cụ tự chế nhạo mình sống “Hơn Nửa Đời Hư,” một cuốn hồi ký khác. Năm 1993, đã ngoài 90 tuổi, cụ vẫn gắng sức ngồi viết kể tiếp những chuyện mình đã từng trải qua cuốn “Nửa Đời Còn Lại.”
Hai lần “viết lầm” ngày 31 Tháng Tư, 1975, có thể vì cụ Vương Hồng Sển tuổi già đã lẫn lộn, hay là người đánh máy lại cuốn sách đã bấm lộn số không thành số một trên computer?
Cụ Vương đã viết lầm chăng? Nhưng, trong sáu, bảy trang sách mà viết lộn tới hai lần, giống hệt nhau, thì chuyện đó khó xảy ra. Vì khi đọc cả cuốn tự sự này, chúng ta thấy ông còn rất minh mẫn. Vương Hồng Sển nổi tiếng là người có thói quen ky cóp cất giữ các kỷ vật, ghi chép các biến cố trong đời mình rất cẩn thận. Ngoài 90 tuổi, ông nhắc lại những chuyện thời 1922 hay 1946, vẫn nhớ và ghi lại từng chi tiết. Ông còn giữ cái toa thuốc của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thinh viết ngày 17 Septembre 1924.
Còn người đánh máy, nếu ngón tay bấm sai nút trên máy vi tính, thì chỉ lộn zero sang số 9 chứ không thể bấm số 1, vì trên bàn máy hai số zero và số một nằm ở hai đầu xa nhau.
Cho nên, có thể đoán cụ Vương cố ý viết hai lần ngày 30 thành 31 Tháng Tư.
Đó là một cách phát biểu ý kiến về chính trị, theo lối văn “đặc biệt Vương Hồng Sển!” Trong các tác phẩm, cụ Sển thường dùng lối văn “cà rỡn, cà tửng” theo phong thái Miệt Vườn. Cụ kể chuyện miên man, chuyện nọ xọ chuyện kia, rồi lâu lâu “đánh du kích” một câu thấm thía! Đó là những lúc cụ bàn xéo về chính trị! Viết ngày 30 thành 31 là một lối nói “cà tửng,” để gửi một thông điệp cho người đọc hiểu thâm ý của mình, người miền Bắc gọi là “nói kháy!”
Hai lần cố ý viết ngày 30 thành 31, là hai lần tác giả đang viết với tấm lòng đầy cảm khái. Lần thứ nhất, cụ nói đến thân phận “một dân Nam thấp hèn buổi 31-4-1975” sau khi tự nhận mình thấp hèn như “ốc ngồi đáy giếng” đòi bàn luận việc “trên cao.”
Lần viết lộn thứ hai là đoạn Vương Hồng Sển tự so sánh mình với kiếp “hàng thần lơ láo phận mình ra đâu” của Nguyễn Du khi phải làm tôi triều Nguyễn. Vương Hồng Sển đã viết rất dài về tâm sự Nguyễn Du trong thời gian đầu thế kỷ 19, để biện luận rằng trong thân phận “hàng thần” đó Tố Như không thể bình tâm mà sáng tác truyện Kiều được.
Lần thứ ba viết đến ngày lịch sử này thì Vương Hồng Sển viết chính xác, khi mô tả quang cảnh một khu phố Sài Gòn thay đổi, ở trang 333, “…từ ngày 30-4-1975 và hiện nay đã trở nên phố xá tấp nập lớp buôn bán, lớp làm cửa hàng to…” Ba lần viết đến ngày 30 Tháng Tư, hai lần viết lộn. Chắc là cố ý.
Cố ý, nhưng là ý gì? Vương Hồng Sển là dùng một ngày “không có thật,” 31-4-1975, để nói tóm gọn tất cả những năm tháng sau ngày 30 Tháng Tư, sau cuộc đổi đời! Đọc những chữ này, độc giả sẽ chia sẻ nỗi niềm của người dân miền Nam trong thời buổi “sau ngày 30 Tháng Tư!”
Vương Hồng Sển là công chức trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa nhưng không chịu cảnh tù biệt xứ. Cụ nhắc đến lúc đoàn quân của Nguyễn Ánh ra chiếm Bắc Hà, nhắc lại rằng chỉ có hai người trong giới sĩ phu của Nhà Lê và nhà Tây Sơn bị chế độ mới hành hạ, là Phan Huy Ích bị bỏ tù và Cống Chỉnh bị đánh đến chết vì thù riêng. Vương Hồng Sển nhắc chuyện đời Gia Long chính là để so sánh với cái thông cáo lừa bịp để bắt giam hàng trăm ngàn người đi tù mút mùa gọi là “cải tạo!”
Có đoạn đang bàn chuyện Phạm Quỳnh, cụ Vương tự nhiên “đánh” một câu: “…trong này có miệng mà khó nói nên lời, có tay cầm viết mà khó ghi lời nào khỏi bị sửa chữa, cắt xén – vả lại tôi là người gì mà được phép nói…” (trang 267). Viết “trong này” tức là trong miền Nam; và “ngày nay” tức là với khác với trước 1975.
Tôi là người gì mà dám nói? Nhưng cụ Vương có lúc bỗng trở nên nồng nhiệt, dầu vẫn rụt rè nhưng nhất quyết phải nói, khi cụ lên tiếng bênh vực một danh nhân miền Nam vẫn bị đảng Cộng Sản buộc tội và bêu riếu một cách thô bạo, bất công là Phan Thanh Giản. Sau khi biện luận để phục hồi danh dự Phan Thanh Giản, Vương Hồng Sển viết: “…người đời nay học thuyết mới, tư tưởng theo mới, quên ơn kẻ trồng cây, quên ơn sanh thành đào tạo,…”
Ai cũng biết, sau ngày 30 Tháng Tư, 1975, lẫn trong đám các nhà văn, nhà thơ và học giả miền Bắc vào Sài Gòn, có nhiều người mang thái độ kiêu ngạo của “bên thắng cuộc,” lên mặt “dạy dỗ, cải tạo” giới văn nghệ và học thuật miền Nam, họ được bọn “cách mạng 30” nhi nhô đóng vai chỉ điểm.
Cảnh tiếp xúc hai miền Nam Bắc lúc đó, Vũ Hoàng Chương đã diễn tả qua hai câu: “Rằng vách có tai, thơ có họa – Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh!” Những người trí thức Sài Gòn như Vương Hồng Sển (hoặc Nguyễn Hiến Lê, Dương Nghiễm Mậu,…) chọn sống ẩn dật chứ không chịu ra làm tay sai cho bọn vua quan mới. Cụ Vương ví mình với con dế: “Tôi dư biết cho thân, thà làm dế sống trong hang, có lẽ được yên thân hơn là múa gáy cho trẻ nhỏ nó biết chỗ trốn, chúng đổ nước ngập hang, bắt dế về nuôi trong hộp diêm, hộp quẹt, thỉnh thoảng bắt ra đá độ, gãy càng queo râu toi mạng” (trang 84).
Sống trong một xã hội đầy những “vách có tai, thơ có họa” nhìn chung quanh không “biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh,” Vương Hồng Sển không thể nói thẳng mà chỉ dùng mật ngữ. Có lúc kể chuyện Sài Gòn đời xưa từ 1867, trải qua trào Tây, trào Nhật, cụ lại quay qua nói chuyện vua Napoleon III bên Pháp, rồi chợt cảm khái: “Trở lại người dân đất Sài Gòn, như tôi đã nói, dám chắc không dân nào trí lanh tay xảo hơn. Khi bỏ áo giáp, tuột giầy trận, chịu đi đày, bán từ bàn thờ tổ tiên, bán ván gõ để nằm dưới gạch, căn đày kiếp đọa, tiếc đã muộn..” (trang 55).
Trong mấy dòng này là những ám hiệu cho “dân Sài Gòn” hiểu với nhau! Những nét chấm phá độc đáo: Kẻ thì “bỏ áo giáp, tuột giầy trận, chịu đi đày;” người ở lại nhà thì “bán bàn thờ tổ tiên, căn đày kiếp đọa!” Và tất cả đều “tiếc đã muộn!”
“Căn đày kiếp đọa, tiếc đã muộn!” Vương Hồng Sển gói ghém bao nhiêu nỗi đoạn trường trong thời buổi “31 Tháng Tư!”
Mấy trang tiếp, sau khi kể chuyện cà kê Kép Tư Út hát bài Anh Khóa đời xưa, tiếp đến chuyện ngôi nhà Tổng Đốc Phương bị tháo gỡ bán qua Đài Loan, bỗng nhiên Vương Hồng Sển lại viết: “Dân Sài Gòn tự khoe tiến bộ ký quỹ, gửi tiền nhà băng, giải phóng vào, hốt sạch sành sanh, thua xa dân Thổ Trà Vinh, Sóc Trăng… bán lúa mùa này xong, chôn bạc giữa lẫm rồi đổ lúa mới lên trên…” (trang 57). Kể lại cách cất giấu tiền của dân Thổ (người Việt gốc Khmer) đời xưa, để so sánh với dân Sài Gòn thời 1975, chỉ cốt viết một câu kết án: “Giải phóng vào, hốt sạch sành sanh!” Trong bảy chữ, Vương Hồng Sển cực tả một vụ cướp bóc đại quy mô, một vụ “ăn cướp hoành tráng.” Hốt sạch sành sanh!
Vào cái buổi 31 Tháng Tư, người miền Nam sống ra sao? Có lúc cụ Vương đang kể miên man những chuyện lẩm cẩm ở Sài Gòn từ thời Tây qua thời Nhật, bỗng tóm gọn một câu: “Kẻ trí đi ra nước ngoài, người ở lại phải giả dại qua ải” (trang 58). Phải sống “giả dại qua ải” nhưng Vương Hồng Sển cũng sống đủ lâu, được chứng kiến bản lãnh dân miền Nam vững vàng. Cụ viết: “Nói chi thì nói, phải nhìn nhận dân Sài Gòn vẫn có bản lĩnh – nước dưới sông thấy đó mà chặt không đứt, dứt không rời…” (trang 80). Cho nên “trải mấy trào liên tiếp mà dân vẫn là dân, cảnh có đổi mà dân không đổi…” Thơ Đỗ Phủ viết “Quốc phá, sơn hà tại,” chế độ vỡ, núi sông vẫn còn. Vương Hồng Sển không nói đến núi sông, mà chú ý tới “dân Sài Gòn vẫn có bản lĩnh” vững chãi như sông, như núi!
Ai cũng biết vào cái “Buổi 31 Tháng Tư” thì xã hội miền Nam đã thay đổi. Ai cũng có thể so sánh “trước ngày 30” và sau “buổi 31 Tháng Tư.”
Trước ngày 30 Tháng Tư năm 1975, trẻ em miền Nam vẫn giữ được những lời nói, cử chỉ kính trọng các thầy cô giáo hơn bây giờ. Mà các thầy cô hồi đó cũng giữ được tư cách đạo đức hơn buổi 31 Tháng Tư.
Trước ngày 30 Tháng Tư, 1975, ở miền Nam trai thiếu gái thừa, nhưng chưa có người mẹ nào bán con cho người ngoại quốc với giá mấy trăm đô la. Không có những cô gái xếp hàng trưng bày cho đàn ông ngoại quốc chọn. Không có người mẹ nào đem con gái bán cho các mụ Tú Bà.
Trước ngày 30 Tháng Tư, 1975, mặc dù đang chiến tranh dân miền Nam vẫn dám biểu tình phản đối chính phủ, không thua gì dân Nam Hàn, Đài Loan cùng thời gian đó. Sinh viên Sài Gòn biểu tình đòi giáo sư y khoa phải dạy bằng tiếng Việt, ký giả biểu tình phản đối bộ thông tin đóng cửa báo, các công nhân đình công, bãi thị, các học sinh bãi khóa. Tinh thần độc lập, tự chủ của người dân rất cao. Ngày nay, chỉ cần viết cho nhau trên Internet, nói chuyện tự do dân chủ, chống Trung Cộng xâm chiếm Hoàng Sa, cũng bi ghép tội rồi bỏ tù.
Nhưng chúng ta có thể tin tưởng như Vương Hồng Sển, là dân Việt Nam rất có bản lãnh. Dân vẫn là dân, các chế độ đi qua rồi sẽ biến mất. Chính Vương Hồng Sển cũng có lúc tỏ ý lạc quan. Đọc lại cuốn “Hơn Nửa Đời Hư” in ở Sài Gòn, cụ đã cải chính mấy đoạn đã bị cắt xén, trong cuốn ách tiếp theo, in ở nước ngoài. Nhân dịp đó, cụ còn tỏ ý tha thứ cho nhà xuất bản và hy vọng: “…tự xét tuổi gần đất xa trời, cũng nên hỉ xả họa may nối thêm được một ít lâu để chờ xem mãn cuộc… cuộc gì cũng chưa dám nói và nên hiểu ngầm…” (trang 277)!” Mãn cuộc gì? Ai cũng hiểu!
Vương Hồng Sển đã qua đời, chưa thấy hồi mãn cuộc. Nhưng “hồi mãn cuộc” cũng sắp tới rồi! Cái “buổi 31 Tháng Tư” đang tới hồi kết thúc, người Việt Nam có ngày sẽ trở lại làm người Việt Nam, giống như “trước 30 Tháng Tư!”
Sống Chết Trong Tay Cộng sản - Trần Nhật Kim (Danlambao)
Tôi đọc tác phẩm “Human Destiny” của tác giả Pierre Lecomte du Nouy (1883-1947) khi còn nhỏ, ở tuổi mà các cụ thường nói: “ăn chưa no, lo chưa tới”, chưa có một chút ý thức, kinh nghiệm nào về cuộc đời, nên hai chữ “Số Mệnh” cứ ám ảnh tôi mãi.
Nhiều người không tin là có số mệnh, cho rằng đó chỉ là sự may rủi xảy ra từng giai đoạn trong cuộc sống chìm nổi của con người. Trong thế kỷ vừa qua, nhờ khoa học tiến bộ, ở nhiều điểm, đã thay đổi quyền năng của tạo hóa. Các quan niệm về số mệnh bị cho là huyền hoặc, đã lui vào quên lãng.
Tôi đã tự hỏi: liệu con người có “số mệnh” không. Lấy gì minh xác cho sự hiện hữu của định luật này, khi mà con người bị ràng buộc, dập vùi bởi vận nước nổi trôi. Nhất là dưới chế độ cộng sản, vì theo thuyết duy vật biện chứng, chỉ chú trọng về phần vật chất, đã gạt bỏ phần duy tâm.
Mặc dù bán tin bán nghi vào hai chữ số mệnh, nhưng lời đoán của bác Đạt lại đúng vào trường hợp của tôi sau ngày 30-4-1975. Tôi đã phải ra khỏi “nhà ở” để bước vào “nhà tù”.
*
Tình hình mỗi lúc thêm căng thẳng. Tôi có cảm tưởng vòng vây ngày một xiết chặt hơn, nên chỉ tới chỗ hẹn vào khi thật cần thiết. Nỗi lo âu thoáng hiện trên nét mặt vợ tôi, như linh cảm một điều gì bất thường sẽ xảy ra. Nàng khóc mỗi lần tôi ra khỏi nhà và đợi cửa khi tôi về trễ. Tôi nhớ mãi gương mặt nàng đầm đìa nước mắt, lời nói nghẹn ngào: “Anh nỡ bỏ mẹ con em. Nếu anh không trở về thì mẹ con em biết làm sao đây!” Những giây phút này lòng tôi chùng xuống. Tôi thương xót vợ con nhưng không thể dừng lại, tôi đã nợ những người yêu thương của tôi, mà bổn phận phải có trong lúc dầu sôi lửa bỏng. Chúng tôi bị lôi cuốn vào một cuộc chiến mới, với mong mỏi giành lại đời sống tự do dân chủ vừa bị chiếm đoạt.
Cha tôi thấy rõ sự ưu tư của tôi nên rủ tôi đến thăm bác Đạt, một người bạn thân của ông nghiên cứu về khoa tướng số. Nhà bác trong con hẻm đường Trần Quang Diệu, gần ngã tư Trương Minh Giảng, để xem số tử vi.
Sau khi xem lá số tử vi, bác suy nghĩ lung lắm. Bác bấm đốt ngón tay nhiều lần. Đầu bác hơi cúi xuống. Mái tóc và hàm râu dài trước ngực bạc trắng, phất phơ theo hơi gió của chiếc quạt trần. Cha con tôi im lặng. Bác không nói một lời hay có một cử chỉ nào có thể khuấy động sự tĩnh lặng của căn phòng. Tôi có cảm tưởng một cánh ruồi bay ngang cũng dễ bị phát hiện.
Bác chợt ngẩng đầu quan sát nét mặt tôi, nhíu mày như điều vừa phát hiện rất quan trọng, có thể làm thay đổi hoàn cảnh một cuộc đời, nhất là ở vào thời điểm hiện tại, khi sinh mạng con người đã kém phần giá trị.
Bác tính tới tính lui. Ngón tay trỏ của bác kéo theo đường chéo các giây cung, rồi dừng lại ở cung “Mệnh”, nhẩm tính về đại hạn. Tôi nghe bác nói thầm: “Thiên tướng gặp phục binh…” Đến đây tôi thấy bác gõ đầu ngón tay trỏ xuống lá số ở vị trí cung “Mệnh”, mắt nhìn về phía trước như không thấy cha con tôi, mà dường như bác nhìn sâu vào suy tư của bác. Bác tính lại một lần nữa để đảm bảo lời sắp nói không lầm lẫn. Bác nhìn cha tôi rồi quay qua tôi nói:
- “Cháu không thể tránh được nữa. Cháu bị bắt trong tháng này.”
Dù không mấy tin tưởng ở khoa tướng số, nhưng vào thời của tôi, trang lứa của tôi, ít nhiều cũng bị ám ảnh bởi hai chữ “số mệnh”, nhất là khi con người bị xô đẩy, dập vùi trong một cuộc chiến huynh đệ tương tàn suốt 30 năm tang tóc. Chiến tranh ngày càng khốc liệt, khiến mệnh số cũng theo đà trở lên khó giải thích.
Nhiều khi tôi tự hỏi có phải con người bị ràng buộc bởi số mệnh không. “Sinh Bắc Tử Nam” là mệnh số hay chỉ là một sự lường gạt, một lời nguyền cho một mục đích hoang tưởng, để phải hy sinh oan uổng mà kết quả đã đưa dân tộc tới chỗ phí phạm máu xương. Vận nước xui xẻo, miền Nam đổi đời, đất nước lại thêm một lần chìm đắm trong đau thương, tan nát. Có phải đã tới lúc ứng vào lời Sấm của Trạng Trình, để đất nước này phải rơi vào kiếp nạn “chết bẩy còn ba…”
Cha tôi chợt hỏi bác Đạt:
- “Anh xem mệnh cháu thế nào?”
Tôi chia xẻ với nỗi ưu tư của cha tôi. Ở vào lớp tuổi “Cỡi hạc về trời”, với vận nước nổi trôi, ông đã chịu nhiều cay đắng trong cuộc đời. Đối với ông, còn người thì còn của. Một người cha luôn mong muốn con cháu mình được hưởng hạnh phúc trọn vẹn.
Nét mặt bác Đạt trở lên bình thản như biết trước câu sẽ hỏi. Bác chậm rãi trả lời:
- “Anh yên tâm. Mệnh nó vững. Không thể chết được. Nó sẽ trở về…”
Tôi chợt suy nghĩ, lấy gì bảo đảm cho mạng sống khi mà có nhiều cái chết oan khiên đang xảy ra trên mảnh đất này. Chỉ cần gán cho một tội danh “Phản động chống cách mạng” là một kiếp người dễ dàng bị xóa bỏ, mặc dù các nạn nhân chỉ đòi lại quyền tự do, quyền sống của con người vừa bị chiếm đoạt. Hay chỉ cần khoác vào cổ nạn nhân một tấm bìa với hàng chữ “Trộm cướp” viết vội vàng, là có thể bắn bỏ. Nạn nhân không thể biện minh. Mặc dù người đại diện của chế độ mới, được luật pháp của guồng máy mang danh “cách mạng” này, biến đổi thành kẻ có quyền, có lẽ phải, mà không lâu trước đây trước khi chiếm miền Nam, họ là những tên khủng bố, cướp của giết người, phá hoại đời sống an lành của người miền Nam.
Sau tuần trà, cha con tôi cáo từ bác Đạt. Tôi suy nghĩ về điều bác nói. Bây giờ công việc mới ở giai đoạn đầu, thời gian còn lại đối với tôi quá ngắn ngủi. Sài Gòn đang lên cơn sốt. Người dân miền Nam nóng lòng chờ đợi một cơ may thay đổi để trở về nếp sống cũ, sống lại khung cảnh xưa. Nhân dân miền Nam đang một lòng chống cộng. Nhiều cán bộ cao cấp CS bị thanh toán ngay giữa thành phố. Chính quyền CS gia tăng khủng bố, đàn áp, tù đầy những người chống cộng. Vụ nhà thờ Vinh Sơn vừa kết thúc lại tới vụ Song Vĩnh, Phước Tuy. Vì “bắt lầm chứ không tha lầm” nên mặc dù nhà tù mọc lên như nấm, nhưng trại giam vẫn không còn chỗ trống.
Tôi tự hỏi, tại sao có nghĩa cử này, nhất là ở vào giai đoạn đầy nguy hiểm, mạng sống treo đầu sợi tóc. Bất kể nam nữ, già trẻ, kẻ trước người sau vẫn một lòng hy sinh. Có phải vì lòng yêu mảnh đất tự do miền Nam, nơi họ đã đổ mồ hôi và nước mắt, đã hy sinh máu xương để được sống những ngày hạnh phúc. Con đường trước mắt thật chông gai nhưng họ vẫn dấn thân. Không phải vì chút hào quang bên ngoài, cũng không phải để tô son điểm phấn cho khuôn mặt hay đánh bóng một cái tên, mà chỉ muốn bảo vệ khát vọng tự do, duy trì nếp sống dân chủ trong lòng người miền Nam, mà chế độ cộng sản không thể nào lay chuyển, thay thế.
Thấm thoát hơn 30 năm trôi qua, tôi đã qua tuổi “lập thân”, có vợ và 5 đứa con nhỏ. Trên đường về sau khi rời nhà bác Đạt, tôi nói với cha tôi:
- “Nếu con gặp chuyện không may, xin bố mẹ giúp đỡ nhà con và coi chừng các cháu.”
Cha tôi không nói. Ông nắm chặt bàn tay tôi. Bàn tay ông xương xẩu, nhưng tôi vẫn có cảm giác như hồi còn nhỏ, khi bàn tay của tôi nằm gọn trong lòng bàn tay ấm áp của ông. Tôi đã được bàn tay này ôm ấp vỗ về. Cũng chính từ lòng yêu thương phụ tử, tôi đã có những bài học làm hành trang cho cuộc đời. Vào lúc này, tôi hiểu lòng ông đang chua xót. Ông đoán biết tôi sẽ bước vào con đường gian truân mà ông đã đi qua khi còn trẻ.
Hình ảnh “đổi chỗ” như lời đoán luôn theo đuổi, ám ảnh tôi. Rồi cái phải đến đã đến, chưa qua hết những ngày cuối cùng của tháng giêng. Đối với tôi nó đến quá sớm, tôi không kịp trở tay. Chỉ có điều họ làm tôi hơi dật mình khi tôi bước tới trước cổng nhà. Hai người đàn ông nhảy ra từ trong bóng tối sau chiếc cột đèn, mà vì tiết kiệm săng dầu nên con ngõ không được thắp sáng như trước đây. Họ kê súng vào hai bên sườn bắt tôi dơ tay, đứng im. Biết tôi không phản ứng như đã từng gặp, một người đứng xa hai tay hờm súng như sẵn sàng nhả đạn, còn người thứ hai khám người tôi không bỏ sót chỗ nào.
Họ đẩy tôi vào nhà. Trong nhà đông nghẹt người, gồm những bộ mặt tôi chưa từng gặp. Họ đến nhà tôi với đầy đủ súng ngắn súng dài, thêm vẻ uy nghi của đám người với sắc mặt đằng đằng sát khí như muốn ăn tươi nuốt sống người đối diện. Một người cầm súng đứng chắn nơi cửa ngăn phòng khách với phòng trong để không cho ai ra ngoài phòng khách.
Cha tôi ngồi im lặng sau bàn viết nơi phòng khách. Mẹ tôi đang thấm khô những dòng nước mắt. Vợ tôi bật khóc lớn khi thấy tôi vào nhà, như không cầm giữ được nỗi thống khổ tuyệt vọng trong tâm nàng trong thời gia qua, đã có dịp bộc lộ trong giờ phút này. Tiếng khóc pha trộn tiếng nấc uất nghẹn như tất cả đều sụp đổ. Tôi nhìn nét mặt thất vọng, đau thương của nàng, gợi nhớ gương mặt nhạt nhòa nước mắt mỗi lần tôi về trễ. Tôi thông cảm sự lo âu của nàng, có thể tôi không trở về sau mỗi lần hẹn. Nhưng đành vậy. Chúng tôi đã chọn con đường này, đang bị cuốn lôi trong cơn lốc lịch sử, mà sự sống và cái chết thật mong manh.
Tôi chợt nhận ra lá cờ vàng ba xọc đỏ còn mới, gấp gọn để trên bàn kính trước mắt cha tôi. Lòng tôi thật chua xót. Một biểu tượng của đời sống tự do dân chủ mà nhân dân miền Nam đã hết lòng bảo vệ. Hàng triệu người miền Nam đã nằm xuống, máu và nước mắt đã nhuộm thắm mầu cờ, đã thấm ướt giải giang sơn gấm vóc này. Nhưng vào giờ phút này lại là bằng cớ minh xác hành động chống chế độ cộng sản của tôi. Cũng từ giờ phút này tôi thực sự đối mặt với kẻ thù.
Tôi đứng dậy nghe đọc lệnh bắt giam với danh xưng “Đầu não tổ chức phản động”. Tôi nhìn mọi người thân yêu trong gia đình mà sự phân ly đã cận kề. Họ dục tôi đi. Vợ tôi bật khóc lớn, các con tôi khóc theo. Mẹ tôi luôn tay lau nước mắt như dòng lệ tuôn chẩy không ngừng. Tôi nhìn bà lòng đầy thương xót, cả đời bà hy sinh cho chồng con, không kể tới thân mình. Mà bây giờ vào hoàn cảnh này, đã gợi nhớ hình ảnh chua xót nơi tâm tư bà. Các em tôi ngơ ngác. Tôi quay nhìn người thân lần chót. Có thể tôi không còn cơ hội trở lại nơi chốn thân yêu này.
Thật trớ trêu. Cũng chỉ một chữ “Nhà”. Tôi vừa rời “Nhà ở” để chuyển tới đến chỗ ở mới: “Nhà tù”. Mội nơi không xa “nhà ở” của tôi bao nhiêu. Tôi được gán cho danh xưng “đầu não”, là người quan trọng, nên cách đón tiếp cũng đặc biệt bằng một xe hơi hiệu Peugoet 404 còn mới. Ngồi cạnh tài xế là một người trung niên, vẫn giữ im lặng khi tới nhà tôi, mà sau này tôi mới biết là đại diện công an Thành phố. Hai bên tôi là cán bộ an ninh quận Bình Hòa và Phú Nhuận. Phía trước là xe Jeep có võ trang không kể hai xe Honda có võ trang kèm bên xe. Quả là một cuộc đón tiếp trang trọng với “tiền hô hậu ủng”.
Trái với hình thức đưa đón trang trọng vừa qua, khi tới trại giam Băng Ky, Bình Hòa, tôi bị đẩy vào căn phòng tối đen, mùi cống hôi nồng nặc đến ngộp thở với chiếc còng số 8 xiết chặt, kéo hai tay ra sau lưng. Tiếng cửa sắt đóng mạnh phía sau với âm thanh chát chúa của chiếc bản lề cũ đã rỉ sét. Trời cuối năm quá tối, tôi không biết phía trong kia có những ai. Bất chợt một giọng nói của người đàn ông từ phía trong, giọng nói hơi khó nghe vì âm vang của căn phòng kín:
- “Bác vừa bị bắt?”
Tôi trả lời”
- “Vâng. Vừa từ nhà tôi tới đây.”
- “Tôi vừa bấm quẻ. Bác tới giờ này hên lắm. Mọi thứ sẽ xuông xẻ…”
Qua giọng nói, tôi không biết là ai, già hay trẻ. Ngày hôm sau gặp mặt, tôi mới biết đó là bác Nam Kinh, người bấm quẻ hôm qua, có Nguyễn Tiến Đạt mà sau này cùng với tôi dắt díu nhau ra Bắc.
Lời đoán tử vi của bác Đạt còn đang nóng hổi, bây giờ lại thêm một lần bấm quẻ. Bác Đạt cho hay mệnh tôi vững dù gặp nhiều thăng trầm. Còn lời bấm quẻ cho biết tôi sẽ gặp hên vào những ngày sắp tới. Chưa có gì để chứng tỏ về “vận hên” khi những nguy cơ đang dồn dập tới.
Sau nhiều ngày tháng bị đầy ải trong phòng kỷ luật, một căn phòng mỗi chiều vài bước chân với chân cùm tay xích. Sờ đâu cũng chỉ thấy bóng tối, một thứ bóng tối bồng bềnh sương khói, gây ảo giác mơ hồ, một thứ ảo giác dễ làm tinh thần suy sụp. Mọi vật chìm trong bóng đêm, ngăn cách với sự sống bên ngoài. Nếu không có đàn muỗi đói xúm quanh hay cảm giác xon xót nơi vết thương đang rỉ máu, tù nhân có cảm tưởng mình đang sống cách biệt với xã hội.
Ra khỏi phòng kỷ luật, tôi nhận ra một cảm giác lạ khi gặp lại thứ ánh sáng đã xa vắng lâu ngày. Những tia nắng vàng hâm nóng làn da đã đổi màu xanh lợt, như tôi vừa trở về từ một thế giới xa lạ. Một cảm giác lâng lâng dâng lên một niềm hạnh phúc, thứ hạnh phúc thật quý báu, hiếm muộn.
Khi bị chuyển tới chỗ ở mới, trại Phan Đăng Lưu, đối diện với Lăng Ông, Bà Chiểu, một khu trại giam xây dựng đã lâu. Tôi vào phòng 6 khu A, một phòng giam tập thể nhỏ chứa tới 70 người, gồm nhiều thành phần như một số tỷ phú người Việt và Hoa, đông nhất là chống cộng sản. Tôi gặp nhà báo Lý Đại Nguyên và một số chức sắc Hòa Hảo.
Sau mấy tuần ở chung, tỷ phú người Hoa tên Lưu Thiệu Khanh, nguyên là giám đốc công ty cán sắt Vicasa, mời tôi ngồi nói chuyện, ông nói:
- “Tôi quan sát tướng của ông mấy ngày nay nên có mấy điều nhận xét. Ông bị bắt năm bao nhiêu tuổi?”
- “Tôi bị bắt năm nay, 38 tuổi.”
- “Ông may mắn lắm. Nếu không bị bắt năm 38 tuổi thì ông sẽ chết vào tuổi 39.”
Lại thêm một lời đoán theo tướng mệnh. Nhưng lấy gì bảo đảm cho sự sống của tù nhân dưới chế độ cộng sản, khi mà có nhiều cơ hội đưa đến cái chết tức tưởi. Ông Khanh tiếp lời:
- “Sau này ông sẽ có tên tuổi trên văn đàn…”
Tôi khá nghi ngờ về lời đoán này, nó quá xa với nếp sống của tôi. Mặc dù là người thích đọc sách, nhưng tôi chưa có lấy một dòng chữ nào trên báo chí, lấy đâu mà có tên tuổi trên văn đàn.
Sau vài tuần ở phòng 6 khu A, tôi bị đưa vào phòng 3 khu kỷ luật C2, cùng dẫy với quý vị trong vụ nhà thờ Vinh Sơn, vì cho là “chưa thành thật khai báo về hoạt động chống cộng sản”. Sau mấy tháng cùm xích cung khai, tôi được chuyển tới phòng giam tập thể, phòng 6 khu C1, để lấy lại sức sau thời gian tinh thần bị căng thẳng. Một phòng mái tôn quá thấp nên không khí trở lên ngột ngạt. 30 người chia nhau một nền xi măng nhỏ, vừa đủ chỗ đặt lưng. Cũng may, người mình vốn nhỏ con và sau năm tháng tu luyện trong “lò cải tạo”, mà theo ý đảng để thành con người mới XHCN, thân hình không còn dềnh dàng như trước, nên nằm vừa khít phần đất đo được hai gang rưỡi. Sức nóng của mùa hè Sài Gòn tăng gấp bội, căn phòng nóng như một lò nướng, hừng hực hơi người. Cái cảm giác hạnh phúc hiếm muộn qua đi thật nhanh, vừa chợt đến đã mất hút giữa đám người mình trần, mồ hôi nhễ nhại mà sự đầy ải làm mất dần phong thái con người.
Nhiều khi tôi tự hỏi, như thế “hạnh phúc” cũng có lằn ranh, một lằn ranh biến đổi giữa tâm lý và thực tế. Khi hoàn cảnh xã hội thay đổi, cũng với lằn ranh này, thực tế đã đổi thay. Tuy thật rộng mà cũng thật hẹp, mà người đời đã “hoa mỹ” hóa thành lằn ranh của “hai thế giới trong một cuộc đời”, một thứ lằn ranh mờ mờ ảo ảo. Nói nôm na, đó là lằn ranh giữa “nhà ở” và “nhà tù”, nhìn thật xa mà cũng thật gần, nhất là sau ngày 30-4-1975. Cá nhân tôi cũng như mọi người đều ngán cái lằn ranh hắc ám này. Vậy mà, tôi vẫn phải chấp nhận hoàn cảnh cay nghiệt trước mắt như hàng triệu người miền Nam khác. Cái quy luật bất thường này đã thay đổi hoàn toàn nếp sống cá nhân, bất kể tới địa vị khác nhau với nếp sống vàng son thuở trước.
Vào lần lấy cung sau cùng với Trung tá Hai Tiến, một công an thuộc Bộ công an Hà Nội, nói:
- “Tôi đã đọc báo cáo của các cán bộ lấy cung trong thời gian vừa qua, hôm nay gặp anh, tôi biết anh vẫn ngoan cố, không thành thật khai báo về hoạt động của tổ chức chống cách mạng của anh. Anh can hai tội:
- Xử dụng chiến tranh nhân dân để chống lại cách mạng
- Là một CIA nằm vùng để cài người trong thế chiến đấu trường kỳ.”
Một câu kết luận thật nguy hiểm chết người. Nhưng còn gì để ngán để sợ. Tôi trả lời hắn:
- “Tôi nói những gì tôi biết, tôi làm. Còn tin hay không tùy ý các anh...”
Một câu trả lời khiến người đối diện, một cán bộ có uy quyền, phải nổi giận. Nhưng không, mặt hắn vẫn lạnh tanh, mỉm cười. Tôi biết mình đã gặp một tay tổ trong ngành tình báo của cộng sản.
Tôi lại bị chuyển tới phòng kỷ luật số 24 khu C1, gần phòng của nhà văn Doãn Quốc Sĩ. Ở được vài tháng tôi được chuyển tới phòng tập thể C1, đối diện với dẫy sà-lim tôi vừa ở. Tôi gặp nhà văn Duyên Anh đang làm trật tự của phòng. Ít ngày sau tôi xuống tầu Sông Hương ra miền Bắc.
Tôi tới trại Nam Hà gần Phủ Lý vào tháng 4-1977. Sau nhiều tháng chống đối, “đả đảo cộng sản” của tập thể cải tạo khu B, những anh em đã cùng tôi trên chuyến tầu Sông Hương ra Bắc. Vào một đêm không trăng sao cuối năm, đêm Giáng Sinh, ngày 24-12-1977, 20 anh em chúng tôi lên xe chuyển trại, trong số đó có Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ, Nguyễn Tiến Đạt, Nguyễn Đức Khuân, Tô Tứ Hướng…
Tôi không ngạc nhiên khi nghe lệnh chuyển trại vào lúc đêm khuya như thế này, chúng tôi là những “cánh vạc ăn đêm”, nên thường ra đi khi trời vừa tối. Tôi chợt nhớ tới lời Phó trại nhắn nhủ cách đây vài ngày, sẽ đưa chúng tôi tới nơi quanh năm sương phủ, một nơi không có ánh sáng mặt trời. Chúng tôi không biết nơi nào sẽ tới, xa hay gần. Nhưng có điều sẽ gặp nhiều gian khổ hơn những gì đã trải qua. Khi đó, một người bạn nói:
- “Kỳ này chết là cái chắc…”
Tôi đồng ý với nhận định của anh. Hai chữ gia đình trở thành xa xôi. Thật trớ trêu, câu hát, “càng đi xa anh càng nhớ em…” đã khích động tâm tư của tôi trong hoàn cảnh này. Thôi! Đành vậy! Nhớ thì vẫn nhớ, mà xa vẫn phải xa. Tôi cảm thấy mình khó có con đường trở về.
Chúng tôi tới trại Quyết Tiến - Cổng Trời tỉnh Hà Giang, chỉ cách biên giới Việt - Trung mấy cây số đường chim bay. Một vùng núi cao quanh năm sương phủ. Tôi vẫn bán tin bán nghi về hai chữ “số mệnh”, những rủi may trong cuộc đời. Liệu lời đoán “mệnh tôi vững, không thể chết được” và “số tôi gặp hên” vì không chết vào tuổi 39, có thể tin được không?
Chúng tôi lao động quần quật trong mùa Đông giá rét dưới 10 độ C. Thực phẩm duy nhất là ngô xay cũng không được ăn no, phong phanh với manh áo mỏng bà ba . Thân hình chỉ còn da bọc xương, bị bệnh vẫn phải đi lao động.
Vì lao động trong hoàn cảnh khắc nghiệt, tôi bị cảm lạnh, trong người nóng như lửa đốt còn ngoài da lạnh ngắt. Tôi gặp anh Lượng, một tù nhân miền Bắc được trại cho làm y tá, để xin thuốc. Lượng bảo tôi:
- “Chúng ta thiếu dinh dưỡng nên dễ bị bệnh, nhất là khí hậu vùng này quá khắc nghiệt. Nhiều người ở trại này đã chết vì bệnh sốt rét rừng, mà thuốc duy nhất của trại là Xuyên Tâm Liên không thể trị được bệnh này.”
Thấy Lượng khác với các tù hình sự khác, nói chuyện về gia đình tôi được anh cho hay nguyên là công nhân tại Hà Nội trước ngày di cư. Tôi buột miệng hỏi:
- “Anh có biết anh Bùi Lượng không?”
- “Tôi dưới quyền anh Bùi Lượng. Tôi chỉ biết anh đã di cư vào Nam. Anh có quen anh Bùi Lương?”
- “Tôi thường gặp anh Lượng vì là chỗ quen thân gia đình.”
Lượng chợt bảo tôi:
- “Bây giờ anh uống đỡ thuốc Xuyên Tâm Liên, ngày mai sẽ tính.”
Thuốc “Xuyên Tâm Liên” được mệnh danh là thần dược được xử dụng tại các trại tù miền Bắc, một loại thuốc mà tù nhân thường nhắc nhở "uống vào biết liền". Dù không chết ngay nhưng tác hại tới “tim, gan, phèo, phổi”, trở thành những căn bệnh bất trị, để lại hậu quả khó lường.
Ngày hôm sau Lượng cho tôi 2 viên thuốc Asperin của Liên Xô, một thứ thuốc rất quý tại miền Bắc. Nhờ 2 viên thuốc này tôi dứt được bệnh sốt rét rừng.
Tiếng súng nơi vùng biên giới Hoa – Việt ngày một gần. Chúng tôi được chuyển về trại Thanh Cẩm, tỉnh Thanh Hóa vào cuối tháng 8-1978, trước khi quân đội Trung quốc đánh phá trại Quyết Tiến. Chúng tôi gặp cơ may do Tầu đánh chiếm vùng biên giới, đã thoát được con đường thứ hai mà cán bộ Tố, Trưởng ban Ban Giáo dục, dằn mặt vào ngày đầu tới trại:
- “Các anh có hai con đường, đường thứ nhất là đường đưa các anh vào trại, còn đường thứ hai là đường đưa lên đồi Bà Then (một nghĩa trang trên đồi Bà Then, nằm phía sau trại.)
Liệu đây có phải là điều “hên” như bác Nam Kinh bấm quẻ vào ngày đầu tôi bị bắt vào trại Băng Ky – Bình Hòa, Gia Định và cũng là sự may mắn tôi đã thoát khỏi lưỡi hái của tử thần, gửi xác trên đồi Bà Then.
48 anh em chúng tôi từ trại Cổng Trời về Thanh Cẩm, gồm 12 vị Linh Mục và 36 người miền Nam bị bắt sau ngày 30-4-1975, vào phòng 5 thành lập đội 16. Một đội được các bạn đặt tên “Đại đội trừng giới”, luôn luôn bị canh chừng. Mấy ngày sau khi về trại Thanh Cẩm, quý vị Linh Mục cũng như một số anh em lên khu kỷ luật. Để đủ nhân số cho một đội lao động, một số anh từ khu kỷ luật và các đội khác chuyển tới trong đó có anh Nguyễn Cao Quyền, Nguyễn Văn Thành…
Khi gặp Nguyễn Tiến Đạt từ khu kỷ luật xuống phòng tập thể, em bảo tôi:
- “Nằm trên kỷ luật đợi mãi mà không thấy anh lên…”
Tôi không biết trả lời Đạt thế nào, vì chính tôi luôn sửa soạn tinh thần đến lượt theo các bạn lên khu kỷ luật. Hay những cay đắng trong cuộc đời đến với tôi đã quá đủ, nên tôi đã qua hết đoạn đường gian truân “10 năm đại hạn” như trong số tử vi đã định.
*
Tôi nhận được “giấy ra trại” tại trại Thanh Cẩm vào cuối năm 1981. Tôi đã trả xong “món nợ máu” cho đảng cộng sản như họ thường rêu rao, bằng thời gian bóc trọn 6 cuốn lịch treo tường.
Tôi gặp lại Linh Mục Cao Đức Thuận, người đã sống và chịu đựng gian khổ với tôi từ trại Cổng Trời đến Thanh Cẩm, nhân chuyến công tác mục vụ tại Hoa kỳ. Khi tôi tới cửa phòng khách của nhà thờ Cha Long tiểu bang Maryland, ông đứng dậy tiến tới, dang rộng đôi tay ôm tôi xúc động:
- “Tôi tưởng chúng mình bỏ xác trên đồi Bà Then, không ngờ được về và bây giờ lại gặp nhau trên đất Mỹ,”
Tôi không biết nói gì hơn, chỉ biết trả lời ông:
- “Đó là nhờ ơn trên.”
Trong thâm tâm, tôi luôn suy nghĩ về sự bí ẩn của số mệnh, những sự việc xảy ra cho con người không phải do ngẫu nhiên, mà tuân theo theo một chu kỳ tất nhiên. Số mệnh con người bị ảnh hưởng bởi vận số của đất nước, nên vận số thăng trầm của một quốc gia do đó cũng theo một chu kỳ hưng thịnh và suy vong. Số mệnh con người do tâm ý mà ra, nên sự thịnh suy của một đất nước do lòng người mà thành. Nhìn vào Việt Nam, dưới chế độ XHCN, lòng dân bất mãn, căm hờn. Nội bộ giới lãnh đạo đang chia rẽ, thanh toán nhau vì quyền lợi. Cán bộ đảng không còn tin tưởng vào chế độ nên tìm cách đào thoát khỏi nước. Đó là dấu hiệu về sự sụp đổ của CSVN đã gần kề.
Tôi vẫn sống, nhưng làm như cuộc đời không thể trôi thêm nữa. Tôi đã trôi xa lắm từ quê hương bên kia Thái Bình Dương tới đây. Tôi đã vùng vẫy bằng mọi cách để trôi xa thật xa quê hương, để tìm vợ con tôi mà ai cũng bảo rằng chắc chắn tất cả đã chết trong một cơn bão biển.
Tôi vẫn sống, nhưng tôi chỉ nhìn thấy dĩ vãng, thấy vợ tôi, người vợ lấy tôi năm mười tám tuổi, có với tôi ba trẻ thơ và đã cùng các con lìa xa tôi năm hai mươi tám tuổi. Nàng với tôi quen và yêu nhau trong hai năm, là vợ chồng hơn mười năm. Thế nhưng trong tuổi yêu đương thư từ cho nhau nhiều hơn những lần hò hẹn, vì tôi là khóa sinh của một quân trường. Qua bao nhiêu những thủ tục sưu tra của nhà binh chúng tôi đã thành hôn, nhưng… cưới nhau xong lại xa.
Năm năm đầu, chúng tôi có tất cả với nhau hơn mười hai tuần lễ cho những lần nghỉ phép và một lần… trốn về vì nhớ vợ con. Thời chiến tranh, mỗi lần chia tay là một lần lo xa vĩnh biệt. Nàng hai lần mang thai, tôi chưa bao giờ được ẵm con lúc chúng mới chào đời. Các con tôi chưa đứa nào được ba mua cho đồ chơi, áo mới, vì lương của tôi chỉ đủ nuôi tôi. Vợ tôi tá túc nhà cha mẹ, vừa đi làm vừa vất vả nuôi con, đôi khi còn dành dụm để cho chồng có thêm tiền cà phê, thuốc lá. Quà của tôi, chỉ là những cánh thư lưu chuyển qua nhiều khu bưu chính.
Hơn năm năm sau ngày Cộng sản thôn tính hết Việt Nam, tôi bị đi tù và nàng đang chờ ngày sanh con, đứa thứ ba.
Trong năm năm tù tội, chúng tôi có với nhau sáu tiếng đồng hồ cho hai lần gặp gỡ ngoài trời, một lần mưa và một lần hơi hơi nắng. Cũng may tôi… ở tù gần nên mỗi lần được thăm, nàng chỉ vất vả có… bốn giờ ngồi xe và ba giờ đi bộ mang tiếp tế cho chồng.
Sau năm năm tôi đước thả về, với nhiều thứ bệnh làm quà cho tình yêu của vợ, với nhiều khó khăn dồn dập mỗi ngày của địa phương để nàng và gia đình phải lo chống đỡ. Một đêm vui, đầm ấm nhất trong đời tôi là sau ngày tôi ở tù về, nàng bảo tôi làm… ngựa cho các con chơi, hai đứa con trai vui sướng lắm. Chỉ tội đứa con gái cưng bé nhỏ của tôi chưa biết ba bao giờ, không có cái hình nào chụp chung với tôi như các anh của nó, cháu tránh mặt tôi hoài không dám lại gần. Vợ tôi đặt nó lên lòng tôi làm nó khóc và bỏ ra ngoài buồng với ông bà ngoại. Hôm đó lời chân tình tôi nói nhỏ với vợ tôi là: Em có muốn ngồi lên lòng anh không"
Thế rồi trời thương, qua những mối làm ăn vất vả, lương thiện nhưng lén lút trong thời buổi nhiễu nhương, chúng tôi có đủ tiền lo cho vợ chồng và ba con theo một chuyến vượt biên, vượt chỗ chết để tìm ra lẽ sống. Lúc đó vợ chồng tôi không biết thế giới bên ngoài có gì ngoài tự do để ước mơ. Tôi chỉ mơ các con tôi được thảnh thơi đi học mỗi ngày, không phải bưng những chén cơm trộn bo bo, không phải lo những công tác thủy lợi ngu xuẩn hay những nghĩa vụ quốc tế hoang đường.
Vào một đêm giông bão thật khó ra khơi nhưng để vượt qua sự bủa vây, con thuyền vượt biên đã thoát đi, đã đem theo vợ con tôi, còn tôi thì kẹt lại. Ôi sự hên xui không thể nào mà lường trước được, kể ra chỉ thêm buồn. Từ đó tôi trốn chui trốn nhủi, sống bám và làm khổ bao người thân. Tôi tìm hiểu tin đồn về những con tầu vượt biên bị đánh chìm, tôi đi dò kiếm khắp những nông trường, những trại giam phụ nữ, nhưng không có tin tức vợ con.
Hai năm sau các người thân lại giúp tôi đi. Tôi đã đến Mỹ, nhưng chỉ còn trơ trụi một thân. Tôi chỉ thấy lại vợ con trong ác mộng với giông bão tưởng tượng, tôi thấy sấm nổ, chớp lóe, soi rõ nét kinh hoàng của vợ và các con tôi, ướt sũng, ôm lấy nhau trong chiếc thuyền gỗ nhỏ ngập nước, ngả nghiêng, chao đảo theo từng cơn sóng lớn. Lẫn trong tiếng gào khóc của chung quanh, có tiếng nàng kêu tôi, có tiếng các con cầu cứu bố. Đêm đêm, tôi nghe mãi những tiếng kêu đó.
Trên đất Mỹ, tôi đã học lấy một nghề, được trợ giúp của xã hội nơi đây để có một mảnh bằng đi kiếm việc, sống cho tôi thôi. Rồi một hôm, tôi lìa xa những người thân đã giúp tôi lúc bơ vơ. Họ đều tốt, nhưng gia đình ấm cúng của họ chỉ làm tôi thổn thức.
Mùa đông năm ấy sau hơn hai năm trên đất Mỹ, tôi đến một thành phố lạ với số tiền dành dụm không nhiều, với số vốn ngoại ngữ phải cần đến tay để phụ cho cái miệng đã từ lâu cũng không còn khả năng để lưu loát ngôn ngữ chính của mình.
Tôi đã không làm sao kiếm ra việc làm, tôi chưa có điều kiện để xin tiền thất nghiệp, tôi ngại ngùng đi tìm khai trợ cấp, tôi xấu hổ phải quay về với cuộc sống mà tôi không muốn phải so sánh.
Tôi đã vác ba lô đi khỏi nhà trọ trước khi người ta đuổi tôi ra vì tôi không còn tiền trả. Tôi muốn đêm Giáng Sinh năm đó lang thang trên khắp các đường phố phủ tuyết, uống cho thật say với một chai Whisky bọc dấu trong túi giấy như những chàng homeless ghiền rượu, tôi muốn uống cho đến khi gục xuống nơi nào đó, rồi… vợ con tôi sẽ dìu tôi đến một nơi… xa.
Thế rồi tôi đã gục xuống, đã nằm thiếp đi dưới một mái hiên, cho đến khi mấy người cảnh sát lay tôi dậy, kéo tôi vào trong mái che của một tiệm bán lẻ, và phủ lên tôi mấy tấm mền. Sau này tôi được biết mấy đêm đó trời lạnh lắm, những căn nhà của thành phố dành cho dân homeless trú thân không đủ chỗ, vài homeless đã chết vì cóng lạnh. Bởi khẩn cấp nên cảnh sát và những người làm việc thiện phải đem mền đi phủ đắp cho những người homeless đang ngủ trên hè phố… Có lẽ vì tôi đắp mền nên linh hồn của vợ tôi đã không tìm ra tôi để rủ tôi đi theo!
Sáng sớm hôm đó, người chủ tiệm đá tôi dậy trước khi mở cửa, tôi vội vàng xin lỗi, lôi đống mền ra ngồi ở mái hiên ngoài. Đấu óc tôi trống rỗng, tuyệt vọng quá vì cái chết không đến, biết làm gì cho những giờ kế tiếp đây, ruột gan tôi cồn cào đói, mùi rượu tanh hôi bốc lên từ bao tử thật khó chịu, nước mắt tôi trào ra và thầm kêu… Điệp ơi, tên vợ tôi.
Sau đêm Giáng Sinh đường phố vắng lắm, các cửa tiệm trên phố không ai mở cửa, bão tuyết lại đang rơi nên xe qua lại hầu như chưa có. Phải rồi, tôi sẽ bất ngờ lao ra một chiếc xe vô phước nào đó chạy ngang chỗ tôi ngồi. Nếu tôi chết và những sự linh thiêng là có, tôi sẽ phò hộ cho người không may đã cán chết tôi. Trước khi tính chuyện chết, tôi phải vứt hết giấy tờ của tôi vào thùng rác trước mặt. Tôi không muốn ai biết cái chết thê thảm này là một người Việt Nam chán đời, một người Việt homeless. Dù tôi có chết chăng nữa tôi cũng không muốn những người thân ở quê nhà, ở bên này biết kẻ chết là tôi để họ phải thương xót, để họ phải tủi nhục.
Tôi đã bỏ chiếc bóp vào thùng rác, sẵn sàng. Thế nhưng chết cũng khó. Tên chủ tiệm mà ban nãy đã đá tôi chạy ra, hắn hất tung nắp thùng rác, hắn nhặt chiếc bóp lên, hắn đến bên tôi và nắm cổ áo lôi tôi dậy, tay kia hắn mở chiếc bóp. Vẻ mặt bớt hung hăng khi thấy hình trên bằng lái xe trong chiếc bóp là của tôi, hắn hỏi:
- Vietnamese"
- …Yes!
- Homeless"
- No!!
Hắn chau mày tỏ ra không hiểu, hắn hỏi tại sao tôi lại dục bỏ hết giấy tờ của tôi vào thùng rác. Tôi không giải thích. Hắn hỏi tiếp tại sao lại ngủ ngoài đường tôi cũng lặng im. Lưỡng lự một chút, hắn nhặt mấy tấm mền lên vào bảo tôi:
Come in!
Tôi không còn chủ động, xách ba lô lê chân vào tiệm theo hắn.
- Seat down!
Tôi ngồi xuống, hắn rót cho tôi một ly cà phê nóng không đường, tôi uống. Hắn đem đến cho tôi mấy chiếc bánh donut, và châm thêm cà phê. Cái đói đang làm chủ nơi tôi nên … nó bắt tôi ăn thật nhanh, dù biết cách ăn của mình ti tiện. Ăn xong tôi lí nhí lời cám ơn dù chính hắn là người đã khiến tôi chưa thể chết.
Hắn vừa làm công việc của hắn vừa nói không có chi, hắn bảo tôi trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, hắn đã qua tham chiến một lần. Hắn đoán là với tuổi của tôi, có thể tôi cũng đã ở trong quân đội miền Nam. Tôi trả lời phải, rồi tôi kể cho hắn nghe một cách đơn giản, thiếu hứng thú về tôi, về vợ con tôi, về nghề nghiệp mà tôi có thể làm. Tôi không nói tại sao tôi đến thành phố này và tại sao tôi lại nằm lăn lóc nơi cửa tiệm của hắn đêm qua. Hắn cũng không muốn hỏi tôi những điều đó. Hắn vẫn còn giữ bằng lái xe của tôi, và sau khi trả lại hắn bảo:
- Anh cần phải đổi lấy bằng lái xe của tiểu bang này. Tôi có thể giúp nếu anh muốn việc làm, tôi cũng cần một người giúp việc. Anh có muốn làm cho tôi không"
Tôi nói cách ngờ ngẩn:
- Tôi không có chỗ ở để có thể đi làm.
Hắn cười:
- À há, vậy anh là homeless rồi. Không trở ngại, làm cho tôi ban ngày, sau chín giờ tiệm đóng cửa anh có thể ngủ ở ngoài hiên, OK"
Tôi cười gượng. Tôi không quen ai ở thành phố này. Mấy tuần trước vì có tiền nên tôi ở Motel, trả tiền trước nên rất dễ, còn bây giờ với mức lương thấp nhất, muốn mướn một căn buồng nơi chung cư cũ kỹ cũng cần phải có người bảo trợ và trả tiền ứng trước cho nhiều thứ linh tinh. Làm như biết tôi nghĩ gì, hắn cười:
- Đùa đó thôi. Anh đã là một người trong quân đội, anh đã gặp nhiều khó khăn, tôi nghĩ là anh sẽ làm việc chăm chỉ. Việc này không có lương cao như công việc anh đã học, nhưng việc tạm mà. Ngoài cửa hàng bán thực phẩm nhỏ này tôi còn có một cư xá ở cách đây không xa, tôi cho anh ở trước, trả tiền thuê cho tôi khi anh có lương. Một phòng, ba trăm đô la một tháng. Tôi sẽ dẫn anh tới coi. Tôi sẽ trả lương anh với giá căn bản sau mỗi tuần làm việc, và anh làm cho tôi tám tiếng mỗi ngày. Khi nào tôi cần anh phụ thêm thì mình sẽ nói sau. Tôi sẽ giúp anh để xin trợ cấp y tế. Nếu anh bằng lòng thì tôi có đơn xin việc đây, điền vô và ký tên.
Hắn đưa tôi một mẫu đơn in sẵn và giải thích thêm:
- Đừng có lo, công việc bán hàng, nhận hàng thì dễ thôi, tôi sẽ chỉ cho anh, máy tính tiền thì học mau lắm. Ăn thêm cái gì đi, rồi phụ tôi lau chùi mấy tủ chứa đồ đông lạnh, tôi trả công cho anh, mình chỉ cần làm chừng hai tiếng thôi, ngày mai tiệm mới mở cửa.
Vậy là hắn đã cho tôi sự an ủi và tin cậy, hắn lôi cuốn tôi trở lại cuộc sống thật bất ngờ.
Hắn nói, hắn lấy làm lạ khi thấy một người Á Đông là homeless, hắn ghét mấy tên homeless thường khi ngủ trước tiệm và xả bẩy nếu hắn không cho chúng đồ ăn. Hắn đã ngạc nhiên, tôi bị đá mà không chửi, còn nói lời xin lỗi. Sở dĩ hắn thấy và chạy ra vì ngỡ là tôi đã giựt bóp của ai, lấy hết tiền rồi quăng vô thùng rác.
Sau đó tôi đã phụ với hắn lau chùi cửa tiệm, dù người đã mệt lả.
Hắn, Brandy Smith là quý nhân mà có thể vợ con tôi đã linh thiêng đưa tôi đến với hắn, gửi gấm tôi cho hắn.
Khi chúng tôi lau chùi cửa tiệm xong thì ngoài đường tuyết đã phủ dầy. Trên TV thông báo có nhiều nơi tuyết phủ cao hơn một feet và nhiều tai nạn xẩy ra. Hắn gọi phone về nhà nói chưa thể về vì bão tuyết, rồi quay qua tôi:
- Phải chờ người ta ủi sạch tuyết trên đường thì tôi mới có thể đưa anh về cư xá. Anh không phải là người Việt Nam đầu tiên tôi biết đâu. Ở cư xá của tôi có nhiều gia đình Việt Nam, không biết là tôi đã giúp họ hay họ giúp tôi vì cư xá của tôi đã cũ lắm, nhiều người Mỹ đã dọn ra từ lâu, chỉ còn người Việt Nam và Cam Bốt hoặc Lào mướn vì giá thấp.
Hắn giải thích là cho gia đình Á Đông mướn ít có sự sự phiền nhiễu và tiền nhà luôn trả đúng hạn kỳ. Họ ở đông hơn số người mà mỗi căn có thể cho phép, song hắn cũng thông cảm vì biết họ đang sống nhờ trợ cấp xã hội để đi học, tìm việc làm, hoặc cho qua tuổi già.
Hắn nói, cứ mỗi khi có một căn người thuê là Mỹ hay Mễ đi ra thì vài ngày sau lại có một gia đình Việt Nam tới mướn do những người đã ở trước giới thiệu đến. Đôi khi nếu hắn nhận một cái check trả tiền nhà đứng tên một người khác thì y như là gia đình cũ đã ra hồi nào mà hắn không hay. Họ không muốn bị tính tiền cho những sự hư hại, mà quên rằng sẽ bị phiền phức vì còn đứng tên thuê nhà nếu có sự gì bất thường về sau. Hắn không thích việc này vì không đúng với giao kèo, nhưng rất khó kiểm soát. Hắn chưa phân biệt và nhớ được người Á Đông ai là Việt, ai là Miên, Lào trong cư xá. Tuy nhiên chưa có vấn đề gì trở ngại nên hắn cũng lơ là. Hắn nói dân Việt Nam thích ở đây cũng có thể vì hắn dễ dãi hoặc đời hắn có cái gì đó liên hệ nhiều với Việt Nam.
Hắn mời bia nhưng tôi không uống, tôi vẫn còn cảm giác choáng váng bởi rượu và miệng lưỡi lạt lẽo. Hắn nói có thể hắn biết tâm trạng của tôi. Trong những mùa Giáng Sinh, có nhiều người vui thì cũng lắm kẻ buồn.
Hắn chật lưỡi, sau hai mươi năm chính phủ Mỹ vẫn tìm cách nói chuyện với kẻ thù để tìm xác các chiến binh của họ, nhưng vợ hắn thì đã bỏ hắn, trước khi hắn trở về từ Việt Nam. Tuy là khác nhưng hắn cũng đau khổ như tôi. Nếu thời thanh niên hắn không từng đạp xe với vài tín hữu đi gõ cửa mỗi nhà để truyền đạo và khuyên người ta hãy sống yêu đời thì hắn cũng đã muốn tìm cái chết. Bây giờ hắn sống với một bà girl friend đã trên 17 năm, chưa có gì trục trặc, thật là một điều khó hiểu. Coi nhau là bạn bè nên tôn trọng nhau hoặc ít kềm chế nhau chăng"
Hắn kể tiếp, tôi sẽ không phải là người đau khổ duy nhất sống trong cái ”cư xá buồn hiu” của hắn. Hắn cười và bảo tôi, cái tên đó không sai đâu, hắn sẽ dẫn tôi tới với mấy gia đình Việt Nam cho tôi làm quen. Những người già làm như mùa nào họ cũng lạnh, nếu không có con cháu ở nhà thì hắn không thể nào nói với họ điều gì, dù họ cười và gật đầu chào hắn rất vui vẻ, đôi khi họ còn bưng đến cho girl friend của hắn những món ăn lạ miệng. Vì hắn cũng ở một căn trong cư xá, và thường xuyên sửa chữa những hư hỏng khi có yêu cầu nên hắn biết hoàn cảnh của một số người, và mỗi lần gặp lại biết thêm một chút buồn.
Hắn kể một cách chậm rãi trong kinh nghiệm của một người Mỹ đã từng tiếp xúc nhiều với người ngoại quốc, nên tôi suy diễn thêm và hiểu ý hắntương đối dễ. Hắn nói là tôi sẽ gặp… Ba Ba Gia. Sau này tôi mới biết là bà Ba già.
Bà Ba Già đã ở đây trên bốn năm, trừ mùa đông lạnh, sáng nào bà cũng dậy sớm và bình thản quét sạch từ đầu này bãi đậu xe cho đến đầu kia bãi đậu xe của cư xá, để làm chi vậy ai mà biết, hắn cũng đâu có mướn bà ta làm việc đó. Bà còn có tật hay xúc rửa những bình sữa mà mấy đứa cháu của bà đã uống hết và xếp đầy ở hiên sau, lâu lâu hắn lại phải yêu cầu con trai bà đem đi bỏ, mặc cho bà nhìn hắn vừa cười vừa càm ràm gì đó. Nhưng hắn thấy bà không phải là người mất trí, bà hay trò truyện với chung quanh và thường luôn tay đan những chiếc áo len không biết để cho ai.
Vào mùa hè con trai và con dâu bà đi làm thêm ở những nông trại xa, chở về nhà nhiều thứ trái cây và rau, hắn thấy bà bưng đi chia đều cho mỗi nhà quen, nhà ai đi vắng bà cũng phần trước của. Ông chồng bà thì ít nói truyện với ai, ông thường đọc những sách báo Việt Nam mà con ông mượn về từ thư viện, hoặc đứng bên lan can uống trà, nhìn về những rặng núi xa xa, hết đi ra lại đi vào. Nghe đâu họ đã bị Cộng sản tịch thu nhiều tài sản tại Việt Nam, khi vượt biên thì lại chết mất hai người con gái.
Bên nhà bà Ba già, có hai vợ chồng cũng không trẻ hơn ông bà Ba già bao nhiêu, ông ta trước kia là bác sĩ, còn bà ta là một trữ dược viên. Bây giờ họ hy vọng nơi người con trai đang học lớp 12, và cũng hy vọng nơi người con gái lớn sống như kẻ mất hồn sẽ bình thường trở lại. Lúc vượt biên, đứa con hai tuổi của cô bị chết khát và chồng cô bị hải tặc đập bể đầu rồi quăng xuống biển vì đã lao vào cản những dâm tặc uy hiếp vợ. Họ đều có trợ cấp nhưng dường như không đủ, vì họ còn ba người con nữa đang kẹt bên một trại cấm ở Hồng Kông chờ cứu xét. Ông ta là bác sĩ già, nói tiếng Mỹ với âm điệu Pháp nên luôn phụ họa bằng tay, đến đây khi chương trình trợ giúp cho những bác sĩ tỵ nạn học lại nghề đã không còn tài trợ. Tuy thế ông ta phấn đấu làm thêm rất nhiều việc vặt, từ cắt cỏ thuê, cho đến hái trái cây, hái bắp tại các nông trại xa theo từng mùa. Nghe nói đã có lần, con gái ông ta bị hôn mê bất thường, xe cứu thương chưa tới kịp, sẵn có đồ nghề cũ ông chích cho cô con tỉnh lại, thế là ông bị truy tố ra tòa. Kể từ đó tóc trên đầu ông bạc trắng.
Cách nhà vợ chồng ông bác sĩ ba căn, là hai bà quả phụ, họ ở đây cũng đã trên sáu năm, các con họ đều đã lên đại học. Hai bà này nói tiếng Anh khá, họ có công việc tạm ổn định, nhưng chưa đủ để các con có chỗ ở rộng rãi hơn.
Bà thứ nhất, hắn kể, có chồng là trung tá, ông ta chỉ huy một trung đoàn bộ binh ở miền Trung, còn bà ta là giáo sư dạy Anh văn ở một trung học cách rất xa nơi chồng bà đồn trú. Cuộc triệt thoái vào cuối tháng ba 1975, người ta nói chồng bà đã tự vận vì phẫn uất sau khi dẫn quân về một bờ biển không còn ai tiếp ứng, còn bà ta đã sanh đứa con thứ năm trên đoạn đường di tản về phía nam. Mỗi lần nhắc lại cảnh một sản phụ với năm con thơ giữa những cuộc giao tranh, bà thường cố gắng cười để ngăn nước mắt. Chồng bà mất đi khi quốc kỳ không có quan tài để phủ, công trạng không còn thượng cấp để vinh danh, đơn trợ cấp không còn nơi để nạp. Thế mà bằng mọi cách, cùng với sự giúp đỡ của những người thân, trong hơn một năm bà đã trao cho đại dương lần lượt từng đứa con yêu để chúng kiếm tự do. May thay tất cả bốn trẻ thơ đều vượt thoát và chúng đã được đùm bọc nhờ bốn gia đình người Mỹ, ở ba tiểu bang cách xa nhau. Rồi mười hai năm sau, bà và con trai út đã qua đây sau nhờ những chương trình nhân đạo. Bây giờ gia đình bà đã đoàn tụ, một năm nữa sẽ có hai người con tốt nghiệp kỹ sư. Nhưng có một điều, sau hai mươi năm bà vẫn không tin chồng bà đã tuẫn tiết, ông còn bị cầm tù, bị mất tích với lý do nào đó, bà nói tín đồ Thiên Chúa giáo không bao giờ tự vận.
Bà thứ hai, sở dĩ ở sát bên vì sau khi quen nhau họ đã yêu cầu hắn thu xếp như vậy khi có thể, họ muốn thường xuyên giúp đỡ lẫn nhau. Hắn nói, tôi có thể nhận ra bà này ngay vì bà để tóc dài, rất dài với tuổi đã trên năm mươi của bà. Chồng bà ta xưa kia rất yêu mái tóc dài, bà thứ nhất tiết lộ với hắn vậy. Chồng bà này là đại úy không quân khi bị Cộng sản bắt đi cải tạo. Cộng sản nói sĩ quan cấp tá trở xuống chỉ cần học tập có một tháng thôi, nhưng mấy năm sau cũng không ai được thả về. Bà ta là một trong số những người đem xác chồng về sớm nhất. Ông ta tìm cách nhảy từ tầu xuống sông trốn khi bị đem ra miền Bắc, bị bắn chết, xác được vớt trả về cho vợ con. Bây giờ kể lại, bà ta nói không biết tại sao hồi đó họ lại kêu cho bà đem xác chồng về, chứ sau này chẳng ai biết ai chết, ai còn và bị cầm giữ nơi nào.
Cũng như bà thứ nhất, vì cùng quẫn quá, vì bị uy hiếp quá, bà không biết tại sao lúc đó người ta cứ mù quáng, liều lĩnh khi biết có người thân vượt biển là năn nỉ, cầu xin cho gửi con theo dù chúng mới năm, bảy tuổi.
Trong một bữa tiệc sinh nhật, bà ôm đứa con gái lớn vừa mới lên đại học và kể lại với mọi người trong nước mắt của cả sáu mẹ con. Bà nói cô gái lớn nhất lúc đó hơn bảy tuổi, bà gửi đi ba lần mới thoát, hai lần đầu ghe đều bị chìm, được vớt vô, được đi lãnh về, thế mà không sợ, nó vẫn đòi đi. Bà đã gửi thêm ba chuyến cho ba đứa kế tiếp đi theo chị, nhưng những con thuyền vượt biên đã đưa chúng đến những quốc gia khác nhau. Đứa qua Thái Lan, đứa tới Mã Lai, đứa được dàn khoan dầu của Pháp vớt. Và rồi có hai đứa đến với hai gia đình Mỹ, một đứa đến Canada, một đứa nữa tới Pháp. Tất nhiên là chúng đến với những tấm lòng vàng không huyết thống và không cùng chủng tộc. Chúng đã được bốc đi rất mau vì là trẻ nít và người đi cũng lại là những thanh niên, thiếu nữ độc thân không liên hệ.
Hắn có hỏi tiền ở đâu mà bà có thể lo cho các con đi như vậy, thì bà kể là thứ nhất phải có người quen thân đi vượt biên, thứ hai là phải có tiền và liều. Nhưng bà không hẳn ở trường hợp thứ hai, bà chỉ có ơn huệ, có hoàn cảnh thê thảm để được tội nghiệp, có gan lì và bất chấp Cộng sản kềm chế. Thế nhưng các con bà đi khi còn quá nhỏ, ngay cả những người đi cùng cũng không ai có tin tức gì về, có thể là hồi đó Cộng sản kiểm soát thư từ gắt lắm. Chính vì thế, khi bốn đứa con đã đi thì bà cũng nôn nóng đi tìm, bà không biết nói sao với cha mẹ đôi bên lên án sự liều lĩnh “đem con bỏ biển.” Nhưng cũng chính họ lo tiền để bà và đứa con sanh sau khi chồng bà chết ít tháng ra đi.
Kể đến đây hắn cười, nói là người Việt Nam cũng khôi hài vì con của bà ta kể với hắn là chuyến của bà ta đi không đến Mỹ mà lại đến một tỉnh của Việt Nam có cái tên là.. Mỹ Tho, tầu bà ta đi bị bắt và kéo về đó. Thế là, đứa con thì được cha mẹ bà lãnh về nuôi, còn bà ta cùng những phụ nữ khác bị đưa về một nông trường ở cuối địa đầu của miền Nam để làm ruộng rẫy.
Bà đã đầu tắt mặt tối, cô đơn lao động trong một biển người xa lạ, mà phần đông là gái giang hồ và trộm cướp. Bây giờ nếu phải kể lại cho ai nghe bà thường rùng mình về những tháng mưa dầm dề, những cơn sốt rét hành hạ, thiếu ăn, thiếu thuốc. Những con đỉa bơi loăng quăng theo những bắp chân lún dưới nước bùn, bà vừa cắm mạ vừa lo chạy đỉa. Ôi những con đỉa có băm chúng ra trăm mảnh, chúng lại thành ra chín mươi chín con đỉa khác. Nếu không có mối hờn vì chồng, mối biệt tích của đàn con, mối xót xa về cha mẹ, thì bà đã tìm cái chết theo chồng cho bớt tủi thân.
Ở tù gần hai năm, không có tòa nào xử, chỉ có... tiền của cha mẹ bà đã giúp cho bà được tha. Lần đó khi trở về, những thân nhân trong nhà đã lo cho bà một chuyến đi và thành công. Bà đến Mã Lai với đứa con thơ sau hai năm mới được ngủ chung với mẹ. Cũng nhờ đứa con bốn tuổi đó bị bịnh chết đi sống lại nhiều lần mà hồi ấy mẹ con bà đã không bị Mã Lai đẩy xuống tầu, kéo trả ra biển như bao nhiêu người khác. Rồi đến khi nhập trại tỵ nạn bà mới tìm biết được các con đã được bảo lãnh nhưng mỗi đứa một nơi. Bà ấy kể với girl friend của hắn, là bà đã cạo nhẵn tóc, ăn chay để tạ ơn những đấng thiêng liêng đã cứu độ mẹ con bà. Hơn năm trời ở trại bà đã phải hoàn tất những thủ tục khó khăn để xin lại những đứa con đã có người nuôi, cho nên khi tới Mỹ chỉ ít tuần bà đã được gặp những ân nhân và nhận lại ba đứa con nói tiếng Mỹ giỏi hơn tiếng Việt.
Hắn uống cạn lon bia rồi nhún vai kể tiếp, hắn không biết bên Pháp họ làm ăn kiểu gì mà bà ta đợi cho đến khi đứa con được dàn khoan dầu cứu, đã học xong lớp 12 mà chưa được trả về cho mẹ nó.
Kỳ hè năm 1989, nó qua đây chơi, thương mẹ quá, nó không chịu trở về, nó bỏ học. Bà ta dấu nó ở trong nhà hơn bốn năm mới lo được cho nó có thường trú ở bên này. Hắn thêm, hai thằng con của hắn đã trên ba chục tuổi đầu mà chẳng đứa nào học được một năm trên đại học, trong khi con bà ta, cái thằng kẹt bên Pháp đó bây giờ không những nói tiếng Anh giỏi hơn cả hai đứa em, và cũng đã xong hai năm đại học.
Ngoài đường lúc đó, nếu những chiếc xe ủi chưa dồn xong tuyết lên lề đường, và người ta chưa dùng xe trải lên mặt đường một lớp cát trộn muối cho bớt trơn trượt thì có lẽ hắn còn kể tiếp nhiều truyện nữa. Hắn nhìn đồng hồ và từ tốn khuyên nhủ tôi:
- Anh thấy đó, không phải chỉ có anh là kém may mắn đâu. Trong cái cư xá nhỏ của tôi mà đã biết bao cái khổ khác nhau. Đời còn nhiều thay đổi, tôi tin là anh không quên được vợ con, nhưng anh sẽ vui để sống, và nhận sự tri ân từ những người đau khổ khác. OK, anh theo tôi về.
...
Thấm thoát tôi đã làm cho Brandy hơn 6 năm. Nửa năm đầu tôi phụ hắn bán hàng ngoài tiệm. Làm việc này chỉ đủ trang trải những nhu cầu cần thiết, nhưng tôi không còn so đo về vật chất. Tôi mang ơn và mến hắn nên không nghĩ đi tìm việc khác, trừ khi hắn không cần tôi nữa.
Đây là một tiệm thực phẩm nhỏ, món gì cũng có một ít, từ bia, nước ngọt, thuốc lá, cà phê, đường sữa, kẹo, bánh, thuốc men và một vài tạp chí. Hắn khen tôi làm việc có trách nhiệm, tôn trọng khách hàng. Về phần tôi luôn giữ thái độ kính trọng dù hắn là người vui tánh. Thấy tôi ở cư xá đã giúp hắn sửa chữa nhiều việc vặt và nhiều người ở chung quanh mến, nhất là những đồng hương Việt Nam, nên một hôm hắn nói với tôi:
- Cái cư xá của ba tôi để lại sau khi ông ấy mất, nó đã cũ lắm, hệ thống nước trong nhiều nhà tắm, nhà bếp cần tu sửa và thay thế. Hệ thống gas sưởi cũng vậy, hư hỏng luôn luôn, tôi cần một người làm thường xuyên để phục vụ người thuê nhà. Anh là một technician, tôi nghĩ là anh có thể làm những công việc mà cư xá của tôi cần đến. Việc nào anh không làm được thì tôi sẽ mướn thợ chuyên môn. Căn buồng anh đang ở sẽ là nơi người thuê liên lạc để yêu cầu sửa chữa, anh lo việc cho thuê và nhận tiền trả hàng tháng cho tôi. Tiền điện thoại, tiền thuê nhà tôi sẽ không tính kể từ tháng tới, và tôi tăng lương cho anh 12% mỗi năm. Có điều gì yêu cầu cứ nói cho tôi biết. Tôi sẽ làm giấy giao ước với anh ngày mai.
Đây không hẳn là tánh kỹ lưỡng của hắn, mà làm như với người Mỹ, luật pháp hầu như đã trở thành một tập quán, việc gì cũng rõ ràng và có giấy tờ hẳn hoi chứ không nói xuông, dù thân hay sơ.
Brandy coi tôi như một đồng đội kể từ khi hắn biết tôi cũng đã từng có mặt nơi những địa danh ở Việt Nam mà hắn đã đồn trú. Khi rảnh rỗi hắn thường kể với tôi về chiến tranh Việt Nam, về thời gian dài nhất, gian nan nhất trong đời hắn là hai năm ở đó. Hắn vừa bất mãn, vừa tự mãn đã thoát ra từ cõi hiểm nguy này. Hắn thích thú nhắc lại những địa danh ở VN mà tôi và hắn đã đi qua dù không cùng thời điểm. Có lẽ những chuyện này bạn bè hắn chẳng ai hứng thú nghe nếu họ không cùng trải qua như hắn với tôi. Tuy nhiên hắn nhìn cuộc chiến VN với nhiều mơ hồ và ngộ nhận. Hắn không dứt khoát tin những điều tôi dẫn chứng để phủ nhận những điều mà giới truyền thông Mỹ đã một thời ngộ nhận, để rồi vẫn tiếp tục đầu độc dư luận Mỹ là họ không lầm lẫn.
Hắn kể, có lần sau một trận giao tranh, hắn đã nhìn thấy những thiếu niên, những phụ nữ bị thương vong mà cho đến bây giờ hắn vẫn còn ân hận, dù bọn hắn phản kích nhưng không thể rõ địch trong những xóm làng. Hắn cho rằng hậu quả của cuộc chiến VN là cuộc chiến mà hai phe không tương xứng về ... vũ khí. Vũ khí của Mỹ là súng đạn, Mỹ cải tiến để súng đạn có hiệu quả và muốn sử dụng bao nhiêu cũng có. Vũ khí của Cộng sản đôi khi còn cố ý làm thô sơ để chứng tỏ là nhân dân nổi dậy.
Ngoài súng đạn ra là con người, người Việt Nam, dù phải chết bao nhiêu cũng không tiếc, có chết nhiều mới làm mủi lòng những người phản chiến trên đất Mỹ, mới sôi sục căm hờn nơi hậu phương Cộng sản. Người lính Mỹ đến VN chỉ mong bình an trở về sau khi làm xong một nghĩa vụ mà họ không ý thức, họ không thấy được VN là tiền đồn của khối tự do đang bị Cộng sản xâm lấn dưới hình thức tranh đấu nhân quyền và độc lập. Họ cầm vũ khí mạnh trong một tinh thần yếu. Còn về phần chúng tôi, quân đội Việt Nam Cộng Hòa, đồng minh với Mỹ có ý thức và căm hờn Cộng sản thì lại không được trợ giúp tương xứng để đối địch. Lúc Mỹ muốn đem quân vào thì nêu đủ lý do để chê là chúng tôi yếu, cần bảo vệ. Khi muốn hòa đàm thì tìm đủ thủ đoạn để vùi dập cho chúng tôi kiệt quệ, phải nhượng bộ. Khi muốn phủi trách nhiệm thì nêu đủ lý do để ca ngợi là chúng tôi mạnh, là thiên thần của chiến trường, dù chúng tôi không có khả năng để làm ra một viên đạn, đúc một khẩu súng.
Trong khi trò truyện về Việt Nam, có lúc hắn đồng ý, có lúc mặt hắn đỏ gay vì tôi dốt tiếng Mỹ mà còn nói hăng say, tay chân múa loạn. Và để câu truyện không trở nên gay cấn, lần nào tôi cũng đi đến kết luận là đất nước tôi mất về tay Cộng sản, thật ra không hẳn là vì Mỹ thay đổi chiến lược mà chính tôi, bạn bè tôi đã chiến đấu không tận sức để bảo vệ đất nước của mình. Hắn cũng hiểu tánh tôi nên thường vỗ vai cười giả lả:
- Hê! Sống độc thân lâu rồi, phải kiếm một bà làm bạn chứ"
- Thôi, không còn ai đẹp, không còn ai trẻ như vợ tôi!
Tôi đã ở cư xá này như một chứng nhân của những mảnh đời tỵ nạn. Tham dự những tiệc vui đưa tiễn những gia đình đã tạo được điều kiện sống vững vàng hơn ra đi. Rồi tiếp tục chờ đón những người mới tới, ngỡ ngàng chấp nhận nơi này làm chỗ tạm dung.
Đời còn nhiều thay đổi, biết đâu sẽ có một ngày nào đó chính phủ bắt hắn phá bỏ cái cư xá cũ kỹ, thiếu an toàn này xuống, rồi một công ty nào đó sẽ dựng lên một tòa nhà cao ngất như những khu nhà chọc trời nơi trung tâm thành phố kia.
Ngày đó đương nhiên tôi sẽ phải trôi đi nơi khác, nhưng trong đời sống tôi chỉ nhìn thấy dĩ vãng, thấy vợ tôi, người vợ lấy tôi năm mười tám tuổi, có với tôi ba trẻ thơ và đã phải cùng các con cách biệt tôi năm gần ba mươi tuổi.
Viết Trong Những Ngày Đất Nước Đang Chuyển Mình - KTS Trần Thanh Vân
Tôi không phải là nhà chính trị, cũng không phải là một fortune teller, nhưng với những năm tháng từng trải của mình, tôi hiểu sâu sắc rằng, đất nước VN đang ở trong những ngày biến động dữ dội, nhưng mỗi ngày một sáng sủa hơn.
Đại gia đình tôi đã trải qua 72 năm và có ít nhất 3 thế hệ sống trong nước Việt Nam Dân chủ Công hòa, thành lập ngày 2/9/1945 và đến hôm nay là những ngày cuối cùng của Cộng Hòa XHCN Việt Nam do ĐCSVN lãnh đạo. Nhìn vào những biến động của đại gia đình mình trong 72 năm qua, tôi “nhìn thấy” sự biến động của đất nước và tôi tin chắc rằng mọi thứ đang được phát triển theo một quy luật mà không thế lực nào cưỡng nổi.
Thế hệ thứ nhất
Năm 1945, cha tôi là một thanh niên 30 tuổi, đầy lòng yêu nước, ngây thơ và hăm hở theo Việt Minh rồi trở thành Đội viên Đội tự vệ Hoàng Diệu từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Cha trở thành công an mật Hà Nội năm 1947, được kết nạp vào ĐCS năm 1948, rồi lên chiến khu Việt Bắc, rồi trở về Hà Nội ngày giải phóng Thủ đô năm 1954…
Khi cha tôi mất năm 2002, cụ vẫn là một cán bộ cách mạng lão thành, sống kham khổ, trong sạch và khi nhắm mắt xuôi tay, cha mãn nguyện ra đi vì đã cống hiến cả đời mình sự nghiệp giải phóng quê hương. Tôi thương cha, đến phút chót cuộc đời, cha không hiểu hết con đường cách mạng của mình đúng sai ở chỗ nào?
Cậu ruột, em trai thứ 3 của mẹ tôi thì khác hẳn. Là một thanh niên học sinh yêu nước của trường Bưởi Hà Nội, cậu tôi rủ các bạn cùng trường, đi quyên góp gạo tiền, nấu cháo phát chẩn cho bà con nghèo đói ở các làng quê, nạn nhân của nạn đói 1945… Nhưng cậu tôi không theo Việt Minh, ông và các bạn ông hưởng ứng lời kêu gọi của Thủ tướng Trần Trọng Kim, khi chính phủ Trần Trọng Kim bị Việt Minh đánh đổ, cậu tôi bị Việt Minh bắt giam và bị giết chết.
Thế hệ thứ hai
Chồng tôi và tôi cùng lớn lên trong nhà trường xã hội chủ nghĩa. Khác với tôi, chồng tôi luôn tỏ ra là một người sống có kỷ luật, ngoan ngoãn và trung thành với chế độ. Chồng tôi được kết nạp vào ĐCS năm 1961, ông được tổ chức cơ quan và chính quyền nhà nước cưng chiều, được cử sang Anh tu nghiệp tiếng Anh năm 1979, sang Hà Lan, sang Nhật học tập về Quy hoạch quản lý kinh tế. Ông được Ủy ban Hợp tác kinh tế đối ngoại của chính phủ phân công phụ trách khối Bắc Âu, đã từng có quan hệ thân tình với Thụy Điển, là khách quý được cố Thủ tướng Thụy Điển Olof Palme mời tới nhà riêng ăn cơm chiều…
Đã đặt chân tới hơn 40 nước phi XHCN, chồng tôi có dịp tiếp cận, kết bạn và tìm hiểu khá kỹ về “chế độ tư bản giẫy chết”, ông từng cố gắng mang những hiểu biết của mình, thuyết phục, phân tích cho các quan chức cùng thời. Có người ủng hộ và muốn làm cuộc cải cách, như Thủ tướng Võ Văn Kiệt, như Thứ trưởng Trần Quang Cơ, nhưng các vị đó suy nghĩ nhiều mà chẳng làm được việc gì.
Khi cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt bị ám hại qua đời, chồng tôi hiểu rằng mọi cố gắng chưa hợp thời đều bị thất bại, ông về hưu năm 2000, bỏ ĐCS, ông ở nhà nuôi dạy thằng Út, hy vọng thằng con lớn lên sẽ không bỏ phí cuộc đời như cha nó.
Khác hẳn với chồng, tôi ngang bướng và rất “vô kỷ luật”, tốt nghiệp kiến trúc tại Thượng Hải năm 1966, theo học “The International Post-Granduate Training Course on Ecosystem Management” ở Dresden năm 1980-81. Trở về nước, tôi chỉ chăm lo công tác chuyên môn là nghiên cứu kiến trúc cảnh quan, bỏ nhiều thời gian nghiên cứu về Phong thủy. Tôi từ chối mọi cơ hội được đề bạt thăng chức, tôi không nộp đơn xin vào ĐCS và năm 1992, tôi nằng nặc đòi nghỉ hưu khi mới 51 tuổi.
Từ ngày được sống cuộc đời tự do, tôi lập công ty tư nhân, tự đi kiếm việc làm thuê để nuôi sống bản thân và gia đình, tôi bắt đầu quan tâm đến xã hội xung quanh và vận mệnh đất nước.
Càng hiểu sâu về Phong thủy, tôi càng khao khát cơ hội được phục hồi HÀO KHÍ THĂNG LONG của các triều đại Lý, Trần, Lê, khi xưa. Tôi bắt đầu quan tâm và không ngần ngai hiểm nguy, tôi lên tiếng ngăn cản Dư án Thủy cung Thăng Long ở Bán đảo Tây Hồ năm 1998, lần đầu tiên có một quan chức cao cấp là Phó TT Ngô Xuân Lộc mất chức và có kẻ vào tù.
Thế hệ thứ ba
Chồng tôi bị trọng bệnh và qua đời cuối năm 2012. Còn lại một mình, tôi bán nhà và cho thằng Út theo học trường quốc tế tại Hà Nội rồi đi du học tại Vương quốc Anh từ năm 2017. Trong 7 năm theo học tại trường quốc tế song ngữ Hanoi Academy, con tôi được tiếp xúc với các thầy cô giáo quốc tế, với khẩu hiệu “Becoming a Global Citizen” in trên trang phục, tôi muốn đứa con nhỏ được lớn lên trong bầu không khí lành mạnh, được thoát khỏi mọi kỷ niệm đau buồn mà gia đình đã trải qua.
Thỉnh thoảng nhà trường tổ chức cho học sinh đi dã ngoại, các cháu quyên góp quần áo, sách vở và dụng cụ học tập trợ giúp những học sinh kém may mắn ở vùng cao, vùng xa… nên đến khi nộp hồ sơ để đi du học, thầy giáo quốc tế hỏi cháu muốn chọn ngành gì? Cháu trả lời: Nghiên cứu Tâm lý Xã Hội. Hỏi tại sao? Cháu nói: Nhiều người cần giúp đỡ quá, phải hiểu họ thì mới giúp họ được. Thầy giáo chủ nhiệm người Mỹ nói với tôi rằng đó là câu trả lời nghiêm túc của một một đứa trẻ sống có trách nhiệm. Và tôi hoàn toàn yên tâm, tiễn con ra đi. Ở xa, vài ngày cháu lại gọi về động viên mẹ ăn ngủ điều độ và đừng làm việc quá sức.
Tôi không làm việc quá sức. Tôi biết điều tiết bản thân và giữ gìn sức khỏe. Ở nhà một mình, tôi rảnh rang theo rõi mọi biến động của xã hội. Đến nay, đã có hàng chục, hàng trăm và hàng ngàn dự án chiếm đất làm giầu của rất nhiều tập đoàn bất động sản trên khắp đất nước. Và đến nay tôi hiểu sâu sắc rằng sự suy thoái xã hội đã đến bước trầm trọng, không ai cứu vãn nổi nữa.
Mặt khác, tôi cũng nhận ra nền tảng xã hội đang chuyển mình rõ rệt và mỗi ngày một rõ rệt hơn. Các lệnh cấm đoán, bắt bớ tù đày không ngăn cản được lòng dân suy nghĩ và nói lên mọi suy nghĩ của mình.
Nếu 20 năm trước, một nhóm KTS chúng tôi có thể ngăn chặn một Dự án Thủy cung Thăng Long tội lỗi và đánh đổ ông Phó Thủ tướng Ngô Xuân Lộc, thì hôm nay có nhiều Thủy Cung Thăng Long khác tội lỗi hơn và trong số đó có một đệ tử gần gũi của ông Ngô Xuân Lộc khi xưa, là ông Đinh La Thăng, Ủy viên BCT cùng một lũ đầu trâu mặt ngựa đã phá nát và đục khoét đất nước mà công chúng gọi là công cuộc “đốt lò vĩ đại” của ông Tổng bí thư – Chủ tịch nước.
Thử hỏi, trong tất cả những kẻ đã bị ném vào lò đó, có kẻ nào bị oan uổng không? Không có kẻ nào oan uổng cả. Nhưng tôi e rằng, ông Tổng bí thư – Chủ tịch nước sẽ không có đủ lò để đốt hết lũ sâu mọt chúng nó đâu, bởi vì lũ sâu mọt kia là sản phẩm của cơ chế XHCN mà ông là thủ lĩnh. Mỗi ngày lại xuất hiện thêm nhiều kẻ độc ác tham lam, khốn nạn hơn, bọn đó không chỉ đáng ném vào lò, mà cần phải bị tru di tam tộc.
Có lần tôi đã viết thư gửi cho ông Tổng bí thư – Chủ tịch nước, xin ông đừng nghĩ tôi không phải đảng viên cộng sản thì tôi chống đảng. Cha tôi, chồng tôi từng là những ĐVCS ưu tú, từng sống trong sạch tận tụy vì lợi ích của đất nước… nhưmg thời đó qua rồi. Còn ông, tôi khuyên ông tự giải tán đảng Cộng sản trước khi bị nhân dân lật đổ.
Năm 2018, khi bà chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân quăng các bản hồ sơ Đặc khu kinh tế lên bàn hội nghị Quốc hội, ép Quốc hội thông qua Luật Đặc khu với lời tuyên bố tỉnh bơ “Bộ Chính trị đã quyết”, nhưng cuối cùng Luật đặc khu đã bị ngăn lại. Công của ai, tội của ai tôi không tiện bàn, tôi chỉ khẳng định công lý đã thắng thế và trong giới chóp bu cộng sản, có người đã tỉnh ngộ.
Cũng như vấn đề Biển Đông sôi động nhiều chục năm qua, khiến cả nước căm hờn, phẫn nộ, khi người “bạn vàng”, “thân thiết như môi với răng” của VN ta xưng xưng nói rằng, Biển Đông của ta là Biển Hoa Nam của họ, nhưng xin chớ bi quan, cho đến hôm nay, quan hệ hợp tác về quốc phòng giữa VN và Hoa Kỳ đã là Hợp tác chiến lược toàn diện. Vào những ngày ông Tổng bí thư – Chủ tịch nước lâm bệnh nặng, Đô đốc Philip Davidson, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương – Ấn Độ Dương đến thăm Việt Nam, đã được VN đón tiếp nồng hậu; cũng như khi đoàn nghi sĩ thượng viện Hoa Kỳ do Thượng nghĩ sĩ Patrick Leahy dẫn đầu đến thăm VN, họ đã được VN đón tiếp thân tình, kể cả việc họ được đến thăm Thiền sư Thích Nhất Hạnh, vị Thiền sư nổi tiếng thế giới có lúc đã bị giới chop bu CS coi như kẻ bán nước.
Và vài tháng nữa thôi, ông Tổng bí thư – Chủ tịch nước hoặc người đại diện cho ông sẽ đi thăm Hoa Kỳ. Chắc chắn sẽ có nhiều văn bản hợp tác về kinh tế và các vấn đề hệ trọng khác về hợp tác khai thác dầu khí và bảo vệ Biển Đông sẽ được ký kết.
Tóm lại, tôi không quan tâm lắm về bệnh tình của ông TBT- CTN ốm đau ra sao, ông có bị ai ám hại hay không, ở trong một chính đảng đã đến thời suy thoái, lại ở sát sườn với một thằng bạn xấu sẵn sàng ăn tươi nuốt sống mình, thì tôi hiểu rằng bị kẻ xấu rình rập ám hại và mỗi người phải trả giá cho những sai lầm của đời mình là dễ hiểu.
Có điều tôi biết chắc chắn rằng, đã đến lúc đảng Cộng sản sẽ phải tự giải tán, chế độ độc tài sẽ phải tự thủ tiêu và năm bảy năm nữa khi lứa tuổi trẻ như con tôi trở về, chúng sẽ có đủ trí tuệ, tài năng và nhiệt huyết điều hành đất nước.
Quy luật tất yếu đó sẽ không một ai, không một sức mạnh nào ngăn cản được.
Sư đoàn 3 Việt cộng cấp giấy ra trại cho tôi ngày 14.02.1978. Tôi được tạm trú tại Thành Hồ ba tháng và bị quản chế sáu tháng. Vào thời điểm này, Việt cộng đã có chủ trương thống nhất cho giới y khoa mà chúng rất cần. Công an Phường nơi tôi trú ngụ yêu cầu tôi phải đến Sở Y Tế Thành Hồ nộp đơn xin việc ngay và ngày 02.05.1978 tôi chính thức đi làm việc với Việt cộng. Lẽ ra tôi phải đi làm từ đầu tháng năm nhưng vì ngày 01.05 là ngày lễ nên tôi chỉ trình diện cơ quan mới vào ngày 02.05. Ngày 30.04 năm 1978 đó qua đi trên toàn Thành Hồ mà không có gì đặc biệt cả, đó là một ngày như mọi ngày; cho nên một tên tù mới được thả như tôi thì nằm nhà còn vợ tôi vì được lưu dụng thì đi dạy như thường lệ.
Chúng tôi rời Việt Nam ngày 24.01.1984. Trong sáu năm đi làm với Việt cộng(từ 1978 đến 1984) có tất cả sáu ngày 30.04 trôi qua một cách bình thường và hai vợ chồng tôi không hề được nghỉ. Không biết từ bao giờ Việt cộng quyết định xem ngày 30.04 hằng năm là một ngày lễ và cho phép dân chúng nghỉ lễ cùng một lúc hai ngày liền, “Ngày Thống Nhất“ 30.04 và Ngày Lễ Lao động 01.05.
Đối chọi với Ngày Quốc Hận?
Sự kiện chúng ta kiên trì giữ vững Quốc kỳ Việt Nam Cộng Hoà khiến ViXi rất tức tối nhưng chúng không làm gì được. Võ Văn Kiệt đã nói rõ là nếu người tỵ nạn Việt Nam không sử dụng lá cờ nền vàng ba sọc đỏ nữa thì bên chúng nó và phía chúng ta sẽ dễ nói chuyện với nhau hơn.
Cùng với Quốc kỳ Việt Nam Cộng Hoà, chúng ta có tên gọi “Ngày Quốc Hận“, một cách gọi khiến chúng rất căm ghét. Đến một thời điểm nào đó, chúng nhận ra rằng phải có biện pháp chống-chống cộng qua một tên gọi chính thức pháp định và từ đó, chúng làm giấy khai sinh cho ngày 30.04 với tên gọi “Ngày Thống Nhất“ đồng thời đi tiếp bước thứ hai là xem đó là một ngày nghỉ lễ. Đó là hành động của kẻ thù nhằm ứng phó với chủ trương của chúng ta cương quyết kiên trì xem ngày 30.04 là ngày di hận ngàn đời cho dân tộc Việt Nam.
Phần chúng ta, thiết nghĩ chúng ta phải biết sử dụng hữu hiệu và khôn khéo vị thuốc khử độc là danh xưng “Ngày Quốc Hận“. Chúng ta không nên dùng tên gọi nào khác, cho dù là vì bất cứ lý do gì và do nguyên nhân nào. Chống lại cách gọi “Ngày Quốc Hận“ giặc phải nghĩ ra nguỵ danh “Ngày Thống Nhất“. Chúng ta đã ở thế thượng phong, chúng ta đã đẩy kẻ thù vào thế bị động, chúng ta đã bắt chúng phải tìm biện pháp ứng phó; chúng ta đừng vô hình trung rời khỏi vị thế áp đảo đã đạt được.
Tất nhiên những kẻ đối kháng với cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản phải phủ nhận cung cách gọi tên của cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản. Ông Cù Huy Hà Vũ bảo Ngày 30.04 là “Ngày Thống Nhất“, đó là quyền của ông ta và cũng là “nhãn hiệu cầu chứng“ của ông ta. Vĩnh viễn ông Cù Huy Hà Vũ không bao giờ hoà đồng được vào tập thể người Việt tỵ nạn cộng sản.
Lịch sử hậu Quốc Hận
Cứ mỗi lần Ngày Quốc Hận trở về thì chúng ta lại nhắc lại quá khứ; đó là nghĩa vụ, nghĩa vụ không được quên. Nhưng chúng ta cũng nên nghĩ đến hiện tại. Chúng ta chưa có một bộ sử của “Quốc gia Việt Nam Cộng Hoà Hải ngoại“.
Bộ sử sẽ bắt đầu từ Ngày Quốc Hận 30.04.1975 với bức hình nổi tiếng của các anh chị em sinh viên quốc gia đầu chít khăn tang rước lá đại kỳ diễn hành trên đường phố Paris. Bộ sử sẽ trình bày các dữ kiện liên quan đến chính sách man rợ và đểu cáng của giặc cộng đối với dân chúng Miền Nam, sẽ mô tả bức tranh bi hùng của người Miền Nam vào tù ra tội và vượt biên vượt biển. Bộ sử sẽ ghi nhận các thành công của thế hệ thứ nhất, thứ hai trên những mảnh đất xa lạ. Có biết bao nhiêu điều cần ghi lại và nếu chúng ta không chịu ghi lại thì ai ghi cho bây giờ? Nói hoài nói mãi làm chi chuyện quá khứ mà không chịu nói chuyện ngày nay? Chúng ta có những ngòi bút viết sử vững vàng : Trần Gia Phụng, Phạm Cao Dương, Nguyễn Thế Anh, Lâm Văn Bé. Nên chăng đã đến lúc phải hướng ngòi bút vào mục tiêu biên soạn một bộ sách tổng hợp có hệ thống những diễn biến lịch sử liên quan đến cộng đồng ba bốn triệu người Việt lưu vong sau 30.04.75?
Nước Đức có Ngày Thống Nhất, Tag der Deutschen Einheit, ngày 03.10. Luật pháp Đức xem đó là một ngày nghỉ lễ chính thức trên toàn lãnh thổ cộng hoà liên bang. Nước Đức không có ngày nào là ngày quốc hận cả. Số mệnh hai dân tộc Việt và Đức đã được an bài theo hai cách khác nhau nhưng không phải vì vậy mà chúng ta thừa nhận một cái ngày được gọi là thống nhất một cách giả dối tráo trở.
Quốc Hận là một khái niệm văn hoá-chính trị-xã hội trong từ vựng quốc ngữ. Tuy nhiên các từ điển, tự điển đơn ngữ Việt-Việt không hề có mục từ nào ghi khái niệm này. Không hề có mặt trong tài liệu tham khảo nhưng đã hai lần khái niệm Ngày Quốc Hận lưu truyền rộng rãi trong ngôn ngữ dân gian nhằm chỉ ngày 20.07 và ngày 30.04. Trong khi đó cộng đồng Nga lưu vong trước đây, cộng đồng người Tàu Đài Loan cũng như cộng đồng người Cuba đang sinh sống tại nước ngoài hiện nay không có Ngày Quốc Hận.
Ba chữ “Ngày Quốc Hận“ là một kháng thể rất hữu hiệu, một thứ thuốc giải độc rất mạnh chống lại chủ thuyết và chế độ cộng sản trên bình diện lý luận, thuộc ý thức chính trị.
Tháng Tư, Cười Hay Khóc - Trần Mai Trung (Danlambao)
Tháng Tư năm 1975, người Việt Nam phía Bắc chiến thắng người Việt Nam phía Nam. Người phương Bắc vui vẻ. Người phương Nam buồn rầu, nhưng tự an ủi là từ nay có hòa bình, anh em VN không còn bắn giết nhau.
Trong chiến tranh 1954-1975, phía Bắc không nói nhiều về hòa bình, hô hào dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng tiếp tục chiến tranh ở miền Nam. Phía Nam thì nói nhiều về hòa bình, có lẽ vì chiến tranh diễn ra tại miền Nam, tàn phá chết chóc nhiều quá. Một số thanh niên “lý tưởng” ở miền Nam còn mơ mộng nối vòng tay lớn với người anh em phía bên kia, họ đâu biết là người CS sẽ không bắt tay với tình anh em bạn bè, đảng CS chỉ muốn lãnh đạo và ra lệnh.
Hòa bình đến khi một bên thắng và một bên thua, cuộc sum họp không có tình anh em chút nào. Hai tháng sau, hơn 200 ngàn người anh em miền Nam bị người anh em miền Bắc đưa vào các trại cải tạo tập trung, tức là tù lao động khổ sai. Nhiều người bị giam 5 đến 10 năm, nhiều người đã chết ở đó, có người bị giam đến 17 năm. Cuộc chiến đã chấm dứt, người CS vẫn đi theo đánh người ngã ngựa.
Hòa bình là điều mong ước của người dân miền Nam, nhưng với bên thắng cuộc thì nó chỉ là một chặng đường. Cuộc chiến Bắc-Nam vừa xong, họ nhìn sang Kampuchea, Thái Lan, họ muốn các nước xung quanh là cộng sản giống họ, đảng CS muốn nhân dân VN tiếp tục làm người lính tiên phong đi đánh nhau cho chủ nghĩa quốc tế vô sản. ĐCSVN sẳn sàng đi vào cuộc chiến mới.
Đảng CS xem nhân dân là vật sở hửu của mình, phải làm những gì đảng muốn. Đảng CS áp đặt chế độ độc tài đảng trị, độc quyền tuyên truyền, âm mưu biến người dân thành người máy, chỉ biết có đảng và bác, quên đi cha mẹ, ông bà, tổ tiên Việt Nam.
Không chịu nổi sự cai trị độc tài của đảng CS, hơn 2 triệu người VN đã đau lòng rời quê hương đi tị nạn ở các nước khác, hàng trăm ngàn người đã chết trên biển, nhiều người bị hải tặc Thái Lan tấn công, thật kinh hoàng. Trong lúc hiểm nguy đó, những người da trắng không quen biết, khác màu da tiếng nói, đã đến cứu giúp người tị nạn. Còn lãnh đạo đảng CSVN, Thủ tướng Phạm văn Đồng thì đi nói xấu người tị nạn VN là trộm cướp, đĩ điếm. Ông ta là hình ảnh tiêu biểu của người cộng sản nhỏ nhen.
Tháng Tư lại về, bạn cười hay bạn khóc? Có người bên thắng cuộc đang cười vì họ đã chiến thắng, mặc dù cái giá phải trả là hàng trăm ngàn thanh niên miền Bắc phải đi đánh nhau và chết ở miền Nam. Bạn bè, đồng chí, đồng bào bị chết rất nhiều mà lại cười, đó là cái cười vô liêm sĩ. Có người bên thắng cuộc đang khóc, 100 ngàn thiếu nữ miền Bắc đi Thanh niên xung phong, ở trong rừng mấy năm dài, 10 ngàn TNXP đã chết trong rừng, người trở về được thì mang bệnh tật và sống cô đơn vì tuổi xuân thì đã qua.
Bên thua cuộc thì buồn hơn, ngày “giải phóng” cũng là ngày 200 ngàn người đi vào tù, người Việt Nam bị phân biệt làm nhiều hạng khác nhau. Đang sống bình thường thì bây giờ thiếu ăn, đang có tự do thì bây giờ phải nói theo ý đảng. Nếp sống đạo đức bị phá tan hoang, thay thế bằng giáo điều cộng sản. Người tị nạn VN thì mang nỗi buồn xa xứ, ngày 30 tháng Tư là lý do phải rời quê hương, là một ngày buồn.
Luân Hồi dịch từ chữ Samera của chữ Phạn. Chữ Hán, Luân là bánh xe, Hồi là xoay lại, trở về, trở lại; Sinh Tử Luân Hồi là sinh ra già bệnh chết rồi lại sinh ra già bệnh chết, tái diễn nhiều lần. Theo Phật giáo, con người sinh ra từ vô thủy (thỉ) đến giờ đã trải qua vô lượng đời, và sẽ còn tiếp nối vô số đời nữa ở tương lai cho đến vô chung. Con người sinh ra chết đi cứ triền miên như thế, nhưng không phải chỉ sinh trong loài người mà tùy nghiệp đã tạo ra trong suốt thời gian sống theo đó mà sinh vào một trong sáu cảnh giới, gọi là sáu cõi.
I). Các quan điểm về sinh tử:
Có bốn quan điểm:
1). Quan điểm chấp đoạn:
Người có quan điểm này cho rằng con người sinh ra là ngẫu nhiên, tự nhiên như thế, có hợp có sinh, mọi việc ở đời chỉ là may rủi, gặp may có vui, gặp rủi phải buồn. Khi già bệnh phải chết là lẽ tự nhiên, khi chết là hết chẳng còn gì nữa, sự may rủi cũng theo cái chết mà không còn gì nữa; thân xác thành cát bụi, hư vô, không còn một tí gì cả.
Theo quan điểm “chấp đoạn”, con người sống chỉ nghĩ đến hưởng thụ cho mau, nên đưa đến tình trạng dành giật, không cần biết tới bình đẳng, đạo đức, tôn ty; đây là quan điểm có tính cách buông xuôi, không phải quan điểm của những người trí tuệ, mà giống như cách đối xử hạ đẳng của các loài vật. Bởi vì con người ngoài phần thể xác, còn có phần tinh thần, nên bảo rằng chết là hết thì không đúng, tại sao? Vì phần tinh thần nó vô hình vô tướng, mắt người thường không thể thấy được, nên tưởng rằng không có gì cả, nhưng đối với các bậc Giác ngộ, các vị biết thấy rõ phần tinh thần này.
2)- Quan điểm chấp thường:
Người có quan điểm này cho rằng khi con người chết rồi, phần thể xác tan rã, còn có phần tinh thần bất hoại, tinh thần này là vĩnh cửu trường tồn không bao giờ mất được. Họ quan niệm phần tinh thần này là một “linh hồn” bất diệt trường tồn vĩnh viễn, và có một trong hai nơi họ được đến hay phải đến; đó là lên Thiên đàng hưởng thọ khoái lạc vĩnh viễn, hay xuống Hỏa ngục chịu thiêu đốt đời đời không có ngày ra.
Theo quan điểm “chấp thường”, có người nói: “Quan điểm này quá thô sơ, qúa đơn giản, không ăn khớp với những gì diễn biến trong vũ trụ; vì hết thảy vũ trụ vạn vật không có cái gì là vĩnh cửu trường tồn được, không có một nơi nào trong vũ trụ không thay đổi, mọi sự đều đổi thay, kể cả cái chúng ta tạm gọi là linh hồn. Hơn nữa, con người chỉ sống một thời gian ngắn ngủi dù là 100 năm, khi chết đi lại được ở trên Thiên đường hưởng lạc thú đời đời, hoặc xuống hỏa ngục chịu cực hình khổ não vĩnh viễn không có ngày ra; thật là bất công phi lý giữa hai sự sống ấy, chỉ bởi một điều nhỏ là tin hay không tin mà như vậy!” Nên họ còn nói: “Đây là sự đặt ra một phần thưởng quá to lớn và một hình phạt khủng khiếp để con người ham khoái hưởng lạc và sợ hãi khổ sở mà phải tin theo vì tưởng rằng có lợi, chứ sự thực không đúng như thế”.
3)- Quan điểm có tính cách khoa học:
a)- Về vật chất: Theo quan điểm này có nhiều sự việc khoa học đã nhìn thấy tính cách luân hồi của nó, sau đây là một vài thí dụ:
1- Nước luân hồi: Nước luân hồi rất dễ nhận ra, đó là nước sông, hồ, biển dưới sức nóng của mặt trời làm nước bốc hơi bay lên thành mây, mây có nhiều hơi nước gặp lạnh tụ lại thành nước, nước nặng rơi xuống thành mưa. Nếu khí hậu lạnh dưới 0 độ bách phân (Centigrade) hay dưới 32 độ Farenheit, nước mưa đông thành cục gọi là mưa nước đá. Ở vùng Bắc cực hoặc Nam cực, mặt trời ít chiếu tới nên nước thường đông thành băng; còn những vùng khác, khi mưa nước từ đồi núi chảy xuống suối, rạch, hồ, sông rồi ra biển, từ các chỗ này nước lại bốc hơi thành mây, mây thành mưa, cứ thế nước luân hồi mãi.
2- Khí hậu luân hồi: Qủa đất mỗi ngày tự quay như con quay một vòng, nên chúng ta có ban ngày khi chúng ta hướng về phiá mặt trời, và có ban đêm khi trái đất quay phiá bên kia của quả đất hướng về phiá mặt trời, như vùng Đông Á châu ban ngày thì vùng châu Mỹ ban đêm và ngược lại vùng châu Mỹ buổi trưa thì vùng Đông Á châu nửa đêm. Qủa đất còn chạy chung quanh mặt trời trong 365 ngày hết một vòng, đó là một năm. Sự quay chạy của trái đất theo qũy đạo của nó, làm thành bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông ở vùng xa Xích đạo, và hai mùa Nắng Mưa ở nơi gần Xích đạo, xoay vần không dứt, luân hồi mỗi năm một lần. Tất cả muôn vật trên qủa đại cầu này đều bị ảnh hưởng bởi khí hậu bốn mùa hay hai mùa thay đổi, đây là luân hồi của khí hậu.
3- Luân hồi của hệ thống tuần hoàn: Trong cơ thể con người, qủa tim ví như đầu tầu xe lửa kéo cả đoàn tầu, trái tim cũng vậy, nếu tim ngừng đập bóp, con người sẽ chết. Qủa tim có bốn ngăn, hai ngăn trên gọi là tâm nhĩ (atrium), hai ngăn dưới gọi là tâm thất (ventricle). Do sức bóp của tim, máu trong tâm thất bên trái (left ventricle) bơm vào động mạch (aorta) dẫn đi khắp toàn thân vào các mạch máu nhỏ đến các bộ phận, cơ quan của thân thể để nuôi các tế bào. Rồi máu từ đó theo hệ thống tĩnh mạch (veins) trở về tim vào tâm nhĩ bên phải (right atrium). Máu từ tâm nhĩ bên phải đi qua một cái van (valve) xuống tâm thất bên phải (right ventricle), rồi ra động mạch phổi (pulmonary artery) vào phổi để lấy dưỡng khí (oxygen). Máu từ phổi trở lại tim bằng tĩnh mạch phổi (pulmonary vein) vào tâm nhĩ bên trái (left atrium), xong máu từ đây qua một cái van xuống tâm thất bên trái (left ventricle), và từ đây, tâm thất bóp để đấy máu đi nuôi cơ thể; máu đi đi, về về liên tục không ngưng nghỉ như thế, đây gọi là luân hồi của máu.
b)- Về tinh thần: Như trên, khoa học đã nhìn thấy nhiều sự vật có tính cách luân hồi, chứng minh một cách cụ thể hiển nhiên, nhưng về vấn đề tinh thần , khoa học còn đang trên đường tìm kiếm. Thường mỗi khi có người nhớ được tiền kiếp, các nhà khoa học lại có dịp truy cứu; đây cũng chỉ là những góp nhặt vụn vặt, nên các nhà khoa học chưa dám khẳng định một cách tích cực toàn diện, vì về tâm linh vô hình vô tướng nên không thấy cụ thể bằng con mắt phàm phu được. Tuy nhiên, chúng ta có thể nêu ra một số phát biểu nổi tiếng của một số danh nhân Tây phương về vấn này như sau:
1- Pythagore (hơn 550 năm trước Dương lịch): Nhà toán học kiêm triết học người Hy Lạp (Greece) nói rằng: “Tất cả mọi người đều có linh hồn, quanh quẩn trong thế gian hữu cơ và diễn biến theo định luật trường cửu”.
2- Platon (427 – 347 BC): Nhà triết học Hy Lạp nói: “Linh hồn thọ hơn thể xác, linh hồn liên tục sinh ra rồi tái sinh trở lại thế gian”.
3- Ovid (43 BC – 17 AD): Nhà thơ người tại thành Rome (Ý) nói: “Cái gọi là chết, chỉ gọi là vật chất cũ, còn linh hồn bị đẩy đưa từ nơi này đến nơi khác, linh hồn chỉ là một, chỉ có hình thể mới, như ta thay áo mới. Cũng như loại sáp mềm người ta đổ vào khuôn, mặt sáp sẽ ghi nhận cái khuôn, lúc ấy hình ảnh cũ bị xóa bỏ, chỉ có hình thức bị biến đổi, sáp vẫn là sáp; như vậy, được sinh ra là bắt đầu trở thành một cái gì mới, khác cái trước, và những hình thức mới ấy cũng biến đổi nữa, không có cái gì giữ nguyên vẹn hình thể mà không thay đổi hình dạng”.
4- Wordsworth (William) (1770 – 1850): Nhà thơ người Anh quốc nói: “Cái sinh của chúng ta chỉ là một giấc chiêm bao và một sự lãng quên. Linh hồn, vì tinh tú của đời sống, xuất hiện với ta hôm nay, đã có cơ sở ở một nơi nào và đến từ phương xa: Không phải trọn vẹn trong sự lãng quên, cũng không phải trơ trọi”.
5- Disraeli (Benjamin) (1804 – 1881): Thủ tướng Anh Quốc nổi tiếng một thời nói: “Không có hệ thống nào vừa giản dị, vừa ít va chạm sự hiểu biết của ta bằng thuyết luân hồi. Thuyết ấy xem những đau khổ và khoái lạc trong kiếp sống này như sự thưởng hay phạt các hành động của ta trong một trạng thái khác”.
6- Emerson (Ralph Waldo) (1803 – 1882): Triết gia kiêm nhà thơ người Hoa Kỳ nói: “Cái định mạng mà chúng ta phải lãnh là do chính ta đã chuẩn bị một cách hồn nhiên, vô ý thức, trong rất nhiều kinh nghiệm mà ta không thấy nổi giá trị; có lẽ chúng ta còn tiếp tục nhận lãnh định mạng ấy trong nhiều kiếp nữa, trước khi hoàn tất công việc trả qủa”.
7- Huxley (Thomas Henry) (1825 – 1895): Nhà sinh vật học (Biology) kiêm nhà văn người Anh Quốc nói: “. . . Bên trong đứa trẻ sơ sinh đã có ngủ ngầm đặc điểm truyền thống, và cái “ta” chỉ là một khối năng lực tiềm tàng, thêm vào chút gì khác; những tiềm năng ấy rất sớm nổi lên mặt và trở thành sức mạnh thật sự, một thực lực, từ tuổi trẻ trở lên, biểu hiện lúc lu mờ lúc sáng tỏ, lúc yếu lúc mạnh, lúc đúng đắn lúc sai lầm. Và mỗi lần đổi sang từ thể xác này đến một xác thân khác, thì tâm tánh riêng biệt ấy lại bị một tâm tính khác biến đổi.
Những triết học gia Ấn Độ gọi cái “Tánh” đồng nghĩa với nghiệp (Karma), chính cái nghiệp chuyển từ đời này đến đời khác và nối liền các kiếp sống trong một chuỗi dài những kiếp chuyển sinh; các triết gia ấy chủ trương trong mỗi kiếp sống, cái nghiệp bị biến đổi, không những do truyền thống mà còn do chính hành động của mình”.
4). Quan điểm của Phật giáo:
Đúng lý ra, sinh tử luân hồi gắn liền với nghiệp báo nhân qủa, vì con người từ khi sinh ra đến lúc chết đều có tạo nghiệp, do đó mỗi người đều mang theo cái nghiệp của mình. Để hiểu rõ vấn đề, chúng ta lần lượt phân tích:
Con người gồm hai phần thể chất và tinh thần, từ khi bắt đầu có sự phối hợp giữa tinh cha trứng mẹ hợp lại về phần vật chất, cộng với phần tinh thần gọi là thần thức hay nghiệp thức. Bào thai phải có đủ phần vật chất (sắc) và tinh thần (thức) mới đủ điều kiện để thành hình và lớn mạnh được.
Ở trong bào thai lớn dần phát triển đủ các bộ phận, trong đó có các bộ phận: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, gọi là sáu căn. Khi đủ ngày tháng được “sinh” ra, lớn dần lên, sáu căn tiếp “xúc” sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; khi tiếp xúc với ngoại cảnh nếu yêu thích sinh thọ vui, nếu không thích sinh thọ buồn, hoặc tiếp xúc với cái không yêu không ghét có thọ không vui không buồn. Sự yêu ghét gọi là “ái ố”, vì có ái ố nên cố giữ cái yêu thích, tìm cách để có cái yêu thích, quyết dẹp bỏ tránh né cái không ưa, đó gọi là “thủ, bỏ”. Vì hành động cố giữ và cố dẹp bỏ ấy mà tạo nghiệp, khi chết thần thức phải mang theo để thọ sinh một đời sống khác kế tiếp.
Cứ thế sinh ra sống tạo nghiệp già bệnh chết, rồi lại như thế mãi mãi, không có ngày chấm dứt; ngoại trừ người có tu hành đắc đạo mới thoát ra ngoài vòng sinh tử luân hồi, vì nghiệp thức dẫn đi đầu thai, nên tùy nghiệp lành hay nghiệp dữ mà phải vào một trong sáu cõi. Do đó, chúng ta cũng nên tìm hiểu sơ qua để biết thêm tạo nghiệp gì sinh vào cõi nào như sau:
1- Sinh cõi Trời: Người nào làm mười điều thiện gồm ba điều về thân: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm; bốn điều về miệng: Không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói đâm thọc, không nói ác; và ba điều về ý: Không tham lam, không sân giận, không si mê tà kiến. Sinh lên ở cõi Trời có đời sống vô cùng sung sướng, không phải làm việc, lại có đời sống rất lâu dài.
2- Sinh lại cõi Người: Người nào làm được năm giới (Ngũ giới) không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, và không uống rượu. Muốn sinh lại cõi Người, ráng thực hành như thế. Khi tái sinh lại làm người được ở chỗ giàu sang quyền qúy sung sướng, manh khỏe, sống lâu.
3 - Sinh cõi Thần (A Tu La): Người có lòng tốt, có thực thi mười điều thiện, tạo nhiều phúc đức, nhưng tính sân hận giận thù chưa bỏ được, nên khi chết đi vào cõi Thần, có đời sống dài, khá sung sướng, nhưng có sự tranh cãi, gây bất hòa, đấu tranh nên cũng có phiền toái.
4- Sinh cõi Ngạ qủy: Người bỏn sẻn, đố kỵ, ghen tỵ, mưu mô cướp đoạt của người, trộm cắp v.v… Khi chết sinh vào Ngạ qủy, có nhiều loại Ma qủy khác nhau, có loại phụ với các vị Thần để làm việc cho chư Thiên, có loại phải canh cổng thành cõi Trời v.v..., loài Ngạ qủy thường bị đói và sống luẩn quẩn cùng với loài người và súc sinh, nhưng vô hình nên ta không thấy.
5- Sinh Súc sanh: Người dâm dục ngang trái, người quỵt nợ, giật hụi, lừa đảo, biển thủ tiền của, người đánh đập hành hạ giết hại súc vật, người sớm tối say sưa rượu hoặc ma túy, người tăng thượng mạn v.v.. Khi chết sinh vào loài Súc sinh bị khổ sở trăm bề mà ai cũng thấy.
6- Sinh Địa ngục: Người giết cha giết mẹ, người làm mười điều ác chắc chắn đọa điạ ngục nhanh như liệng mũi kiếm thẳng xuống nước ngay sau khi chết, ở địa ngục thời gian lâu dài chịu cực hình khốn khổ trăm bề; khi ra khỏi địa ngục, lại phải vào Ngạ qủy hoặc Súc sinh, khi trở lại làm người có đời sống nghèo hèn khổ sở.
II). Kết luận về sinh tử luân hồi.
Trong các Kinh đức Phật nói rất nhiều về các kiếp của Ngài và nhiều người khác, nếu chúng ta đọc Kinh sách của Phật giáo sẽ thấy chuyện tái sinh rất nhiều; Bác Sĩ Edgar Casey tại Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ thứ 20 mà nhiều người đã biết. Ông chuyên bắt mạch định bệnh bằng thiền định và dùng mắt thần để nhìn các kiếp trước của bệnh nhân, mà người ta gọi là dùng “thôi miên” để nhìn xem người bệnh đã trải qua các kiếp trước như thế nào để định bệnh cho bệnh nhân và chữa trị trong mấy chục nghìn trường hợp, mà hiện hồ sơ còn được lưu giữ.
Theo dõi báo chí thỉnh thoảng chúng ta cũng thấy nêu lên chuyện có người nhớ được tiền kiếp của mình, chuyện các vị Lạt Ma Tây Tạng tái sinh nhớ được đời trước cả đến các vật dụng của mình; thiết tưởng chuyện tái sinh hầu như trên thế giới ngày nay coi như chuyện bình thường, không còn mấy người thắc mắc nữa.
Schopenhauer (Arthur) (1788–1860): Nhà toán học kiêm triết học người Đức nói về luân hồi như sau:
“Ta thấy rằng lý thuyết luân hồi khởi xuất từ thuở sơ khai, trong thời kỳ vàng son của nhân loại, luôn luôn lan rộng trong nhân gian, được coi là tín ngưỡng của phần lớn mà cũng là giáo lý của tất cả tôn giáo; ngoại trừ tín ngưỡng của người Do Thái và hai tôn giáo xuất xứ từ hình thức thật tế nhị của tín ngưỡng ấy ( Hồi giáo và Cơ Đốc giáo).
Các thuyết luân hồi đã biến chuyển đến rất gần chân lý mà Phật giáo đề cập, như vậy, trong lúc Cơ Đốc giáo tự an ủi với ý tưởng sẽ tự gặp trở lại trong một thế gian khác, trong thế gian ấy sẽ tìm lại trọn vẹn nhân cách của mình, và cũng sẽ tự nhận ra tức khắc, thì theo các tôn giáo khác, sự gặp gỡ trở lại đã diễn tiến nhiều lần, nhưng ta không nhận thức được. Trong những kiếp tái sinh liên tục tái diễn, những người đã có liên quan mật thiết hoặc có tiếp xúc ngay với nhau sẽ gặp lại trong một kiếp sống vị lai, cũng lại có sự liên hệ với nhau hoặc y hệt, hoặc tương tự, và những tình cảm, thiện hay ác, đối với nhau như trong kiếp sống nàỵ . . .
Cũng như đã ghi chú trong Kinh Phệ Đà (Ấn Độ giáo) và tất cả các kinh sách khác ở Ấn Độ, thuyết luân hồi được xem là nền tảng Bà La Môn giáo và Phật giáo; cho đến nay, phần lớn các dân tộc Á Đông không phải Hồi giáo, hơn phân nửa nhân loại, vẫn tin tưởng chắc chắn thuyết luân hồi và đời sống thực tế hàng ngày vẫn chịu ảnh hưởng sâu sắc của thuyết này. Đó cũng là tín ngưỡng của người Ai Cập và từ Ai Cập, Orphée, Pythgore và Platon đã nhiệt liệt nhận lãnh.Theo như trên, sự tin tưởng nơi thuyết luân hồi tự nó là niềm tin qủa quyết tự nhiên của con người mỗi khi nghĩ đến vấn đề này mà không bị ám ảnh trước . .”.
Chỉ có sát-na hiện tại là có thực, cho nên chúng ta không nên lo lắng về quá khứ hay tương lai, hãy sống trọn vẹn với giây phút hiện tại với tâm chánh niệm. Làm được như thế thì trong tương lai, nhiều điều tuyệt vời, đầy hứa hẹn sẽ đến với chúng ta...
Dẫn nhập
“Sự vô thường, tuổi già và bệnh tật không bao giờ hứa hẹn với chúng ta. Chúng có thể đến bất cứ lúc nào mà không một lời báo trước. Bởi vì cuộc sống là vô thường, nên chúng ta không biết chắc rằng chúng ta có còn sống ở sát-na kế tiếp hay không. Nếu một tai nạn xảy đến, chúng ta sẽ biến mất khỏi thế giới này ngay tức khắc. Mạng sống của chúng ta ví như hạt sương đọng lại trên đầu ngọn cỏ trong buổi sáng mùa xuân. Nó sẽ bị tan biến ngay khi ánh mặt trời ló dạng. Những ý niệm của chúng ta thay đổi rất nhanh trong từng sát-na. Thời gian rất ngắn ngủi. Nó chỉ kéo dài trong một sát-na (kṣaṇa), giống như hơi thở. Nếu chúng ta thở vào mà không thở ra, chúng ta sẽ chết”. Đấy là bài học học đầu tiên mà tôi học được từ thầy của mình cách đây 39 năm, vào cái ngày đầu tiên sau khi tôi trở thành một chú tiểu.
Những thông điệp mà tôi học được từ bài học này nhắc nhở rằng, tôi phải thực tập lời Phật dạy một cách nghiêm túc. Tôi không nên để thời gian trôi qua một cách vô ích mà không làm điều gì có ý nghĩa. Suốt 39 năm qua, tôi đã nhọc công đi tìm ý nghĩa của cuộc sống của chính tôi. Tôi luôn luôn tự hỏi:
“Phải chăng tôi có sự sống?”, “Mạng sống của tôi sẽ kéo dài được bao lâu?”, “Phải chăng mạng sống của tôi chỉ kéo dài trong một sát-na ngắn ngủi, hay là kéo dài hàng trăm năm với sự tiếp nối của một dòng chảy từ sát-na này đến sát-na khác?”.
Cuộc đời là đau khổ. Chắc chắn vậy, không còn nghi ngờ gì về điều này. Sự sống là đau khổ vì mọi thứ đều vô thường. Đây là sự thật đầu tiên trong Tứ diệu đế. Phải chăng tất cả chúng sanh đều khổ đau kể từ ngày đầu tiên của cuộc đời cho đến những hơi thở cuối cùng?
Chúng ta có thể thoát khỏi sự khổ đau này ngay bây giờ được không, hay phải đợi đến kiếp khác, hoặc đợi đến ngày chúng ta trở thành bậc Giác ngộ như Đức Phật? Trong quá trình tu tập theo đạo Phật, chúng ta có thể có được một đời sống ý nghĩa hay không, hay chỉ là sự vật lộn để tìm kiếm ý nghĩa của cuộc sống? Phải chăng cuộc sống chỉ có ý nghĩa trong trạng thái tâm thức hoặc ở cơ thể vật lý mà thôi? Chúng ta có thể tách biệt trạng thái tâm thức và cơ thể vật lý của mình để có được một đời sống hạnh phúc hay không?
Trong đạo Phật, tôi tin là những câu hỏi như thế không có gì mới. Trong quá khứ, đặc biệt là trong buổi bình minh của đạo Phật, Đức Phật đã giải thích khái niệm thời gian như thế nào, và các vị đệ tử của Ngài đã hiểu thời gian ra sao? Sau khi Ngài giác ngộ, ý nghĩa cuộc sống của Đức Phật là gì? Chúng ta có thể noi gương Đức Phật trong đời này hay không? Để tìm ra ý nghĩa của cuộc sống, tôi cần phải quay lại tìm hiểu những học thuyết về thời gian đã được giải thích trong kinh điển thời kỳ đầu của Phật giáo Nguyên thủy cho đến giai đoạn phát triển mạnh nhất của Phật giáo Đại thừa. Trong bài viết này, tôi khảo sát về khái niệm thời gian trong đạo Phật, để từ đó tìm ra ý nghĩa của cuộc sống.
“Thời gian” trong Phật giáo Nguyên thủy(1)
Ngay sau khi giác ngộ, giáo lý đầu tiên mà Đức Phật Thích Ca thuyết giảng là giáo lý Tứ diệu đế. Khỏi cần phải nói, tất cả chúng ta đều biết chân lý đầu tiên trong bốn chân lý này là “Cuộc sống là khổ đau”. Sở dĩ như thế là vì tất cả mọi thứ đều vô thường (anitya). Mọi pháp (dharma) đều do duyên mà sinh khởi, chúng được kết hợp bởi các yếu tố khác nhau. Tất cả các pháp đều có bốn đặc tính, đó là: thành (jāti), trụ (sthiti), hoại (jarā), vô thường (anitya). Theo ngài Thế Thân thì bốn đặc tính này là những đặc tính cơ bản của vạn pháp. Bốn đặc tính này đã đưa đến sự phát sinh tất cả các luận thuyết của Phật giáo Nguyên thủy.
Khái niệm thời gian được diễn tả trong trường phái Phật giáo Nguyên thủy bằng thuật ngữ ‘samaya’, bao hàm cả ý nghĩa về ‘điều kiện’ và ‘thời gian’. Trong số nhiều luận giải, luận giải đề cập thường xuyên nhất đến vấn đề thời gian là quyển chú giải về bộ Pháp tụ (Dhammasaṅgani) của ngài Buddhaghosa (Phật Đà Da Xá). Ở đấy, khái niệm ‘samaya’ được chia làm 5 loại(2) như sau:
1. Kāla (thời gian): Miêu tả sự tiếp nối của một hoàn cảnh, như thể là thời gian của sự lạnh lẽo hay sự đau ốm… Từ này lại được phân ra làm 9 loại:
a. Sát-na tâm (citta-kara);
b. Pháp (dhamma) của các sinh vật, ký ức của pháp, còn có thể hiểu là pháp ở trong quá khứ, hiện tại và vị lai;
c. Quá trình thứ lớp (dhammapatti) của mọi sự vật hiện tượng, ví dụ như thời gian khi những hạt giống nảy mầm;
d. Sự xuất hiện của mọi thứ (dhamma-lakkhaṇa), ví dụ như thời gian được sinh ra hay là thời gian của tuổi già;
e. Thời gian của sự nhận lãnh (dhammakicca);
f. Hành động của con người (sattakicca), ví dụ như thời gian tắm rửa hoặc ăn cơm;
g. Những hình thái của sự vận động (iriyāpatha), ví dụ như đi, đứng, nằm, ngồi;
h. Những diễn tiến của các hiện tượng tự nhiên (candimāsuriyādi, parivattana), ví dụ như diễn tiến của buổi sáng, buổi chiều hay là buổi tối và sự tiến triển của một ngày;
i. Những sự phân chia thời gian (kālasaṅdaya), ví dụ như nửa tháng, một tháng, một năm.
2. Samūla (nhóm): Một nhóm trong ý nghĩa của sự tích tụ của pháp (dhamma-puñja), chẳng hạn như cảm giác, được dùng để từ chối ý niệm của một thực thể cá nhân. Học thuyết nhân quả trong Phật giáo cho rằng mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại nhờ vào nhân, duyên, quả. Loại này được hướng đến việc chống lại quan điểm sai lầm rằng, một thứ có thể sinh khởi độc lập với những thứ khác, vì thế nó chứng minh cho sự phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các pháp.
3. Hetu (nguyên nhân): Nói lên sự phụ thuộc lẫn nhau của mọi hiện hữu, ví dụ như để nhìn được thì nhãn thức phải hội đủ điều kiện.
4. Khaṇa (tính nhất thời): Đề cập đến sự kết nối tâm thức từ quá khứ đến hiện tại và chỉ nói đến tâm thiện chứ không nói đến tâm bất thiện. Khi tính nhất thời đang trôi chảy liên tục từ sát-na này đến sát-na khác trong quá khứ, rất khó để nắm bắt sát-na ấy. Chính tâm của con người được xem là tồn tại mang tính nhất thời. Tính nhất thời rất khó nắm bắt, cho nên để cho cái tâm nhất thời ấy khởi lên và giữ được sự tĩnh tại thì không phải dễ. Loại ‘khaṇa’ này nói đến đạo đức của Phật giáo, bởi vì tính nhất thời được xem là chỉ liên hệ với tâm thiện. Nguyên tắc đạo đức là dùng sát-na trong việc thực hành những hạt giống thiện.
5. Samavāya (sự kết hợp): Đề cập đến sự hòa hợp trong các duyên (paccaya-sāmaggī) và có chủ đích là để chứng minh rằng tâm thức có sự kết hợp lẫn nhau trong hiện tại. Nói cách khác, nó chỉ ra rằng thời gian là phụ thuộc và liên hệ lẫn nhau (aññamaṇṇ‘upekkhā). Thời gian được chỉ cho thấy không có thực thể và không có sự hiện hữu của Đấng Tạo hóa.
Chúng ta nên biết rằng, mọi thứ đều vô thường vì chúng đều tồn tại trong thời gian hạn cuộc. Sự tồn tại giới hạn này được đề cập đến trong Phật giáo Nguyên thủy như là một sát-na (kṣaṇa). Hơn nữa, hầu hết các trường phái của đạo Phật đã sớm giải thích sự thay đổi của mọi thứ như là sự tiếp nối của những trạng thái nhất thời (kṣaṇika).Nguồn gốc của khái niệm này dĩ nhiên được tìm thấy chân lý mà nó đã được chấp nhận bởi một số trường phái Phật giáo và cũng được tìm thấy bên ngoài đạo Phật, chân lý này cho rằng hai điều kiện tâm lý không thể cùng tồn tại trong một ý niệm, bởi vì phạm vi của ý thức là duy nhất(3). Vì thế mà hầu hết những trường phái Phật giáo ở thời kỳ đầu, chẳng hạn như phái Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin), Hóa địa bộ (Mahīśāsaka), Kinh lượng bộ (Kāśyapiva), Độc tử bộ (Vāsīputria), Tây sơn trụ bộ (Pūrvaśaila) và Đông sơn trụ bộ (Apasaśaila) luôn cho rằng tất cả mọi thứ đều giả tạm. Khi tất cả mọi thứ hợp lại đều là vô thường, Đông sơn trụ bộ cho rằng, tất cả mọi thứ đều chỉ kéo dài trong một sát-na của ý niệm (ekacitakkahaṇika), bởi vì chúng đều vô thường. Có gì khác nhau giữa một thứ nhanh chóng bị phá hủy và một thứ khác tồn tại trong thời gian dài?(4) Trước khi đưa ra bất kỳ ý niệm nào về câu hỏi này, tôi đưa ra một định nghĩa về từ ‘sát-na’ của một vài trường phái Phật giáo thời kỳ đầu.
“Thời gian” trong Luận A-tỳ-đạt-ma Câu-xá (Abhidharmakośa)
Khoảng thời gian của sát-na là gì? Điều này đã đề cập đến trong đoạn trước rằng, sát-na là một chốc lát đơn lẻ của ý niệm (ekacitakkahaṇika). Nhưng ý niệm đơn lẻ này có thể được đo lường là bao lâu? Chúng ta có thể dùng một khoảng thời gian rất nhỏ là ‘giây’ để đo lường sát-na. Ông Louis de la Vallée Poussin, khi nghiên cứu kỹ lưỡng về vấn đề này, đã diễn tả rằng:
“Trong Phật giáo, cũng giống như trong tất cả thế giới, từ sát-na được hiểu như là một khoảng thời gian rất ngắn, nếu chúng ta so sánh với thời gian của ngày, đêm, hoặc giờ. Vì thế, để có được khoảng thời gian chính xác của một sát-na, chúng ta cần so sánh khoảng thời gian của nó với khoảng thời gian của một giây. Theo Thuyết nhất thiết hữu bộ thì 120 kṣaṇa (sát-na) = 1 tatkṣaṇa, 60 tatkṣaṇa = 1 lava, 30 lava = 1 muhūrta. Vì thế, 1 kṣaṇa = 0,013333 giây.(5)
Hơn nữa, sát-na(kṣaṇa) được trình bày trong Śārdūlakarṇa có hơi khác: 16 mimeṣas = 1 kāṣthā, 16 kāṣthās = 1 kalā, 64 kalās = 1 muhūrta. Trong Manu, 18 mimeṣa = 1 kāṣthā, 30 kāṣthās = 1 kala, 30 kalas = 1 muhūrta. Những sự đo lường này có một vài khác biệt trong một số trường phái như Puranas, Kautiliya và Bhasakara. Họ đưa ra: 100 truṭis = 1 tatpara, 30 tatparas = 1 nimeṣa, 18 nimeṣas = 1 kāṣthā. Theo Luận A-tỳ-đạt-ma Câu-xá, có 65 sát-na (kṣaṇa) trong khoảng thời gian một người lực sĩ khỏe mạnh khảy ngón tay.(6)
Sự đo lường của sát-na theo kinh Lượng bộ
Ngài Thế Thân đã đề cập đến trong Luận A-tỳ-đạt-ma Câu-xá rằng: Nếu các duyên hội đủ (pratyaya) thời gian cần thiết để một pháp (dharma) sinh khởi, hay nói đúng hơn, thời gian để cho một pháp (dharma) diễn tiến từ một nguyên tử này (paramāṇu) đến một nguyên tử khác (paramāṇu) (7), ngài Thế Thân đã đưa ra một định nghĩa khác về sát-na, đó là: “Sát-na, hay là chốc lát, là khoảng thời gian mà những đặc tính đạt được sự hoạt dụng của nó”(8).
Tuy nhiên, Thuyết nhất thiết hữu bộ xây dựng học thuyết của họ dựa trên một sự khảo xét khác, và sự khảo xét ấy được xem là gần với giáo lý của đạo Phật hơn. Họ cho rằng, cùng một người không thể nào trong cùng một lúc mà vừa hoàn thành một hành động (karma-nghiệp) vừa nhận kết quả mà hành động ấy đưa đến (vipākaphala), khi một hành động là một thứ thuộc về tương lai, và khi đương sự nhận lấy kết quả từ một hành động gây ra trong quá khứ. Vì thế, nếu những thứ thuộc quá khứ và tương lai không tồn tại, những hành động trong quá khứ cũng không hiện hữu, không thể tạo ra quả. Có lẽ phải thú nhận sự táo bạo của tư tưởng này, trong trường hợp này họ đã rất khéo léo. Bởi vì đạo Phật không chấp nhận tất cả những thực thể cá nhân, giống như “ātman” (ngã) ở trong Áo nghĩa thư (Upaniṣads) và “jīva” (linh hồn bất tử) của đạo Ni Kiền Tử, có thể hoạt động như là sự hỗ trợ cho cấu trúc của sự đáp trả về những hành vi đã tạo.(9)
Những trường phái khác không chấp nhận học thuyết về tính giả tạm của mọi sự vật, hiện tượng. Trong số đó, phái Thượng tọa bộ (Theravādin) chú ý đến sự thật rằng đại địa, đại dương, vua của tất cả những ngọn núi, nước, lửa, gió, cỏ, rừng núi, cây cối kéo dài lâu hơn một sát-na đơn lẻ của ý niệm.(10) Thật ra đây là một sự khảo xét khách quan của Thượng tọa bộ về khoảng cách của thời gian. Họ chỉ xem xét đến khía cạnh bên ngoài của sự vật mà không chú ý đến những thuộc tính bên trong sự vận hành của các sự vật.
Đối với kinh Lượng bộ (Sautrāntika) và Thí dụ bộ (Dārṣṭānika), học thuyết của họ mềm dẻo hơn, họ đã tiếp cận những điều khó khăn này một cách khéo léo. Về phía Thí dụ bộ thì khẳng định chắc chắn rằng, những nét đặc trưng của những phức hợp không phải là những thực thể (dravya) vì chúng được bao gồm ở trong những phức hợp bị tách rời ra của ý thức (cittaviprayuktasaṃs kāra), ví dụ như những khái niệm trừu tượng không có thực chất bên trong.(11) Hơn nữa, theo họ thì sát-na là sự trống rỗng của ba thuộc tính: sinh khởi, hủy hoại và chấm dứt, bởi vì nó sở hữu chúng, nó phải được sinh ra, bị hủy hoại và chấm dứt tất cả cùng một lúc, điều này rõ ràng là không thể được.(12)
Kinh lượng bộ (Sautrāntika) thì nhận ra đặc tính về khoảng thời gian (sthiti), nhưng cũng như Thượng tọa bộ, chỉ là sự cải biến về điều đó mà thôi (sthityanythātva).(1 3) Trong những học thuyết của họ có một lượng nhất định về thuyết tiến hóa, đối nghịch với tính cấp thời thuần túy của phái Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin). Xu hướng này lại được tìm thấy trong Thành duy thức luận (Vijñaptimātratāsidd hi), theo đó thì những đặc tính ấy có thể không chỉ là một sát-na mà còn là một duyên kéo dài nhất định.(14) Vì thế, dường như họ đã điều chỉnh quan điểm này từ sự kết hợp giữa ý tưởng của Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin), những người cho rằng những đặc tính là tương ứng với sát-na, và ý tưởng đối nghịch của Chánh lượng bộ (Sammatīya), cho rằng những đặc tính ấy tương ứng với một duyên kéo dài(15). Thật ra thì dường như Thí dụ bộ (Dārṣṭānika), trường phái đã đem lại giá trị thật cho sát-na, ví dụ như sự thật của khoảng thời gian, cũng là những người thuộc thuyết tiến hóa. Họ giữ quan điểm đối lập với Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin), rằng những sự vật sinh khởi dần dần chứ không phải cùng một lúc(16).
Tuy nhiên, những học thuyết của các trường phái ấy đều có chung một đặc điểm, đó là khó hiểu, nhưng lại có vẻ mâu thuẫn với học thuyết trước đây, khi nó cho rằng không có một sát-na chính xác của sự sinh khởi, cũng không có sát-na chính xác của sự chấm dứt; vì thế, trong trường hợp của những phức hợp, chỉ có hai lần mà ở đấy chúng chưa được sinh ra, và ở đấy chúng đã được sinh ra, hoặc là ở đấy chúng chưa chấm dứt, và ở đấy chúng đã được chấm dứt(17).
Chỉ có hai trường phái mà sự phán đoán của họ về bản chất của sát-na làm cho chúng tôi yên tâm, đấy là Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin) và Thí dụ bộ (Dārṣṭānika), vì họ giữ những quan điểm hoàn toàn đối lập nhau. Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin) thì thiếu thận trọng khi lấy chủ nghĩa sát-na triệt để làm một trong những nền tảng cho học thuyết của họ, điều này đã đưa đến việc giới thiệu quá nhiều yếu tố trong sát-na, sự nâng lên, sự dày lên, sự nặng lên của một nguyên tử của thời gian với tất cả những tiềm năng của nó, tính hiệu quả của khoảng thời gian. Như là một sự phản ứng đối với điều này, Thí dụ bộ (Dārṣṭānika) đưa ra vế trước của một phương trình (sát-na = 0), rồi bị kẹt cứng vào nó, không chịu nhìn thấy thứ gì khác ở trong sát-na, ngoại trừ sự vô dụng của nó, và điều này đã kéo họ trở lại với quan điểm tiến hóa, một quan điểm có tính chính thống hơn và phổ thông hơn.(18)
“Thời gian” được diễn tả như là: Quá khứ, hiện tại và tương lai
Một trong những triết gia Ấn Độ đã diễn tả khái niệm thời gian qua quá khứ, hiện tại và tương lai là Buddhadeva. Mặc dù vậy, chúng ta không thể tiếp cận với những công trình nghiên cứu của ông qua ngôn ngữ Sanskrit hoặc tiếng Hoa, hay những bản dịch tiếng Tây Tạng, mà chỉ có thể tham khảo trong Luận Tỳ bà sa (Vibhāṣā)(19). Đoạn văn sau được trích từ Luận Tỳ bà sa (Vibhāṣā) sẽ cho chúng ta thấy quan điểm thời gian của Buddhadeva:
“Một pháp (dharma) lưu chuyển trong ba thời gian, đó là quá khứ, hiện tại và tương lai, và nó phụ thuộc lẫn nhau từ những sát-na trước đến sát-na sau. Giống như cùng một người phụ nữ mà khi thì được gọi là “mẹ”, khi thì gọi là “con gái”. Do vậy, với sự liên hệ đến trước và sau, khi có thứ gì đó là trước so với một pháp (dharma) nhưng không có gì phía sau nó thì đấy là pháp (dharma) thuộc về tương lai, khi có cả trước và sau, thì đấy là pháp thuộc hiện tại, và khi có một thứ gì đó đằng sau nhưng không có ở trước thì pháp đó thuộc về quá khứ”.
Những quan điểm về thời gian của Buddhadeva ở đây được trình bày hơi khác so với trong A-tỳ-đạt-ma Đăng luận(Abhidharmadī pa) và trong Luận A-tỳ-đạt-ma Câu-xá (Abhidahrmakośa). A-tỳ-đạt-ma Đăng luận cho rằng, một pháp lưu chuyển trong ba thời gian, gọi là một pháp hoặc một pháp khác phụ thuộc vào trước hoặc sau. Pháp này không tùy thuộc vào sự thay đổi của duyên hoặc của bản chất cốt yếu. Cũng giống như một người phụ nữ được gọi là mẹ hay con gái là tùy thuộc vào trước và sau.(20) Trong lời luận bàn của Yośamitra về Luận A-tỳ-đạt-ma Câu-xá (Abhidahrmakośa) thì ghi rằng, thời gian được gọi tên bởi sự phụ thuộc lẫn nhau vào trước và sau. Điều này có nghĩa là thời gian được gọi là hiện tại, tương lai và quá khứ như là kết quả của sự phụ thuộc vào trước và sau. Nó được gọi là tương lai trong sự phụ thuộc vào sự thật rằng hiện tại và quá khứ ở trước nó. Nó được gọi là hiện tại vì phụ thuộc vào sự thật rằng quá khứ ở phía trước và tương lai ở phía sau. Và nó được gọi là quá khứ vì phụ thuộc vào sự thật rằng hiện tại hay tương lai đều đến sau(21).
Cuối cùng, theo Buddhadeva, quá khứ, tương lai và hiện tại là dựa vào các mối liên hệ (anyonya) với cả hai phía, cùng một thứ là quá khứ trong mối liên hệ với những gì đi theo sau nó, và tương lai trong mối liên hệ với những gì đã diễn ra trước nó. Như chúng ta có thể thấy, bản thân quá khứ, hiện tại và tương lai không được Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin) xem như là những vật, mà là những phương thức của sự tồn tại, là những trạng thái, những thuộc tính, vị thế, những mối liên hệ tương hỗ(22).
Xuyên suốt lịch sử triết học Ấn Độ, Buddhadeva được những người theo Thuyết nhất thiết hữu bộ trích dẫn chỉ để bác bỏ học thuyết thô thiển của Vasumitra(23).
“Thời gian” được diễn tả trong Trung luận của ngài Long Thọ
Trong Trung luận (Mādhy-amika), ngài Long Thọ (Nāgārjuna) không dùng các thuật ngữ quá khứ, hiện tại, tương lai để khảo xét về ba thời. Thay vì vậy, Ngài dùng 3 mối liên hệ thời gian, đó là ‘sớm hơn’, ‘muộn hơn’ và ‘cùng lúc với’. Quả thực Ngài cố gắng diễn tả rằng, sản phẩm của những thứ cụ thể là không thể có, bởi vì nó không thể xuất hiện trong bất cứ phút chốc nào cả và tại vì mối liên hệ thời gian giữa những sự kiện không thể nào thiết lập được. Trong chương 11 của Trung luận (Mādhyamika), ngài Long Thọ (Nāgārjuna) phát biểu:
“Tất cả các pháp đều là không. Tại sao? Tại vì chúng không sớm hơn, không muộn hơn, cũng không phải cùng lúc như một hiệu ứng. Khi nó được gọi là ‘sớm hơn’, ‘muộn hơn’ và ‘cùng lúc với’, những sự kiện như thế là không thể có. Làm sao các sự kiện có thể được tạo ra bởi các nguyên nhân? Cho rằng một nguyên nhân có trước một kết quả là không đúng. Tại sao? Nếu một nguyên nhân tồn tại sớm hơn và từ đó mà một kết quả được tạo ra muộn hơn, ở đó ngay từ đầu đã không có kết quả thì cái gì là nguyên nhân của nó? Nếu một kết quả có trước một nguyên nhân, thế thì kết quả vốn đã được thiết lập ngay khi không có nguyên nhân, vậy thì tại sao nó cần đến một nguyên nhân? Nếu một nguyên nhân và một kết quả tồn tại cùng lúc, ở đó sẽ không có sản phẩm thuộc về nhân quả. Ví dụ, những cái sừng của con bò được mọc ra cùng lúc; sừng bên trái và sừng bên phải không phải là nguyên nhân của nhau. Cho nên cái gọi là nguyên nhân không thể là kết quả của nguyên nhân, bởi vì chúng được tạo ra cùng một lúc. Vì thế, ba mối quan hệ thời gian giữa nguyên nhân và kết quả là không có thể đạt được”(24).
Rõ ràng là sản phẩm thuộc về nhân quả phải được thể hiện trong những mối liên hệ thời gian nhất định: một nguyên nhân sẽ là sớm hơn, muộn hơn, hoặc là cùng lúc với một kết quả. Nhưng ngài Long Thọ muốn chỉ ra rằng, thuộc tính trước, sau và cùng lúc của những khoảnh khắc thời gian đều là không, cho nên chức năng của sản phẩm nhân quả không thể được thiết lập. Bởi vì nhân quả là không, tất cả mọi pháp đều không. Bởi vì tất cả mọi thứ đều là những nguyên nhân và kết quả. Ngài Long Thọ nhắm đến việc chứng minh rằng tất cả mọi pháp đều không. Bởi vì tất cả đều bị thiếu những bản chất của chính nó, chúng phụ thuộc lẫn nhau. Đây chính là học thuyết Duyên Khởi (pratītyasamutpāda) được trình bày trong Trung luận (Mādhyamika) của ngài Long Thọ.
“Thời gian” được diễn tả trong “Vua Milinda vấn đạo”
Vua Milinda vấn đạo (Milinda-pañha) cho chúng ta thấy có sự tiến bộ rõ rệt về mối quan tâm đến vấn đề thời gian. Vua Milinda hỏi Tỳ kheo Na Tiên khá chi tiết về vấn đề này, và được trả lời rằng, có thời gian thuộc về quá khứ, hiện tại và tương lai. Khi nghiên cứu về khái niệm thời gian trong Vua Milinda vấn đạo, ông A.B. Keith phát biểu:
“Điều này được giải thích trong ý nghĩa có những sự sắp đặt (saṃkhāra), là quá khứ trong ý nghĩa đang bị chấm dứt sự tồn tại hoặc là đang bị tan rã, hoặc là hoàn toàn đã thay đổi; đối với chúng thời gian là không. Nhưng cũng có những duyên mà bây giờ đang tạo ra kết quả; hoặc ngược lại, những duyên ấy sẽ dẫn đến sự tái lập cá thể, đối với những duyên ấy thì thời gian là có. Đối với những người chết đi rồi sau đó tái sanh thì có thời gian, còn đối với những người chết đi mà không còn tái sanh nữa thì không có thời gian; và với những người hoàn toàn được giải thoát nhờ đạt đến Niết-bàn (Nirvaṇa) và chỉ có thân thể của họ bị chết đi thì ở đó thời gian tuyệt nhiên không có”(25).
Hơn nữa, rõ ràng là không có khả năng tìm ra điểm khởi đầu của thời gian, hoặc là điểm tột cùng trong quá khứ; điều này được làm rõ thông qua phép loại suy về hạt giống, trái cây, hạt giống; quả trứng, con gà mái, quả trứng; và cái vòng của mắt, màu sắc, sự nhìn, sự tiếp xúc, cảm giác, sự mong muốn, hành động và những kết quả của hành động, và một con mắt trong sự sinh ra ở tương lai. Cuối cùng, Tỳ kheo Na Tiên nhấn mạnh khi phản đối ý kiến của vua cho rằng, có thể có sự gián đoạn giữa hiện tại và quá khứ, và tương lai thì tiếp diễn không ngừng. Điều đó không thể có được, quá khứ đã chuyển tiếp đến hiện tại và hiện tại chuyển tiếp đến tương lai(26).
A.B. Keith tin rằng, những ý tưởng trong Vua Milinda vấn đạo xuất hiện dưới một hình thức khác ở trong luận A-tỳ-đạt-ma Câu-xá (Abhidharmakośa). Những người theo Nhất thiết hữu bộ vẫn vững tin với việc duy trì sự tồn tại của mọi thứ trong quá khứ, hiện tại và tương lai, trong khi những người theo Phân biệt thuyết bộ (Vibhajyavādins) thì phân biệt phương thức bình thường của chúng giữa:
1. Những yếu tố hiện tại và những gì trong quá khứ chưa tạo ra quả, những thứ đó là hiện hữu;
và 2. Những yếu tố tương lai và những thứ trong quá khứ đã tạo ra quả, những thứ đó là không hiện hữu.(27)
“Thời gian” được diễn tả trong kinh điển Đại thừa
Thời gian được diễn tả trong kinh điển Đại thừa (Mahāyana) có thể xem xét từ quan điểm về ba thời: quá khứ, hiện tại và tương lai đối với những kiếp của thời gian trong một hệ thế giới. Quan điểm này được xem là đặc biệt trong Tam tạng kinh điển bằng chữ Hán. Lewis R. Lancaster cho rằng, trong những kinh điển Đại thừa ở thời kỳ đầu, khi bàn về thời gian (adhvan) người ta không đề cập đến khái niệm này ở dạng số ít mà chỉ ở dạng số nhiều (ba thời: quá khứ, hiện tại và tương lai):
“Vấn đề ba thời đã khiến nhiều học giả Phật giáo bế tắc một thời gian dài trước khi có sự thăng tiến trong kinh điển Đại thừa và những trường phái Đại thừa, như những người theo thuyết Thí dụ bộ (Dārṣṭānika) đã phát biểu: “Ba thời hiện hữu và thường còn trong khi những thực thể do duyên sinh và biến chuyển qua ba thời thì vô thường”.
Họ đã diễn tả quan điểm của họ bằng cách đưa ra phép loại suy về ba căn nhà liền kề nhau. Từ căn nhà thứ nhất một người xuất hiện và đi qua căn nhà thứ hai, có nghĩa là người đó đã từ bỏ tương lai và đi vào hiện tại, rồi người đó đi từ căn nhà thứ hai sang căn nhà thứ ba, có nghĩa là anh ta đã đi từ hiện tại đến quá khứ. Người ấy là vô thường và là nhân tố chuyển đổi, trong khi ba căn nhà thời gian thì cố định và luôn sẵn sàng đón nhận dòng chảy liên tục của những thứ vô thường(28).
Rõ ràng thời gian được trình bày trong kinh điển Đại thừa khó hiểu hơn trong Phật giáo Nguyên thủy. Kinh điển Đại thừa chỉ đơn thuần phát biểu về những gì đã được hiểu và được Đức Phật thừa nhận(29), mà không trình bày như một vấn đề để được xác chứng hay là bác bỏ những khái niệm về thời gian trong Phật giáo Nguyên thủy, chỉ là lời phát biểu về thời gian là gì. Đức Phật, một đấng Giác ngộ, Ngài biết tất cả mọi vấn đề, với năng lực siêu nhiên đã được phát triển thông qua thiền định (samādhi), đối với vấn đề này Ngài có thể nhìn xuyên suốt và hiểu rõ bản chất cũng như cốt tủy của ba thời(30).
Khi khái niệm ba thời được nhìn theo cách đặc biệt này, chúng được xem như là bình đẳng, không phân biệt, không chia cắt. Những thời gian ấy không đối chọi với nhau, bởi vì ở đó không có thứ gì trong hiện tại là khác hay tách biệt với tương lai. Đây là trường hợp mà trong các kinh thường diễn tả, đối với những người thiếu sự hiểu biết, ba sự phân chia về thời gian, ba dấu hiệu đặc trưng của thời gian đều bị giới hạn trong trần thế này; nhưng ở một mức độ cao hơn, mức độ siêu việt, những dấu hiệu ấy tỏ ra là một sự ảo tưởng. Vì thế, Đức Phật dạy rằng, ba thời chỉ sở hữu một dấu hiệu, dấu hiệu của sự thiếu các đặc tính để phân biệt.(31)
Trong Đại trí độ luận, luận về Bát-nhã Ba-la-mật-đa (prajñā-pāramitā) do Ngài Cưu Ma La Thập biên soạn, phát biểu rằng, những ai không có Chánh biến tri sẽ gặp chướng ngại khi họ cố gắng có được sự nhận thức về ba thời.(32) Nó vượt ra ngoài khả năng của người bình thường. Hơn nữa, trong kinh Hoa Nghiêm (Avataṃsaka-sūtra) chỉ ra rằng, vũ trụ của chúng ta là một trong số hàng ngàn vũ trụ của các hệ thế giới. Tất cả những thế giới này không có chung một cấp độ, cho nên thế giới mà chúng ta đang sống được bao trùm bên trong một cảnh giới khác, nếu nó mở rộng ra thì vượt ra ngoài những gì chúng ta có thể hiểu được. Kinh Hoa Nghiêm diễn tả:
“Nếu chúng ta thêm vào tất cả những ngày và đêm của những hệ thế giới cho đến tổng số là một kiếp (kalpa), vô số năm này bằng một ngày một đêm ở thế giới Cực lạc của Phật A Di Đà. Và nếu người nào sống ở cảnh giới của Phật A Di Đà (Amitābha) một kiếp thì bằng một ngày một đêm ở cõi Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasaṃhata), và một kiếp (kalpa) ở cõi Kim Cang Tát Đỏa thì bằng một ngày một đêm ở cõi Pháp Tướng (Dharmaketu), và cứ như vậy cho đến hàng trăm, hàng triệu cảnh giới chư Phật”(33).
Và thế là các kinh lại một lần nữa đưa chúng ta trở về với sự trống rỗng của thời gian, cũng như là sự khó hiểu của nó, sự vắng mặt những dấu hiệu nhận dạng. Kinh Hoa Nghiêm còn chỉ ra rằng, khi Đức Phật nhập vào chánh định (samādhi) thì Ngài thấy tất cả ba thời đều bằng nhau và như nhau(34).
Ở đây, thời gian được hiểu như là toàn bộ sự kéo dài của thực tại. Nó không phải là một khoảng thời gian ngắn như là sát-na (kṣaṇa) đã được diễn tả trong Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda) và trong Luận A-tỳ-đạt-ma Câu-xá. Vì thế, khái niệm thời gian ở trong kinh điển Đại thừa có thể được định hình chỉ khi sự thay đổi trong thực tế hay là sự tiếp nối của những sự kiện được diễn ra trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Nếu vắng mặt sự thay đổi trong ý nghĩa về tính tạm thời thì ở đó sẽ không có khái niệm thời gian. Thời gian trong ý nghĩa này là một khái niệm phát sinh. Ở cấp độ thực tại tuyệt đối (tathatā), không có sự thay đổi nào được thừa nhận, dù là trong Đại trí độ luận, luận về Bát-nhã Ba-la-mật-đa của ngài Cưu Ma La Thập (Kumārajīva) hay là trong Cứu cánh nhất thừa luận (Uttaratantra) của ngài Di Lặc (Maitreya). Do vậy, nếu thời gian thiếu những dấu hiệu nhận dạng, làm sao chúng ta có thể nói có thời gian? Khi Lancaster nói rằng: “Nó là thực tại toàn thể, là vũ trụ đích thực”, ông ấy xem thời gian như là toàn bộ sự kéo dài của thực tại(35).
Sát-na liên quan đến ý nghĩa của cuộc sống
Thông qua những nghiên cứu về một vài nguồn tư liệu chính yếu bàn về khái niệm thời gian trong Phật giáo, chúng ta có thể có được sự hiểu biết căn bản về khái niệm sát-na (kṣaṇa). Trong Phật giáo Nguyên thủy, sát-na được diễn tả như là ‘duyên’ và ‘thời gian’ hay là ‘tính nhất thời (khaṇa)’. Như thế, khái niệm về thời gian trong Phật giáo Nguyên thủy chỉ ra rằng, mạng sống rất là ngắn ngủi. Vì vậy, hành giả phải luôn ý thức về mỗi sát-na để thực hành những hạnh lành. Hành giả cần phải dành nhiều thời gian cho việc thực tập giáo pháp để có được lợi ích cho tự thân và tha nhân. Hơn nữa, mặc dù sát-na (kṣaṇa) chỉ kéo dài trong phút chốc (ekacitakkhaṇitka), nhưng những thiện nghiệp mà chúng ta đã tạo sẽ đem đến những quả lành trong tương lai gần, nếu chúng ta thực hành giáo pháp (dhamma) liên tục từ sát-na này đến sát-na khác.
Theo như trong Luận A-tỳ-đạt-ma Câu-xá (Abhidharmakośa) thì một sát-na là bằng 0,01333 giây, còn trong Luận A-tỳ-đàm (Abhidhārmika) thì khoảng thời gian mà một lực sĩ khảy ngón tay là bằng 65 sát-na (kṣaṇa). Đây là khoảng thời gian tối thiểu cần thiết đối với những đặc điểm của sát-na để có thể đạt đến những hoạt dụng của nó. Nếu không có khoảng thời gian tối thiểu cần thiết này thì các pháp (dharmas) không bao giờ được hình thành. Từ những quan điểm của Buddhadeva, thời gian được diễn tả thông qua quá khứ, hiện tại và tương lai đối với một pháp, tạo thành một vòng tròn.
Đến ngài Long Thọ (Nāgājuna) thì thời gian được xem như là một pháp (dharma). Bởi vì tất cả các pháp, chúng phụ thuộc lẫn nhau, đều không có tự tánh, chúng là không, cho nên thời gian cũng là không. Chính vì lẽ này, chúng ta không thể tìm thấy điểm khởi đầu hay là điểm kết thúc của nó. Hơn nữa, trong kinh điển Đại thừa, chúng ta không thể nào nhận ra được thời gian vì nó vượt lên trên khả năng nhận biết thuộc ý thức của chúng ta. Do nó thiếu những đặc tính để phân biệt nên chúng ta không thể nào thông suốt và thấu hiểu về ba thời, chỉ có Đức Phật, đấng Chánh biến tri, người có được năng lực siêu phàm thông qua thiền định (samādhi) mới thấu hiểu được.
Cuối cùng, từ chính những kinh nghiệm cá nhân của chúng tôi và sự hiểu biết thông qua việc tìm hiểu về khái niệm thời gian trong kinh điển Phật giáo, chúng tôi hiểu ra rằng, sát-na (kṣaṇa) là một khoảng thời gian rất ngắn, thậm chí ngắn hơn cả khoảng thời gian mà một ý niệm sinh khởi. Tuy nhiên, nó là khoảng thời gian cần thiết để cho các pháp vận hành. Rõ ràng là dù cho mạng sống của chúng ta thọ hay yểu thì đều được cấu thành bởi những sát-na đơn lẻ. Bởi vì chỉ có sát-na hiện tại là có thực, cho nên chúng ta không nên lo lắng về quá khứ hay tương lai, hãy sống trọn vẹn với giây phút hiện tại với tâm chánh niệm. Làm được như thế thì trong tương lai, nhiều điều tuyệt vời, đầy hứa hẹn sẽ đến với chúng ta
Thích Hạnh Tuấn
Quảng Trí dịch
(Nguyên tác Anh ngữ: “From studying the concept of time in Buddhism toward understanding the meaning of life” )
Do thắc mắc rằng nếu chỉ dạy “làm lành, lánh dữ” thì các tôn giáo khác, ngay trong thời thái tử Tất Đạt Đa chưa ra đời, họ cũng đã dạy, đức Phật thiết lập thêm một tôn giáo nữa làm chi, chẳng lẽ để cạnh tranh với các tôn giáo đương thời?
Còn như nếu chỉ dạy sống vui, sống khỏe, thì những thầy giáo làng ở chốn quê mùa hẻo lánh cũng đã dạy hàng ngàn năm trước rồi. Cao hơn nữa thì có những môn triết học, tâm lý, không cần phải chờ tới khi có một bậc Đại Giác ra đời, thiết lập hẳn một tôn giáo để dạy.
Trả lời những câu hỏi này, xin thưa rằng:
- Duyên khởi sự xuất hiện của đạo Phật bắt nguồn từ sự bừng tỉnh, Chứng Ngộ Thực Tại của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Vài trong số những Phật ngôn đầu tiên sau khi Ngài vừa mới bừng tỉnh là:
“Xuyên qua nhiều kiếp sống trong vòng luân hồi, Như Lai thênh thang đi, đi mãi.
Như Lai mãi đi tìm mà không gặp, Như Lai đi tìm người thợ cất cái nhà này.
Lặp đi lặp lại đời sống quả thật là phiền muộn.
Này hỡi người thợ làm nhà,
Như Lai đã tìm được ngươi.
Từ đây ngươi không còn cất nhà cho Như Lai nữa.
Tất cả sườn nhà đều gãy,
Cây đòn dong của ngươi dựng lên cũng bị phá tan.
Như Lai đã chứng nghiệm Quả Vô Sanh Bất Diệt và Như Lai đã tận diệt mọi Ái Dục”.
và:
“… Tri kiến và nhãn quan đã phát sanh đến ta. Tâm siêu thoát của ta không thể lay chuyển. Ðây là kiếp sống cuối cùng của ta. Từ đây ta sẽ không còn trở thành, không còn tái sanh.” — (kinh Trung A-Hàm).
Từ sự Chứng Ngộ, đức Phật phát hiện được một thực tế là “Tất cả chúng sinh đều có Giác Tánh như Ngài, và có thể thanh lọc ô nhiễm để chuyển hóa thành Phật như Ngài”.
Do phát hiện đó, khởi tâm Đại Bi, Ngài dùng suốt quãng thời gian còn lại của đời sống trên thế gian trên bốn chục năm, tận tụy đi rao giảng những kinh nghiệm hành trì và tu chứng của Ngài để mọi chúng sinh đều có thể Giác Ngộ Giải Thoát như Ngài. Những lời dạy đó tích lũy thành tạng Kinh, là phần Giáo Pháp. Và như thế, đạo Phật xuất hiện trên đời.
Tuy nhiên, đức Phật đã dạy trong kinh Trung A Hàm::
“Giáo Pháp mà Như Lai đã chứng ngộ quả thật thâm diệu, khó nhận thức, khó lãnh hội, vắng lặng, cao siêu, không nằm trong phạm vi luận lý, tế nhị, chỉ có bậc thiện trí mới thấu hiểu.”
Thật vậy, Giáo Pháp của Ngài quả là sâu sắc, uyên áo, khó hiểu, khiến cho các vị Luận Sư phải dùng tới hàng nhiều ngàn trang giấy để viết lên những bộ Luận Giải, mong giúp người đọc dễ nhập môn. Vì thế, có người tưởng đạo Phật là một mớ triết lý, cứ việc đem ra cùng nhau bàn thảo, giống như những vấn đề triết học, vốn không đòi hỏi sự tu hành, là đã uống xong ly nước Cam Lồ của đạo Phật.
Hiểu như thế là sai lầm, là làm phí uổng bản hoài của đức Phật mong cứu chúng sinh, trôi qua mất một kiếp ở trong nhà Phật.
Giáo lý nhà Phật không phải là một mớ lý thuyết suông, mà là tổng kết quá trình hành trì dẫn tới Chứng Ngộ của đức Phật. Từ kinh nghiệm Chứng Ngộ này, đức Phật dạy lại cho chúng sinh, để tất cả đều có cơ hội Chứng Ngộ như Ngài.
Hòa thượng Narada Maha Thera đã viết về công phu hành trì và tu chứng của đức Phật trong cuốn “The Buddha and His Teachings”, cư sĩ Phạm Kim Khánh dịch ra tiếng Việt như sau:
“Sau cuộc chiến đấu kỳ diệu phi thường kéo dài sáu năm đằng đẵng, không có sự hỗ trợ từ bên ngoài và không được sự hướng dẫn của một năng lực siêu phàm nào, đơn độc một mình và chỉ nương nhờ nơi nỗ lực của chính mình, đạo sĩ Gotama, lúc ấy ba mươi lăm tuổi, tận diệt mọi ô nhiễm, chấm dứt mọi tiến trình tham ái và Chứng Ngộ Thực Tướng của vạn pháp, đã trở thành một vị Phật (Buddha), Đấng Chánh Biến Tri, bậc Toàn Giác.
Không phải khi sanh ra Ngài đã là Phật, mà Ngài trở thành Phật do sự nỗ lực của mình. Phạn ngữ Buddha xuất nguyên từ căn “Budh”, là Hiểu Biết hay Thức Tỉnh. Gọi là Buddha vì Ngài hiểu biết đầy đủ Bốn Chân Lý Thâm Diệu Cao Quý (là Tứ Diệu Đế), và từ giấc mơ vô minh Ngài đã thức tỉnh.
Đức Phật cũng không bao giờ tự nhận là có quyền năng cứu vớt kẻ khác bằng sự cứu rỗi của mình. Ngài thiết tha kêu gọi những ai hoan hỷ bước theo dấu chân Ngài không nên ỷ lại nơi người khác mà phải tự mình giải thoát lấy mình, bởi vì cả hai, trong sạch và bợn nhơ, cũng đều tùy thuộc nơi chính mình. Ta không thể trực tiếp làm cho ai trong sạch hay ô nhiễm.
Để minh định rõ ràng mối tương quan của Ngài đối với hàng môn đệ và để nhấn mạnh tầm quan trọng của sự kiện tự mình nhận lãnh trọn vẹn trách nhiệm và tự mình nỗ lực kiên trì, Đức Phật minh bạch dạy rằng:
- “Các con phải tự mình nỗ lực. Các đấng Như Lai chỉ là đạo sư.”
Đức Phật chỉ vạch cho ta con đường và phương pháp mà ta có thể nương theo đó để tự giải thoát ra khỏi mọi khổ đau của vòng sanh tử và thành tựu mục tiêu cứu cánh. Đi trên con đường và theo đúng phương pháp hay không, là phần của người đệ tử chân thành muốn thoát khỏi những bất hạnh của đời sống.
- “Ỷ lại nơi kẻ khác để giải thoát cho mình là tiêu cực. Nhưng đảm đang lãnh lấy trách nhiệm, chỉ tùy thuộc nơi mình để tự giải thoát, quả thật là tích cực.”
Tùy thuộc nơi người khác là đem tất cả cố gắng của chúng ta ra quy hàng.
- “Hãy tự xem con là hải đảo của con. Hãy tự xem con là nương tựa của con. Không nên tìm nương tựa nơi ai khác!”
Phật giáo không đòi hỏi nơi tín đồ một đức tin mù quáng. Do đó một niềm tin tưởng suông không thể có chỗ đứng. Thay vào đó là lòng tín nhiệm căn cứ trên sự hiểu biết.
Niềm tin mà người Phật tử đặt nơi Đức Phật cũng giống như niềm tin mà bệnh nhân đặt nơi một lương y trứ danh hay của trò đặt nơi thầy. Mặc dầu tìm nương tựa nơi Đức Phật và tôn trọng Ngài là vị hướng đạo vô thượng, là thầy dắt dẫn trên Con Đường Trong Sạch, người Phật Tử không quy phục mù quáng như kẻ nô lệ, không tin rằng chỉ quy y Tam Bảo hay chỉ có đức tin suông nơi Tam Bảo mà mình có thể trở nên trong sạch.
Không ai, dầu là Đức Phật đi nữa, có đủ quyền lực để gội rửa bợn nhơ của người khác. Nói một cách chính xác, không ai có thể rửa sạch, cũng không ai có thể làm hoen ố người khác.
Đức Phật là vị Tôn Sư có thể giúp đỡ bằng cách vạch ra con đường, nhưng chính ta phải lãnh lấy nhiệm vụ gội rửa thân tâm của chúng ta.
Trong kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy:
– “Chỉ có ta làm điều tội lỗi, chỉ có ta làm cho ta ô nhiễm.
Chỉ có ta tránh điều tội lỗi, chỉ có ta gội rửa cho ta.
Trong sạch hay ô nhiễm là tự nơi ta.
Không ai có thể làm cho người khác trở nên trong sạch”. (Câu 145)
Người Phật tử không làm nô lệ cho một quyển sách hay một cá nhân, cũng không hy sinh tự do tư tưởng của mình khi bước theo dấu chân của Đức Phật. Người Phật tử hoàn toàn tự do thực hiện ý chí, mở mang kiến thức và phát triển trí tuệ cho đến ngày chính mình đắc Quả vị Phật, bởi vì khả năng trở thành Phật nằm bên trong tất cả mọi chúng sanh.
Đức Phật dạy:
– “Người nào thấy Giáo Pháp (Dhamma) là thấy Như Lai”.
Một đặc điểm khác nên được ghi nhận trong nghi lễ tụng niệm Phật Giáo, đó là, câu kinh không phải là lời thỉnh nguyện, cũng không phải là lời cầu xin chuyển đạt một nguyện vọng. Dầu ta có bỏ hết thì giờ để cầu xin cũng không được gì.
Đức Phật không khi nào và không thể nào ban bố những ân huệ cho người cầu nguyện. Để được cứu rỗi, người Phật tử không nên cầu nguyện mà phải nhận lãnh trách nhiệm, cố gắng trau giồi đức hạnh, kiên trì tu tập để tự thanh lọc và thành tựu giải thoát. Không nên lệ thuộc người khác mà phải nương nhờ nơi mình, tự mình cố gắng.
Đức Phật dạy:
– “Các con phải cố gắng, các đấng Như Lai chỉ là những vị thầy”
Chẳng những cầu nguyện, van xin, là vô ích mà đó còn là thái độ nô lệ tinh thần. Thay vì đọc kinh cầu nguyện, Đức Phật khuyên nên cố gắng hành thiền để ghép mình vào kỷ luật, tự kiểm soát, tự thanh lọc tâm, và giác ngộ. Thiền tập là liều thuốc bổ cho cả tâm lẫn trí.
Trong Phật Giáo không có Thần Linh vạn năng, bắt buộc tín đồ phải sợ hãi cúi đầu vâng lệnh. Phật Giáo phủ nhận sự hiện hữu của một oai lực siêu thế, quan niệm như một thực thể toàn năng, hay có năng lực vô cùng tận. Không có tánh cách thần khải, không có người truyền đạt tin tức và những lời sấm của một Thần Linh từ đâu trên cao ban xuống đến cho con người. Do đó người Phật tử không quỵ lụy phục tùng một oai lực siêu nhiên cầm quyền thưởng phạt và kiểm soát định mạng.
Bởi vì không tin nơi thiên khải Thần Linh, Phật giáo không đòi hỏi độc quyền nắm chân lý và không bài xích bất cứ tôn giáo nào khác. “Tánh thiên chấp là kẻ thù tệ hại nhất của tôn giáo”.
Với đức tánh rộng lượng khoan dung của Ngài, Đức Phật hằng khuyên hàng môn đệ không nên giận dữ, bất mãn, hay không vui lòng, nếu có ai nói xấu Ngài, Giáo Pháp của Ngài, hay Giáo Hội mà Ngài sáng lập. Đức Phật dạy:
– “Nếu các con giận dữ, bất mãn, hay không vui lòng, chẳng những các con tự đặt mình vào chỗ hiểm nguy có thể mất cả nền tảng đạo đức tinh thần, mà các con còn không thể xét đoán đúng mức lời chỉ trích có giá trị hay không”.
Các lời lẽ có rất nhiều ý nghĩa kia mà Đức Phật đã dạy trong những ngày sau cùng của Ngài quả thật mạnh mẽ, nổi bật và cảm kích. Điều này chứng tỏ rằng cố gắng cá nhân là yếu tố tối cần để thành tựu mục tiêu. Tìm sự cứu rỗi nơi những nhân vật hảo tâm có quyền năng cứu thế và khát khao ham muốn hạnh phúc ảo huyền xuyên qua những lời van vái nguyện cầu vô hiệu quả và nghi thức cúng tế vô nghĩa lý, quả thật là vô ích.
Đức Phật là một người như chúng ta. Ngài sanh ra là một người, sống như một người, và từ giã cõi đời như một người.
Trong thời Ngài còn tại thế, Đức Phật chắc chắn được hàng tín đồ hết lòng tôn kính, nhưng không bao giờ Ngài tự xưng là Thần Linh.”....
Hòa thượng Walpola Rahula cũng viết trong cuốn “What the Buddha Taught”, ni sư Trí Hải dịch như sau:
…“… Theo giáo lý của đức Phật, quan niệm bản ngã là một tín ngưỡng ảo tưởng sai lầm không đi đôi với thực tế và tạo ra tư tưởng có hại, cho là “ta” hay “của ta” như tham đắm, ích kỷ, dục vọng, luyến ái, thù hận, ác ý, tự kiêu, ngạo mạn, vị kỷ và các tật đố hoen ố khác, nhơ bẩn và rắc rối. Ðó là nguồn gốc của các phiền não trên thế giới từ những mâu thuẫn cá nhân đến chiến tranh giữa các nước. Tóm lại, vì quan điểm sai lầm nầy mà tất cả những tội lỗi trên thế giới đã xảy ra. “
và :
…”…Sự khác biệt của tử và sanh chỉ là giây phút cuối cùng của tư tưởng: lúc tư tưởng cuối cùng của đời sống này tạo thành điều kiện cho tư tưởng đầu tiên trong cái gọi là đời sống kế tiếp, mà nói cho đúng ra, chỉ là sự tiếp nối một loạt như vậy. Trong chính đời sống của nó, cũng vậy, giây phút tối hậu của tư tưởng tạo điều kiện cho tư tưởng kế tiếp. Cho nên từ quan điểm của người Phật tử, câu hỏi về đời sống sau khi chết không phải là một huyền bí to lớn, và người Phật tử không bao giờ lo lắng về vấn đề này”.
Tóm lại, đạo Phật ra đời là do tâm Đại Bi của đức Phật, người đã bừng tỉnh khỏi cơn mê, đã Chứng Ngộ Thực Tại, đã biết được con đường ra khỏi mê vọng để trở thành bậc Toàn Giác, nên đã giơ cao ngọn đuốc Ánh Đạo Vàng cho chúng sinh noi theo mà cũng ra khỏi được cơn mê từ vô thủy, được giác ngộ giải thoát.
Sự giải thoát này hoàn toàn do sức mình, tự tu tự độ, không hề có sự cầu xin nào trong quan điểm của nhà Phật vào thời đó.
Khoảng năm trăm năm sau khi đức Phật nhập diệt, do một số bất đồng tư tưởng, và do nhu cầu phát triển, bộ phái Đại Thừa xuất hiện. Bộ phái này truyền bá qua các nước Tây Tạng, Trung Hoa, Triều Tiên, Việt Nam, là những dân tộc vốn đã có nền văn hóa thờ rất nhiều thần linh, nào là Sơn thần, Thủy thần, Thổ thần, thần sông Hà Bá, thần cây cổ thụ, thần gốc đa, ông bà Táo Quân, thần rắn, thần ba ba thuồng luồng, thần ông bình vôi, vân vân…
Vì nhà Phật đi tới đâu cũng dùng tinh thần hòa hoãn, uyển chuyển, tùy thuận chúng sinh, nên cũng tạm thời hòa nhập với dân địa phương mà cùng với họ tham dự những lễ lạc mà họ đã có từ lâu đời, rồi theo thời gian sẽ dùng giáo pháp để chuyển hóa họ một cách nhẹ nhàng. Có sinh hoạt chung với người dân địa phương thì các Sư Phật giáo mới có cơ hội soi rọi Ánh Đạo Vàng của nhà Phật cho họ.
Nơi nào mà có các bậc đạo sư chân chính thì càng ngày người dân càng tỉnh ngộ, những chuyện cúng sao giải hạn hoặc mê tín quàng xiên từ từ giảm bớt. Thức tỉnh được dân hay không là tùy theo sự sáng suốt, tinh thần tích cực và đức độ tu hành chân chính của vị Sư Phật giáo trong những ngôi chùa địa phương mà thôi.
Có một vài câu hỏi cũng thường được nêu ra trong những lúc thảo luận về đời sống tu trì của các tu sĩ Phật giáo, rằng:
– Tại sao có Sư ăn chay, có Sư ăn thịt cá?
Xin thưa rằng, vào thời Phật tại thế, tất cả các Sư đều chỉ đi khất thực, (tức là đến từng nhà dân chúng để nhận cơm của thí chủ cúng dường, gọi là trì bình), để ăn một bữa cơm vào lúc giữa trưa, gọi là Ngọ Trai. Thí chủ cúng gì thì các Sư ăn nấy, tuyệt đối không chọn lựa. Trong khi ăn không để tâm chạy theo sự ham thích hay chán ngán, không thưởng thức món ăn ngon hoặc dở, chỉ coi sự ăn uống là để đáp ứng nhu cầu cần thiết vừa đủ của cơ thể, ngõ hầu đủ sống mà tu hành cho tới đạt được quả vị Giác Ngộ. Như thế thực phẩm gồm những món gì, các Sư không quan tâm, trong bát có gì thì ăn nấy, không chọn lựa, và ăn luôn cả thịt cá, nếu trong bát có. Khi ăn giữ tâm tĩnh lặng, không biết tới mùi vị của món ăn là đúng pháp rồi. Nếp sống ấy vẫn còn được các nước tu theo Nam Tông duy trì.
Việt Nam chúng ta gồm có cả các chùa Bắc Tông (tức là Đại Thừa) và Nam Tông. Chùa Đại Thừa có bếp, các Sư đều tự nấu và ăn chay trường.
Trong tuần qua, nhân bà bạn của mẹ tôi tạ thế, tôi gặp một vấn đề khiến cứ phải suy nghĩ mãi. Vì vậy tôi viết thư này nhờ quý vị tìm cho một giải pháp thỏa đáng. Câu chuyện như sau:
Bác này khi còn ở Việt Nam, nhà bác ngay cạnh nhà tôi. Bác có hai con thì người con trai là bạn anh tôi, con gái bác là bạn tôi, nên hai gia đình thân nhau lắm. Nghe tin bác mất, tôi đưa ngay mẹ tôi tới nhà bác, trước là an ủi các con bác, sau là phụ giúp những việc linh tinh trong tang lễ, coi như việc nhà.
Vì ở ngay tại Orange County, nơi được coi là thủ đô tỵ nạn, nên cũng như tất cả những tang lễ khác, mọi việc đã có nhà quàn lo chu tất, tang gia chỉ có việc đăng cáo phó, sắm sửa hương nến để bầy trên bàn thờ, vân vân. Tưởng chuyện đơn giản, nhưng mà không phải vậy, riêng cái vụ cáo phó, đã có chuyện phiền rồi.
Gia đình bạn tôi khi xưa vốn nghèo, nhưng nhờ học giỏi, nên anh của bạn tôi được một gia đình vọng tộc gả con gái. Đến chỗ ghi tên thông gia, vợ anh đòi phải in tên mẹ chị ấy là bà quả phụ Thiếu Tướng. Bạn tôi góp ý:
- Em nghĩ là nếu bác trai còn thì đề thông gia là gia đình Thiếu Tướng mới có lý do. Vả lại, Thiếu Tướng là đương nhiệm kìa, mình đã di tản sang đây, bác đã thôi đi làm thì phải đề là nguyên Thiếu Tướng. Bác đã mất thì lại phải đề là cố Thiếu Tướng.
Chị dâu bạn tôi sầm mặt lại, không thèm nói gì nữa. Chồng chị vội xuê xoa, kiểu “dĩ hòa vi quý “:
- Ăn nhằm gì, cái cáo phó ý mà. Đương nhiệm thì ba chị ấy nay đã lên đến Đại Tướng rồi ấy chứ. Mà ông có mất rồi thì mới ghi là bà quả phụ, ai chả biết.
Thế là thông qua. Sang đến chữ “Xin miễn phúng điếu”. Mục này thì anh của bạn tôi phát pháo đầu tiên. Anh lên giọng giảng giải:
- Phúng điếu làm phiền người ta tốn tiền vô ích. Ngày xưa thời phong kiến, khi cha mẹ quan lớn chết thì hủ tục phúng điếu là một dịp để quan lớn moi tiền thuộc cấp, và thuộc cấp hối lộ quan lớn, qua hình thức phúng điếu cụ cố. Hoặc là ở nhà quê nghèo khổ, phúng điếu là một cách lân bang hàng xóm giúp đỡ cho nhà đám có tiền mà làm đám ma. Tới chừng chính nhà mình có chuyện thì người ta trả lễ, giúp lại mình ý mà. Bây giờ có ai quan quyền hoặc túng thiếu gì đâu mà lấy phúng điếu của người ta.
Anh nói thì cũng có lý, bạn tôi hỏi thêm:
- Thế có ghi là “Xin miễn phúng điếu, kể cả hoa” không?
Bây giờ có lẽ chị dâu bạn tôi đã nguôi ngoai, nên góp lời:
- Dĩ nhiên, phần lớn phúng điếu là hoa đó. Phải ghi vào chứ. Hoa là vô ích nhất. Được có vài ngày đã héo mất rồi. Mà mỗi vòng hoa cả trăm bạc, phí tiền. Chẳng thà để tiền làm việc thiện lại còn có ích hơn. Cứ để cái hộp trên bàn thờ, dán vào tờ giấy ghi là “Xin miễn phúng điếu, quý vị có lòng xin bỏ tiền vào hộp để làm việc thiện”.
Bạn tôi hỏi:
- Như thế làm sao biết được họ bỏ vào hộp bao nhiêu, để sau này nhà họ có việc mình còn trả lễ cho người ta?
Chị dâu nguýt:
- Thì chính là để dẹp luôn cái hủ tục trả lễ ấy đấy. Lễ qua lễ lại chỉ tốn thì giờ!
Bạn tôi cười nhạt:
- Mà tốn tiền nữa ấy chứ, anh chị nhỉ ? Bây giờ nhận lễ thì sau này anh chị phải trả lễ đấy, không đến phiên em đâu. Con trai báo hiếu cha mẹ mà.
Có lẽ thấy tình hình găng, mẹ tôi xen vào, giọng nghẹn ngào:
- Các con à, mẹ các con với bác cũng như chị em nên bác có vài lời, các con nghe thì nghe, không nghe thì bỏ, coi như bà già nói xàm, đừng có giận. Vào thời bác, đám tang cha mẹ quan trọng lắm, vì đó là cơ hội cuối cùng cho người con có dịp tỏ lòng thương kính cha mẹ, cảm tạ công ơn nuôi dạy, chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, bế ẵm, rồi còn vất vả mấy chục năm trời, dạy dỗ, lo cho con đi học nên người. Thời bác, khi cha mẹ chết, người đến phúng điếu dù ít tuổi, dù vai vế thấp, mình cũng rạp người xuống lạy tạ người ta, cảm ơn người ta đã đến thăm viếng hương hồn cha mẹ mình. Đó là một cách để báo hiếu cha mẹ lần cuối cùng, trước khi xa cách vĩnh viễn đó các con à. Ngày nay cha mẹ chết, người ta đem vòng hoa tới phúng viếng vong linh cha mẹ mình, cho nó bớt tẻ lạnh, bớt tội nghiệp cái thi hài nằm trong nhà xác, mà mình lại tính toán, không muốn cho người chết được ấm cúng với vòng hoa thơm, vòng hoa vĩnh biệt, ướp mùi hương lần cuối cùng, cho cả cuộc đời vất vả vì con, bác thật là buồn quá !
Thấy mẹ tôi rơm rớm nước mắt, tôi vội cáo từ để đưa mẹ về, kẻo mẹ giận lại phát lên cơn bệnh cao máu.
Về nhà rồi, tôi cứ suy nghĩ hoài. Trong đời sống hằng ngày tại nước ngoài, tôi thấy chúng ta cũng đã du nhập một số tục lệ của người Tây Phương, nhiều cái cũng hay. Tôi cũng đã dự mấy đám tang trong sở, người Mỹ họ không lấy tiền phúng điếu, mà đưa cho mình tên một cơ quan từ thiện, yêu cầu mình gửi thẳng ngân phiếu ghi số tiền mà mình muốn phúng điếu đến địa chỉ đó. Số tiền gửi tặng cơ quan từ thiện này, cuối năm lại được trừ thuế, mà tiền thì lại được tiêu vào việc có ích lợi. Tôi thấy làm vậy thực tế hơn là mua vòng hoa, vài ngày đã héo, cũng phí tiền thật. Tuy nhiên, những lời nói đầy tình nghĩa của mẹ vẫn văng vẳng bên tai, khiến cho tôi cứ bâng khuâng hoài, nên viết thư này xin quý vị cho biết ý kiến.
NKT
Đáp:
Xin cảm ơn bà đã gửi tới một lá thư trình bày rất chi tiết. Cũng xin được chúc mừng bà hãy còn mẹ già minh mẫn, mẹ con được sống chung với nhau. Căn cứ vào lời dạy của cụ “Thời bác, khi cha mẹ chết, người đến phúng điếu dù ít tuổi, dù vai vế thấp, mình cũng rạp người xuống lạy tạ người ta, cảm ơn người ta đã đến thăm viếng hương hồn cha mẹ mình” là quan điểm của thế hệ người Việt Nam trưởng thành trước năm 1945, chúng tôi đoán rằng năm nay cụ cũng cỡ gần tám chục tuổi rồi, phải không ạ? Một lần nữa, xin chân thành chúc mừng bà.
Có những người bạn của chúng tôi đã buồn bã than rằng mỗi khi gặp cha mẹ trong nursing home, các cụ không còn nhận ra được con cái, mà ngơ ngác hỏi: “Ông, bà là ai?”, thấy đau lòng quá. Họ áy náy rằng muốn giữ các cụ trong nhà thì không có khả năng và phương tiện, vì mình cũng phải đi làm kiếm sống, lại yếu đuối, không thể bế ẵm làm vệ sinh cho cha mẹ, như những chuyên viên được. Có gia đình thương cha mẹ già, giữ cha mẹ trong nhà, nhưng không thường xuyên tắm rửa cho các cụ được, khi sở xã hội tới quan sát, thân nhân bị kết tội “bỏ bê” các cụ. Vì lý do đó, họ yêu cầu chuyển các cụ vào nursing home, để được các chuyên viên săn sóc, đúng tiêu chuẩn hơn. Về mặt vật chất, vệ sinh, thì có thể đúng tiêu chuẩn hơn đấy, nhưng thiếu giọng nói tiếng cười của con cháu, các cụ cứ héo hon dần. Hoàn cảnh sống đã khác với khi còn ở quê nhà, nên cũng có những điều mà mình muốn làm cho nhau, nhưng không còn có thể được nữa.
Cho nên, trong vấn đề “hội nhập với nền văn hóa Tây Phương”, cũng có nhiều điều rất tốt. Nhưng cũng có những điều chúng ta nên suy nghĩ thêm. Một trong những điều đó là “vòng hoa phúng điếu”
Thưa quý vị,
Không riêng gì cụ thân sinh bà Kim Trang không đồng ý, mà chính chúng tôi cũng thấy rất lấn cấn trong việc “tang gia từ chối vòng hoa phúng điếu” này.
Có lẽ chúng ta đều đồng ý với nhau là hoa đem lại cho cuộc đời rất nhiều ý nghĩa. Ngay từ lúc một em bé chào đời, em đã được hưởng mùi hoa thơm mà mọi người mang tới mừng đón em. Rồi từ đó, hằng năm, mỗi buổi mừng Sinh Nhật của em, phòng tiệc lại tràn ngập hoa tươi trang trí, nếu em se mình nhức mẩy, bạn bè thân thuộc của cha mẹ tới thăm cũng đem hoa tới chúc em mau lành. Rồi em lớn lên đi học, đi thi, mỗi dịp lễ lạc là lại có hoa bày biện khắp nhà. Khi em có người yêu, hoa cũng là cầu nối, nói giùm những lời em muốn nói mà không ra lời. Trong thời gian yêu đương, hoa đã giúp hòa giải biết bao nhiêu là giận hờn giữa đôi trẻ. Rồi khi đôi trẻ quyết định cùng nhau đi trọn đường đời, trong ngày cưới, món quà đầu của đôi uyên ương tặng nhau, cũng là một bó hoa tươi, biểu tượng của cuộc tình đầy yêu thương, tràn ngập hạnh phúc. Trong suốt cuộc sống chung dài đằng đẵng, hoa đã không biết bao nhiêu lần hàn gắn những hiểu lầm, những vô ý, đôi khi có thể làm rung rinh tổ ấm. Hoa đã làm đẹp cuộc đời đôi bạn cho tới khi đôi trẻ trở thành có tuổi, thì đó lại là lúc hai mái đầu bạc cùng nhau bưng bình hoa lên chùa cúng Phật, dâng lên Đức Mẹ, Đức Chúa, Đền Thánh, vân vân, tỏ lòng thành kính đối với các đấng thiêng liêng.
Hoa không chỉ giúp xây đắp tình cảm trong gia đình, hoa còn làm đẹp đời sống của mọi người trong xã hội. Không thể kể xiết đã có biết bao nhiêu lần trong cuộc đời, bình hoa thay mình nói lên lời cảm ơn, lời xin lỗi, lời âu yếm trong tình thân quyến, tình bạn, tình lân bang hàng xóm...vân vân. Một bình hoa tươi tuy không biết nói, nhưng thật là cảm kích xiết bao qua ý nghĩa thầm kín mà bình hoa mang lại.
Rồi thì những ngày vui tưng bừng như ngày Tết, lễ Phật Đản Sinh, lễ Chúa Giáng Sinh, ngày Valentine, Father’s Day, Mother’s Day, ăn mừng tân gia, đón bạn từ xa tới, mừng đoàn tụ gia đình, vân vân, luôn luôn có sự hiện diện của bình hoa. Bất cứ cuộc hội hè, đình đám, họp mặt lớn nhỏ nào cũng đều phải trang trí bằng hoa. Người đời thượng cổ, hoặc tại những bộ lạc bán khai nơi rừng sâu núi thẳm, cũng dùng hoa để trang điểm. Hoa và người bước cùng nhịp bước trong cuộc đời như bóng với hình.
Riêng đối với đạo Phật thì hoa rất là quan trọng. Hoa là biểu tượng của một nền giáo lý thâm áo, sâu sắc, nhắc nhở mọi người rằng, cũng như tất cả các hiện tượng trong thế giới tương đối, vẻ đẹp của hoa cũng không tồn tại vĩnh viễn, mà sẽ trải qua bốn sự chuyển biến trong một khoảng thời gian, là chu kỳ của Sinh, Trụ, Dị, Diệt.
Khi bông hoa bắt đầu nở, là “Sinh”, vẻ tươi đẹp tồn tại một thời gian ngắn, là “Trụ”, tiếp đến là sự thay đổi, chuyển qua mầu héo úa, là “Dị”, rồi tàn lụi, quắt lại, là “Diệt”. Chỉ cần quan sát bông hoa từ Sinh đến Diệt, người mẫn cảm cũng có thể nắm bắt được giáo lý nhà Phật về “Vô Thường”.
Hoa gắn bó với cuộc đời con người sâu sắc, tình nghĩa như thế, vậy tại sao trong buổi lễ vĩnh biệt cha mẹ, bạn bè, người thân, chúng ta lại không cho bông hoa tới tỏa hương thơm để âu yếm tiễn đưa thi hài người quá cố đến nơi an nghỉ cuối cùng? Biết đâu thần thức người quá vãng lại chẳng cảm thấy buồn tủi, bơ vơ, trong khung cảnh nhà quàn lạnh lẽo vì thiếu hoa? Hơn nữa, mùi hoa tươi thơm ngát tỏa lên cũng giúp cho bầu không khí trong nhà quàn bớt vẻ lạnh lùng, ghê rợn. Thế thì tại sao chúng ta lại tước đoạt món lễ vật thanh khiết dành cho người quá cố ấy? Cũng nên nhớ rằng vòng hoa phúng điếu là dành cho người chết, chứ không phải để tặng người sống. Nếu người đến phúng viếng có vì tình cảm với người sống mà đem hoa tới, thì cũng nên cảm nhận vòng hoa, đem trang hoàng tang lễ với nguyện ước thần thức cha mẹ được hoan hỉ, vì thấy con cái được nhiều người quý mến, nên người quá cố cũng được hưởng lây.
Cũng như bà chị dâu kể trên, có một số người viện lẽ rằng đem hoa đến nhà quàn là một sự phí phạm, vì chỉ vài ngày thì đã đem người chết đi chôn rồi. Nếu lý luận theo kiểu đó thì sự xức nước hoa của mọi người cũng là phí phạm, vì chỉ được một ngày là hết mùi thơm, hoặc ăn những bữa tiệc linh đình tốn tiền làm chi cho phí, chỉ một lúc sau thì bao tử cũng tiêu hóa hết.
Người ta kiếm tiền để làm gì? Xin thưa rằng chính là để tiêu vào những việc cần phải tiêu. Nhưng thật ra tại nhiều nơi, nhất là ở Hoa Kỳ, dường như người ta đã tiêu phần lớn số tiền kiếm được vào những việc không hẳn là rất cần thiết, thí dụ, quần áo chưa rách, nhưng đã mua quần áo mới, không phải vì cần mà vì thích vẻ đẹp theo thời trang. Xe cộ, nhà cửa, tuy vẫn đủ dùng, nhưng cũng mua cái mới, đẹp hơn. Nếu so sánh thì vòng hoa tiễn người thân ra đi vĩnh viễn, còn cần thiết hơn tất cả những sự chi tiêu kể trên. Và nếu phải tính toán đến việc dẹp chuyện mua hoa phúng điếu, để dành tiền làm việc thiện, thì có lẽ nên dẹp chuyện mặc theo mốt này nọ, ăn tại nhà hàng nổi tiếng kia để lấy tiền làm việc thiện, trước khi dẹp chuyện phúng điếu bằng hoa
Bà Kim Trang viết trong thư rằng con dâu bà cụ quá cố đề nghị là “Cứ để cái hộp trên bàn thờ, dán vào tờ giấy ghi là “Xin miễn phúng điếu”, quý vị có lòng xin bỏ tiền vào hộp để làm việc thiện”....
Chúng tôi cũng đã từng thấy những chuyện tương tự xảy ra trong sở làm của người ngoại quốc. Họ yêu cầu các đồng nghiệp, ai muốn phúng điếu thì ký ngân phiếu gửi thẳng tới một cơ sở tôn giáo, hoặc một hội từ thiện nào đó, mà họ nêu ra.
Nhưng mỗi nền văn hóa lại có những nét đẹp truyền thống riêng. Những đám tang người Tây Phương mà chúng tôi tham dự, thường chỉ đưa người qua đời tới huyệt mộ, rồi mọi người ra về, trong khi người Việt Nam khi đi đưa đám tang là đứng chờ cho tới lúc mắt nhìn thấy thi hài người quá cố đã được “vùi sâu chôn chặt”, còn thắp nén hương cuối cùng để ngỏ lời vĩnh biệt trước khi ra về.
Đối với những người thấm nhuần nền văn hóa Đông Phương, thì cách xử sự lại cũng có sự tinh tế riêng. Người Đông Phương rất nhậy cảm trong những chuyện như là “làm việc thiện phải từ tâm khởi”. Đối với họ, làm việc thiện là một chuyện hoàn toàn tự nguyện, do sự “phát tâm”, có nghĩa là khởi tâm từ bi muốn giúp đỡ người khác. Sự “phát tâm” này là chuyện mỗi người đều làm trong suốt chiều dài của cuộc đời, trừ những người keo kiệt, bần tiện. Và cũng không cần phải chờ đến lúc có người chết, họ mới đem tiền đáng lẽ để phúng điếu, chuyển sang làm việc thiện, một kiểu “kéo giỗ làm chạp” như vậy. Đối với người Đông Phương, “gợi ý” như thế là thiếu tế nhị, nó có nghĩa như là phải có người “dậy bảo”, thì họ mới biết làm việc thiện.
Một câu hỏi cũng nên nêu ra, là có phải tất cả những người Tây Phương đều không phúng điếu bằng hoa, mà gửi tiền cho hội từ thiện chăng? Xin thưa rằng không hẳn như vậy. Điển hình là hằng năm, vào ngày lễ Memorial Day, đích thân Tổng Thống đến đặt vòng hoa tại nghĩa trang anh hùng tử sĩ, để cảm niệm lòng ái quốc của họ. Mỗi khi có nhân viên trong chính phủ, trong các cơ quan qua đời, thì những cơ quan liên hệ cũng gửi hoa tới phúng điếu. Ngay chính thông gia và bạn bè của chúng tôi là người ngoại quốc, ở tận các tiểu bang xa xôi, cũng đặt mua hoa gửi tới kính viếng khi cha mẹ chúng tôi tạ thế, chia sẻ nỗi buồn với chúng tôi.
Cũng nên xét lại trường hợp có thể coi như thiếu tế nhị, là tang gia đặt cái hộp ngay trên bàn thờ vong linh, với hàng chữ “Xin miễn phúng điếu, quý vị có lòng xin bỏ tiền vào hộp để làm việc thiện”. Sự kiện này rất dễ gây bối rối, sượng sùng cho người khách đến viếng, vì có thể họ quen dùng thẻ, nên không đem theo tiền để bỏ vào hộp, cảm thấy như có những cặp mắt nhìn soi mói, chê cười là keo kiệt.
Chúng ta đón mừng em bé vào đời bằng hoa tươi thơm ngát, cũng nên tiễn biệt người đã trải qua một đời lao nhọc bằng vòng hoa tươi, vòng hoa tình nghĩa làm ấm áp vong linh một người phải đành đoạn từ bỏ cuộc đời mà ra đi ... biền biệt....
Cầu siêu, cúng cơm, người chết có ăn được không ?
Bộ ba: Căn - Trần cảnh - Thức
Hỏi:
- Gia đình tôi theo đạo Phật từ xưa, trong nhà có bàn thờ Phật, mẹ tôi ăn chay mỗi tháng bốn ngày. Nhưng bản thân tôi và các anh chị em, kể luôn cả cha tôi nữa, đều không biết gì nhiều về đạo Phật, ngoại trừ bàn thờ Phật và chiếc áo tràng màu khói hương của mẹ tôi.
Hôm nay anh chị em chúng tôi có mấy thắc mắc muốn hỏi quý vị vì chúng tôi không thỏa mãn với câu trả lời của mẹ tôi, là người Phật tử hiểu đạo nhất trong nhà.
Thắc mắc thứ nhất:
Chúng tôi thường thấy những gia đình đạo Phật đến chùa làm lễ cầu siêu cúng cơm cho thân nhân đã chết hoặc những dịp đám giỗ, vân vân. Vậy xin hỏi rằng những vụ cầu siêu cúng cơm như thế, thân nhân đã chết có được hưởng gì không?
Thắc mắc thứ hai:
Nếu nhờ cầu xin mà được, vậy thì không cần siêng làm các điều thiện, cứ thoải mái làm các việc ác, miễn sao có nhiều tiền, khi chết nhờ quý tăng ni làm lễ cầu siêu là sẽ được siêu độ, được không ạ.
Mẹ chúng tôi thì tin tuyệt đối vào khả năng “làm Phật sự độ chúng sinh” của các thầy, nên không niệm Phật tụng kinh, chỉ đến chùa làm công quả những ngày cuối tuần, cho là khi chết sẽ có các thầy lo.
Chúng tôi không nghĩ như mẹ, nhưng cũng không hiểu rõ, nên gửi thư này xin quý vị giải thích.
- Về thắc mắc thứ nhất, chúng tôi xin nhắc lại phần trình bày của chúng tôi trong một kỳ phát thanh trước đây, như sau:
“Theo Phật giáo, cái chết là sự chấm dứt của đời sống tâm-vật lý của cá nhân. Chết là sự diệt tắt của sinh lực, tức là đời sống tâm linh và vật lý, cùng với hơi nóng và thức.
Chết không phải là sự tiêu diệt hoàn toàn của một chúng sanh, mặc dầu kiếp sống chấm dứt. Cái tiềm lực làm sống chúng sanh không bị tiêu diệt.
Cũng như ánh sáng đèn điện là biểu hiện bề ngoài mà ta có thể thấy của luồng điện vô hình, chúng ta là biểu hiện bề ngoài của luồng nghiệp vô hình. Bóng đèn có thể vỡ và ánh sáng có thể tắt, nhưng luồng điện vẫn tồn tại, và ánh sáng có thể phát hiện trở lại nếu ta đặt vào đấy một bóng đèn khác. Cũng như thế, sự tan rã của thể xác không làm xáo trộn luồng nghiệp lực, và sự chấm dứt của thức hiện tại dẫn đến sự phát sanh mới. Tuy nhiên, không có gì trường tồn bất biến, như một thực thể đơn thuần, “chuyển” từ hiện tại sang tương lai.
Trong trường hợp nêu trên, nếu người chết tái sanh trở lại vào cảnh người, chập tư tưởng cuối cùng tất nhiên là một loại tâm thiện. Thức-tái-sanh là từ tâm thiện ấy phát sanh, tự nhiên chuyển đến cái trứng và tinh trùng tương xứng trong cảnh người.
Như thế có nghĩa là cho đến lúc chết, luồng nghiệp lực vẫn luôn luôn trôi chảy, không có một điểm thời gian gián đoạn. Ngay lúc chết những chập tư tưởng vẫn liên tục kế tiếp như trong đời sống.
Hiện tượng chết và tái sanh diễn ra tức khắc, dầu ở bất cứ nơi nào, cũng như làn sóng điện phát ra trong không gian được thâu nhận tức khắc vào bộ máy thâu thanh. Luồng nghiệp lực trực tiếp chuyển từ cái chết ngay đến tái sanh, không trải qua một trạng thái chuyển tiếp nào. Phật giáo thuần túy không chủ trương có linh hồn người chết tạm trú ở một nơi nào, chờ đến khi tìm được một nơi thích hợp để đầu thai.”
Trên đây là quan điểm của Phật giáo Nguyên Thủy, hay còn gọi là Nam Tông, trích trong cuốn Ðức Phật và Phật Pháp do Hòa Thượng Narada biên soạn.
Về phía Phật giáo Bắc Tông, hay còn gọi là Ðại Thừa, thì quan niệm rằng không hẳn là tất cả mọi người sau khi chết đều tái sinh ngay lập tức. Trường phái này cho là những người có nghiệp rất thiện thì ngay sau khi chết sẽ sanh vào các cõi Tịnh, thí dụ cõi Tây Phương Tịnh Ðộ, Ðông Phương Tịnh Ðộ, vân vân, và những người có nghiệp rất ác thì sau khi chết sẽ sanh ngay vào các cảnh giới ác, như Ðịa Ngục, Ngạ Quỷ hoặc tái sinh thành các loài súc sinh. Trường hợp đó gọi là “chết đây sinh kia”.
Ngoài các trường hợp đó, sau khi chết, người ta có thể còn lưu tâm thức lại một thời gian trong trạng thái gọi là Thân Trung Ấm, và mơ màng trong cảnh giới này từ 1 lần 7 ngày, cho tới 7 lần 7 ngày, là 49 ngày. Trong thời gian đó, nhất là 21 ngày đầu, người đã qua đời vẫn còn có ấn tượng mạnh mẽ về kiếp sống vừa qua. Và chính từ niềm tin này, người ta coi trọng sự cầu nguyện để giúp chuyển hóa tâm trạng người chết khiến cho thần thức của họ hòa nhập được vào các cõi an lành.
Như vậy thì cả hai truyền thống Phật giáo, Bắc Tông và Nam Tông đều không nói đến những hình thức cúng kiếng cho người đã chết từ lâu, hàng năm trời, mà chỉ có thể giúp cho người mới chết, qua những lời khai thị, những bài kinh, thốt lên từ tấm lòng chí thành thanh tịnh của chư vị chân tu và thân nhân, hy vọng thần thức của Thân Trung Ấm cảm được, mà tiêu dung được các tâm niệm xấu, cởi mở được các nỗi oán hờn.
Nhà Phật quan niệm rằng các loài hữu tình chúng sinh tiếp xúc được với thế giới bên ngoài là nhờ ở ba thành phần, gọi là “bộ ba Căn, Trần cảnh và Thức”.
Căn, là bộ phận cơ thể,
Trần cảnh, là đối tượng nhận thức của Căn
Thức, là phần tâm thức vô hình, vốn từ Chân Tâm vọng khởi mà chuyển thành, cũng tràn ngập khắp không gian như Chân Tâm, là cầu nối giữa Căn và Trần cảnh, tức là cầu nối giữa bộ phận cơ thể của chúng sinh và thế giới mà chúng sinh nhận thức, “cảm” hoặc “thấy” được.
Ðối với một cơ thể đã chết, bộ phận cơ thể, là Căn, đã ngưng hoạt động, có nghĩa là bộ ba đã mất một phần, thế thì những sinh hoạt về vật chất như ăn uống, hiển nhiên là không thể tiếp tục.
Có người cho rằng sau khi đã qua đời, người chết vẫn còn ăn, gọi là Thức thực. Như chúng ta đã biết, Thức vốn vô hình, nếu có Thức thực thì cũng chỉ là “cảm” được những tâm niệm thương ghét, an ủi, v.v… không thể “ăn” được món ăn vật chất. Nếu quả thật là còn có sự thèm ăn, thấy thân nhân bầy những món ngon, mà thần thức lại không thể ăn được, thì chỉ thêm thèm thuồng đau khổ mà thôi!
Sau đây là câu hỏi thứ hai:
“ Nếu nhờ cầu xin mà được, vậy thì không cần siêng làm các điều thiện, cứ thoải mái làm các việc ác, miễn sao có nhiều tiền, khi chết nhờ quý tăng ni làm lễ cầu siêu là sẽ được siêu độ, phải không ạ.
Mẹ chúng tôi thì tin tuyệt đối vào khả năng “làm Phật sự độ chúng sinh” của các thầy, nên không niệm Phật tụng kinh, chỉ đến chùa làm công quả những ngày cuối tuần, cho là khi chết sẽ có các thầy lo”.
Đáp:
Ðể hiểu rõ hơn về vấn đề “làm Phật sự độ chúng sinh” và niềm tin “làm lễ cầu siêu là sẽ được siêu độ”, chúng tôi xin gửi tới quý vị lời giải thích ghi trong bộ Giáo Khoa Phật Học cấp 2, do Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam ấn hành, như sau:
…” … Về tập tục tụng kinh siêu độ cho người chết, theo hòa thượng Ðạo An, vốn không phải là một tập tục truyền thống của Phật giáo. Tập tục này chỉ bắt đầu có ở Trung Quốc từ đời nhà Ðường.
Ðiều này có thể đúng vì theo sử chép, thì năm 738, vua Ðường Huyền Tông đã ban sắc lệnh cho toàn quốc, ở mỗi quận đều xây một ngôi chùa, đều đặt tên là chùa Khai Nguyên (Khai Nguyên là niên hiệu thứ nhì của vua Huyền Tông). Ðó là chùa công, do các quan lại địa phương trông coi, dùng làm nơi tổ chức các lễ tiết quốc gia, cầu quốc thái dân an. Việc làm này vừa có ý nghĩa đem ân huệ của Phật ban đến quốc dân, cũng vừa để biểu thị quyền uy của chính quyền trung ương.
Năm 755, An Lộc Sơn nổi loạn, kéo binh về chiếm kinh thành, khiến vua Huyền Tông phải chạy vào Tứ Xuyên lánh nạn. Một năm sau thì quân triều đình dẹp yên giặc loạn. Trong một năm chiến tranh này, số người chết — chiến sĩ của cả hai bên và thường dân –, nhiều vô kể. Triều đình bèn ra chỉ dụ cho tất cả các chùa Khai Nguyên trong toàn quốc, thỉnh chư vị cao tăng đại đức, thiết lễ tụng kinh siêu độ cho chiến sĩ và thường dân đã chết trong cuộc chiến vừa qua, đồng thời an ủi các gia đình nạn nhân.
Dân chúng thấy triều đình làm như thế, bèn bắt chước làm theo, cứ mỗi khi trong nhà có người chết, liền thỉnh chư tăng tụng kinh siêu độ. Từ đó mà lễ cầu siêu độ cho người chết trở thành một tập tục trong dân gian.”
Nhân đây, chúng tôi cũng xin kính gửi tới quý thính giả quan điểm của lão pháp sư Tịnh Không về vấn đề “làm Phật sự độ chúng sinh” và niềm tin “làm lễ cầu siêu là sẽ được siêu độ” này.
Lão hòa thượng Tịnh Không là một vị cao tăng Trung Hoa đương thời, rất có uy tín, với một quá trình giảng kinh thuyết pháp gần năm chục năm. Ngài là người đi tiền phong trong việc sử dụng hệ thống truyền thanh, truyền hình vệ tinh, mạng lưới thông tin toàn cầu và những phương tiện truyền thông hiện đại khác trong việc truyền bá Phật pháp trên khắp thế giới. Trong giới tu hành, nhiều người suy tôn ngài như một vị Tổ của tông Tịnh Ðộ. Ngài nói:
“Trong Phật pháp, nói Phật sự là giúp đỡ tất cả chúng sinh phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, những sự việc này đều gọi là Phật sự.
Vậy còn hiện nay thì sao?
Hiện nay thì thời gian tiếp xúc với kinh điển cơ hồ ít hơn, nhìn thấy trong cửa Phật phần nhiều đều là lấy kinh sám “Phật sự siêu độ người chết”, cho rằng đây là Phật sự. Cho nên vừa nghe nói đến tiếng “Phật sự” là rất dễ sinh ra hiểu lầm. Những việc siêu độ vong linh này ở trong Phật giáo xuất hiện rất trễ …, rất trễ. Thời xưa ở Ấn Ðộ chẳng có. Khi Phật giáo được truyền đến Trung quốc, lúc ban đầu cũng chẳng có. Vậy sự việc này xảy ra như thế nào?
Năm trước, trong buổi Phật học giảng tọa tại trường Ðại Học ở Ðài Loan do lão pháp sư Ðạo An chủ trì, đã có một sinh viên nêu vấn đề này ra để hỏi lão pháp sư. Hôm đó tôi cũng có mặt nên cũng đã có nghe. Lão pháp sư nói rằng sự việc này có thể là bắt nguồn từ giữa niên hiệu Khai Nguyên triều đại nhà Ðường. Vào thời gian đó, có loạn An Lộc Sơn tạo phản, giặc giã nổi lên khắp nơi. Nhờ có danh tướng Quách Tử Nghi tài giỏi mới bình định được nội loạn.
Khi an ninh đã được vãn hồi, nghĩ tới những linh hồn chết thảm còn vất vưởng lang thang nơi đồng hoang cỏ cháy không ai thờ cúng, triều đình cho xây tại mỗi bãi chiến trường một ngôi chùa đều lấy tên niên hiệu Khai Nguyên để đặt làm tên, rồi thỉnh quý vị cao tăng từ khắp các nơi về các chùa Khai Nguyên này để tụng kinh cầu siêu độ cho các vong hồn. Từ đó, tại mỗi bãi chiến trường lớn đều có một chùa Khai Nguyên. Nguồn gốc Khai Nguyên Tự như lão pháp sư Ðạo An đã nói, là do triều đình đề xướng, mở hội truy điệu, thỉnh những vị cao tăng đại đức tụng kinh cầu siêu độ.
Từ đó về sau, trong dân gian, khi gia đình có người qua đời, thì cũng thỉnh mời tăng ni đến tụng kinh cầu siêu. Như vậy là đối với Phật pháp, đây chính là việc phụ thêm, chẳng phải là công việc chủ yếu của Phật môn, chẳng phải !
Nhưng hiện nay thì nó lại đã trở thành chủ yếu mất rồi ! Hiện nay tại rất nhiều đạo tràng, người ta lấy việc này làm công tác chủ yếu. Cho dù có giảng kinh thì thời gian làm Phật sự chính yếu này cũng rất ngắn, rất ít. Có những chùa một năm giảng kinh bốn lần, trong bốn mùa Xuân Hạ Thu Ðông, mỗi mùa giảng một tuần, một năm giảng bốn tuần, chia cho bốn mùa. Cho nên Phật sự chính thức là giảng kinh thuyết pháp để chuyển mê khai ngộ cho dân chúng thì lại đã biến thành việc phụ, còn việc bái sám, cầu siêu đã biến thành “Phật sự” chủ yếu mất rồi. Ðiều này chúng ta phải có nhận thức rõ ràng, vào thời trước, Phật sự là giảng kinh thuyết pháp”
Ðối với việc cúng bái cầu siêu, chúng tôi xin nhắc lại ý kiến mà chúng tôi đã đề ra trong một kỳ trước, rằng người Đông Phương chúng ta, từ thời xa xưa, vốn đã có truyền thống cúng bái người đã qua đời, nhất là cúng bái tổ tiên, ông bà, cha mẹ, coi như một hình thức báo hiếu, trước là nói lên lòng thành kính tưởng nhớ chư vị đã khuất, sau là nhắc nhở con cháu nên tiếp nối mỹ tục biết cảm ơn các bậc sinh thành, cũng như mỗi quốc gia đều có những ngày kỷ niệm Chiến Sĩ Trận Vong, để nói lên lòng nhớ ơn các anh hùng liệt sĩ có công với đất nước vậy.
Chúng ta có từ ngữ “Ðạo Ông Bà”, nghĩa là theo truyền thống từ thời xa xưa, khi ông bà, cha mẹ, thân nhân qua đời, gia đình đem hình ảnh và bát hương bày lên bàn thờ, quanh năm hương khói, đến ngày giỗ thì làm cơm cúng, đó là tập tục của hầu hết những dân tộc Ðông Phương, nhất là tại những quốc gia ảnh hưởng đạo Khổng.
Như vậy, theo phong tục cổ truyền, việc cúng giỗ cũng là điều tốt, coi như là ngày kỷ niệm, tưởng nhớ người đã khuất. Chúng ta có thể tổ chức cúng giỗ tại nhà, hoặc tại chùa. Nếu đủ phương tiện để có thể làm lễ trên chùa thì rất tốt. Trước nhất, đây là một duyên lành giữa thân nhân người chết đối với nhà Phật, có dịp cho họ tiếp cận với các vị Sư, nhân đó, có thể hiểu thêm về Phật pháp. Thứ nữa là thân nhân người chết có thể tạo chút phước qua việc cúng dường Tam Bảo, để nhà chùa có thêm khả năng ấn tống kinh sách, phổ biến Phật pháp rộng rãi, thêm phương tiện để hoàn thành các Phật sự. Các vị Sư là những Trưởng Tử Như Lai, là những Ðạo Sư, có nhiệm vụ hoằng dương Chánh Pháp song song với việc tu tập bản thân.
Phật tử cũng vậy, cũng cần tu tập bản thân và giúp phương tiện cho các Ðạo Sư trong công cuộc hoằng truyền và bảo vệ sự trong sáng của đạo Phật.
Thời gian thấm thoát trôi nhanh, năm cũ sắp hết, năm mới sắp sang. Trước thềm năm mới, chúng ta hãy dành ít phút để suy tư, quán niệm: chúng ta đã làm gì cho cuộc đời mình được ích lợi, trên phương diện thế gian và xuất thế gian, trong năm vừa qua và những năm trước đó?
Ðồng thời chúng ta cũng thử bàn về vấn đề "Ý nghĩa của cuộc sống", để có một nhận định đúng đắn cho cuộc đời của chúng ta từ đây về sau, trên bước đường tu học theo đúng Chánh Pháp.
Từ ngàn xưa cho đến ngày nay, từ phương đông sang đến phương tây, từ Châu Á sang đến Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Phi và Châu Úc, khi bàn về vấn đề ý nghĩa của cuộc sống, bằng cách này hay cách khác, mọi người luôn luôn bày tỏ niềm mơ ước một cuộc sống có ý nghĩa, một cuộc sống lý tưởng.
Nhưng thế nào là cuộc sống lý tưởng,
thế nào là cuộc sống có ý nghĩa?
Làm sao xây dựng cuộc sống lý tưởng,
làm sao xây dựng cuộc sống có ý nghĩa?
Trải qua nhiều thế kỷ, xuyên qua nhiều địa phương khác nhau, nhiều người có những quan niệm, những quan điểm, những ý kiến khác nhau về vấn đề này.
Chẳng hạn như có người quan niệm là phải có nhiều tiền của, mới có cuộc sống lý tưởng và cuộc sống mới có ý nghĩa. Tại sao vậy? Bởi vì có nhiều tiền của, con người mới có thể làm được nhiều việc ích lợi cho bản thân và cho mọi người theo như ý của mình mong muốn. Sách có câu: "Có tiền mua tiên cũng được", chính là nghĩa đó vậy.
Chẳng hạn như có người quan niệm rằng phải có nghề nghiệp chuyên môn, phải có công ăn việc làm vững chắc, mới có cuộc sống lý tưởng và cuộc sống mới có ý nghĩa. Tại sao vậy? Bởi vì có nghề nghiệp chuyên môn, con người mới có thể giúp ích cho bản thân và cho xã hội một cách hiệu quả hơn, một cách tích cực hơn.
Chẳng hạn như có người quan niệm là phải có gia đình hạnh phúc, mới có cuộc sống lý tưởng và cuộc sống mới có ý nghĩa. Tại sao vậy? Bởi vì dù có nhiều tiền, dù có nghề nghiệp chuyên môn, dù có việc làm vững chắc, nhưng gia đình không hạnh phúc thì cuộc sống không thể gọi là lý tưởng, không thể gọi là có ý nghĩa được. Thực là thiên hình vạn trạng, muôn hình muôn vẻ, mỗi người một ý, mười phân vẹn mười!
* * *
Trong phạm vi bài này, chúng ta thử bàn qua các quan niệm trên đây, nhất là nghiên cứu ý nghĩa của cuộc sống qua giáo lý của đạo Phật, đối với đời sống của người Phật Tử tại gia bình thường.
Trước hết, chúng ta thử xét qua các quan niệm phổ thông về cuộc sống lý tưởng hay cuộc sống có ý nghĩa.
Thế nào là cuộc sống có ý nghĩa
1) Sống lợi mình lợi người là cuộc sống có ý nghĩa.
Những việc gì mình không muốn người khác làm cho mình, thì mình đừng làm như vậy cho người ta. Chẳng hạn như mình không muốn bị người khác quấy rầy, không muốn đời tư bị bươi móc, thì mình đừng làm như vậy cho người ta. Chẳng hạn như mình không thích bị ai phê bình, chỉ trích, khinh khi, phỉ báng, thì mình đừng vạch lá tìm sâu, bới bèo tìm bọ, viết thư nặc danh, hăm dọa chửi bới người ta. Phải nên biết rằng: gieo nhân nào gặt quả nấy, đong đấu nào nhận đấu nấy!
2) Sống không ưu tư, không phiền não trong mọi hoàn cảnh là cuộc sống có ý nghĩa.
Vì áp lực của cuộc đời thường đè nặng trong tâm tư, chúng ta bị ngoại cảnh chi phối quá nhiều, ngày ăn không ngon, đêm ngủ chẳng yên. Lúc thịnh thì vui, lúc suy thì buồn. Lúc nhục nhã thì bực, lúc danh dự thì khoái. Lúc xưng tán thì thích, lúc phê phán thì quạu. Lúc khổ thì than, lúc hân hoan thì chịu! Nở được nụ cười nhẹ nhàng, vô ưu, trầm tĩnh, trong mọi hoàn cảnh giúp chúng ta sống cuộc đời có ý nghĩa. Nụ cười thương yêu, nụ cười có ý thức bao giờ cũng đẹp đẽ và thường giúp con người sống cuộc đời có ý nghĩa một cách mầu nhiệm khó thể nghĩ bàn.
3) Sống trong tỉnh thức là cuộc sống có ý nghĩa.
Chúng ta biết mình thực sự là ai, biết mình thực sự đang làm gì, biết mình thực sự đang nói gì, biết mình thực sự đang nghĩ gì.
Chúng ta thường mang cái áo đời danh lợi, cho nên quên "con người chân thật" của mình, luôn luôn sống trong ảo tưởng. "Con người chân thật" là con người luôn luôn sống trong tỉnh thức, kiểm soát được hành động, lời nói và tư tưởng, không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, trình độ, xuất xứ, đời sống, dân tộc. Sống trong tỉnh thức nghĩa là phải có chánh kiến, theo chánh tư duy, giữ gìn chánh ngữ, thực hành chánh nghiệp, sống với chánh mạng, có chánh tinh tiến, luôn luôn chánh niệm, có được chánh định.
4) Sống trong an lạc và hạnh phúc là cuộc sống có ý nghĩa.
Cuộc sống không dính mắc, không sân hận, không si mê, không phiền não, không chấp chặt, không thành kiến, không kỳ thị, không tranh chấp, không hơn thua, không bon chen, không đua đòi. Khi có người mang lửa đến đốt, chúng ta đừng đưa bổi ra đón, thì sẽ không bị đốt cháy. Nghĩa là nếu bị người chửi mắng, hay khi nhận được thư, dù nặc danh hay chính danh, nặng lời nhục mạ, chúng ta không nổi cơn sân, dù ngoài mặt hay trong lòng, thì chúng ta được bình yên vô sự. Chúng ta không có được những gì mình thích, thì hãy thích những gì mình có. Ðược như vậy, ngày ăn ngon tối ngủ yên, và chắc chắn chúng ta sống cuộc đời an lạc và hạnh phúc.
5) Sống an trú trong hiện tại là cuộc sống có ý nghĩa.
Chúng ta thường luyến nhớ quá khứ, mơ tưởng tương lai. Sống trong cuộc đời hiện tại, chúng ta nên biết rằng "mình đang sống", đang hít thở không khí, đang ở trong chánh niệm, sống với thiện tâm, sống không tà niệm. Ðược như vậy, tâm của chúng ta như dòng nước trong mát, không vướng bụi trần, không vương phiền não. Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có dạy:
Quá khứ tâm bất khả đắc,
hiện tại tâm bất khả đắc,
vị lai tâm bất khả đắc.
Nghĩa là chuyện quá khứ cảm giác đã qua đi, không nên nhớ nữa, chuyện hiện tại thấy đó rồi mất đó, cảm giác nào rồi cũng qua mau, không có gì tiếc nuối, chuyện tương lai chưa đến, đừng lo lắng ưu tư phiền muộn, chỉ khiến cuộc đời thêm phức tạp phiền não mà thôi.
6) Sống trong giác ngộ và giải thoát là cuộc sống có ý nghĩa.
Chúng ta muốn có cuộc sống ý nghĩa, bình yên, phẳng lặng, an lạc và hạnh phúc, chúng ta phải biết quán sát chân lý, nhận chân lẽ thực, thấy được thực tướng của vạn hữu. Chúng ta muốn có cuộc sống ý nghĩa, thì nên biết rằng, chúng ta sinh ra đời để trả hết các nợ đã vay, đã tạo tác từ nhiều tiền kiếp, đừng tạo thêm nghiệp mới, chấm dứt sinh tử luân hồi, không si mê, không mơ tưởng, không van xin, không mong cầu. Chúng ta phải sáng suốt nhận định rõ ràng: cuộc đời khổ nhiều vui ít.
Cho nên, chấp nhận cuộc đời là chấp nhận: sinh lẫn diệt, còn lẫn mất, được lẫn thua, khen lẫn chê, vui lẫn buồn. Chấp nhận cuộc đời là chấp nhận: có làm có hưởng, có làm có chịu, sinh sự sự sinh, gieo gió gặt bão. Chấp nhận cuộc đời là chấp nhận: nay còn mai mất, nay xấu mai tốt, nay bạn mai thù, chuyển biến không ngừng. Cần phải có thời gian tu tập thực nghiệm lâu dài, cần phải có công phu quán chiếu bền bỉ, cần phải có ý chí mạnh mẽ, nghị lực vững vàng, để chuyển hóa cuộc đời từ phiền muộn, ưu tư, lo âu, sợ hãi, trở thành hoan hỷ, vui vẻ, thanh thản, tự tại. Ðược như vậy, chúng ta sẽ giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.
Làm sao xây dựng cuộc sống có ý nghĩa
Ðể có được một cuộc sống có ý nghĩa, chúng ta phải luôn luôn tỉnh thức, giữ tâm bình thường, thản nhiên, tự tại trong mọi hoàn cảnh, trong mọi tư thế, trong mọi hành động, trong mọi lời nói, trong mọi ý nghĩ.
Trong mọi hoàn cảnh, trong mọi tư thế, dù được hay mất, dù khen hay chê, dù thân hay thù, dù vui hay khổ, dù oan hay ưng, dù đúng hay sai, chúng ta phải luôn luôn tỉnh thức, vẫn giữ tâm bình thường, không xao động, không khởi niệm. Khi đi, đứng, nằm, ngồi, chúng ta biết mình đang đi, đang đứng, đang nằm, đang ngồi. Làm việc gì tập trung tinh thần vào việc đó, không xao lãng, không lo ra.
Ðược như vậy, chúng ta không gặp tai nạn nghề nghiệp, có thể làm xong công việc một cách tốt đẹp và chúng ta có một cuộc sống ý nghĩa.
Trong mọi hành động, chúng ta phải luôn luôn không nên làm tổn thương đến người và vật. Trong mọi lời nói, chúng ta luôn luôn giữ gìn khẩu nghiệp, không nói những lời làm tổn thương đến mọi người, dùng lời nói chuyên chở tình thương, những khi cần thiết mang lại ánh sáng chân lý, giảng giải giáo lý cho mọi người được gội nhuần nước cam lồ tươi mát. Trong mọi ý nghĩ, chúng ta phải luôn luôn giữ gìn chánh niệm, không theo các tạp niệm dong ruỗi bốn phương, không để tâm theo việc thương ghét thân thù, giữ tâm bình thường, bất tùy phân biệt, không kỳ thị, không thành kiến, luôn luôn chăn trâu kỹ lưỡng, không để trâu dẫm đạp lúa mạ của người.
Khi tâm tham khởi lên, khi tâm sân nổi lên, chúng ta phải tỉnh thức, biết ngay và buông bỏ, không theo.
Chúng ta không nên để các vọng tâm tham sân đó xúi giục làm điều xằng bậy.
Ðược như vậy chúng ta có cuộc sống ý nghĩa và lý tưởng, đồng thời mới có thể giúp mọi người chung quanh sống đời có ý nghĩa vậy.
Trong cuộc đời trên thế gian này, muốn cuộc sống có ý nghĩa, chúng ta nên thường xuyên quán chiếu rằng: mình đã để cho cuộc đời của mình trôi qua trong quên lãng đã bao nhiêu ngày tháng năm rồi? Hãy thử lắng lòng nghiệm xét xem: mình đã làm gì cho đời mình, ngoài những việc làm kiếm tiền sinh sống và giải trí vui chơi?
Ðể biết nhìn đời cho đúng ý nghĩa, trong Kinh Hoa Nghiêm, Ðức Phật dạy: "Từ nhãn thị chúng sanh".
Nghĩa là muốn cuộc sống có ý nghĩa, chúng ta cần nhìn tất cả mọi người với con mắt từ bi hỷ xả. Chúng ta nên biết thương người cũng như thương chính mình, cảm thông nỗi khổ đau của người như nỗi khổ đau của chính mình, đừng làm khổ người, dù là kẻ thù, cũng vậy.
Sách có câu:
"Mắt thương nhìn cuộc đời",
chính là nghĩa đó vậy.
Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Ðức Phật dạy:
Muốn cuộc sống có ý nghĩa, hãy mặc áo Như Lai, ở nhà Như Lai và ngồi tòa Như Lai.
Nghĩa là trong mọi hoàn cảnh, chúng ta luôn luôn "mặc áo nhẫn nhục" của Như Lai, tức là nhẫn mà không thấy nhục, để ứng xử trong cuộc đời đầy phiền não và khổ đau, không nên gây thêm phiền não và khổ đau cho mọi người. Ðể có thể thực hành được hạnh nhẫn nhục đến độ rốt ráo tột cùng, trong kinh sách gọi là ba-la-mật, chúng ta cần an trú trong "căn nhà đại từ đại bi" của Như Lai.
Có được tấm lòng đại từ đại bi của Ðức Phật, chúng ta mới có thể nhẫn nhục được, không nỗi sân hận, hay tức giận khi bị người chửi rủa, mắng nhiếc, nhục mạ, vu oan, thưa kiện. Và cuối cùng, sau khi nhẫn nhục được rồi, phát triển tâm từ bi được rồi, làm tất cả mọi việc phước thiện rồi, chúng ta luôn luôn nhớ ngồi trên "tòa pháp không" của Như Lai, tức là chúng ta quên hết mọi việc tốt đẹp đã làm, để lòng kiêu mạn không phát khởi, để luôn luôn giữ "tâm bình thường" trong từng sát na vậy. Thực hiện được ba điều Ðức Phật dạy trên đây, dù đang sống trên thế giới ta bà khổ này, chúng ta vẫn an nhiên tự tại với tâm bình thường và cuộc sống mới có ý nghĩa thực sự vậy.
Chúng ta cùng suy ngẫm câu chuyện sau đây:
Một hôm hai vị sư huynh đệ có việc cùng xuống núi. Khi xong việc trở về đến bên một con suối, hai vị thấy một cô gái ăn mặc đàng hoàng, đang lúng túng chưa biết cách nào lội qua suối. Sau khi hỏi qua cớ sự, vị sư đệ liền bồng cô gái đưa giùm qua suối.
Trên suốt quãng đường còn lại, vị sư huynh lầu bầu, cằn nhằn sư đệ đã đụng chạm cô gái, như vậy là phạm giới, đó là những việc không nên làm. Vị sư đệ cứ bình thản bước đi, im lặng, không đối đáp.
Lúc về tới cổng chùa, vị sư huynh vẫn còn tiếp tục lải nhải, vì tưởng rằng sư đệ lặng yên, nghĩa là nhận tội đã làm.
Cho đến lúc đó, vị sư đệ mới thốt nên lời:
"Ðệ đã bỏ cô gái ấy lại bên bờ suối từ lâu rồi, tại sao huynh vẫn còn cõng cô ta về đến đây vậy?"
Qua câu chuyện này, chúng ta nghiệm xét hai điều:
Một là, người sống với chánh niệm thường im lặng, không tranh cãi, không thị phi, không đính chính, oan ức không cần biện bạch, vì biện bạch là nhân ngã chưa xả, lấy oan ức làm cửa ngõ đạo hạnh.
Hai là, trong cuộc sống thường ngày, sau khi đi làm hay đi chơi, chúng ta cõng không biết bao nhiêu là nhân vật về nhà, có khi còn cõng luôn lên giường ngủ nữa là khác!
Bởi vậy cho nên, chúng ta chứa biết bao nhiêu là hình bóng, người thương kẻ thù, trong kho tàng tâm thức của chúng ta. Nhân dịp cuối năm, chúng ta thường dọn kho chứa đồ đạc cho sạch sẽ, luôn tiện hãy dọn dẹp kho tàng tâm thức cho trống trải.
Ðược vậy cuộc sống chúng ta sẽ bớt phiền não và khổ đau. Từ đây, cuộc sống mới có ý nghĩa vậy.
Tóm lại, mặc dù được xem như là một tôn giáo, nhưng đạo Phật không phải chỉ có các hình thức cúng kiến, nghi lễ và người theo đạo Phật không bắt buộc phải có lòng tin, không bắt buộc phải có đức tin, không bắt buộc phải nhắm mắt tin theo, cúi đầu chấp nhận, bất cứ điều gì, dù được ghi chép trong kinh điển, khi lý trí chưa chấp nhận.
Người Phật Tử nương theo giáo lý của Ðức Phật để làm phương tiện chuyển hóa đời mình, từ phiền não sang an lạc, từ khổ đau sang hạnh phúc.
Mục đích tối hậu, mục đích cứu kính, mục đích tột cùng của Phật giáo vẫn là chỉ bày phương pháp rèn luyện tâm tánh, phương pháp tu tâm dưỡng tánh, để giúp con người sống được với "con người chân thật" của mình, chứ không phải sống với cái tấm thân tứ đại nặng nề đòi hỏi đủ thứ chuyện, chứ không phải sống với cái tâm hồn thay đổi liên miên, sai xử đủ thứ việc, để giúp con người bớt được phiền não và khổ đau hiện đời, được an lạc và hạnh phúc, được Niết-bàn hiện tiền, giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.
Trong Kinh Ðại Bát Niết Bàn, Ðức Phật có dạy:
Chư hành vô thường. Thị sinh diệt pháp.
Sinh diệt diệt dĩ. Tịch diệt vi lạc.
Nghĩa là mọi việc trên đời đều vô thường, không tồn tại lâu dài, kể cả tấm thân tứ đại nặng nề mấy chục ký lô, cùng với cái tâm lăng xăng lộn xộn của chúng ta, tất cả đều là những pháp sinh diệt, những thứ sinh ra rồi sẽ diệt đi, không tồn tại vĩnh viễn, không có gì phải quan trọng. Nếu quan trọng cái thân và cái tâm sinh diệt thì con người sẽ sống trong phiền não và khổ đau.
Ðiều quan trọng chính là làm sao cho tâm lăng xăng lộn xộn sinh diệt đó lặng đi, không còn nữa, tức là chúng ta không còn tham lam nữa, chúng ta không còn nổi sân nữa, chúng ta không còn si mê nữa, khi đó cảnh giới tịch diệt hiện tiền, ngay trước mắt, đó mới thực là vui, đó chính là Niết-bàn, là cực lạc vậy.
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt hiện tiền",
chính là nghĩa đó vậy.
Nói chung, Phật giáo có mục đích giúp con người sống trong tỉnh thức, biết mình đang thực sự sống một cuộc đời có ý nghĩa, một cuộc đời lý tưởng vậy.
Người Nhân Cách Càng Lớn Càng Không Tranh Giành,
Trí Tuệ Càng Cao Càng Không Tham Lam
Người có nhân cách lớn thường là người hiểu rõ bản thân mình là ai, mình ở đâu và điều mình muốn là gì? Khi một người biết được chính xác bản thân mong muốn một cuộc sống như thế nào, họ sẽ lựa chọn con đường đi đúng đắn, dùng toàn tâm sức vào việc sửa đổi chỗ thiếu sót bản thân, đưa tâm hồn thăng hoa lên cảnh giới mới và tiến thẳng về phía trước.
Người như vậy càng là người không lười biếng, không tranh giành hơn thua, lại càng không vì những điều gièm pha của người khác mà làm lung lay ý chí của mình.
Nhân cách càng lớn càng không tranh giành
Cũng giống như Vương Dương Minh từng nói trong Truyền Tập Lục: “Trì chí như tâm thống”, (ý chí như tâm đang đau), một người đang đau thử hỏi còn tâm trí đâu mà để ý đến nói chuyện phiếm, tâm trí đâu để mà quan tâm những việc khác? Người có nhân cách lớn làm việc cũng lại như thế, họ luôn kiên thủ chí hướng của mình, thời thời khắc khắc đều đặt tâm trí vào mục tiêu mình muốn.
Khi Tăng Quốc Phiên mới nhậm chức tại Hàn Lâm viện, cấp trên của ông là Triệu Tập có phụ thân đến kinh thành thăm con nên mời mọi người đến dùng tiệc. Khi đó Tăng Quốc Phiên mới làm quan, bổng lộc không nhiều, cuộc sống hàng ngày cũng thanh đạm. Hơn nữa Tăng Quốc Phiên không ưa thích những việc xu nịnh hay kiếm cớ phát tài nên khéo léo từ chối không đi. Cũng vì nguyên nhân này mà ông đã đắc tội với Triệu Tập.
May thay sau đó, Tăng Quốc Phiên được thăng quan nhiều cấp, làm quan lớn hơn so với Triệu Tập, nhờ đó mà thoát nạn.
Tuy nhiên, ngày đẹp chẳng đáng là bao, Tăng Quốc Phiên lại bị giáng chức, lần này lại quay về làm cấp dưới của Triệu Tập.
Đương thời, Tăng Quốc Phiên bị bệnh mụn mọc ngoài da tái phát, sự tình nghiêm trọng, hàng ngày không thể ngồi lâu nên xin phép Triệu Tập cho nghỉ ở nhà dưỡng bệnh. Thật không dễ dàng gì mới có được cơ hội trả thù, nên đương nhiên Triệu Tập không những không đồng ý mà còn tìm cớ để trù dập Tăng Quốc Phiên:
“Ông vừa mới giáng chức đã muốn nghỉ phép, phải chăng không coi bản quan ra gì? Phép của ông tôi không duyệt”.
Tăng Quốc Phiên chỉ đành ôm bệnh đi làm.
Hàng ngày, chỉ cần có chút cơ hội là Triệu Tập liền tìm cách trù dập Tăng Quốc Phiên, không những vậy Triệu Tập còn đi khắp nơi nói xấu ông, ngay cả đồng nghiệp cũng vì thế mà không xem ông ra gì. Tuy nhiên, tất cả mọi chuyện Tăng Quốc Phiên đều không để trong lòng, luôn coi như không có gì xảy ra, hàng ngày vẫn chuyên tâm làm tròn bổn phận của mình.
Sau này, khi Tăng Quốc Phiên lại được thăng quan tiến chức, làm nên đại nghiệp, có vô số cơ hội để báo thù, nhưng ông trước sau như một, không hề nhắc lại chuyện xưa. Đây chính là người càng có đại nhân cách càng không nhớ thù người khác.
Tăng Quốc Phiên nói:
''Kẻ sĩ có ba điều không làm: Một là không đấu danh với quân tử, hai không đấu lợi với tiểu nhân, ba là không đấu sự khéo léo, tài năng với trời đất.''
Đối với kẻ tiểu nhân mà nói, nếu như chúng ta đấu hơn thua, được mất với họ thì chỉ tốn công hại mệnh vô ích, cũng giống như tự tìm phiền phức cho mình. Cách tốt nhất lúc này là không so đo với họ làm gì.
Không tranh giành, không kì kèo so đo với người khác, làm được như vậy ắt sẽ không có kẻ thù, cũng không khiến người khác ghen ghét. Làm người không tranh giành, không kì kèo so đo, ắt cũng giảm bớt được thời gian vào những việc vô ích, tinh lực dành cho việc mình theo đuổi.
Cũng vì không bận tâm chấp nhặt với kẻ tiểu nhân, không so đo, tranh giành, để bụng với những điều nhỏ nhặt mà Tăng Quốc Phiên đã làm nên kỳ tích. Trong vòng 9 năm ông liên tiếp được thăng 10 cấp quan phẩm, trở thành một vị quan mẫu mực nổi tiếng.
Trí huệ càng cao càng không tham lam
Truyện kể rằng, trước đây có một người nông dân nghèo khổ, một hôm anh ta cứu mạng một con rắn. Vì để đền ơn cứu mạng mình, con rắn đã thoả mãn mọi yêu cầu của người nông dân. Lúc đầu người nông dân yêu cầu có lương thực đầy đủ, con rắn liền đáp ứng; sau đó người nông dân lại yêu cầu được làm quan, rắn kia cũng thoả mãn nhu cầu. Sau rồi người nông dân kia cứ mãi đòi hỏi cho đến khi làm tể tướng, rồi đến làm hoàng đế. Con rắn lúc này mới minh bạch được rằng: “Lòng tham của con người là vô đáy, không có giới hạn”, vậy nên con rắn liền ăn luôn vị tể tướng.
Câu chuyện cho ta thấy một điều, làm người thì đừng quá tham lam, bởi tham lam chính là căn nguyên của rất nhiều sai lầm. “Mật ngọt chết ruồi”, ruồi tham ăn mật ngọt để rồi cuối cùng lại chìm trong hũ mật mà chết. Và cũng có một số người, vì có một mà muốn có hai, có rồi lại muốn có hơn, dục vọng về vật chất, tiền tài danh vọng không ngừng lớn thêm, cuối cùng lại đánh mất luôn cả bản thân mình.
Có người từng nói, tham lam chính là một loại bệnh tâm thần, một loại bệnh khuyết tật. Nó chính là một loại bệnh thái, lẽ nào không phải là bệnh thái sao? Tham lam chính là chiếc bình không đáy, không thể nào lấp đầy nó được, chỉ có cách là cai bỏ nó đi, bỏ đi những thứ dư thừa không cần thiết. Chính vì những thứ đó là nguyên nhân khiến chúng ta không thể có được hạnh phúc chân chính, mà còn cản trở con đường ta tìm đến hạnh phúc.
Tham lam cũng chính là nguyên nhân đưa con người từ chỗ thông minh trở thành kẻ ngốc. Khi con người tham lam cũng chính là lúc họ không biết thỏa mãn với những gì mình đang có, mang những thứ tốt đẹp của mình bỏ đi, đến khi quay đầu thì mọi chuyện chỉ còn lại sự hối hận muộn màng.
Theo Soundofhope
Minh Vũ biên dịch
09/04/2018
-https://www.dkn.tv
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.