Nhớ 'một câu nhịn chín câu lành', người Việt sẽ không hung dữ
Hơn nhau không phải ở nắm đấm mà là ở khả năng học tập, làm việc, chia sẻ, thương yêu, tử tế với ḿnh, với người trong mối quan hệ với cuộc sống xung quanh!
Hạ cẳng tay, thượng cẳng chân sau khi va chạm giao thông - Ảnh do bạn đọc cung cấp
Cách đây mấy bữa, trên đường đi làm về, tôi thấy một đám đông ở Hàng Xanh (Q.B́nh Thạnh, TP.HCM), nghĩ là có kẹt xe. Tới gần mới phát hiện là vừa có vụ va quẹt và hai tài xế đang căi nhau, người đi đường ngang qua ai cũng lắc đầu.
Chuyện va quẹt trên phố đông như Sài G̣n giờ tan tầm là chuyện cơm bữa, nếu cảm thông và chia sẻ được th́ có lẽ người ta sẽ nhẹ nhàng cho qua, tôi nghĩ vậy!
Môi trường nhiều mầm mống bạo lực
Thường người ta sẽ nổi nóng khi gặp một chuyện bất như ư nào đó, như vừa bị sếp la, ra cổng cơ quan bảo vệ đùa một câu, liền sân si. Nỗi buồn, sự bực bội là thứ năng lượng chi phối hành xử khiến người ta không thể kiềm chế được cơn tức dâng lên, lây sang người khác.
V́ vậy, có người dễ nổi nóng đă cảnh báo: "Thấy tôi ‘khó ở’ là tránh xa xa giùm, không ăn mắng ráng chịu". Theo đó, người nóng lâu ngày họ cũng biết tính khí của ḿnh nên có "chống chỉ định" chuyện nói đùa, tiếp xúc lúc họ đang không vui, căng thẳng. Thực ra, khi quá mệt mỏi, phiền muộn trong ḷng, ta không c̣n giữ được ḿnh.
Có người bạn của tôi b́nh thường hiền queo, ai nói ǵ cũng cười. Bỗng một ngày, tôi hỏi "sao buồn dữ rứa?" lại bị bạn nạt cho một câu nghe chưng hửng. Trời, bạn ḿnh đây sao? Mới đầu tôi phản ứng vậy, nhưng chợt dừng lại v́ nhớ ra, đây không phải là bản chất của bạn. Có thể bạn đang có một nỗi niềm, áp lực từ cuộc sống, gia đ́nh, t́nh yêu hoặc bản thân đang trải qua bệnh tật, sự cố…
Ai cũng có lúc nóng giận, nếu ḿnh hiểu th́ sẽ không khiến ngọn lửa trong họ cháy phừng. Tôi im lặng và không bỏ mặc, cuối cùng cũng nghe được thổ lộ từ bạn. Bạn bị nhiều áp lực trong công việc: sếp chèn ép, đồng nghiệp t́m cách chơi khăm, lương không cao, phải chật vật trang trải cuộc sống…
Tất nhiên, nhiều người khó khăn hơn nhưng họ không nổi nóng. Đó là tính cách và sức chịu đựng của từng người. Sự nóng tính là một thói quen được huấn tập hằng ngày theo nguyên lư:
"Thói quen tạo nên tính cách, tính cách tạo nên số phận".
V́ thế, các chuyên gia tâm lư khi chia sẻ với tôi về thói vũ phu của chồng vẫn thường lưu ư, có thể anh ấy từng bị bạo hành lúc nhỏ, từng sống gần những gia đ́nh lớn tiếng, ồn ào đánh căi nhau như cơm bữa.
Sự tác động của cuộc sống xung quanh lên tính cách con người theo hướng đó được ông bà xưa đúc kết rằng "gần mực th́ đen". Cái đen đó cần có thời gian thanh lọc để dần trắng, nhưng nếu vẫn tiếp tục nuôi dưỡng trong môi trường đen hơn th́ sẽ đen đậm hơn.
Ngày nay các văn hóa phẩm mang tính bạo lực vẫn đầy rẫy trên mạng và tồn tại trong cuộc sống, giải trí của nhiều người: từ game online đến phim ảnh. Thường ngày tiếp xúc với sự đánh đấm, máu me trong các "thức ăn tinh thần" đó khiến năo quen với những "mùi vị" của bạo lực, từ đó hành xử theo.
Những kẻ "giang hồ mạng" được ngưỡng mộ và thu tiền trăm triệu cũng chính là một "h́nh tượng" khiến người ta thay đổi suy nghĩ: cần ǵ học hành, tử tế, chỉ cần có "số má" là có thể lên đời.
Môi trường bên ngoài đă vậy, trong nhà trường, gia đ́nh cũng đầy mầm mống bạo lực, tránh sao người trẻ không hoang mang và hành xử theo cách tương tự. Đây mới là điều đáng lo, và người lớn muốn thay đổi không khí bạo lực lan tràn th́ chính bản thân phải nỗ lực để ứng xử nhẹ nhàng với nhau trước.
Nhẫn để yêu thương
Không thể có kết cục tốt với những người nóng nảy. Nhân vật Trương Phi trong Tam Quốc Chí là h́nh mẫu của nóng tính dẫn đến hư sự và mang họa sát thân. Ai cũng nóng nảy trong hành xử th́ chiến tranh sẽ nổ ra, thương vong là tất yếu.
Một câu nói đùa cũng thành chuyện lớn v́ con người ta quá nóng, quá hung dữ; đi nhậu lo hát karaoke cũng bị đánh chết th́… ôi thôi, cuộc sống quá kinh khủng. Pháp luật cần nghiêm minh để trừng trị việc vô cớ đánh, giết người nhưng đó là xử lư phần ngọn, c̣n cái gốc vẫn là giáo dục.
Làm sao để con người có thể chậm lại để phân tích kỹ hơn từng câu nói, từng biểu hiện của người khác, trong đó có thân nhân, bạn bè ḿnh để không chụp mũ rồi hành xử như người điên, người say?
Sống thiền hay b́nh tĩnh sống, sống chậm, sống có chánh niệm… là những cách sống theo tinh thần "nhẫn để yêu thương". Đầu tiên là thương ḿnh. Một người chỉ được người khác tin tưởng, nể trọng và giao việc khi có sự chín chắn, điềm tĩnh trong xử lư. Như vậy, người sống có lư trí, điềm tĩnh chính là cách sống lợi lạc tự thân.
C̣n cái lợi cho người xung quanh, nhất là người thân - thương th́ cũng dễ dàng để thấy. Con cái sẽ học được nhiều điều hay ho từ bố mẹ có cách sống nhẹ nhàng, t́nh cảm. Đó mới là gia tài quư giá để lại cho con.
Hành xử nóng tính dẫn tới hư việc, hại người th́ ṿng lao lư chờ ḿnh là chắc chắn. Một khi đă gây ra sự cố mới hối th́ đâu c̣n kịp. Nhiều người b́nh luận thiếu niên 16 tuổi rút dao đâm chết người nhắc ḿnh chuyện chạy xe chính là "anh hùng rơm", chứng tỏ với bạn gái nhưng rồi được ǵ sau lần ra tay đó? Tù tội và có thể mất luôn bạn gái.
Ai đợi và ai chấp nhận một người giết người làm người yêu, người chồng, người cha tương lai?
Thực ra, sân si - ai cũng có. Cái chính là cách quản lư năng lương tiêu cực đó để những năng lượng tích cực phát triển. Để làm được điều đó, phải xây dựng lối sống nhân văn từ chính mỗi gia đ́nh, người lớn dạy trẻ nhẫn nhịn để an lành như ông bà ḿnh nhắc "một câu nhịn chín câu lành".
Khi Phiền Muộn Hăy Đọc Bài Này, Đọc Xong Sẽ Nhoẻn Miệng Cười!
Đời người ngắn ngủi, bạn có biết như thế nào là hạnh phúc? Người không cần thật đẹp, chỉ cần có t́nh yêu thương; người không cần phải thật giàu, chỉ cần cảm thấy ấm áp. Biết thỏa măn, biết đạm bạc, đó chính là hạnh phúc!
Có một số việc, không phải không để ư, mà là có để ư th́ sẽ như thế nào đây!
Đời người không có chữ nếu, chỉ có hậu quả và kết quả.
Trưởng thành chính là dùng nụ cười để đối diện với mọi việc.
Đường, có lúc không thông th́ ta sẽ chọn đi đường ṿng.
Tâm, lúc không thoải mái, th́ ta xem nhẹ nó đi.
T́nh cảm, đến lúc rời bỏ, nên để tùy ư.
Có một số việc, cố gắng chút sẽ trôi qua.
Có một số người, rất hung ác th́ nên quên đi.
Có chút khổ sở, chỉ cần cười lên sẽ tiêu tan hết thảy.
Có tổn thương, đau đớn qua đi, c̣n lại chính là sự kiên cường.
Rượu, không uống th́ sẽ không say; người, không mệt mỏi sẽ không gục ngă; tâm, không bị thương sẽ không tan nát; việc, không học sẽ không biết.
Vạn người theo không bằng một người thương; vạn người yêu không bằng một người hiểu. Chuyện t́nh cảm không ai có lỗi với ai, chỉ có ai không hiểu ai; người cùng với người không có ai rời bỏ ai, chỉ có thể là ai không biết quư trọng ai.
Người không cần thật đẹp, chỉ cần có t́nh yêu thương; người không cần phải thật giàu, chỉ cần cảm thấy ấm áp.
Biết thỏa măn, biết đạm bạc, đó chính là hạnh phúc! Trong cuộc đời có một người yêu ta, hiểu ta, bao dung ta, lo lắng cho ta, th́ ta chính là người hạnh phúc nhất.
Nếu có một ngày, có một người sẽ đi vào cuộc sống của ta, làm cho ta hiểu được v́ sao ta cùng với những người khác đều không có kết quả. Kỳ thực, không có cái ǵ là không thể buông tay.
Thời gian trôi qua, khi ta nh́n lại, ta sẽ phát hiện, những thứ mà ta tưởng sẽ không thể buông tay, chỉ như là một lực đẩy, giúp ta trưởng thành.
Khi biết rằng ḿnh có thể phấn đấu, th́ đừng bỏ cuộc.
Chờ đợi thật khổ sở, nhưng hối hận sẽ càng khổ sở hơn.
Lúc tâm t́nh không tốt, nhắm mắt lại, tự nói với chính ḿnh, đây chỉ là ảo giác.
Khóc cho ḿnh nghe, cười cho người khác nh́n, đây được gọi là nhân sinh.
Cho dù chính ḿnh không vui vẻ, cũng tuyệt đối không đi quấy nhiễu hạnh phúc của người khác, đây là nguyên tắc.
Những chuyện đă qua th́ hăy để cho nó qua đi, nhất định hăy để nó qua đi.
Cho dù đánh mất tất cả, cũng không được đánh mất nụ cười.
Cuộc đời không có điểm dừng, hiện tại luôn là điểm xuất phát.
Bất cứ ở đâu, bất cứ khi nào, không thể bỏ cuộc, chỉ có thể giữ vững ư chí phấn đấu, mới có thể chứng tỏ được sự tồn tại của sinh mệnh.
Cuộc sống mặc dù có khó khăn, nhưng nhất định phải tự ḿnh đứng vững, không được dễ dàng dựa vào người khác. Học cách nhẫn nại, đừng phạm sai lầm của người khác, cũng đừng lấy sai lầm của người khác mà trừng phạt chính ḿnh.
Hôm nay có thể là đại sự, nhưng tới ngày mai sẽ trở thành việc nhỏ; Năm nay sẽ là đại sự nhưng tới sang năm sẽ trở thành chuyện đă qua; kiếp này là đai sự, nhưng đến kiếp sau sẽ thành truyền thuyết. Chúng ta cùng lắm cũng chỉ là người có chuyện xưa mà thôi, cho nên, trong cuộc sống, trong công việc gặp việc không như ư, th́ hăy nói với chính bản thân ḿnh rằng: Hôm nay sẽ là quá khứ, ngày mai sẽ là tương lai, một ngày mới lại bắt đầu, cần buông bỏ hết thảy mọi thứ.
Đời người tựa như cây Bồ công anh, nh́n th́ như tự do, nhưng thân bất do kỷ. Nhân sinh không có nếu, chỉ có hậu quả cùng kết quả.
Vận mệnh chỉ do ḿnh nắm giữ, người khác không thể nắm được.
Trưởng thành, chính là dùng nụ cười để đối diện với mọi việc.
Cái ǵ là của ḿnh, th́ sẽ là của ḿnh. Càng muốn chiếm lấy th́ càng dễ dàng mất đi.
Di Cư Vào Việt Nam, Một Dấu Hiệu Bất Thường - Đỗ Ngà
Theo tổ chức di cư quốc tế IMO th́ từ năm 1990 đến 2015 có 2.558.678 người Việt di cư sang nước ngoài. Tức mỗi năm chừng 100.000 người bỏ xứ ra đi, chủ yếu là đến các nước Âu – Bắc Mỹ – Úc Châu. Thành phần ra đi đến xứ này đa phần là khá giả.
Mỗi năm cũng chừng 115.000 người chết v́ ung thư. Và 160.000 người bị phát hiện mắc chứng bệnh này. Dần dà, dân tộc Việt Nam như trở thành dân tộc nhiều bệnh tật do thực phẩm ở Việt Nam nó vừa là thực phẩm vừa là chất độc. Tuy nhiên, thực phẩm độc không chỉ gây ung thư mà c̣n gây quái thai. Trong 10 tháng, bệnh viện Sản Nhi Nghệ An – một vùng thuộc khu vực ảnh hưởng chất độc do Formosa xả đă phát hiện ra 700 ca quái thai. Đấy chỉ là một vùng nhỏ thuộc khu vực phục vụ của bệnh viện. Khu vực ảnh hưởng của chất thải đó Formosa xả ra là 4 tỉnh th́ con số thai nhi bị quái thai không hề ít. Mà trên khắp Việt Nam không chỉ có một ḿnh Formosa gây ô nhiễm.
Đất nước Việt Nam đang là nơi độc hại, người có tiền th́ ra đi nơi khác mang theo của cải ra đi. Người giỏi cũng t́m đường ra đi bằng cách này hay cách khác. Không ai muốn ở lại, chẳng qua người ta không thể đi được th́ người ta mới ở lại. Ở lại Việt Nam cái ǵ cũng độc hại: giáo dục độc hại, xă hội độc hại, môi trường độc hại vv… th́ ai muốn ở?
Như vậy rơ ràng môi trường đất nước này đă buộc người dân Việt Nam phải tha hương cầu thực và mang cái tính xấu quảng bá khắp thế giới làm người ta kinh tởm và lánh xa xứ Việt. Theo thống kê, ngành du lịch Việt Nam cho biết, có đến 90% du khách đến Việt Nam 1 lần rồi nói lời bye bye nước mà không bao giờ quay lại. Đó là minh chứng cho một Việt Nam đáng tởm chứ không phải là nơi hấp dẫn ǵ cả.
Như vậy câu hỏi đặt ra là, Việt Nam là vùng đất dữ như vậy, người Việt không muốn ở, du khách không muốn quay lại, th́ nếu có một làn sóng người bước ngoài di cư vào Việt Nam th́ có phải đó là sự bất thường không? Vâng, điều tôi muốn nói đó là làn sóng người Trung Quốc di cư vào Việt Nam.
Vân Đồn xong, Móng Cái xong, Hạ Long xong, Đà Nẵng xong, Nha Trang xong v́ tất cả những nơi đây người Trung Quốc đă đến và làm chủ khắp nơi. Và hôm nay, người Trung Quốc đă nam tiến. Như ta biết, báo chí đă thông báo, người Trung Quốc đang đăng kí mua nhà tại Sài G̣n rất đông, chiếm đến 40% thị trường BĐS khu vực này. Thế là thủ phủ của khu vực miền Nam đang bị Tàu tấn công bằng những cuộc di cư.
Trên biển, chính quyền Trung Quốc đă tung ngư dân của họ xuống phủ kín biển Đông để chiếm giữ biển làm nhiệm vụ chính trị cho ĐCS Trung Quốc mà không cần phải bắt cá. Thêm nữa khu vực gần bờ Việt Nam, Trung Quốc cũng thả ngư lôi mục đích là vừa để đe dọa ngư dân Việt và vừa để thăm ḍ khả năng pḥng thủ hải quân Việt Nam. Kết quả, hải quân không hề phát hiện ǵ cả. Hay nói đúng hơn, ĐCSVN đă đánh thông điệp với phía Trung Cộng rằng “chúng tôi đă buông”. Với thói tham vọng vô độ của Tàu Cộng, chắc chắn trong tương lai, Trung Cộng sẽ không để cho Việt Nam sở hữu một giọt nước mặn nào cả.
Ư đồ áp sát vào Việt Nam từ biển đến đất liền là quá rơ ràng. Thêm vào môi tường Việt Nam không phải là vùng đất để đến đây sinh sống, vậy người Trung Quốc di cư vào Việt Nam, mà cụ thể là họ đổ về Sài G̣n để làm ǵ? Có tiền họ mua BĐS đầu tư và định cư ở xứ Âu – Mỹ – Úc chứ họ đến Việt Nam để làm ǵ? Xin trả lời, đó là để làm nhiệm vụ chính trị.
Hiện nay ĐCS Trung Quốc đă điều khiển ĐCS Việt Nam, chuyện bàn giao nước Việt cho Tàu không dễ dàng ǵ, v́ nếu người dân Việt quyết sống mái một phen với ĐCSVN để kéo cổ nhóm phản quốc xuống th́ Trung Cộng sẽ mất toi hết công lao gầy dựng cuộc xâm lược mềm mấy thập niên ṛng ră. Cho nên Tàu phải có giải pháp khắc chế. Vậy giải pháp là ǵ?
Lấy chính dân Tàu làm mồi nhử. Nghĩa là sao? Nghĩa là Tàu buộc đám tay sai để người Tàu vào án ngữ tại các địa điểm trọng yếu và nắm giữ hầu hết các cơ sở kinh tế lớn. Người Tàu sẽ di cư đến và sinh sôi để tạo thế cài răng lược Tàu – Việt. Khi dân Việt nổi dậy mà mâu thuẫn với dân Tàu, th́ lúc đó, quân đội Tàu có quyền đem quân sang Việt Nam bảo vệ người Tàu.
Đến lúc đó, việc diệt chủng tộc Việt sẽ được tiến hành song song với quá tŕnh chuyển giao. Mọi nước đi Trung Cộng với mỗi nước lùi của Việt Cộng, nếu toàn dân không thức tỉnh kịp thời, có lúc sẽ không c̣n kịp. Vậy thôi.
Mùa Giáng Sinh Tập Đức Khoan Dung - Ngô Nhân Dụng
Năm ngoái, nhiều người đề cao chủng tộc da trắng tập họp biểu dương t́nh đoàn kết và sức mạnh; có những người phản đối họ cũng tập họp để bày tỏ thái độ. Từ bao nhiêu năm, ở nước Mỹ hiện tượng đó vẫn là b́nh thường. Nhưng bây giờ, đă gây ra đổ máu. Người Do Thái đă được chấp nhận vào sống trong nước Mỹ khi tị nạn ở Âu châu từ đầu thế kỷ 20. Nhưng trong vẫn có đám khủng bố đến bắn vào một giáo đường Do Thái giáo, làm chết hơn 10 người.
Ở nước Mỹ, từ lâu lắm, ít khi thấy dư luận trong xă hội chia rẽ, phân biệt, đối nghịch mạnh như hiện nay. Trong một nước tự do dân chủ chuyện bất đồng ư kiến về chính trị là đương nhiên, ai cũng công nhận. Nhưng nhiều người bây giờ coi ai nghĩ khác ḿnh đều là ngu dốt, điên cuồng, hoặc tệ hại hơn, là phản bội quốc gia. Những lời mạt sát lẫn nhau được tung lên mạng làm không khí nhiễm độc.
Nhân mùa Lễ Giáng Sinh, chúng ta cần học lại và thực tập Đức Khoan Dung.
Từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 20 nhiều người di dân ở Âu Châu t́m tới nước Mỹ chỉ v́ họ đă bị kỳ thị chủng tộc và tôn giáo ở đất nước cũ của họ. Dân Mỹ đă phải tranh đấu rất nhiều đời mới xóa bỏ được những tập quán và luật lệ phân biệt chủng tộc hay tôn giáo
Ngay từ trước khi lập quốc, dân Mỹ đă tranh đấu vất vả mới bảo vệ được tinh thần bao dung về tín ngưỡng. Những nhóm di dân đầu tiên đến đất Mỹ là những người đă bị bức hại về tôn giáo ở nước Anh nên phải trốn đi. Trong số đó có những người theo Thành Giáo (dịch chữ Puritanism). Khi tới miền đất mới, họ được tự do hành đạo nhưng có lúc họ muốn bắt mọi người chung quanh phải tôn trọng các tín điều và nghi lễ của họ.
Vào thế kỷ 17, có một thời chính quyền ở Boston, tiểu bang Massachusetts, đă ra lệnh cấm không ai được mừng lễ Giáng Sinh dưới mọi h́nh thức. V́ tín điều của họ bảo như vậy. Nhưng có rất nhiều nhóm theo giáo phái khác vẫn muốn cử hành Christmas, và họ cương quyết bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, quyền tự do hành đạo.
Ông Roger Williams, đă trốn khỏi Anh Quốc đi t́m tự do, tới Massachussetts năm 1631. Ở đâu ông cũng tuyên dương nguyên tắc “Nhà nước không được xâm phạm vào đời sống tín ngưỡng của người dân!” Ông bị trục xuất khỏi thuộc địa này, phải chạy sang sống ở phần đất bây giờ là tiểu bang Rhode Island. Ở đó, ông tiếp tục tuyên dương quy tắc tự do tín ngưỡng. Cuối cùng th́ lẽ phải đă thắng. Lẽ phải, ở đây là quyền tự do tín ngưỡng. Người Việt tị nạn đến sống ở Mỹ khi truyền thống khoan dung đó đă được củng cố. Chúng ta biết ơn các thế hệ tiền nhân của quốc gia này.
Người Việt Nam chúng ta cũng chứng tỏ một di sản lịch sử và văn hóa bao dung, không kỳ thị tôn giáo. Linh mục Alexandre de Rhodes đến Việt Nam vào đầu thế kỷ 17 đă được vào giảng đạo trong cung Vua Lê và phủ Chúa Trịnh. Trong hai năm, gần bẩy ngàn người theo đạo, hàng trăm người trong cung vua, phủ chúa. Vào thế kỷ 17 khi Nhật Bản cấm đạo, hàng trăm giáo dân và giáo sĩ người Nhật đă sang tị nạn ở Hội An nước ta cùng các linh mục Bồ Đào Nha. Chính họ lập những cộng đoàn Thiên Chúa Giáo đầu tiên ở Đàng Trong.
Đối với mỗi cá nhân, tập đức khoan dung là điều khó. Nhưng nếu chúng ta có tôn giáo, tin tưởng ở một con đường cứu rỗi, chúng ta có thể nh́n ngẫm tấm gương của Chú GiêSu, của Phật Thích Ca hay các v́ thánh nhân khác, để tập sống đức khoan dung của các ngài, tập cho đến nhập tâm.
Nhưng vượt lên trên mỗi cá nhân, th́ các tập thể, một gia đ́nh, một nước, một xă hội, phải làm ǵ để thể hiện đức khoan dung?
Chắc có nhiều cách lắm. Loài người đă thử nghiệm nhiều phương pháp sống với nhau sao cho an lành. Có lúc phương pháp này đem lại kết quả tốt một thời gian, nhưng trong xă hội lại sinh ra các biến chứng tai hại, phải t́m ra phương pháp khác.
Trước đây, các đế quốc có khi giúp cho nhiều dân tộc được sống ḥa b́nh. Thành Cát Tư Hăn đem quân Mông Cổ chinh phục khắp nơi; tới đâu họ cũng tuyên dương quyền hành đạo của tất cả các tôn giáo. Người Mông Cổ không theo một tôn giáo kiên cố nào cho nên dễ thi hành chính sách đó. Đế quốc Hồi Giáo khi cai trị bán đảo Iberia, cũng cho dân chúng ở Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha tự do hành đạo, kể cả người theo Do Thái Giáo. Nhưng các đế quốc làm được điều này v́ họ dùng bạo lực ép buộc mọi người. Loài người không chấp nhận cách cai trị đó nữa.
Cho đến thế kỷ 18, và kéo dài cho tới bây giờ, một cách sống chung đề cao đức khoan dung với kết quả tốt là chế độ dân chủ tự do.
Có nhiều thứ đáng nói về đặc tính của một chế độ dân chủ tự do, nhưng hôm nay ngày Giáng Sinh chúng ta ngẫm nghĩ về một đặc tính của các xă hội dân chủ tự do. Đó là, mọi người có thể khoan dung khi sống với nhau, dù mỗi cá nhân chưa tu tập đủ để sống khoan dung trong chính đời sống hàng ngày của ḿnh. Các định chế của các nước dân chủ đều bảo đảm quyền của mỗi người được phát biểu tự do, hội họp tự do. Không ai có thể nắm quyền tuyệt đối.
Chế độ dân chủ tự do chỉ giả thiết rằng loài người rất phức tạp, mỗi người một ư, một sở thích, và quyền lợi thế nào cũng có lúc xung đột. Không những thế, ngay cả khi mọi người đều đồng ư với nhau về các giá trị chung, như công bằng, bác ái, tự do, trật tự, ḥa hợp, vân vân, th́ ngay trong hệ thống giá trị đó, cũng có nhiều xung khắc. V́ trong số các giá trị đó, điều nào được ưu tiên. Có lúc xă hội cũng phải lựa chọn giá trị này mà hy sinh giá trị khác.
Khi nào th́ chúng ta thấy tự do là điều tối quan trọng? Khi nào th́ chúng ta phải hy sinh bớt tự do để sống ḥa hợp và trật tự hơn? Khi nào th́ việc thực hiện công bằng sẽ làm cho tấm ḷng bác ái không được thể hiện? Biết bao nhiêu thứ giá trị chung của nhân loại tự chúng cũng xung khắc với nhau. Loài người phải lựa chọn liều lượng gia giảm cho thích hợp với từng con bệnh xă hội, từng thời điểm, từng nền văn hóa.
Muốn sống khoan dung được với nhau th́ chắc loài người phải đặt ra một số quy tắc, dựa trên đó mà lựa chọn. Đó là vấn đề thể chế chính trị. Trong lịch sử đă có những vị minh quân đóng vai lựa chọn cho tất cả thần dân, và họ đă tạo được các triều đại b́nh an, thịnh vượng. Nhưng sau khi họ chết đi rồi, không có ǵ bảo đảm là con cháu họ sẽ tiếp tục những triều đại vàng son khác. Ông Nguyễn Hiến Lê trong cuốn Sử Trung Quốc đă nhận xét rằng các triều đại đế chế ở Trung Hoa có quá nhiều vị hoàng đế tàn bạo hay bất lực. Nếu so sánh th́ ông thấy thời Đế quốc La Mă có nhiều vị hoàng đế anh minh kế tiếp nhau hơn. Tại sao?
V́ các hoàng đế Trung Hoa theo chế độ cha truyền con nối, nếu may mắn th́ được ông con tốt như ông bố, nhưng rất hiếm, tức là xác suất rất thấp. Trong khi, có một thời, các vị hoàng đế La Mă phải được nguyên lăo nghị viện bầu lên. Như vậy là xác suất có được những minh quân cao hơn! Đến khi người La Mă cũng theo tṛ cha truyền con nối th́ dân chúng lại phải chịu tṛ đỏ đen của số mệnh!
Cho đến nay chế độ dân chủ tự do có những quy tắc tương đối hữu hiệu nhất để người dân một nước lựa chọn cùng với nhau. Tấm ḷng khoan dung của mỗi người dễ nảy nở hơn v́ không ai nắm độc quyền áp đặt người khác.
Người Việt Nam ở nước ngoài phần lớn sống trong các nước tự do dân chủ. Chúng ta có thể thực tập đức khoan dung theo lư tưởng của các quốc gia ḿnh sống. Những lư tưởng này được thể hiện trong hiến pháp, trong luật lệ. Không nên v́ thấy trong các quốc gia đó đang có những xung đột, chia rẽ, kỳ thị mà nghĩ rằng các dân tộc này đă mất lư tưởng bao dung mà họ tôn thờ. Trong nội bộ những người Việt tị nạn xa quê hương, chúng ta càng nên thể hiện đức khoan dung với nhau. Bởi v́, nếu chúng ta muốn đồng bào ở trong nước có ngày sớm được sống tự do th́ chính chúng ta phải chứng tỏ ḿnh có thể sống theo tinh thần dân chủ tự do. Một nền tảng của tinh thần đó là chấp nhận những người không đồng ư với ḿnh, và kính trọng họ.
Hồi học tiểu học ở Hà Nội tôi có một người bạn ngồi cạnh bị cụ giáo dạy chúng tôi ở lớp Nh́ ghét thậm tệ.
Trong suốt mấy tháng đầu của niên học, người hàng xóm của tôi bị ăn bao nhiêu là roi mây, cho đến khi bạn tôi bỏ hẳn cái thói quen thay tất cả “ph” bằng “f,” thói quen không biết chàng học ở đâu, có thể là chàng mang từ hậu phương về Hà Nội không chừng. Tôi chắc chàng học của bác Hồ của chàng, v́ bác là người đă nghĩ ra cái lối viết mà thầy giáo của chúng tôi rất ghét đó.
Nhiều năm sau, trong bản di chúc anh già này viết để lại cho đàn em với ghi chú “tuyệt đối bí mật,” ai cũng đọc thấy tận mắt lối viết ấy.
Ngay ở đầu, là hai hàng chữ “Việt nam zân chủ cộng ḥa độc lập, tự zo, hạnh fúc,” rồi trong suốt 7 trang di chúc viết tay đó, là những lối viết quái đản gọi là cải cách đó.
Cách viết đó h́nh như về sau cũng không có được bao nhiêu người bắt chước làm theo. Người ta không thấy (mấy) ai dùng “f” thay cho “ph,” dùng “k” thay cho “c.” Nhưng mới đây, lối viết ngớ ngẩn đó lại được thấy trong một tấm bằng do một trường bách khoa cấp cho các học viên tốt nghiệp. Trong tấm bằng này, trường đă ghi môn học của học viên là “Major in Farmacy Technician.”
Có tới hai lỗi trong hang chữ vừa dẫn ở trên.
Thứ nhất là danh từ “Pharmacy” bị viết sai là “Farmacy” với “f.” Không thể thay “Ph” bằng “f” được. Tiếng Anh cũng không được, mà tiếng Pháp cũng không được. Khi cái lỗi này được báo chí nêu ra, th́ một anh cóc nhái của trường giải thích rằng đó là cách viết tắt nên không có ǵ là sai cả.
Nói vậy là nói láo, là dốt mà là căi chầy căi cối. Nếu viết tắt (abbreviate hay shorten) th́ Pharmacy phải viết là “Pharm.” Không bao giờ là “Farmacy” cả.
Lỗi thứ hai là chữ “technician.” “Technician” là chuyên viên kỹ thuật, là kỹ thuật viên. Môn học là “technology.” “Technician” là người nghiên cứu hay theo học môn “technology.” Không thể có môn học “technician” bao giờ.
Những sai sót như thế không phải là ít. Trên một số văn bằng cấp cho các sinh viên người ta thấy rất nhiều những lỗi rất sơ đẳng như vậy. Cả những chữ giản dị như tên tháng ghi “July” thành “Yuly”; “Hiệu Trưởng” ghi là “Hệu Trưởng”; “Information” thành “Infomation” (thiếu chữ “r”; “very” thành “verry” thừa chữ “r”…
T
hí dụ văn bằng Bachelor of Engineer do trường Đại Học Kiến Trúc cấp chẳng hạn. Không bao giờ có thứ bằng cấp này cả. Nếu đó là bằng kỹ sư th́ phải ghi là Bachelor of ENGINEERING. Không bao giờ là Bachelor of ENGINEER . Danh từ ENGINEERING là môn (học) kỹ sư trong khi ENGINEER là (người) kỹ sư. Học th́ học môn ENGINEERING. Không ai học ENGINEER cả.
Những sai sót như thế là những sai sót không thể chấp nhận được khi nó xuất hiện trên những văn kiện của những cơ sở cao cấp trong lănh vực giáo dục. Các sinh viên, học viên tốt nghiệp của các trường đó khi xuất tŕnh các văn bằng do các cơ sở cấp phát chắc chắn sẽ gặp phải những thái độ nghi ngờ về khả năng của họ, và cơ hội được tuyển dụng chắc chắn cũng giảm đi không ít. Một cơ sở giáo dục cao cấp mà để lại những sai sót ngu xuẩn như thế th́ tŕnh độ của những người được các cơ sở đó đào tạo như thế nào th́ người ta không cần phải t́m hiểu lâu la ǵ cũng biết.
Vậy th́ cách hay nhất là đừng xuất tŕnh những thứ bằng cấp như thế làm ǵ. Cứ khai phứa phựa là có bằng nọ bằng kia là đủ. Như trường hợp của tên y tá chích đít nọ rồi cũng làm tới chức thủ tướng mà không ai biết nó học ở đâu mà vẫn nhận là có bằng cử nhân luật vậy.
Đúng là “nói láo mà chơi, nghe láo chơi” như câu thơ của Bồ Tùng Linh vậy.
Trong giấc mơ anh suốt cả sáu năm trời ở trong trại, không có ngày nào anh không mơ ước một ngày như ngày hôm nay, ngày trở về đoàn tụ.
Anh nhớ như in cảm giác của ḿnh khi cả trại được kêu lên hội trường. Lần này nhân dịp ngày 30 tháng tư, ngày Giải Phóng Thống Nhất Đất Nước và Lễ Lao Động 1 tháng Năm, nhà nước sẽ khoan hồng tha cho một số anh em học tập cải tạo tốt. Soại nghe trong lơ mơ v́ anh không có hy vọng của sự trở về. Anh đă chai ĺ trong sáu năm với biết bao đợt về mà không có tên anh.
- Trần Quang Soại.
Soại giật nẩy ḿnh lên, rồi hô to:
- Có.
Anh đứng dậy nở nụ cười thật tươi với bạn bè ngồi chung quanh. Có những tiếng lố nhố:
- Thằng Soại trúng số rồi, về chuyến này vợ tha hồ có đồ chơi, nhớ lên gặp tư Thông nghe mày.
Anh mỉm cười với những câu nói đó, cố lách bước ra ngoài đám đông đang ngồi dưới đất nghe gọi tên.
- Kỳ này về đông he, hăm mấy đứa.
Anh bươn bả về pḥng rồi gọn gàng đồ đạc, những đồ đạc ít ỏi của anh. Anh vùi tất cả trong cái bao cát là xong ngay. Những người được thả về đợt này sẽ qua dăy trại bên kia, ở lại khoảng một hay hai tuần để bồi dưỡng, rồi mới cho về nhà hẳn.
Soại nhớ đến Nại Hiên ngay khi vừa được kêu tên. Anh nghĩ nhiều về nàng và các con. Anh quyết định sẽ không về trung với mẹ, anh sẽ về t́m Nại Hiên. H́nh ảnh Nại Hiên lập lờ nửa như mời gọi, nửa như quay mặt. Nhưng dù ǵ anh cũng về t́m.
Anh nhảy tàu trong đêm khuya khi tàu vừa chạy vào ga La Hai, anh rúc vào nằm trong toa chứa hàng, may mà tất cả đều an toàn, không có chuyện ǵ xảy ra.
Bây giờ th́ Nại Hiên xuất hiện trước mặt anh bằng xương bằng thịt. Nại Hiên đi rồi nhưng h́nh ảnh vẫn c̣n bay bay trong anh. Đúng là người đàn bà ba mươi tuổi vẫn c̣n xuân sắc quá, anh nghĩ, ḿnh dù không được thăm nuôi trong bao nhiêu năm, mà trở về c̣n vợ con là điều may mắn. Và biết ơn nàng.
Biết bao chuyện kể, anh nghe được, khi người tù cải tạo trở về. Có người vừa về đến nhà gặp ngay nón cối treo ở pḥng ḿnh và người vợ đă chỉ vào mặt người chồng, đuổi ra khỏi nhà. Biết bao chuyện người vợ cặp kè với dân chợ trời, vơi chủ ghe chuyên đóng thuyền vượt biên, với tài xế xe khách đường dài... Mọi chuyện như là một câu chuyện tiếu lâm cười ra nước mắt, khó tin nhưng có thật, rồi qua những cái loa miệng của người có thân nhân đi thăm nuôi kể lại. Mọi chuyện, Soại nghĩ đều có thể xảy ra cho ḿnh và anh yên tâm chấp nhận nó. Nay, anh trở về b́nh an với vợ con như thế này thật là điều vạn hạnh. Anh lên giường nằm rồi ngủ luôn một giấc ngon lành.
***
Nại Hiên trở ra sạp bán hàng. Nàng im lặng, nhỏ nhẹ trả lời những câu ngắn với chị em bạn hàng bên cạnh.
Chị Hoàng hỏi:
- Chú út về mạnh giỏi không cô?
- Khoẻ sao được mà khoẻ, đi ở tù mà, ốm nhách à.
- Nhưng về được là may rồi, có nhiều người bịnh quá, đói qua chết trong tù đó cô.
- Dạ.
Nại Hiên đáp lí nhí trong miệng. Nàng lo bày hàng để bán tiếp tục.
Khoảng buổi chiều th́ Quốc trở về, mồ hôi mồ kê đổ ra nhễ nhại. Anh dựng chiếc xe phía ngoài rồi bước vào sạp với vẻ mặt hớn hở. Anh ngồi xuống chiếc ghế dành cho khách ngồi mua hàng, rồi nói với Nại Hiên:
- Xong rồi d́, mọi chuyện đều xong, ba cái giấy khai sinh của ba đứa nhỏ. Chỉ cái giấy li dị c̣n trục trặc v́ dưới xă họ không có quyền làm giấy này, phải giả con dấu của ṭa án mới được.
Nại Hiên nét mặt lặng thinh, không vồn vă hớn hở như những lần trước. Đợi cho Quốc nói xong, nàng mới lên tiếng:
- Anh Soại về rồi, ông xă d́ đó, về hồi sáng nay.
Câu nói làm Quốc rơi vào khoảng không. Sự việc anh chưa nghĩ đến bao giờ. Nó đến hơi đột ngột v́ anh đang thực hiện từng bước những dự tính của ḿnh. Nhưng anh cũng nói:
- Dượng về th́ vui cho d́. Nhưng tất cả con nghĩ th́ d́ cứ tiếp tục công việc như đă tính. Tại v́ c̣n chế độ này th́ ḿnh c̣n phải luồn lách thế nào cho lợi là được.
Câu nói của Quốc có vẻ hơi sổ sàng nhưng rất thật. Anh biết điều đó qua cha anh, người cha tập kết trở về, có thêm một bà vợ và mấy đứa con. Ông trở về trong cái xách tay có mấy kư đường mua bằng tem phiếu, để về biếu cho người vợ cũ sau hơn hai mươi năm xa cách. Khi ông trở về lại đất bắc, mẹ Quốc đă mua cho ông những món hàng đắc giá làm ông choáng ngợp. Nên ông nghĩ trong chuyến đi này ông có lăi. Cái mà suốt trong mấy mươi năm ông mơ ước, ông cống hiến cả đời, để có, mà không có được. Trong chuyến đi có lăi đó của cha, đă dạy cho Quốc một điều, là phải kiếm tiền bằng mọi cách.
Quốc nhờ cái lư lịch trong suốt nên anh được nâng điểm và anh đă đậu vào khoa chuyên hóa ở trường đại học khoa học, Sài G̣n.
Vừa đi học vừa đi làm, đi làm đây là t́m những cái áp phe để kiếm tiền thêm, như chuyện lo làm ba cái giấy khai sinh giả cho ba đứa nhỏ. Quốc đă làm xong và chi cho mấy đồng chí uỷ ban xă một chỉ vàng. Quốc lấy của Nại Hiên hai chỉ. Quốc có lời nhưng vẫn được điểm của Nại Hiên về sự thiệt thà, giúp đỡ.
Bây giờ Soại đă về, tự dưng hai người thấy ḿnh đứng cách xa nhau. Những đêm Quốc tới nhà, cùng nghe nhạc, hoặc Quốc đàn cho nàng hát những bản t́nh ca nàng thích, bên ngọn đèn cầy. Những lúc đó nàng muốn ngă vào ḷng Quốc, ngă vào bờ ngực nở nang, rộng mênh mông của Quốc, rồi sau đó ra sao th́ ra. Nhưng mọi chuyện chưa xảy ra, chỉ là trong ư tưởng. Quốc cũng rung động v́ những quyến rũ của người đàn bà ba mươi tuổi, nhưng anh chưa giám làm một cử chỉ ǵ lộ liễu.
Bây giờ Soại về, t́nh cảm đó có c̣n tiếp nối được không? Như có một bức tường vô h́nh nào đó ngăn cản lại những đam mê nẩy mầm. Nại Hiên nói giọng buồn buồn:
- D́ cảm ơn Quốc những ngày qua đă giúp d́ công việc. Quốc cứ lên nhà chơi như thường ngày. Để rồi d́ sẽ tính cho cuộc sống của anh Soại.
Câu nói của Nại Hiên là câu nói mớm lời, mập mờ hứa hẹn. Quốc thấy vui trở lại, anh đứng lên:
- Thôi con về, nếu con lên nhà d́ không tiện th́ con sẽ đến đây thăm d́.
Câu nói đó cũng là một câu hứa hẹn nữa, và nó đầy sức quyến rũ.
Quốc ra xe và rồ máy đi, nàng như đang thả hồn ḿnh bay theo Quốc, qua từng chặng, từng chặng đường. Nàng thấy ḿnh đang đứng trước ngă ba đường. H́nh ảnh Soại xanh xao ốm yếu nhập nḥa trước mắt, nàng có một chút ḷng thương hại, một chút thương yêu, một chút bổn phận vợ chồng, nhưng h́nh ảnh Quốc nổi lên làm nàng tê tái, choáng ngợp.
Buổi chiều xuống thấp bên ngoài, bạn hàng lục tục ra về. Tiếng kít kít của những chiếc xe đẩy hàng làm nàng choàng tỉnh. Nại Hiên vội vàng dọn dẹp hàng rồi chờ người đẩy xe tới chuyển hàng đi. Chị Hoàng trước khi ra về ghé qua sạp của Nại Hiên hỏi vài câu:
- Sao út Hiên về trễ vậy? Có ông xă về là vui rồi há.
- Dạ, em bận mấy người mua hàng cứ lựa đi lựa lại hoài, em bực muốn chết. Mới xong là em dọn hàng ngay đây chớ.
- Mấy người đi cải tạo mới về, bao tử c̣n yếu lắm, em cho ăn từ từ nhe. Có nhiều người ăn ngon quá, ăn nhiều bể bụng chết luôn đó.
Những câu dặn ḍ chân t́nh của người bạn hàng làm ḷng Nại Hiên dịu lại. Nàng xách giỏ ra về.
Trên đường đi, nàng nghĩ, phải phải mua cho Soại mấy bộ quần áo cũ, mua thêm chút cá, chút thịt cho bữa cơm đầu tiên của ngày đoàn tụ ra vẻ một chút. Dù sao, Soại mới về, cũng đừng làm cho anh mặc cảm.
Nàng tần ngần đứng ngoài cánh cửa khép hờ nh́n vào. Cha con Soại đang nói chuyện bên trong. Ba đứa con gái không có cha lâu ngày, bây giờ tự nhiên về nhà thấy ông nào nói là ba của chúng, ba đứa hơi rụt rè. Nhưng rồi h́nh như có sợi dây máu mủ thiêng liêng, một chốc đă xóa tan đi trong ḷng ba đứa nhỏ những bỡ ngỡ chập choạng ban đầu. Bây giờ tiếng nói, tiếng cười, ḍn tan giữa ba cha con.
Con Anh Thư hỏi:
- Ba đi ở tù vậy người ta cho ba ăn ǵ ba?
- Th́ khoai ḿ lác với nước muối.
- Có cơm không ba?
- Có, nhưng ít lắm, một năm một vài lần.
- Ba ăn no không?
- Đâu có nhiều mà ăn no.
Nại Hiên nghe cha con Soại đối đáp nhau như chính Soại nói với ḿnh, em bỏ anh suốt mấy năm, anh đâu có được thăm nuôi tiếp tế, anh sống lê thê lếch thếch trong trại tập trung như một kẻ lạc loài. Lời trách cứ đó văng vẳng bên tai làm nàng lùng bùng. Nàng đẩy cửa bước vào, các con bỏ Soại chạy lại bu quanh mẹ. Chúng reo lên:
- Me về, me về.
Nàng cười với con và hỏi:
- Cha con nói chuyện ǵ mà vui thế, cơm nước ǵ chưa?
Anh Thư nhanh nhẩu:
- Con nấu cơm, hâm cá lại rồi, chờ mẹ về là ăn cơm thôi.
Nàng đưa giỏ đựng thức ăn cho Anh Thư rồi nói:
- Có cá với thịt me mới mua, con rửa sạch lại rồi thịt th́ kho mặn, c̣n cá th́ nấu canh nhé.
Anh Thư cầm giỏ thức ăn đi xuống bếp. Nó lớn lên trong hoàn cảnh cơ cực nên đă làm được tất cả những công việc ở trong nhà. Đông Nghi với Anh Chi đứng chờ xem me có mua quà cho không, Nại Hiên nói:
- Hôm nay có ba về, me quên mua quà cho hai đứa rồi.
Rồi nàng quay qua Soại đang đứng xớ rớ gần đó. Soại vẫn mặc cái quần xà lỏn buổi sang, anh chỉ c̣n chỉ một cái quần này là tạm được, dù đă cũ và rách, những cái quần khác đều là quần bao cát. Nại Hiên đưa gói áo quần cho Soại:
- Em mua cho anh mấy cặp đồ và đồ lót, anh vào tắm rửa rồi thay đi, bỏ hết quần áo cũ, đốt hết đi. Đồ trong trại nhiều vi trùng lắm, đừng tiếc.
Câu nói của Nại Hiên là câu nói thật và đúng. Anh nhớ những lúc anh làm ở đội rau xanh, buổi sáng phải múc nước tưới rau ḥa với phân người. Phân người lấy từ hố xí tập thể. Anh em cải tạo lấy những cái thùng phuy lớn, đóng hai cây ngang rồi ngồi trên đó mà đi cầu, phân dồn lại, ruồi nhặng bay tràn đầy, sinh sôi nẩy nở, ḍi bọ ḅ lổn nhổn. Anh lấy xẻng xúc phân, gánh ra khu rau xanh, ḥa với nước tưới rau. Nhiều lúc anh đang cầm ṿi tưới, ḍi bọ ḅ lên cả người, anh chỉ lấy tay hất đi, về nhà tắm bằng nước tro, như vậy th́ không có vi trùng sao được.
Nhưng câu nói của Nại Hiên cũng làm anh như chạm phải cái cùng cực của ḿnh, cái đau thương của ḿnh, làm anh cảm thấy anh bé nhỏ quá, sa sút quá. Anh như ở từ một sự tồi tàn chui ra.
Nại Hiên nói tiếp:
- Không biết mấy bộ đồ này có vừa cho anh không đây, anh mặc đỡ chứ em chỉ đoán kích thước thôi, em mua đại.
Soại trả lời trong cảm động:
- Anh mặc ǵ cũng được, đă trải qua ḷ cải tạo rồi th́ bây giờ anh sống ra sao cũng được hết.
- Chứ không phải một thời gian sau rồi bắt đầu chê à?
- Không đâu.
Soại cầm gói áo quần vô pḥng tắm. Về đây mới được nghe được mùi thơm của xà pḥng, của nước hoa, chứ tuyệt mù trong suốt mấy năm, anh chỉ tắm bằng nước lạnh ḥa với tro cho con người đỡ nhớt, đỡ lợm, v́ ngày nào cũng chung đụng với phân người.
Anh múc nước dội vào người rồi xát xà pḥng lên tóc, lên quanh người. Bột xà pḥng thơm lừng trong mũi anh, anh hít lấy hít để như tận hưởng một mùi hương mà từ lâu lắm rồi anh không được ngữi. Đây là lần tắm thứ hai của anh khi anh trở về. Buổi sáng anh cũng tắm rồi, nhưng anh tắm một ḿnh, qua quưt, tắm cho bay đi bụi bặm trên người. Bây giờ có Nại Hiên và mấy con, anh phải tắm lại, kỳ cọ, xả hết ra mùi tanh tưởi, hôi hám, cái mùi từ trại cải tạo mang về. Anh thấy hạnh phúc khi cầm bàn chải đánh răng trên tay, dĩ nhiên trong trại, anh không có một chút kem để đánh răng.
Trời nóng nên anh chỉ bận cái quần xà lỏn và áo thun. Anh soi gương thấy ḿnh trẻ ra, tỉnh người ra một chút.
Mấy đứa nhỏ dọn cơm trên nền xi măng, bữa cơm có thịt heo kho trứng, rau muống luộc, canh cá kho ngọt. Chừng đó thôi cũng làm cho bao tử Soại nổi loạn. Buổi trưa, Soại ăn cơm nguội c̣n lại với thịt kho, anh không giám ăn nhiều v́ sợ Nại Hiên nói. Anh ăn mấy chén mà vẫn c̣n tḥm thèm, mới về nên cái ǵ anh cũng giữ kẽ.
Bây giờ không khí gia đ́nh vui vẻ làm anh phấn khởi. Con Đông Nghi xới cơm cho anh rồi mời:
- Mời ba me ăn cơm.
Khung cảnh này anh ao ước đă bao năm, anh nghe ḷng nhẹ nhàng, lắng đọng.
Nại Hiên nói:
- Mời anh ăn cơm, mấy đứa ăn cơm.
Anh cầm chén đủa lên mà tay run run. Anh ứa nước mắt trong âm thầm.
Nại Hiên gợi chuyện:
- Bây giờ anh kể chuyện học tập cải tạo của anh cho các con nghe đi.
Anh đáp lời:
- Thôi em, đang vui mà kể chuyện tù th́ buồn lắm. Chuyện tù cải tạo là chuyện dài không bao giờ kể hết, hăy quên nó đi.
- Ừ thôi. Quên nó đi. Em cũng không muốn nghe chuyện cực khổ của anh làm ǵ.
Chỉ có ba đứa con là vô tư, nó kể cho Soại nghe chuyện trường lớp, chuyện bạn bè. Rồi Anh Thư hát. Đông Nghi và Anh Chi cũng hát. Niềm vui nhỏ bé đọng trên mái ấm gia đ́nh. Anh như đang sống trong mơ.
Khi đến gần đi ngủ th́ Nại Hiên nói:
- Hôm nay anh ngủ ngoài divan này nghe. Anh phải đi khám bác sĩ, phải tẩy sạch hết hơi hám cải tạo mới được ngủ với em.
Câu nói của Nại Hiên làm anh cụt hứng, trong thâm tâm, anh đang dự tính đêm nay là một đêm ân ái thật mặn nồng với vợ.
***
Kể từ đêm ở Sài G̣n, Nại Hiên về quê, là anh chay tịnh suốt sáu năm. Với một người trai trẻ như anh làm sao không thèm muốn. Nhưng trong tù, anh đành chịu. Rồi sức lực yếu kém v́ thiếu dinh dưỡng, anh cũng cố quên đi.
Đến ngày về, nằm ở trại tự giác mười lăm ngày, anh thấy ḷng ḿnh dào dạt hưng phấn. Anh nghĩ đến vợ và những lần ái ân xưa. Một buổi tối, anh ṃ qua trại bên anh đă ở trước, anh t́m đến pḥng thằng tư Thông.
Thông hỏi:
- Mày sắp về rồi ṃ qua đây làm chi, không sợ bị bắt giữ lại hả?
Soại cười cầu tài:
- Mày giúp xỏ lỗ tai cho tau, để tau về làm hài ḷng bà xă.
- Ba thẻ đường.
- Có ngay.
Soại đưa cho tư Thông ba thẻ đường, mà anh đă năn nỉ xin thằng Thành, thằng bạn cùng về, nằm gần anh, anh nói với Thành:
- Mày cho tau ba thẻ đường, về Sài G̣n tau dẫn mày đi ăn phở.
- Xạo, mày làm như ở Sài G̣n phở người ta cho không không bằng. Mày vô sản lấy ǵ mời tau.
Nói vậy nhưng Thành cũng lấy cho anh ba thẻ đường. Soại thèm đường ră họng, muốn bỏ một thẻ vào miệng nhai cho đă, nhưng anh nhín nhịn, v́ chuyện lớn, v́ em.
Anh đă gan góc cùng ḿnh khi chui rào qua trại cũ. Chỉ việc nếu bị quản giáo bắt được sẽ bị kết tội “quan hệ linh tinh với mưu đồ ǵ?" là anh cũng mệt rồi. Nhưng lúc đó, h́nh như anh đă mụ người đi.
Thông kéo anh lại gần chỗ cây đèn dầu hỏa, cây đèn cháy tù mù, nó nói:
- Tụt quần xuống.
Anh làm theo, để cả hạ bộ cho Thông làm việc. Thông cầm…lên, nghiêng ngó, rồi với con mắt nhà nghề, nó châm cây kim vào lửa đèn đang cháy và xỏ cây kim qua làn da quy đầu. Thông làm nhẹ nên anh chỉ thấy hơi buốt một chút rồi thôi. Nó lấy một cộng chiếu nhỏ sắm sẳn để bên, rút mũi kim ra. Nó thọc cộng chiếu xuyên qua lỗ. Xong, nó bôi chút thuốc trụ sinh vào chỗ vết thương, rồi nói:
- Xong rồi, mày về có trụ sinh uống thêm mấy viên. Nhớ thường xuyên lấy tay di chuyển cộng chiếu cho đừng dính vào thịt. Độ năm ngày là lành hẳn, mày có thể lấy lông boi ngựa, hoặc tóc, xỏ xuyên qua, đánh h́nh hoa thị, rồi lấy kéo cắt. Mày sẽ ngon ơ, nhiều em sẽ chết mê chết mệt v́ mày đó.
Soại cảm ơn rồi lủi thủi ḅ qua hàng rào kẽm gai về trại. Anh nghe hơi đau nhưng anh cố chịu đựng. Anh không có trụ sinh uống thêm, nhưng thịt anh hiền nên khoảng năm sáu ngày sau là vết thương lành hẳn, cộng chiếu anh vẫn xuyên qua cái lỗ tṛn nhỏ.
Anh định trong giờ lâm trận đầu tiên, anh sẽ thử coi nó có tác dụng ǵ không? nhất định không cho Nại Hiên biết, nên trước khi đi ngủ, anh mới vào pḥng tắm, bứt sợi tóc xỏ xuyên qua cái lỗ, làm như thằng Thông dặn, cắt h́nh hoa thị những sợi tóc, rồi anh trở ra ngoài nhà, đợi chờ.
Bây giờ th́ anh nằm một ḿnh trên cái divan gỗ. Ḷng anh dợn lên một nỗi buồn không tên. Nại Hiên và các con nằm bên kia bắt đầu thở đều. Anh xoay qua, xoay lại, măi vẫn không ngủ được.
Thế là ngày đầu tiên trở về từ trại cải tạo, anh ngủ một ḿnh, và ôm bầu tâm sự không biết thổ lộ cùng ai.
Ngày 15 tháng Tư năm 1993 tôi dắt díu vợ con, hối hả lên đường bỏ xứ.
Chúng tôi ra đi, một gia đ́nh sáu người, mỗi người vỏn vẹn chỉ có hai bộ quần áo cùng cái Jacket chống lạnh; hành trang c̣n lại là hai vali sách vở.
Chuyến bay rời Việt-Nam hôm đó dành riêng cho những gia đ́nh cựu tù nhân cải tạo có tên trong danh sách RD2, RD6 và cái đuôi của danh sách H15; tên tôi nằm trong danh sách RD2.
Trưa hôm đó, trên sân ga quốc tế của phi trường Tân Sơn Nhất đă diễn ra một cuộc chia ly đầy tiếng cười, nhưng cũng có nước mắt.
Những người ra đi mặt mày rạng rỡ, hớn hở, tươi vui, v́ sắp thoát khỏi một vùng trời tăm tối, để bước vào một thế giới chói ḷa ánh sáng.
Những người đi tiễn đưa th́, có người khóc v́ thương người ra đi, có người khóc v́ thương chính bản thân họ, v́ sao họ lại không là người ra đi?
Thời ấy, vào năm 1993, dưới chế độ Cộng-Sản, con cái tôi, nói chung là con của cựu sĩ quan Quân Lực Việt-Nam Cộng- Ḥa bị xếp hạng thứ 17/17 trên nấc thang ghi mức độ ưu đăi, ưu tiên về giáo dục, và tuyển dụng của nhà cầm quyền.
Các con tôi không thể mơ tưởng có một ngày được phép ghi danh vào đại học, cho dù chúng là những học sinh xuất sắc trong các trường trung học.
Tới Mỹ rồi, đa phần con cháu của những gia đ́nh H.O đă trở thành những tinh hoa của cộng đồng Việt-Nam trên quê hương mới. Nay, dù không được giàu có cho lắm, nhưng con cái tôi đă không c̣n là những người vô sản, phải chạy ăn từng bữa toát mồ hôi như thời gian sau tháng Tư năm 1975. Tính tới nay th́ tôi tới Mỹ và ở Mỹ vừa tṛn hai mươi sáu năm. Tôi đă ở yên trên đất nước này mà chưa hề nghĩ tới chuyện quay về thăm nơi cắt rốn, chôn nhau.
Dù 44 năm đă trôi qua, vậy mà cứ tới tháng Tư, ḷng tôi lại bồi hồi nhớ lại những chuyện không vui đă xảy ra trong suốt những năm dài trầm luân sau ngày Sài-G̣n sụp đổ.
Mười một ngày sau khi thua trận, từ 11 tháng 5 năm 1975 tôi đă bị tù rồi, nên chuyện kể của tôi sẽ bắt đầu từ những ǵ tôi thấy ở trong trại tù.
Ngày ấy, đă là cuối tháng 8 năm 1975, chúng tôi đang “học tập” trong căn cứ Long-Giao.
Trên loa phóng thanh của trại giam, hàng ngày tôi được nghe những câu chuyện gia đ́nh Bắc, Nam đoàn tụ sau nhiều năm cách xa, v́ Hiệp định Genève năm 1954 đă chia đôi hai miền đất nước.
Tôi cũng nghe được những câu tuyên bố thắm đượm t́nh người của Chủ Tịch Nước Tôn Đức Thắng và Thủ Tướng Phạm Văn Đồng kêu gọi toàn dân Việt-Nam hăy xóa bỏ hận thù, cùng nhau ḥa hợp, ḥa giải để tái xây dựng một đất nước Việt-Nam hùng mạnh.
Chúng tôi cũng đă học được 8 bài học căn bản để sẵn sàng ḥa nhập vào xă hội mới.
Một sớm mai đầy sương mù, có lệnh từ ban chỉ huy trại bắt chúng tôi phải áo quần tươm tất sạch sẽ để sẵn sàng nghênh đón một phái đoàn cấp cao do “Đồng chí” Cao Đăng Chiếm dẫn đầu tới thăm trại.
Chúng tôi cũng nghe phong thanh rằng, dịp này phái đoàn của chính phủ sẽ xét tha ra khỏi trại những cải tạo viên nào có thành tích “học tập tốt và lao động tốt”.
Ai cũng nghĩ ḿnh sẽ là người đă học tập tốt, lao động tốt. Ai cũng hy vọng hôm nay sẽ có một cuộc phóng thích “đại trà”.
Chúng tôi chờ đă khá lâu phái đoàn mới xuất hiện. Phái đoàn đi trên hai chiếc xe con, không có ai hộ tống.
“Đồng chí” Cao Đăng Chiếm miệng cười toe toét, dẫn đầu phái đoàn quan khách gồm ba đàn ông và ba đàn bà tiến vào hội trường Long-Giao trong tiếng “Hoan hô!” dậy trời, lở đất của trại viên.
Phái đoàn Chính Phủ Cách-Mạng người nào cũng mặt mày rạng rỡ, thân mật và vui tươi.
Ba cán bộ nam mặc đồng phục áo bốn túi màu bồ quân, may bằng thứ vải dành riêng cho cán bộ cấp cao. Vị nào cũng đeo kiếng mát, đồng hồ, và lủng lẳng bên hông một cái cặp da thủ trưởng.
Ba nữ cán bộ th́ chị nào cũng có một cái túi xách to với dây quàng qua vai, cổ quấn khăn rằn, dáng dấp đẹp đẽ như những bà bán vé số rong trên đường phố Miền Nam trước ngày “Giải Phóng”
Về phía trại viên chúng tôi th́, trại viên nào cũng có vẻ hân hoan, hy vọng. Ai cũng mong những hồ sơ trong cặp da của các “đồng chí” sẽ có tên ḿnh trong số những người sẽ được trả tự do, về với gia đ́nh.
Trước khi vào chỗ ngồi dành cho các vị khách quư, phái đoàn c̣n dừng lại trong sân chuyện tṛ thân mật với chúng tôi. Các vị này rất thực thà, cởi mở, giản dị và b́nh dân.
Có vài anh em nêu thắc mắc là, nghe theo lệnh của Ủy-Ban Quân Quản Thành Phố, khi ra đi chúng tôi chỉ mang theo một tháng tiền ăn cho ba mươi ngày, nay đă gần ba tháng qua rồi mà chưa được về, nếu hôm nay chúng tôi được tha th́ chúng tôi sẽ gửi tiền về địa chỉ nào để thanh toán những ngày ăn mà chúng tôi c̣n thiếu nợ?
Nghe hỏi thế, các “đồng chí” bèn xua tay nói rằng chúng tôi đừng lo xa, chính quyền và nhân dân đă dự trù cách giải quyết mọi chuyện đâu vào đó cả rồi.
Một cải tạo viên nguyên là một cựu sĩ quan Không Quân vừa nhận ra “Đồng chí” Cao Đăng Chiếm là người cùng quê. Anh ta cứ quấn quưt bên chân “đồng chí” không chịu rời xa, cứ như là sợ có người cướp “đồng chí”của anh ta đi mất!
Buổi sơ giao các “đồng chí” đă gieo vào ḷng chúng tôi một cảm giác thật là thân thiện và ấm áp.
Sau một hồi hàn huyên thắm t́nh ḥa hợp, ḥa giải dân tộc, mọi người về vị trí đă định sẵn để an tọa.
Phái đoàn của “Đồng chí” Cao Đăng Chiếm ngồi trên bục, trại viên ngồi im trên ghế trong hội trường. Không khí thật là im lặng, trang nghiêm.
Anh em cải tạo viên thuộc khối 30 của tôi được ưu đăi, được xếp chỗ ngồi ngay dưới chân và trước mặt khán đài. Chúng tôi chiếm được vị trí tốt này cũng do công lao của ông khối trưởng có tên là anh Ba Gà Mổ, anh Ba Gà Mổ tên thật là Nguyễn Văn Lộc, nguyên là một thiếu tá làm việc trong Bộ Tổng Tham Mưu.
Anh Ba Gà Mổ rất được ḷng cán bộ cai quản trại giam. Anh đă được cán bộ giao quyền tiến cử ba cải tạo viên tiến bộ nhất sẽ lên bục phát biểu cảm tưởng đón chào “Đồng chí” Cao Đăng Chiếm.
“Nghiêm!”
Viên cán bộ trại trưởng hô to.
Mọi người đồng loạt đứng phắt lên, cùng nhau cất cao tiếng hát “Giải phóng miền Nam”:
“Vùng lên! Nhân dân miền Nam anh hùng!
Vùng lên! Xông pha vượt qua băo bùng. Thề cứu lấy nước nhà! Thề hy sinh đến cùng! Cầm gươm, ôm súng, xông tới!
Vận nước đă đến rồi. B́nh minh chiếu khắp nơi.
Nguyện xây non nước sáng tươi muôn đời.”
Rồi th́, hứng chí, thừa thắng xông lên, bà con tự động lặp lại bài hát này tới hai lần.
Sau khi đă “Cầm gươm, ôm súng, xông tới!” mệt ná thở, mọi người c̣n phải tiếp tục gân cổ thét:
Thở xong, lấy lại được sức lực, chúng tôi bắt đầu ŕ rầm nói chuyện với nhau.
Viên cán bộ trại trưởng cũng vừa hồi sức, y trở về vị trí, đưa tay với chiếc micro:
– Yêu cầu các anh em trại viên giữ yên lặng, trật tự! Nhân dịp có phái đoàn đại diện của chính phủ và nhân dân tới tham quan. Chúng tôi cho phép một vài anh đại diện trại viên lên phát biểu cảm tưởng và đạo đạt thỉnh nguyện lên cho chính quyền cứu xét. Mời anh thứ nhất lên đọc bài phát biểu!
Anh thứ nhất nguyên là Thiếu tá Địa Phương Quân của Tiểu khu Pleiku. Anh ta là người Bắc Di Cư, tuổi khá già, nên ăn nói lưu loát lắm.
Đang thả hồn lâng lâng với những câu phân trần của anh, thật là hợp với ư tôi, v́ tôi cũng là dân Bắc Di Cư!
“Chúng tôi nhẹ dạ nghe lời dụ dỗ của Thực Dân và Đế Quốc nên mới di cư vào Nam rồi bị bắt vào lính Nguỵ…”
th́ th́nh ĺnh, tôi giật bắn người với tiếng hét chói tai:
người bạn ngồi kế bên, vừa kéo tay cho tôi đứng lên, vừa hối:
“Đứng dậy! Đứng dậy! Đả đảo mau lên! ”
Tôi vội vàng dụi mắt, ba chớp, ba nháng hét theo: “Đả đảo! Đả đảo!”
Trước khi xuống đài, ông Thiếu tá Di Cư c̣n, “Hoan hô! Đả đảo!” vài lần nữa.
Dĩ nhiên chúng tôi cũng phải ngoạc mồm, to tiếng phụ họa theo.
Anh cải tạo viên Thiếu tá Di Cư về tới ghế ngồi mà mắt c̣n ngoảnh lại nh́n “Đồng chí” Cao Đăng Chiếm như ḍ hỏi xem “Đồng chí” có hài ḷng với bài diễn văn của anh ta không.
H́nh như “Đồng chí” có vẻ vui, v́ tôi thấy ông nhoẻn miệng cười, hai bàn tay ông vỗ vào nhau ba lần nghe, “Độp! Độp! Độp!”
Cải tạo viên thứ hai là một Hải Quân Thiếu tá. Anh này cũng là dân Bắc Di Cư.
Vừa mở tờ giấy phản tỉnh, thú tội ra, anh đă cất tiếng khóc rống lên như cha anh ta vừa chết:
“Ôi! Bác Hồ ơi! Chúng con thương nhớ Bác! Chúng con là những đứa con có tội! Chúng con đă lỡ dại đi theo Mỹ, Ngụy chống lại tổ quốc, giết hại đồng bào! Bác ở trên trời, Bác linh thiêng, hăy tha tội cho chúng con! Bác ơi! Bác ơi!”
Bụng tôi bỗng réo lên “Ồ! ồ! ồ!…” tôi vội lủi ra cửa xin cán bộ cho phép đi vệ sinh.
Tới khi tôi trở về th́ bài diễn văn của ông cựu Hải Quân Thiếu tá đă chấm dứt.
Trên khán đài, “Đồng chí” Cao Đăng Chiếm đang gật gù,
– Đáng lư ra, các anh không xứng đáng được gọi Hồ Chủ Tịch là Bác! Nhưng chúng tôi cũng châm chước cho các anh lần này! Lần sau các anh chỉ được gọi Bác Hồ là Hồ Chủ Tịch! Bác là Bác của chúng tôi! Bác không phải là Bác của các anh! Nghe rơ chưa?”
Nghĩ cũng đúng! “Bác Hồ” đâu phải của chúng tôi? Chúng tôi thường quen gọi ông ta là “Già Hồ” – “Cáo Già” – “Hồ Già bán nước” hay “Hồ Già cơng rắn cắn gà nhà!” nay bỗng dưng bị bạn tù ép buộc tung hô ông ta là “Bác” hèn ǵ tai tôi, lưỡi tôi, có vẻ như hơi ngượng ngùng v́ chưa quen!
Cải tạo viên đại diện thứ ba là một cựu Thiếu tá Biệt Động Quân. Anh ta là người Miền Trung. Anh này có cái lợi thế là mặt anh trông rất giống mặt “Bác”, cũng cặp mắt đó, cũng đôi tai đó…
Sau một hồi ca tụng, tuyên dương công lao của Hồ Chủ Tịch, người đă “đẻ” ra đất nước Việt-Nam Dân-Chủ Cộng -Ḥa, anh Biệt Động Quân bắt đầu than khóc, hối hận những điều mà anh đă lỡ lầm làm hại đồng bào trong những năm đi lính Biệt Động Quân.
Nước mắt của anh rơi lă chă, chứng tỏ rằng trong ḷng anh, lúc đó đang đau đớn và hối hận thực sự.
Anh tự kết án anh là một kẻ phạm đại tội với nhân dân, đáng bị đem ra ṭa xử tử.
Anh cao giọng cầu xin nhân dân hăy tha tội cho anh, cho anh cơ hội làm lại cuộc đời!
Khi bước xuống đài, anh cựu Biệt Động Quân này c̣n vừa đi vừa sụt sịt.
Một anh ngồi bên cạnh, ghé tai tôi th́ thầm,
– Đ! M! “Thằng mặt dơi tai chuột” này đóng kịch hay quá!
Anh bạn ngồi bên tôi cũng là một Biệt Động Quân Vùng 2 nên không lạ ǵ cái anh kịch sĩ vừa lên đài kêu khóc than van kia. Cái tên “Thằng mặt dơi tai chuột” cũng là do tụi tôi đặt cho anh kịch sĩ này từ khi anh ta c̣n mang lon chuẩn úy ở Liên đoàn 2 Biệt Động Quân Pleiku.
Tôi buồn bă buông xuôi,
– Đừng trách nó làm ǵ! Mỗi người có cách mưu sinh riêng, không ai giống ai!
Để kết thúc phần phản tỉnh, thú tội của cải tạo viên, cán bộ trại trưởng thay mặt Chính Quyền Cách Mạng và nhân dân tuyên bố rằng, sẽ khoan dung tha thứ cho chúng tôi là những đứa con lầm đường lạc lối nhưng nay đă biết hối hận ăn năn.
Sau đó là vỗ tay tưng bừng, tù vỗ tay, cán bộ vỗ tay, quan khách cũng vỗ tay.
“Cộc! Cộc! Cộc!…”
viên cán bộ trại trưởng liên tục gơ cán của cái micro trên mặt gỗ để văn hồi trật tự.
Tiếng vỗ tay ngừng.
“Đồng chí” Cao Đăng Chiếm từ từ đứng lên, từ từ tiến về phía cái kệ gỗ.
Chúng tôi lại vỗ tay ào ào. Có người c̣n la lên, “Hoan hô! Hoan hô!…”
Một tay cầm cái micro, tay kia giơ lên quơ quơ trên không, ngụ ư ra dấu cho mọi người giữ im lặng, “Đồng chí” Cao Đăng Chiếm đột nhiên biến thành một người khác!
Trước hàng trăm con mắt sững sờ của chúng tôi, tên cán bộ cao cấp Cộng-Sản ấy không c̣n nụ cười trên môi nữa, mặt y đă trở thành lạnh như tiền.
Ngồi đối diện ngay mặt Cao Đăng Chiếm, nên tôi nh́n rơ đôi mắt hắn ta đỏ ngầu mỗi khi hắn gỡ cặp kính râm ra nghỉ thở.
Tôi thấy bàn tay hắn nắm chặt, như muốn bóp nát cái micro vào những lúc hắn ta gằn giọng biểu lộ sự căm hờn.
Tiếng nói của viên cán bộ Việt-Cộng Phó Chủ Tịch Ủy- Ban Quân Quản Thành Phố Sài-G̣n Chợ-Lớn sang sảng vang lên, làm cho tóc gáy tôi dựng đứng như lông nhím:
“Các anh nghe đây!
Hôm nay tôi tới đây là để thay mặt Chính Quyền Cách Mạng, thay mặt nhân dân để cho các anh biết rằng, tội ác của các anh là tội ác tày đ́nh, không thể gột rửa được!”
Xoè bàn tay ra phẩy phẩy mấy cái trước mặt, cái đầu th́ lúc lắc, tỏ vẻ khinh bỉ, cán bộ Chiếm gằn giọng:
“Đừng tưởng rằng chúng tôi sẽ tin những lời thú tội, ăn năn của các anh đâu!
Đừng tưởng rằng chúng tôi sẽ động ḷng trắc ẩn v́ những giọt nước mắt cá sấu của các anh đâu!”
Giơ cao tay, đập cái micro xuống mặt gỗ, mặt y đổi sang màu tím ngắt:
“Nhân dân và Chính Quyền Cách Mạng chủ trương ḥa hợp, ḥa giải dân tộc không có nghĩa là quên hết hận thù. Hận thù chỉ quên hết khi chúng tôi đă trả thù xong!”
Tiếp đó, những lời đe dọa báo thù cứ như những phát đạn bắn ngay mang tai của những người ngồi nghe:
“Ngày xưa các anh cướp nhà cửa, ruộng vườn của chúng tôi, lấy vợ của chúng tôi, lấy con của chúng tôi, lấy xe cộ, tàu bè của chúng tôi. Nay chúng tôi sẽ đ̣i lại tất cả những thứ đó!
Chúng tôi sẽ lấy nhà cửa, ruộng vườn, xe cộ, tàu bè của các anh. Chúng tôi sẽ chiếm đoạt vợ con của các anh!”
Càng lúc, giọng cán bộ Chiếm càng lên cao, càng dơng dạc:
“Không thể ḥa hợp ḥa giải chung chung.
Bao giờ các anh trắng tay, các anh hoàn toàn thần phục, ngoan ngoăn tuân theo lệnh của chúng tôi th́ lúc đó mới có thể ḥa giải được!
C̣n chuyện ḥa hợp th́ chỉ có thể xảy ra khi nào các anh đă trở thành người giống như chúng tôi.”
Rồi Cao Đăng Chiếm chuyền cái micro từ tay phải sang tay trái, cánh tay phải vươn dài hết mức, bàn tay nắm lại, ngón tay trỏ của y chỉ vào mặt những người đang ngồi nghe.
Ngón tay đó cất lên, hạ xuống một cách thật chậm răi, giống như một ṇng súng ngắn K 54 đang nổ những phát đạn ân huệ vào đầu tử tội.
Tiếng cán bộ Cao Đăng Chiếm vang vang, ngạo nghễ:
“Hăy tỉnh trí mà suy nghĩ những ǵ tôi nói. Hăy ghi nhớ những ǵ tôi nói!”
Dứt lời, Cao Đăng Chiếm vứt cái micro trên mặt kệ gỗ, rồi lừ lừ cất bước rời chỗ đứng, mắt không hề liếc nh́n ai. Đoàn tùy tùng của y cũng vội vàng xô ghế đứng lên đi theo.
Hai chiếc xe con phóng đi đă vài phút rồi mà hội trường c̣n im lặng như bị đóng băng.
Chúng tôi theo chân nhau lầm lũi đi về lán. Cái không khí háo hức “phấn khởi, hồ hởi” đă biến mất, lúc ấy c̣n chăng là những gương mặt cam phận buồn rầu.
Sau ngày đó, anh em chúng tôi thường tụ tập phân tích những điều mà cán bộ Cao Đăng Chiếm đă nêu ra trong lần thăm trại Long-Giao.
Chúng tôi thấy hầu như chẳng ai có “nợ máu” với nhân dân cả!
V́ Việt-Nam Cộng-Ḥa là một đất nước có luật pháp, có chính quyền; ai phạm tội th́ bị bắt, bị xử phạt, bị truy tố ra ṭa án và bị giam cầm ngay.
Chẳng ai dám ngang nhiên cướp đất đai, nhà cửa, xe cộ, vợ con của người khác cả.
Trong một buổi học tập, khi cán bộ nghe tôi kể rằng trong trận Pleime năm 1974 đă có hơn một ngh́n cán binh Cộng -Sản bị giết th́ những anh thiếu tá cải tạo viên khác cũng bị vạ lây ngay,
– Đấy!Thấy chưa? Mới có một anh Thiếu tá Long mà đất nước ta đă thiệt mất một ngh́n thanh niên yêu nước. Miền Nam lại có tới mấy ngh́n thiếu tá! Các anh cứ làm tính nhân lên th́ biết ngay rằng, đă có bao nhiêu thanh niên yêu nước bị sát hại?
Nghe lời cán bộ kết tội sau khi “làm tính nhân”, nhiều bạn tôi giăy nảy lên, chối đây đẩy. Họ nói rằng suốt thời gian đi lính họ chưa từng bắn viên đạn thật nào th́ làm ǵ có cơ hội để giết người?
Có anh c̣n đem chuyện ḿnh chuyên ăn chay trường ra để chứng minh rằng anh ta là người vô tội.
Sau khi phân tích đă đời, anh em chúng tôi thấy chỉ những anh lính tác chiến là có “nợ máu” phải lo, phải sợ. C̣n các anh em khác cứ yên chí học tập chờ đợi ngày về.
Tôi là dân tác chiến, nên tránh bàn bạc với các bạn tôi về đề tài này.
Thời gian “học tập” chưa qua được bao lâu mà đă có hai ông thiếu tá qua đời v́ bệnh. Tôi chỉ nhớ tên hai ông, mà không nhớ họ, ông thứ nhất tên là Khôi, ông thứ hai tên là Kỳ. Mộ hai ông được chôn sát bên hàng rào kẽm gai đằng sau nhà bếp.
Tiếp đó là một ông đại úy chết v́ bị ḿn nổ. Ông này chết trong lớp rào pḥng thủ. Người th́ nói ông ta chui vào rào để kiếm mớ rau tàu bay ăn cho đỡ đói; người th́ nói ông ta chui rào vượt ngục. Chẳng biết ai nói đúng, ai nói sai?
Sau ngày tên Việt-Cộng Cao Đăng Chiếm thăm Long-Giao, tôi nh́n thấy tương lai đời tôi sao mù mịt quá!
Tôi rủ được hai anh bạn, một là cựu Biệt Đội Trưởng Biệt Đội Quân Báo của Quân Đoàn II, một là cựu quận trưởng quận Nhơn Cơ chuẩn bị vượt ngục.
Nào ngờ tới ngày hẹn, hai vị này hủy bỏ chương tŕnh, tôi đành dự trù sẽ ra đi một ḿnh.
Thời gian sau, tôi lo lựa những cục cơm cháy đem phơi.
Rủi thay, việc chuẩn bị của tôi lại lọt vào đôi mắt ṭ ṃ của một anh hạm trưởng tù cùng pḥng.
Đứng trước sân, giữa trời nắng chang chang, anh ta đưa tay chỉ lên mái tôn, nơi tôi phơi cơm cháy, vừa cười, vừa la oang oang:
– Bà con ơi! Có người chuẩn bị lương khô để vượt ngục! Ha! Ha! Ha!…
Tôi đành cười giả lả:
– Phơi cơm cháy để thay cà phê mà!
Miệng tôi tuy cười, nhưng trong ḷng, tôi muốn siết cổ, móc họng tên chó săn này quá!
Tôi đành mang cơm cháy ra giă nhỏ để làm cà phê rồi cắn răng chờ cơ hội.
Măi tới khi bị đưa ra Hoàng Liên Sơn ngoài Bắc, tôi mới có dịp chắp cánh bay.
Tiếc thay! “Số trời khi đă tận, sức lay thành nhổ núi có làm chi!” (Thơ Phạm Thái)
Hai lần vượt ngục của tôi đều thất bại, xương sườn găy, răng cũng găy! Bị đánh đập tưởng chết mất rồi.
Rồi tôi phải cắn răng trả giá cái hành động ngông cuồng của ḿnh với những ngày dài trong cùm kẹp, tra tấn, đày ải, nhục h́nh.
Và càng ngày “nợ máu” của tôi càng chất cao thêm!
Thời gian cứ lạnh lùng trôi…
Buổi sáng tiếng kẻng dựng chúng tôi thức dậy; buổi tối tiếng kẻng lùa chúng tôi vào lán.
Thét rồi chúng tôi tưởng ḿnh là con trâu, con ḅ, quên rằng có thời chúng tôi đă là con người!
Ở xứ này, con người có khác ǵ con trâu đâu?
Bằng cớ là một hôm, con trâu kéo cày của tổ tăng gia trượt chân rơi xuống suối.
Chúng tôi bị tập họp ngồi trước sân để nghe tên Thượng úy Xuyên, cán bộ chính trị của trại giải thích:
“Con trâu chết th́ ta làm thịt để bồi dưỡng. Cứ trích tiền ăn tháng sau của các anh để mua con trâu mới là xong ngay! Các anh đừng lo nghĩ ǵ về chuyện này cho nhọc xác!”
Lâu nay cứ ăn rau hoài, chúng tôi thèm thịt quá! Nghe nói con trâu chết nặng cả trăm cân. Ai cũng yên trí rằng kỳ này sẽ có dịp ăn thịt trâu đă đời!
Nhưng thực tế thật phũ phàng! Chỉ năm phút sau khi con trâu bị mổ bụng th́ bộ ḷng trâu và cái đầu trâu đă bị tụi vệ binh chia nhau đem đi hết. Tất cả thịt nạc, thịt mỡ lọc ra đều bị xát muối bỏ vào lu để trong nhà bếp của ban chỉ huy trại, dành cho cán bộ ăn dần.
Phần c̣n lại gồm có một bộ da, một bộ xương, và bốn cái cẳng dưới th́ được chia cho nhà bếp của gần 400 miệng tù.
Sau bữa canh xương trâu nấu rau muống, chúng tôi phải kéo cày thay trâu.
Trên thửa ruộng khô canh tác đậu nành, một cải tạo viên hai tay giữ cán cày ra sức đẩy tới. Một trại viên khác c̣ng lưng kéo cái dây thừng quàng qua vai. Người đẩy cái cày và người kéo cày là đồng loại, nên ra lệnh cho nhau dễ dàng hơn là người ra lệnh cho trâu, “rẽ phải, rẽ trái, quay lại!…”
Con trâu chết, anh trại viên thường ngày cầm roi đi cạnh dắt trâu bị mất việc, v́ anh không đủ sức khỏe để kéo cày; anh bị chuyển lên khung chăm sóc mấy con lợn cho cán bộ.
V́ “lao động là vinh quang” là khẩu hiệu làm việc cho toàn dân cả nước Việt-Nam, nên cai tù bắt chúng tôi làm việc theo chế độ “thông tầm”, nghĩa là làm việc quần quật một hơi từ mờ sáng tới mờ tối mới ngừng tay, trừ nửa giờ ăn bữa trưa ngay tại chỗ.
Đó là chưa kể tới những ngày lạnh cóng mùa Đông, v́ ngày th́ ngắn, đêm lại dài, nên khẩu hiệu “Làm ngày chưa đủ, tranh thủ làm đêm” được áp dụng triệt để, khiến cho chúng tôi gần như kiệt sức, mắt mờ chân mỏi; có người không chịu nổi đă phải uống thuốc kư ninh vàng để t́m cái chết.
Mỗi năm chúng tôi có ba ngày được ăn cơm không độn, đó là các ngày, mùng Một, mùng Hai và mùng Ba Tết Âm Lịch.
Một tháng chúng tôi có ba ngày ăn theo chế độ độn năm mươi phần trăm (50%) nghĩa là bát cơm có năm mươi phần trăm (50%) là gạo, năm mươi phần trăm (50%) kia là khoai, ngô, hoặc sắn. Hai mươi bảy ngày c̣n lại của mỗi tháng là chế độ ăn độn một trăm phần trăm (100%) nghĩa là trong bữa ăn, không có hạt gạo nào, tất cả chỉ là khoai, ngô, hay sắn.
Đau ốm, bệnh ǵ cũng chỉ có một thứ thuốc chữa, đó là Xuyên Tâm Liên.
Trong thời gian bị lưu đày nơi rừng thiêng nước độc, đầy muỗi vắt, bạn bè tôi rơi rụng dần.
Người th́ xác chôn bên chân Đèo Khế, người ngủ giấc ngh́n thu trên đỉnh Lũng Ngàn, Cẩm-Nhân.
Cũng v́ bị giam giữ ở Cẩm-Nhân, Yên B́nh, Yên Bái trong thời gian 1976-1978 mà tôi biết được một chuyện mà nhiều người không biết đó là: Hai mươi năm trước ngày 30 tháng Tư năm 1975, ở xă Cẩm-Nhân đèo heo hút gió này, đă có người bị gọi là “lính Ngụy” sống lưu đày ở đây rồi!
Số là, nhân dịp đi làm vần công, lợp mái chợ Cẩm-Nhân, tôi có dịp quen với một ông già, tuổi quá sáu mươi, tên ông ấy là An. Ông An là người Việt có quốc tịch Pháp, tên Tây của ông là André. Ông André là Trung úy trong quân đội Liên Hiệp Pháp.
Theo như ông nói, th́ Tướng Phạm Văn Phú khi c̣n đeo lon thiếu úy đă từng làm việc dưới quyền Trung úy André.
Sau Hiệp Định Genève, các đơn vị của quân đội Liên Hiệp Pháp được lệnh rút theo đường số 5 từ Hà-Nội xuống Hải-Pḥng rồi lên tàu há mồm của Mỹ để vào Nam.
Dân chúng hai bên đường số 5 bị Việt-Minh xúi giục đă kéo nhau ùa ra lộ níu chân các anh lính Việt –Nam, mời gọi các anh ở lại.
Trung úy André đă mủi ḷng, bỏ đơn vị, bỏ thuộc cấp, ở lại với cô thôn nữ mà anh đă gặp.
Suốt một năm dài sau đó, anh Trung úy André được xưng tụng như một anh hùng, đi khắp nơi để chiêu dụ các anh lính Việt-Nam bỏ ngũ.
Cho tới một ngày năm 1955, hết hạn Di Cư, hết tàu há mồm chở người vào Nam, Trung úy André bỗng nhiên trở thành một anh “lính Ngụy”. Tên “André” của anh bị Việt- Nam hóa thành “An”.
Cuối năm 1955, anh An lính Ngụy và người vợ là cô gái quê đă níu chân anh trên Quốc lộ 5, bị “chỉ định cư trú” lên Thượng Du ở với những người dân Tày trong thôn Cẩm-Nhân. Nơi này sau đó trở thành vùng đất đầu nguồn của hồ Thác Bà.
Ông An lính Ngụy có người con gái tên Dung. Nhưng trong xóm c̣n có một cô gái nữa cũng tên Dung, cùng trang lứa, nên cô Dung con ông An bị người ta gọi là “cô Dung Ngụy!” để phân biệt.
Nhân chuyện này mà tôi biết, hai mươi năm trước ngày chúng tôi mang tên “lính Ngụy” đă có người mang tên “lính Ngụy” rồi.
Biết chuyện này, tôi cũng đâm ra lo lắng, không biết ngày đó, trong Hẻm 555 Trần Hưng Đạo Sài-G̣n, mấy đứa con tôi, mà tên gọi ở nhà là “Vịt, C̣, Giao, Liêu” có bị người ta thêm chữ “Ngụy” để thành “Con Vịt Ngụy”, “Con C̣ Ngụy”, “Con Giao Ngụy” và “Cu Liêu Ngụy” hay không?(!)…
C̣n một chuyện nữa cũng ít người hay biết, đó là việc người ta chuẩn bị đưa tất cả cải tạo viên đang ở trong các trại miền Bắc về định cư trong Vườn Quốc Gia Cúc Phương thuộc tỉnh Thanh Hóa.
Chương tŕnh đề ra là, cải tạo viên sẽ tới vùng định cư trước, dựng nhà, khai khẩn ruộng vườn, sau đó chính phủ sẽ cho phép vợ con họ lên vùng để đoàn tụ.
Người được trao quyền đại diện cư dân trong khu Kinh Tế Mới Cúc Phương này sẽ là cải tạo viên Nguyễn Hữu Có cựu Trung Tướng Việt-Nam Cộng-Ḥa, từng đảm nhiệm chức vụ Tổng Trưởng Quốc Pḥng của chính phủ Nguyễn Cao Kỳ.
Năm 1979-1980 khi bị giam trong trại Nam-Hà, Phủ-Lư, tôi đă có dịp được Tướng Có thổ lộ cho biết chuyện này, ngay sau khi ông ta trở về từ chuyến thăm viếng Công Viên Quốc Gia Cúc Phương. Không hiểu v́ sao chương tŕnh định cư này đă bị hủy bỏ vào giờ phút chót.
Trong khi đó ở miền Nam, bố vợ tôi, một sĩ quan giải ngũ trước ngày Sài-G̣n đầu hàng cũng bị bắt đi tù.
Căn nhà mà gia đ́nh nhạc gia tôi cùng lũ em trú nắng, tránh mưa trên đường Hàm Nghi Ban Mê Thuột cùng với chiếc xe nhà hiệu Jeep Willy cũng bị chính quyền Cộng-Sản của thành phố tịch thu. Mẹ vợ tôi và lũ em chưa tới tuổi trưởng thành của vợ tôi phải dọn sang nhà hàng xóm ở nhờ.
Tiếp đó lại có tin căn phố số 72 đường Tăng Bạt Hổ, Qui-Nhơn của bố mẹ vợ tôi cũng bị Cộng Sản trưng dụng làm kho lương thực của thành phố.
44 năm qua rồi, cha mẹ vợ tôi cũng đă qua đời, mà tài sản bị chính quyền trưng dụng vẫn chưa được trả lại cho chủ của nó.
Cũng v́ cái chủ đích của quân xâm lăng là, “Bao giờ các anh trắng tay, các anh hoàn toàn thần phục, ngoan ngoăn tuân theo lệnh của chúng tôi th́ lúc đó mới có thể ḥa giải được!” mà sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 nhiều gia đ́nh mất nhà, mất cửa, phải dầm mưa dăi nắng nơi rừng rậm, núi cao trong những vùng Kinh Tế Mới. Đó là chưa kể tới những chiến dịch đánh tư sản, những đợt đổi tiền, khiến cho không biết bao nhiêu người dân vô tội bị lâm vào cảnh đói khổ, lầm than.
Ngày tôi ra khỏi trại tù năm 1988, khi đi qua Ngă Sáu Chợ Lớn tôi gặp ông Lang Trọc, một vị đàn anh nguyên là cựu Trung tá liên đoàn trưởng một liên đoàn Biệt Động Quân ở Pleiku. Vị cựu Trung tá liên đoàn trưởng lúc đó đang sinh sống bằng nghề bán hột vịt lộn gần bùng binh nơi Ngă Sáu.
Ông Lang Trọc bùi ngùi kể cho tôi nghe một chuyện buồn, đó là chuyện gia đ́nh của anh “mặt dơi tai chuột.” Anh này vốn là một thuộc cấp thân thiết của ông Lang Trọc,
– Long có biết không? Năm 1985, ngày nó về, vợ nó tránh mặt. Bà mẹ vợ nó ngày nào cũng vui vẻ thiết đăi nó rượu chè, gà vịt ê hề. Đúng một tuần lễ sau, bà ấy dúi cho nó một xấp tiền rồi đuổi nó ra cửa. Bà cụ nói rằng nó phải đi khỏi nhà bà ta ngay, v́ thằng con rể mới của bà ấy đi công tác sắp về.
Con rể của bà cụ bây giờ là một tên Việt-Cộng mang lon đại úy trưởng đồn Công An! Tới lúc đó nó mới biết rằng, nhà nó, vợ nó, con nó đă thuộc quyền sở hữu của một cán bộ Việt-Cộng! Anh đă phải giúp nó một tí vốn để nó đi buôn gạo đường dài mà kiếm sống. T́nh cảnh của nó bây giờ thật là đáng thương quá! Long ơi!
Nghe chuyện, tôi thở dài, không che nổi nỗi xót xa.
Tôi nghĩ, vào giờ phút bị bà mẹ vợ đuổi ra khỏi nhà, không biết anh bạn cùng đơn vị của tôi có nhớ lại và có thấm thía những lời tên Việt-Cộng Phó Chủ Tịch Ủy Ban Quân Quản thành phố Sài-G̣n Chợ Lớn tuyên bố năm xưa hay không?
“Chúng tôi sẽ lấy nhà cửa, ruộng vườn, xe cộ, tàu bè của các anh. Chúng tôi sẽ chiếm đoạt vợ con của các anh!”
Và có bao giờ anh ta c̣n mong được đứng trên bục thuyết tŕnh để suy tôn và khóc thương “Bác Hồ” của anh ta lần nữa hay không?
Thêm một chuyện tả lại cảnh ngày về của một người tù cải tạo ở xóm tôi.
Đó là, gần Hẻm 555 Trần Hưng Đạo Sài-G̣n trên đường dẫn vào nhà tôi, có gia đ́nh của một ông Trung úy Việt-Nam Cộng-Ḥa. Vợ ông sĩ quan này là một cô giáo.
Ngày tôi ra tù th́ hai vợ chồng nhà này không c̣n ở với nhau.
Lư do là v́ chỉ ít lâu sau khi ông ta vào trại tập trung để “học tập” th́ cô giáo đă lấy một tên thương binh Việt-Cộng chột mắt. Tên Việt- Cộng này là một thương binh phục viên. Y giữ một chức vụ rất có quyền uy trong trường của cô giáo.
Thế là từ đó, trong nhà cô giáo, hai cháu bé con ông Trung úy Việt-Nam Cộng-Ḥa phải gọi một thương binh Việt-Cộng là cha.
Rơ ràng rằng,“lấy vợ, đoạt con, chiếm nhà, cướp của” là một chủ trương của bọn cướp nước.
Di lụy của chiến tranh, mấy chục năm sau c̣n đeo nặng trên vai, mang nặng trong tim người thua trận.
Ngày c̣n ở Pleiku, năm 1969, lớp sĩ quan trẻ chúng tôi nh́n vợ chồng một niên trưởng khóa 17 Đà- Lạt như một cặp đôi lư tưởng, trai tài, gái sắc. H́nh ảnh vợ chồng người sĩ quan đàn anh này là một mẫu mực mà chúng tôi nh́n vào đó để mơ ước, để noi theo.
Thế rồi, bẵng đi, cho tới năm 2004, tôi gặp lại niên trưởng này ở Seattle, trong dịp Kỷ Niệm 44 năm ngày thành lập binh chủng Biệt Động Quân.
Hôm đó, ông cựu tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 23 Biệt Động Quân đi cùng đứa con trai 7 tuổi và bà vợ không phải là người đẹp sắc nước hương trời một thuở.
Nhân khi bà vợ anh cùng thằng con trai có việc đi ra ngoài, tôi mới hỏi anh,
– Tôi biết chị ngày xưa, không phải là chị này.
Niên trưởng của tôi cúi mặt, rầu rầu,
– Chị bỏ anh rồi! Long ơi!
Nghe xong câu này, tôi chợt thấy ḷng ḿnh tê tái. Tiếp đó, anh cầm tay tôi nói như khóc,
– Long thử nghĩ xem? Tụi ḿnh đi tù, có biết ngày nào sẽ được tha ra đâu? Anh không trách ǵ chị, nếu có chăng là tự trách ḿnh. Tụi ḿnh không đổ lỗi cho ai được. Chỉ v́ tụi ḿnh thua trận, đánh mất đất nước, mà ra nông nỗi này!
Từ giờ phút đó, trong lúc tṛ chuyện cùng anh, tôi tránh nhắc lại những chuyện xưa ở Pleiku, kể cả những kỷ niệm suốt đời không quên được ngày tôi và anh sát cánh bên nhau mở đường máu trong trận Dak-Tô tháng 5 năm 1969.
Năm 1981, sau khi được chuyển trại về Nam, bị giam trong trại Z 30C, Hàm-Tân, Thuận-Hải, tôi mới hay, vào thời gian chiến tranh giải phóng Campuchia năm 1979, con cái của người miền Nam bắt đầu bị gọi đi làm nghĩa vụ quân sự và bị lùa ra chiến trường.
Nhiều gia đ́nh trong xóm chợ Nancy gần nhà tôi đă có bàn thờ “liệt sĩ”. Danh hiệu “liệt sĩ” là do chính quyền Cộng-Sản đặt ra để tôn vinh những chiến sĩ Việt-Cộng đă chết trong chiến trận.
Tôi có người bạn vong niên, một cựu trung tá, già hơn tôi một giáp tên là Bệ.
Tôi và anh Bệ bị giam trong hai khu cách nhau một con đường đi và hai lớp hàng rào kẽm gai.
Một ngày gần Tết, anh Bệ quần áo chỉnh tề, gọi tôi ra hàng rào, vui vẻ khoe,
– Hôm nay anh có thăm nuôi, khi nào quay về, anh sẽ gọi chú! Anh sẽ chia cho chú một ít quà để ăn chơi!
Từ lâu lắm rồi, anh Bệ không có thư từ hay tin tức của gia đ́nh. Trong tù, anh không khác ǵ một kẻ mồ côi. Hôm nay anh có người tới thăm, tôi cũng mừng cho anh.
Chiều hôm đó anh Bệ khệ nệ, cong lưng gánh vào trại hai bao quà, nhưng mặt anh không có chút dấu hiệu ǵ là vui vẻ cả.
Anh gọi tôi ra hàng rào, đôi mắt anh sụp xuống như chứa chất một nỗi buồn u uất,
– Anh có thăm nuôi, có quà, nhưng anh không chia sẻ cho em được! V́ anh hiểu rằng, nếu em biết những đồ ăn đó là do ai đă cho, chắc em sẽ không ăn. Anh cũng sẽ không ăn những thứ đó đâu!
Tôi ngạc nhiên,
– Vậy chứ ai vừa lên thăm anh?
– Thằng con trai anh.
Tôi chưa kịp thắc mắc v́ sao anh lại nói những lời quái dị trên, th́ anh bật khóc,
– Long ơi! Thằng con trai của anh bây giờ đă là một Thượng sĩ Việt-Cộng. Nó vừa từ Campuchia trở về…
Chưa dứt lời, anh bạn già của tôi đă ôm mặt quay lưng, để lại một ḿnh tôi đứng sững sờ.
Sáng hôm sau, vừa ngủ dậy, chúng tôi đă nghe tiếng réo từ lán trại bên cạnh:
“Báo cáo cán bộ! Đội 3 có người chết!”
Sau đó hai anh bạn tù h́ hục khiêng xác một anh cải tạo viên vừa chết trong đêm ra pḥng trực.
Người chết là anh Bệ, cựu Trung tá Việt-Nam Cộng-Ḥa, một người bạn già của tôi.
Đi sau cái cáng của người chết là cán bộ Việt-Cộng tên là Liến. Bên cạnh cán bộ Liến là anh Đội trưởng Đội 3 đang ́ ạch trên vai một gánh hai bao, đầy quà thăm nuôi c̣n cột chặt chưa mở ra.
Tôi biết gánh quà ấy do một Thượng sĩ Việt-Cộng đem lên cho bố anh ta.
Chiều qua, bố anh ta đă nói với tôi:
“Anh cũng sẽ không ăn những thứ đó đâu!”
Mọi người trong Đội 3 đều cho rằng anh Bệ đă vận sức quá nhiều để gánh hai bao quà nặng, nên đêm qua anh ấy đă bị đứt gân máu mà chết.
Nhưng người tù nằm bên anh Bệ lại cho tôi hay, đêm ấy anh Bệ nằm khóc rấm rứt tới khuya, không ngủ, rồi anh đi vào cầu tiêu uống thuốc ǵ đó, tới sáng, anh không thức dậy nữa!
Cái huy hiệu thượng sĩ Việt-Cộng trên ve áo một người con, đă bóp nát trái tim của một người cha, một cựu trung tá Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa!
Ngày tôi được tha (năm 1988) cũng là ngày anh bạn cựu Đại úy Trần Đức Thiệp của tôi từ Campuchia lội bộ, quay ngược về Việt-Nam sau một lần vượt biên thất bại. Chỉ v́ thời gian này chính phủ Thái-Lan đă từ chối, không c̣n chấp nhận dân tị nạn nữa.
Tôi không có dịp để vượt biên, nên không biết ǵ về cái giá phải trả cho sự mạo hiểm đi t́m tự do này.
Nhưng tôi biết chắc chắn rằng trong những năm tôi c̣n bị lưu đày, hàng trăm ngh́n đồng bào tôi đă phải bỏ nước ra đi. Hàng ngh́n đồng bào tôi đă bỏ thây trên biển.
Cái khẩu hiệu “Bắc Nam ḥa hợp” của chính quyền Cộng-Sản nghe th́ thấy hay, nhưng thực hành sao khó quá!
Người dân miền Nam đă sống nhiều năm dưới chế độ Cộng-Ḥa, và đă biết thế nào là Tự Do, nên khao khát Tự Do.
Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, muốn có Tự Do, cách duy nhất là t́m đường ra biển.
Có ai muốn xa ĺa nơi quê cha đất tổ?
Có ai mà không sợ chết?
Ấy vậy mà đồng bào tôi cứ có dịp là bỏ xứ đi ngay!
Có một câu nói đă trở thành bất hủ:
“Dưới chính sách hà khắc của Cộng-Sản, nếu cái cột đèn mà biết đi, chắc nó cũng vượt biên!” (Ginetta Sagan)
Bao nhiêu năm đă trôi qua, đồng bào tôi ngóng trông hoài mà chưa thấy,
“B́nh minh chiếu khắp nơi!” (Giải phóng miền Nam)
B́nh minh đă trốn đi đâu? Tự do đă trốn đi đâu? Đêm đen quá dài!
Bùi Củng Duy cùng với hai mươi chín tù nhân sắp hàng trước căn nhà trực ban. Họ chuẩn bị làm thủ tục cuối cùng để nhận giấy ra trại.
Quản giáo và ba công an vũ trang lần lượt lục soát tư trang đặt trước mặt mỗi người. Họ nắn bóp từng túi áo, từng góc chiếc ba lô và ngay cả lai quần tù đang mặc. Tù nhân đă chứng kiến cảnh nầy trong các đợt phóng thích trước đó. V́ vậy, chẳng ai dám giấu giếm một vật ǵ có di hại cho cái giờ phút quan trọng nầy. Đợt phóng thích đầu tiên, nhiều tù nhân bị giữ lại v́ lén mang thư của bạn bè gởi về cho gia đ́nh.
Sáng nay, trước khi có lệnh tập họp, Duy đă cẩn thận soát xét lại túi xách lần cuối. Một bộ áo quần tù vá chằng vá đụp hàng trăm mảnh đủ loại vải nằm trong chiếc bao cát có quai mang. Anh muốn đem bộ áo quần nầy về để giữ làm kỷ niệm. Tất cả vật dụng khác Duy đă phân chia cho bạn tù trong đêm hôm trước, ngoại trừ chiếc mũ lưỡi trai mà Thoa, vợ anh đă vội vàng chạy ra phố mua cho chồng trước khi lên đường tŕnh diện. Duy c̣n nhớ, hôm đó nàng đong gạo cho mười ngày ăn và một bộ quần áo dân sự nàng đă sắp sẵn trong chiếc ba lô. Thoa cũng không quên đem cho Duy hai cây viết bic và một cuốn vở học tṛ.
- Lột mũ đưa xem.
Tiếng quát của cán bộ Quản giáo làm Duy sực tỉnh. Anh vội cầm chiếc mũ lưỡi trai đang đội trên đầu trao cho hắn. Y lận vành trong chiếc mũ lên xem xét. Chợt, hắn chú ư đến vật ǵ ở bên dưới tàng mũ, rồi chuyển ngay cho cán bộ trực đem tŕnh lên ban giám thị.
Một tiếng đồng hồ trôi qua, Duy hồi hộp đợi chờ. Chẳng biết có vấn đề ǵ nơi chiếc mũ. Hai mươi chín bạn tù đă lần lượt rời khỏi trại chỉ c̣n lại ḿnh Duy. Gần hai giờ sau, Duy mới được lệnh vào tŕnh diện phó giám thị. Lăo cầm chiếc mũ đưa trước mặt Duy, hỏi :
- Chiếc nón nầy của ai ?
- Thưa cán bộ, của tôi.
Lăo lật ngửa chiếc mũ dí sát mặt Duy hỏi :
- Ai viết hai ḍng chữ nầy ?
Duy hoảng hốt nhớ lại chính ḿnh đă viết hai câu thơ vào đấy. Mười năm, chiếc mũ trở thành của quư. Không có dịp nào để dùng nó. Dù chiếc mũ ấy đă lấy ra cất vào chẳng biết bao nhiêu lần trong các đợt khám xét đồ dùng của tù nhân. Duy đă quên khuấy hai câu thơ viết bằng mực bút bi trong lúc nghỉ chân trên đường đến trại tập trung. Đường đi rừng núi trùng trùng, ngút ngàn xa tắp. Tương lai mù mịt. Ngày về chỉ là niềm hy vọng mong manh.
- Anh câm rồi đấy hử ?
Tiếng quát của giám thị đă kéo ư nghĩ anh trở về với câu hỏi.
- Vâng, chính tôi viết, Duy trả lời.
Vậy ai đặt ra hai câu thơ nầy ?
- Cũng chính tôi.
- Rơ ràng là anh chưa tiến bộ, che giấu tư tưởng phản động. Anh c̣n mơ một ngày về có “cờ vàng ba que” chào đón đấy hử ?
Rồi lăo dằn giọng tiếp :
- Một triệu quân Mỹ, một triệu quân ngụy được trang bị vơ khí từ đầu đến chân mà c̣n bỏ chạy. Đảng ta lănh đạo vô cùng sáng suốt. Quân đội ta giờ đây hùng mạnh nhất thế giới. Anh đừng mong lật ngược thế cờ.
- Nhưng thưa cán bộ, hai câu thơ của tôi không có ư đó - Duy chống chế .
- Không có ư đó à ? Nó rành rành ra đấy. Đứa trẻ nít cũng biết cái ư đồ trong anh.
- Nầy nhé: “Đường đi rừng núi ngút ngàn” ! Câu này nói lên ḷng phẫn uất đối với đảng và nhà nước đă giam cầm, đày ải các anh nơi rừng sâu nước độc. Có đúng không nào?
Lại câu này nữa : “Đường về lụa nắng trải vàng em ơi !” Nắng mà bằng lụa à? hay nhỉ.
Lăo ta trở giọng quát :
- Chỉ có lá cờ vàng mới bằng lụa ! Anh mượn màu nắng để ví lá cờ. Anh c̣n phải ở lại đây, phải cải tạo lâu dài cho đến khi nào tư tưởng của anh tiến bộ th́ mới được tha.
Duy phân trần :
- Thưa cán bộ, hai câu thơ ấy tôi viết cách đây bảy năm.
- Tôi không cần biết cách đây bảy năm hay bảy ngày. Các anh là những tên ngụy ác ôn có nợ máu với nhân dân. Đảng đă tập trung các anh vào đây để bảo vệ mạng sống trước ḷng dân đang căm hận. Đă có một số “ngụy quân ngụy quyền” được tha về bị đồng bào xử lư trên đường đi, anh có biết rơ điều đó không ? Nói xong, hắn ra lệnh Duy trở vào trại viết tờ tự kiểm và hẹn chờ cứu xét.
Duy bước đi với cơi ḷng tan nát. Nước mắt anh đầm đ́a trên đôi má trũng sâu. Bảy năm chịu đựng cuộc sống khổ nhục của một kiếp tù, anh chưa bao giờ để rơi những giọt nước mắt yếu đuối. Duy khóc v́ uất ức trước sự áp bức của kẻ mạnh, như lư lẽ của loài cáo đối với một con cừu trong bài thơ ngụ ngôn của La Fontaine: “La raison du plus fort est toujours la meilleure” (Lư của kẻ mạnh bao giờ cũng thắng).
Căn pḥng vắng hoe. Mọi người giờ này đang làm việc ngoài đồng, Duy vất chiếc túi, rồi vật ḿnh trên sạp ôm mặt. Anh để cho nước mắt chảy ràn rụa không cần che giấu. Ngày 30-4-1975 Dương Văn Minh ra lệnh cho quân đội đầu hàng, anh cũng đă để rơi những giọt nước mắt uất nghẹn, chán chường như thế. Sức mạnh và hào khí vẫn c̣n ngùn ngụt trong anh, trong đơn vị anh, bỗng dưng sức ép nào đă buộc anh và chiến hữu phải buông súng đầu hàng ?!
Nhân loại đă phê phán Tần Thủy Hoàng đốt sách, chôn học tṛ, Mao Trạch Đông đả phá toàn bộ nền văn hóa cổ truyền của Trung quốc... Nhưng đă có mấy ai lên tiếng về hành động của cộng sản Việt Nam tịch thu và đốt tất cả những văn hóa phẩm không nằm trong quỹ đạo của Đảng. Chúng bỏ tù, thủ tiêu giới trí thức, văn nghệ sĩ sống dưới chế độ cộng ḥa.
Trong tù, chúng đặt người theo dơi, nghe lén những ai có biểu hiện phản kháng qua thơ văn. Điển h́nh là “vụ nhà thơ Trần Nguyên Bích” xảy ra tại trại tù S.G. Anh đă đọc hai câu thơ của Cao Bá Quát:“Ba hồi trống giục mồ cha kiếp, Một nhát gươm đưa bỏ mẹ đời”mà bị lên án anh là phản động dẫn đến cái chết của vợ lẫn chồng một cách thê thảm trong cơn khủng hoảng tinh thần.
C̣n tù nhân Trần Xuân Lực chỉ v́ bức tranh điêu khắc một thiếu nữ khỏa thân trên bản gỗ mang tính nghệ thuật cao mà phải bị cùm gần tháng trời trong hầm tối, mặc dù anh thực hiện theo lệnh của cán bộ quản giáo đội. Cái ti tiện của con người cộng sản là đă không dám nhận lỗi mà c̣n tố ngược nạn nhân để lấp liếm bản chất gian dối cố hữu của ḿnh. Y lại chường cái bản mặt đồi trụy tô màu “đạo đức cách mạng” để bảo vệ thẻ đảng đầy nhơ bẩn của y. Trần Xuân Lực đă thoát chết trong trận đánh hội đồng của bốn tên bộ đội du côn trong đêm khuya để trả thù cho tên quản giáo đội với lý do Lực đã khai thực với vị chính uỷ đơn vị cai quản tù nhân tên người chủ bức tranh điêu khắc đó.
Trong nỗi thất vọng tận cùng, Duy thiếp đi dưới cơn nóng bức của buổi trưa mùa Hạ. Chợt, có người đánh thức chàng dậy, th́ ra Trần Quang Trân. Anh từ khu sửa chữa kỹ thuật của trại về pḥng nhận cơm trưa. Trân ngạc nhiên v́ Duy đă được tha về sáng nay sao bây giờ vẫn c̣n nằm đây. Sau khi Duy cho biết v́ hai câu thơ viết dưới tàng mũ từ năm 1975 mà bị giữ lại. Trân nở nụ cười méo xệch, tâm sự :
“Bọn ḿnh c̣n lạ ǵ chiếc răng nanh của loài vượn. Bảy năm cai trị toàn cơi đất nước, chiếc răng nanh dính đầy máu của bạo quyền Hà Nội đă hiện ra khiến cho nhân dân miền Nam rợn người và ghê tởm”. Chợt Trân ghé vào tai của Duy nói nhỏ : “Không về trước th́ về sau.” Rồi để trấn an Duy đang trong cơn thất vọng, Trân nói nhanh: “Ở lại c̣n có bọn ḿnh. Nhiều điều lư thú cậu có dịp sẽ biết. Nầy, ḿnh báo tin mừng cho cậu, tớ vừa ráp thành công một chiếc radio bỏ túi. Làn sóng rất mạnh, có thể nghe được đài VOA và BBC, đang trong giai đoạn trắc nghiệm, chưa hoàn tất. Bí mật đấy nhé ! Khi nào xong ḿnh sẽ cho cậu “vào tổ hợp”.
Trân quay lưng đi xuống nhà bếp, một tay cầm chiếc ca đựng cơm, tay kia xách chiếc lon guy-gô đă lên màu đen nhánh của khói bếp. Miệng huưt gió đoạn nhạc : Tung cánh chim t́m về tổ ấm...
Trung úy Trần Quang Trân, nguyên là kỹ sư điên tử được đào tạo tại Nhật. Anh phục vụ tại pḥng truyền tin thuộc Tiểu khu Thừa Thiên. Khi miền Trung mất vào tay quân Bắc Việt, Trân bị kẹt lại tại vùng 1 chiến thuật và bị bắt vào trại tù cải tạo.
Trong thời gian quản lư của bộ đội cộng sản,Trân được trung đoàn bộ xử dụng làm chuyên viên sửa chữa điện thoại, các loại máy truyền tin cũng như các trạm ra đa bị hư hỏng. Dịp nầy, cán bộ, bộ đội tác oai tác quái buộc anh sửa chữa các loại radio của cá nhân hoặc của gia đ́nh. Anh nhất quyết từ chối và yêu cầu họ phải có lệnh của cán bộ quản lư trực tiếp và điều hành công việc của anh đang làm. Một đêm tối trời, anh bị đẩy ra ngoài sân trại, đám bộ đội côn đồ xúm nhau đánh hội đồng. Sống dở chết dở, anh nằm trạm xá mất hai tuần lễ. Sau đó, Trân được ban lănh đạo quyết định cho anh ở hẳn tại căn pḥng biệt lập trong khu cán bộ.
Tháng Mười năm 78, Trần Quang Trân được chuyển giao qua bộ công an quản lư cùng với một số tù nhân từ các trại tập trung dồn vào trại tù Tiên Lănh. Tại đây, trại dành cho anh một cái cḥi nhỏ nằm riêng biệt trong khu nhốt tù để làm nơi sửa chữa các loại máy móc thuộc về điện tử từ các nơi đem đến.
Cộng sản định nghĩa thế nào là nợ máu để phải cải tạo lâu dài như theo chính sách đă đề ra ? Trần Quang Trân là chuyên viên kỹ thuật, nợ máu đâu chẳng thấy mà chỉ thấy anh làm lợi cho đảng và nhà nước kéo dài đến bảy năm. Họ đă lợi dụng tài năng, bóc lột sức lao động trên mồ hôi, nước mắt của anh bằng những năm tháng “nước sông công tù”.
Buổi chiều, sau khi cơm nước xong, tù nhân được phép đi dạo ngoài sân vài mươi phút đồng hồ trước khi vào pḥng khóa cửa. Trân hớn hở rỉ vào tai Duy : “Xong rồi, đêm nay hai đứa ḿnh thử nghe đài VOA. May mắn là ḿnh lượm được chiếc ê-cút-tơ trong đống máy móc phế thải của chúng nó mang về, sửa lại nghe rất rơ, bảo đảm giữ được bí mật”. Đúng giờ, Trân và Duy nằm chụm đầu vào nhau như đang th́ thầm tâm sự. Bên dưới gối là chiếc radio được hóa trang như một hộp đựng thuốc hút bỏ túi.
Giọng của xướng ngôn viên quen thuộc phát ra từ trong hộp thuốc : “Đây là Tiếng Nói Hoa Kỳ phát thanh từ Thủ đô Hoa Thinh Đốn …”
Ḷng Duy bỗng rộn lên như gặp lại người bạn cố tri sau mười năm xa cách. Tiếng nói từ bên kia nửa ṿng trái đất mà chàng cảm thấy thật gần gũi, thân thương. Đối với tù nhân trong chế độ cộng sản, được nghe những tin tức trung thực từ thế giới bên ngoài là món ăn tinh thần quư giá để nuôi dưỡng và bồi đắp niềm tin. Bản tin tức đầu tiên họ nghe được là tướng Mỹ Vessey sẽ đến Việt Nam để tiếp tục thương lượng t́m kiếm số lính Mỹ c̣n mất tích trong chiến cuộc và và mở đầu cuộc thảo luận giữa Hà Nội và Hoa Thịnh Đốn trong chương tŕnh “Tái định cư tù cải tạo”.
Cảm ơn “chiếc hộp thuốc”, cảm ơn Trần Quang Trân, người bạn tù tài năng đă cho Duy luồng sinh khí làm bừng dậy nguồn hy vọng gần như lịm tắt trong những ngày qua. Duy th́ thầm đọc kinh cầu nguyện dâng lời tạ ơn lên Thiên chúa.
Lần đầu tiên trong mười năm, giấc ngủ êm đềm đến với Duy trong hào quang rực rỡ. Duy mơ thấy Thoa cùng hai con đứng đón chàng tại cổng trại có cả thân nhân của các bạn tù khác và đồng bào địa phương đến tham dự cuộc tiếp rước tù rất nồng nhiệt.
Bỗng, một loạt súng nổ vang. Đám đông chạy tán loạn. Tiếp theo là tiếng kẻng báo động và tiếng chân người chạy rầm rập bên ngoài sân trại. Duy giật ḿnh tỉnh giấc. Tù nhân trong pḥng kẻ đứng người ngồi ghé mắt nh́n qua cửa ṭ ṿ. Đội công an bảo vệ hối hả lục soát hai bên bờ tường thành. Đèn bật sáng, cửa pḥng mở tung ra. Cán bộ quản giáo đội bước vào, quát lớn :
- “Tất cả ngồi vào vị trí điểm danh, bắt đầu đội trưởng”. Số 1 Đỗ Văn Chương, số 2, 3, 4... 60 đội phó Cao Khanh, đủ. Cán bộ lặng lẽ rời khỏi pḥng, đóng sầm cửa lại. Không khí ngột ngạt đồng lơa với bóng đêm đè nặng lên tâm năo người tù.
Buổi sáng, cửa pḥng giam vừa mở là mọi người ùa ra ngoài xem cớ sự của đêm qua ra sao. Dăy pḥng bên kia, anh em tù đang dáo dác nh́n lên đầu tường cuối trại. Một xác người nằm treo vắt vẻo nửa ngoài nửa trong trên đường dây kẽm gai ở đầu tường. Nạn nhân mặc bộ quần áo xanh bộ đội đă bạc màu. Máu nhuộm đỏ trên đầu vách và chảy một đường dài đă khô cứng. Kẻ trốn trại không ai khác hơn là tên trật tự, tù h́nh sự nghiện x́ ke ma túy và trộm cắp. Hắn lợi dụng sự tự do đi lại hàng ngày móc sẵn vào cọc trụ đầu góc tường một sợi dây để nửa đêm trốn thoát. Bị cán bộ tuần tra phát giác trong lúc hắn đang chun qua hai đường dây kẽm gai. Một loạt súng đă kết liễu đời hắn.
“Chiếc hộp thuốc” nghe được đài BBC khá rơ nhưng đa số cựu quân nhân miền Nam không thiện cảm với đài nầy. Thời điểm 1975, tiếng nói ấy đă gây tác hại không nhỏ cho tinh thần chiến đấu của Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa. Họ đă tường thuật sai lệch, nói đúng hơn là thiên vị cộng sản Bắc Việt trong các trận đánh của hai lực lượng.
Một tháng sau, trại tăng cường Nguyễn Mậu Lân phụ giúp cho Trần Quang Trân trong việc sửa chữa máy móc. Lân từ một đội khác điều về, cũng là bạn tù trên bảy năm cả nên Trân đă dễ dàng kết nạp Lân vào “tổ hợp thuốc hút” không đắn đo. Những tin tức nào quan trọng có tính cách thời sự quốc tế liên quan đến Việt Nam là “tổ hợp” phát đi bằng cách rỉ tai theo dây chuyền cho tù nhân lên tinh thần. Thời gian thuận lợi nhất là giờ tản bộ trên sân sau bữa ăn chiều. Bản tin lập tức được loan truyền nhanh chóng cho hầu hết anh em tù chính trị toàn trại.
“Tổ hợp Thuốc hút” dần dần quy tụ đến mười bảy người. Thành phần là cựu sĩ quan, c̣n lại là vài viên chức chính quyền miền Nam. Những bản tin nghe được từ đài VOA, anh em tù càng thêm phấn kích trước t́nh h́nh....nên “Tổ hợp”dự tính tổ chức một lực lượng hành động một khi thời cơ đến.
***
Những cánh rừng tiếp nối vây quanh tạo thành ṿng đai kiên cố khiến khu trại 1 Tiên Lănh trở thành chiếc hộp dưới nắng hè nung đốt. Vách tường xây bằng gạch xi-măng giữ sức nóng âm ỉ đến tận đêm khuya. Tù nhân nằm sắp lớp, san sát trên hai dăy sạp bện bằng tre lồ ô trong pḥng kín ngột ngạt. Người nóng hâm hấp như lên cơn sốt. Họ cởi hết áo quần cố dỗ giấc ngủ, hầu lấy lại sức cho buổi lao động ngày mai.
Ánh trăng mười tám sáng vằng vặc trên đỉnh trời. Sự yên ắng về đêm nghe rơ mồn một từng tiếng dế kêu rả rích, thêm tiếng vượn hú từ xa vọng về tăng phần áo năo của cảnh rừng đêm hoang vắng. Khu trại tù đang ch́m trong cảnh tịch mịch, bỗng tiếng chân người chạy rầm rập, tiếng đạn lên ṇng lách cách. Đoàn người vũ trang bủa vây căn nhà số 12.
Cửa mở, đèn pḥng bật sáng. Một cán bộ ra lệnh : “Tất cả nằm yên tại chỗ, không được động đậy”. Hắn đưa ánh mắt cú vọ nh́n khắp pḥng rồi tiếp :
- “Áo quần chăn chiếu để nguyên trạng, từng người một, hai tay đặt lên đầu, bước ra khỏi pḥng”.
Sáu mươi tù nhân thân ḿnh trần trùi nối đuôi nhau bước qua hai chặng kiểm soát do bốn tên công an lạ mặt soát xét trên thân thể từng người. Xong, chúng dồn tù ngồi gom vào một chỗ có sẵn tiểu đội vũ trang chĩa súng canh giữ. Số công an khác vào pḥng kiểm tra áo quần mền gối và bên dưới sạp giường nằm.
Dường như toán lục soát đạt được mục đích mau lẹ nên họ ngừng tay. Một tên công an lạ hoắc đọc tên những tù nhân sau đây đứng vào một góc : Trần Quang Trân, Nguyễn Mậu Lân, Trần Củng Duy, Vơ Tá Hưng và Lê Minh. Chúng xích tay từng người, rồi áp giải lên ban giám thị trước những cặïp mắt ngỡ ngàng của bạn tù. Số c̣n lại được lệnh trở vào pḥng.
Một tuần lễ kế tiếp, đội tù chính trị nào cũng đều có người bị gọi lên cơ quan tra vấn và viết tờ tự kiểm. Trọng tâm tờ kiểm điểm là phải thành thật khai báo đă nhận được tin tức phản động nước ngoài do người nào đưa tin và đă rỉ tai cho những ai.
Hết người nầy qua người khác, họ khai lẫn lộn cho nhau thành dây chuyền, cứ như thế mà hầu hết số tù nhân chính trị trong cùng một khu đều bị viết kiểm điểm.
Trần Quang Trân bị áp giải về Ty Công an ngay trong đêm hôm đó cùng với tang vật là chiếc radio được hóa trang như chiếc hộp đựng thuốc hút. Một tháng trời đằng đẵng, chúng khai thác anh để t́m ra động cơ nào đă khiến anh làm ra chiếc radio nghe đài ngoại quốc và có ai bên ngoài tiếp tay, cung cấp các linh kiện cho anh lắp ráp.
Hàng chục lần lấy khẩu cung, hàng trăm lần viết tường thuật, Trần Quang Trân vẫn giữ nguyên lập trường :
- Không có động cơ chính trị nào ở bên ngoài thúc đẩy anh cả, mà do thói quen nghề nghiệp, thích t́m ṭi và phát kiến.
- Những linh kiện dùng để làm thành chiếc radio bỏ túi đều được anh tận dụng từ trong đống vật liệu phế thải do ban giám thị mang về. Cũng từ “đống rác” điện tử nầy mà anh đă sửa chữa, phục hồi hàng trăm máy truyền tin, TV, radio, cassette và những dụng cụ điện tử khác cho toàn thể cán bộ trong trại, ngoài trại và hầu như cho cả ty công an.
Riêng bốn người c̣n lại Duy, Minh, Hưng và Lân bị giam tại trại. Họ cũng không khai báo điều ǵ mới mẻ. Riêng Trần Củng Duy xác nhận nghe đài trực tiếp và thông báo những tin tức đă nghe được cho bạn tù.
Một phiên ṭa được mở ra tại hội trường của trại, cũng đầy đủ mâm bát các nhân vật của một “Ṭa án Nhân dân”. Để dằn mặt tù nhân, toàn tổng trại được lệnh tập trung về tham dự phiên ṭa. Mười lăm tù phạm có liên hệ trực tiếp nghe đài nước ngoài và loan truyền tin tức trong trại đứng sau vành móng ngựa. Điều đáng để ư là phiên xử được sắp đặt theo lớp lang như tŕnh diễn một tuồng kịch. Nhưng không khí vô cùng nặng nề đầy trấn áp. Không luật sư biện hộ, bị cáo không được đối chất trước ṭa và điểm nổi bật hơn cả là “Ṭa án Nhân dân” thể hiện rơ ràng tính công cụ của đảng. Một bản cáo trạng dài ḷng tḥng quy chụp các bị cáo làm gián điệp cho ngoại bang.
Trước khi tuyên án, ṭa dành cho mỗi bị cáo hai phút để phát biểu “lời nói cuối cùng”. Các phạm tù đều từ chối. Riêng Trần Củng Duy tuyên bố trước ṭa anh chịu trách nhiệm về việc loan truyền những bản tin tức đă nghe được từ đài VOA, các bạn tù khác hoàn toàn vô tội.
Đến phiên Trần Quang Trân, anh điềm nhiên quay mặt về phía cử tọa tham dự, với ánh mắt đầy cương nghị, anh nh́n khắp lượt đám đông bạn tù, rồi dơng dạc nói :
“Tôi rất tiếc là không đem được tài năng của ḿnh để phục vụ đồng bào và quốc gia dân tộc”. Sau mười phút nghị án cho ra vẻ là một phiên ṭa, bản án đă được định sẵn như sau :
- Hai án 5 năm, bốn án 7 năm, năm án 15 năm, Trần Củng Duy, Lê Minh và Vơ Tá Hân bị án 18 năm
- Trần Quang Trân : Tử h́nh
Toàn thể hội trường như chết lặng trước bản án tử h́nh đối với kỹ sư Trần Quang Trân. Ôi, nhân tài của tổ quốc. Người chiến sĩ đă dành cả tâm huyết và tài năng của ḿnh để phục vụ đất nước, giờ đây bạo quyền đă ra tay hủy diệt.
Trần Quang Trân từ khước làm đơn xin ân xá. Anh chấp nhận cái chết để giữ tiết tháo của một chiến sĩ. Khí tiết đó anh đă tuyên xưng lưới lá quân kỳ với ḷng trung kiên, bất khuất trước quân thù. Gương sáng đó như ngọn lửa sẽ giữ măi trong tim các chiến hữu dẫu đang sống trong cảnh đọa đày.
Đúng mười lăm ngày sau phiên xử, chúng đem Trần Quang Trân đến Hố Ông Hức để thi hành bản án. Nơi đây đă có một cái huyệt đào sẵn, một chiếc chiếu và tấm gỗ ghi nguệch ngoạc họ tên của tử tù.
Bên kia bờ ruộng, người con gái làm công việc dặm lúa, đang ngồi ăn cơm trưa sau lùm cây che nắng theo dơi toán công an vũ trang áp giải người tử tù đến bên chân đồi sắn. Trước hết, tên công an chỉ huy toán hành quyết mở cùm tay, mở băng vải che mắt để tử tù dùng bữa ăn cuối cùng ngay tại pháp trường.
Trần Quang Trân vươn vai đứng dậy, quay mặt về hướng mặt trời mọc. Mặc dù dây xích sắt nặng nề vướng víu đôi chân, anh vẫn cố đánh chân vào nhau trong tư thế đứng nghiêm của lễ thượng kỳ. Anh đưa tay chào theo quân cách của người chiến sĩ Việt Nam Cộng Ḥa, đồng thời miệng hô lớn : “Việt Nam Cộng Ḥa Muôn Năm!”
Bỗng, tạch tạch, đoành đoành của nhiều khẩu súng thay nhau nhả đạn vào đầu, vào ngực và toàn thân anh. Bầy chim xanh ẩn ḿnh trong ṿm cây cổ thụ hoảng hốt vụt bay. Trần Quang Trân qụy xuống bên mâm cơm. Máu chảy đầm đ́a trên thân thể anh, máu chan đầy bát cơm trắng, máu nhuộm đỏ những miếng thịt heo luộc như chính thịt anh bị cắt ra hăy c̣n tươi sống.
Không ai biết có một người con gái giấu mặt vào đôi tay, gục đầu trên hai gối nấc lên.
Toán công an kéo xác tử tù bỏ xuống hố, vất chiếc chiếu trên thi thể cùng mâm cơm cuối cùng mà anh từ chối không ăn, rồi vội vă lấp đất sơ sài. Tấm gỗ mang tên Trần Quang Trân bỏ nằm bên miệng hố. Chúng kéo nhau ra về như bầy kên kên vừa rỉa xong xác chết.
Qua cơn đau đớn tận cùng, cô gái tỉnh lại. Nàng vội chạy đến mộ Trân ôm tấm bia gỗ vào ḷng khóc tức tưởi. Cô gái nầy là ai mà thương tiếc kẻ tử tù ?
Xin thưa, đó là cô Lê Thị Xuân, một nữ tù nhân cùng trại Tiên Lănh,nằm chung rào với khu nam, người đă thán phục và yêu thầm người kỹ sư điên tử tài hoa Trần Quang Trân. Biết bao nhiêu lần từ bên kia hàng rào thuộc khu tù của nữ giới, nàng đă đứng nh́n chàng với ánh mắt si mê.
Xuân đă được phóng thích từ sáu tháng trước. Nàng đă theo dơi nội vụ của Trân và đồng bạn từng ngày từng giờ. Nàng đă đến trại thăm nuôi vài lượt , nhờ mấy chị bạn tù gởi thức ăn cho chàng nhưng luôn bị cán bộ từ chối.
Trong mấy ngày qua, ḷng Xuân bỗng dưng bồn chồn, thôi thúc nàng lên trại thăm nuôi. Xuân có linh cảm lần nầy sẽ gặp Trân. Thế là nàng ra đi với gói cơm nếp và xách bánh ngọt. Vừa lên đến gần ngả ba đi vào Hố Ông Hức, nàng nh́n thấy từ xa có đám công an đang áp giải một tù nhân bị bịt mắt. Xuân khả nghi liền chạy rẽ về phía hố núp vào trong bụi, giả dạng làm người giặm lúa nghỉ ăn trưa và nàng đă chứng kiến cái chết rất dũng cảm của Trần Quang Trân.
Xuân chôn tấm bia gỗ ở dưới chân mộ, rồi lấy gói xôi và bánh ngọt đặt trên mộ chàng.
Một tuần lễ sau, những tù nhân đi đốn củi qua khu nghĩa địa tù lấy làm ngạc nhiên thấy ngôi mộ Trân trở nên tươm tất, đất vun cao và những mảng cỏ xanh rờn đắp lên nấm mộ. Rồi một tấm bia bằng xi-măng lại xuất hiện. Người dựng bia đă cố ư ghi : “Nơi yên nghỉ của Kỹ Sư Trần Quang Trân, hy sinh ngày 19 tháng Sáu năm 1982. Người quư trọng nhân tài phụng lập.”
Kể từ mùa Xuân năm ấy, khi mặt trời lên quá ngọn tre là ngôi mộ của chàng nở rực rỡ loại hoa mười giờ, khiến cho anh em tù mỗi lần đi ngang qua là không nén được cơn xúc động trước tâm hồn cao thượng của một người con gái thuộc nấc thang cuối cùng của xă hội.
Một bản nhạc phổ bài thơ “Giữ Lửa Trong Tim” đă được bạn tù lén lút truyền cho nhau. Đúng vào đêm tuần một trăm ngày Trần Quang Trân mất, đèn pḥng vừa tắt, bỗng cả đội nghe tiếng hát của một người tù can đảm cất lên từ trong góc pḥng với giọng ca đầy bi tráng:
Dẫu biết ngày nao về với núi,
Ngh́n năm hóa thạch thịt xương đau.
Anh ra đồi bắn đầu không cúi,
Bạn ngẩng mặt cao, giấu tủi hờn!
Từng loạt súng vang, những dấu giày,
Thây vùi sâu cạn chẳng cần hay.
Bao năm căm hận trong xiềng xích,
Những tiếng hô - mươi dấu đạn cày!
Ngực máu đỏ loang, mặt nát nhầy,
Đạn thù nào chọn điểm tim ngay.
Anh đi về đất hồn siêu thoát,
Em chết nửa đời với đắng cay!
Như phép thần thông - làn sóng điện
Từ trong hộp thuốc phát đài VOA.
Bao ngày góp nhặt từng linh kiện,
Anh tạo cho tù một máy thu.
Sau bữa cơm chiều, cửa đóng then,
Pḥng giam le lói ánh vàng đèn.
Đêm nghe tiếng vọng từ châu Mỹ,
Rộn ră, ḷng nghe đỡ nhọc nhằn!
Lũ khốn quen mùi săn phát giác,
Cả pḥng thêm một lớp lao lung.
Mười tù nhận tội, mươi tù thoát,
Anh chịu tử h́nh, chết thủy chung!
Giết một nhân tài của tổ quốc
Hận thù hơn cả nghĩa non sông.
So ra bạo chúa c̣n thua cuộc,
Loài sói kia c̣n nghĩ giống ḍng!?
Đứng trước mộ chàng giữa núi non
Tim em hực lửa - lửa căm hờn.
Trong cơn nắng Hạ rừng khô khốc
Mà mắt em đầy giọt lệ tuôn!
Trong buổi sáng của ngày tháng Sáu đầy sôi động ấy, một người phụ nữ có tuổi lặng lẽ lại gần tôi và khều vai tôi. Mái tóc của bà điểm bạc, cặp mắt hiếng, miệng hơi hở lợi, bà cầm một lon nước đă mở nắp và ra hiệu mời tôi uống, hầu như không nhận thức việc ḿnh đang làm.
Bà không biết rằng vài phút trước đó, tôi đă thoáng thấy bà trong đám mấy người công an, lực lượng bảo vệ an ninh công cộng của Việt Nam. Tôi nhă nhặn từ chối. Một người cùng đi biểu t́nh lúc đó, một thanh niên khoảng 20 tuổi, nhanh chóng xác nhận với tôi điều tôi thoáng ngờ vực: “Cẩn thận. Công an có thể bỏ thuốc cho anh đó. Họ rất biết cách.”
Lực lượng công an đă rất nhầm khi theo bám lấy tôi như là một trong các thủ lĩnh của ngày định mệnh ấy. Tôi cũng chẳng trách họ. Khi đoàn biểu t́nh từ công viên Hoàng Văn Thụ, gần sân bay Tân Sơn nhất xuống Nam kỳ khởi nghĩa, một trong các con đường chính dẫn về trung tâm thành phố, th́ tôi, từ một người chỉ ghi lại tư liệu về sự kiện, đă dần trở thành một kẻ phá rào.
Tại một số giao lộ dọc theo Nam kỳ khởi nghĩa, công an đă dàn lên các rào cản bằng các nhân viên công lực được trang bị các dụng cụ chống đỡ, trải mỏng ra làm 3-4 hàng mà phần lớn là những người trai trẻ ốm yếu. Tôi lách qua đám đông và đứng thẳng ngay trước họ.
Những người trai ấy có vẻ căng thẳng, họ giữ hàng lối chỉ bởi những người cấp trên lớn tuổi hơn của họ đứng sát đằng sau và quát tháo. Họ bị số đông đang sôi sục biểu t́nh áp đảo.
"Con đường này được xây bằng tiền thuế của chúng tôi! Chúng tôi có quyền đi ở đây!”
“Các em trẻ nên tham gia cùng chúng tôi”
“Chúng tôi diễu hành v́ đất nước!”
“Tại sao các em chống lại người dân?”.
Những người biểu t́nh tức giận khi đối diện với họ, nhưng đồng thời, sợ manh động; họ hiểu rất rơ rằng đằng sau các tấm khiên chắn là một bộ máy an ninh đồ sộ và chuyên đi trừng phạt. Từ trên cao, có lẽ nó giống như một con đập sắp nổ tung. Và tôi hiểu rằng với một lượng người đông bên phía chúng tôi như lúc đó, th́ chỉ một châm chích nhỏ là con đập bất công sẽ bị nhấn ch́m.
V́ vậy tôi đă vượt qua. Và tôi đă làm như vậy tại ít nhất là 3 ngă tư. Đó là một quyết định có tính toán.
Lúc chúng tôi tới ngă tư Nam kỳ khởi nghĩa và Lư Chính Thắng, chỉ cách Dinh Độc lập vài khu phố, lực lượng công an đă rút ra được bài học cho ḿnh. Thay v́ sử dụng trái tim của những người trai trẻ, họ quyết định mang các xe tải ra đậu ngang ngă tư.
Một lần nữa tôi bước lên hàng đầu và đề nghị công an cho xe tải tránh đi. Họ từ chối. Thế là tôi nhảy lên sàn một chiếc xe và giúp những người biểu t́nh-đi bộ vượt qua chướng ngại vật. Tôi đă nắm tay rất nhiều người trong ngày hôm đó, kéo cả người trẻ và người già lên sàn xe và qua bên kia.
Hiểu rằng những người biểu t́nh đi xe máy sẽ bị tắc lại, tôi bắt đầu t́m cách để mở ra một lối thoát rộng hơn. Các xe tải đậu ngang đường, nhưng trên vỉa hè, hàng rào cản lại là các xe máy của cảnh sát. Thế là tôi cùng một số những người biểu t́nh bắt đầu nâng những xe máy ra khỏi chỗ và sau khi chúng tôi làm được như vậy, th́ cảnh sát và những người biểu t́nh lại một lần nữa lại đụng độ nhau.
Họ yêu cầu chúng tôi không chạm vào xe của họ, tuy nhiên chúng tôi đáp trả lại rằng chúng tôi không làm trầy xước chúng, rằng chúng tôi chỉ dời những chiếc xe đó ra chỗ khác thôi. Tới lúc những người biểu t́nh đi xe máy bắt đầu t́m cách lách qua lối đi nhỏ đang rộng dần, th́ đó cũng là một ḍng chuyển động, lại một lần nữa, công an không thể ngăn lại. Đám đông reo ḥ mừng rỡ, bởi một nhóm chúng tôi đă nắm lấy tay nhau thành một hàng rào giữa công an và những người biểu t́nh, để họ có thể tiếp tục cuộc tuần hành một cách ôn ḥa.
Thật không may, b́nh yên đó đă không kéo dài được lâu.
“Họ đang tách anh ra để bắt đó. Tôi vừa nghe họ nói. Anh cần ḥa vào với mọi người càng sớm càng tốt“, chị ấy hốt hoảng nói nhỏ với tôi. Một người phụ nữ kéo tôi sang bên và cố gắng hết sức ra hiệu để không gây nghi ngờ. Tôi cám ơn chị và bắt đầu lùi lại về hướng đám đông, mắt vẫn thận trọng dơi theo những người công an đằng sau người phụ nữ nọ chỉ vài mét.
Có điều trước khi tôi kịp làm điều đó, một nhóm 5-6 viên an ninh mặc thường phục đă lao vào khóa cổ tôi và giật toang ba lô của tôi (để cướp lấy điện thoại và tiếp cận được các tư liệu của tôi về cuộc biểu t́nh này, như sau này tôi mới biết. Với họ, các thông tin nhạy cảm là chiến lợi phẩm quư giá)
Rất nhanh chóng, một số người biểu t́nh t́m cách giải thoát cho tôi, họ tóm lấy tay tôi mà kéo, c̣n tôi th́ với tất cả sức lực của ḿnh, tôi nhoai về với họ. Trong một khoảng khắc nào đó, dường như chúng tôi đă sắp thắng đến nơi.
Sau đó, một loạt những đ̣n như Trời giáng, nắm đấm và dùi cui phang xuống đầu và hàm tôi. Khi tôi ngă ra đường, lời cuối cùng của tôi với họ là “Tôi là người yêu nước! Tại sao đánh tôi?”.
Về mấy phút sau đó, th́ tôi không nhớ ǵ nhiều. Tôi chỉ ư thức được chuyển động từ dưới đất cho đến thùng xe là một chuyển động rất êm, rồi tôi nằm trong thùng xe, nh́n lên bầu trời và chấp nhận thua.
Video quay cảnh bị đánh do những người biểu t́nh ghi lại, đă cho thấy một diễn biến khác. Quăng đường th́ chẳng thể là êm, khi mà tôi cứ chốc chốc lại tuột khỏi cú chộp của những kẻ bắt cóc, và tôi th́ chống cự suốt quăng đường đó. Họ đă trị tôi bằng cách trùm lên đầu tôi một túi màu da cam, là điều mà tôi hoàn toàn không nhớ. Tới lúc bị ném vào thùng xe tải, tôi đứng dậy, máu chảy trên đầu, và vẫy những người biểu t́nh tiếp tục. Trái tim của Sài g̣n vẫn c̣n đang chờ họ.
II. Bị thẩm vấn.
“Người dân Việt Nam không cần đến sự giúp đỡ của mày”, người đàn ông lớn tuổi tức giận chặn lời tôi. Hai chân bị cùm trong chiếc cùm rỉ sét, tôi ngồi yên trên chiếc ghế kim loại, suy ngẫm về t́nh huống siêu thực mà tôi hiểu đă ḿnh rơi vào. Ông ngồi đối diện tôi bên kia bàn, đeo kính, vẻ nghiêm khắc, nhưng xảo quyệt trên nét mặt. Ông có lẽ ngang tuổi các chú tôi, tôi thầm nghĩ.
Tôi theo dơi với một sự thích thú của người đứng ngoài quan sát, khi ông vặn vẹo về các động cơ của tôi, về các nguồn tài trợ có thể có và các mối liên hệ của tôi với các tổ chức. Sôi người v́ cơn giận không thể giấu nổi, ông không thể tin, hoặc nói đúng hơn, ông không muốn tin rằng tôi đă hành động một ḿnh, với ư nguyện tự do của riêng tôi, bởi muốn giúp người dân. Ông nhận ra chủ nghĩa dân tộc của người Việt khi nh́n thấy cuộc biểu t́nh này – và ông biết ḿnh không thể phủ nhận sự bền bỉ của hàng ngàn năm chống ngoại xâm.
Ông nói, ông tin vào chủ nghĩa cộng sản – và là một trong số rất ít các đảng viên tôi đă có dịp tiếp xúc, mà công khai nói như thế – rồi ông hỏi, liệu tôi đă đọc Marx và Lênin chưa. Tôi trả lời có, thế là chúng tôi đă có một cuộc nói chuyện ngắn về các giai đoạn phát triển của Marx. Ông nói, giai đoạn phát triển tư bản này ở Việt nam chỉ là tạm thời, rằng đất nước này đang trên con đường tiến tới những điều lớn lao hơn rất nhiều.
Có lẽ một quan điểm có cơ sở hơn về chính trị ở Việt nam là của một nhân viên an ninh trẻ tuổi. Lúc đó đă quá nửa đêm, và các nhân viên an ninh phải thay phiên nhau, mỗi người một tiếng, tra hỏi tôi theo một danh sách dài các câu hỏi để cho tôi vào bẫy.
H́nh như em là người thứ 5 hay thứ 6 hỏi cung trong đêm đó. Đến lượt ḿnh, em đóng cửa, bất kể sự phản đối của mấy người đồng nghiệp. Dáng vẻ, thái độ của em nói với tôi rằng em không hề có ư định thực hiện cái công việc mà em được giao phó. Em kéo cái ghế ra ngồi trước mặt tôi, và chúng tôi đă có một cuộc nói chuyện tâm t́nh.
“Thật nực cười. Ở Việt Nam, nếu bạn tin vào điều ǵ đó tiến bộ, th́ bạn sẽ bị gắn cho cái mác phản động”, em công nhận. Em cũng thừa nhận rằng em có cảm t́nh với những ǵ tôi làm, và bất cứ người Việt nào cũng hiểu tại sao tôi hành động như vậy.
Một cách nào đó Đảng cộng sản Việt nam đă tồn tại trong một t́nh trạng trớ trêu thường trực, vỡ mộng với chính ḿnh và nằm tại chặng cuối của thời gian.
III Được phóng thích.
Buổi sáng ngày tôi sẽ ra ṭa, một trong những người bạn tù – một người Philippines trẻ mà trong quăng đời tự do của ḿnh đă vừa làm đầu bếp và vừa là thợ cắt tóc – đề nghị cắt tóc cho tôi. Chúng tôi dùng một chiếc tông đơ của nhà tù để cạo tóc ở hai bên, chỉ để lại trên đỉnh đầu. Đó là kiểu tóc tôi thường để trong thế giới tự do, và những sợi tóc mọc trong 40 ngày rơi xuống nền nhà tù vào buổi sáng hôm ấy cũng giống như một sự gột bỏ về tinh thần.
Tại ṭa, tôi thừa nhận tức khắc việc gây rối trật tự công cộng – quả thật đó là mấu chốt của cuộc biểu t́nh. Đặc biệt, tôi nhấn mạnh, đối với người dân Việt, điều Luật An ninh mạng thậm chí c̣n nguy hiểm hơn điều luật Đặc khu, và để cho chắc chắn, tôi đă sử dụng một ám chỉ mà tất cả người Việt đều hiểu.
Để mô tả t́nh trạng sai lầm sẽ kéo dài, một khi tự do trên internet bị xiết chặt, tôi đă thưa với ṭa rằng dự thảo luật này không có ǵ khác hơn ngoài “chính sách ngu dân” – và là câu nói đă vang khắp Quảng trường Ba Đ́nh trong dịp Hồ chí Minh tuyên ngôn độc lập vào năm 1945. Trong số các tội ác của thực dân Pháp mà ông Hồ chí Minh liệt kê, có cả việc ban hành chính sách nhằm ḱm giữ người dân trong t́nh trạng ngu dốt. Tôi muốn cái trớ trêu này trở nên rơ mồn một, như các song sắt trại giam, nơi mà họ giam giữ tôi trong đó.
Vị công tố viên đề nghị án trục xuất ngay lập tức. Lúc thẩm phán đọc bản án chính thức hôm ấy, tôi chợt hiểu người ta đang mang đến cho tôi một sự mâu thuẫn: một món quà và đồng thời là một sự nguyền rủa. Trong lời cuối, tôi đă thưa với vị thẩm phán rằng, tôi không muốn ǵ hơn ngoài việc được trở về Việt Nam trong tương lai để giúp đất nước phát triển.
Tôi được hộ tống ra khỏi ṭa, nhưng lần này đă không c̣n c̣ng tay, tôi được tự do bước và được tránh xa những người mặc quân phục canh giữ ḿnh. Những bước chân chiến thắng xuống cầu thang, rồi đoàn công an hộ tống, cách thức mở cửa bài bản của tài xế, đă trở thành các h́nh ảnh sống động trên internet như một cuộc chơi tạo h́nh mang tính chính trị đối lập, và một chiến thắng dân dă.
Bên trong chiếc xe SUV, tất cả chúng tôi đều thở phào, kể cả công an. Một người đặt tay lên đầu gối tôi, nh́n tôi cười và nói “xong rồi”. Tới khi về tới khám, tôi mới hiểu rằng tôi sẽ không được dẫn về pḥng giam để lấy đồ. Những người tự do không được phép quay lại Chí Ḥa.
Đồ của tôi được gửi về, kể cả chiếc kim khâu được mài từ xương heo và hai con cá được tết từ các sợi nhựa – món quà kỷ niệm của những người bạn cùng pḥng giam từ một tuần trước đó đă ngờ ngợ rằng tôi sẽ không c̣n ở lâu trong thế giới của họ.
Mà quả thật, tôi đă chẳng được ở lâu tại Việt Nam. Lúc mặt trời lặn là lúc tôi đă ở trên không và đang hướng đến xứ sở tự do hơn. Ngồi trên máy bay nh́n Sài G̣n mờ khuất xa dần, tôi bỗng thấy như ngày 30/4/75 quay trở lại: tự do và lưu vong cùng đến trong cùng một khoảnh khắc.
Will Nguyen (Bản Anh ngữ đăng trên FB cá nhân của tác giả)
Bản dịch của Nguyễn Thanh Mai (gửi tới Đàn Chim Việt từ cộng ḥa Séc)
Những ḍng nước mắt trong những cảnh ngộ tang thương của các gia đ́nh cựu tù “cải tạo”
Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
Lời người viết: Như mọi người đă biết về những cảnh ngộ của các cựu tù “cải tạo”, qua nhiều ng̣i bút, hoặc nghe kể lại. Riêng người viết loạt bài này, v́ đă từng là nạn nhân và cũng từng chứng kiến với những cảnh đời dâu bể, đă khiến cho người viết không thể nào quên được!
Chính v́ thế, bắt đầu hôm nay, người viết sẽ dùng ngọn bút của ḿnh để tuần tự qua nhiều kỳ, ghi lại tất cả những cảnh ngộ vô cùng bi thương ấy; và dẫu cho có muộn màng; nhưng với ḷng chân thiết, người viết xin được cùng xẻ chia cùng các gia đ́nh nạn nhân, là các cựu tù năm cũ. Và dĩ nhiên, người viết chỉ ghi lại những ǵ đă xảy ra, mà không nêu tên họ thật.
Kính xin quư vị đă từng “chết đi sống lại” trong những hoàn cảnh này, hăy nhận nơi đây, những ḍng nước mắt, khóc cho những cảnh đời tang thương - tân khổ, trong suốt những tháng năm dài sau ngày Quốc Hận: 30/4/1975.
Một tấm gương sáng ngời: Tiết hạnh khả phong:
Trước ngày 30/4/1975, Đại úy Thụy, là một vị sĩ quan liêm khiết, cho nên, dù đă phục vụ tại Đặc Khu Quân Trấn tại Thành phố Đà Nẵng; nơi dễ dàng có “tư lợi”, nhưng Đại úy Thụy không có nhà cửa riêng, mà ông và vợ con đă sống ở trong Cư Xá Sĩ Quan, sống đời đạm bạc. Chị Thụy, một phụ nữ hiếm có ở trên đời, chỉ biết sống cho chồng-con, không cần để ư đến những sự cuộc sống đầy đủ của những người vợ của các sĩ quan, là bạn của chồng ḿnh.
Sau ngày 30/4/1975, Đại úy Thụy bị bắt, bị ở tù “cải tạo” tại: “Trại 1 - Trại chính, Trại cải tạo Tiên Lănh”, tức “Trại T.154”; hậu thân của “trại cải tạo Đá Trắng” đă được thành lập vào cuối năm 1959, tại thôn 3 xă Phước Lănh, quận Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Sở dĩ người viết biết về trại “cải tạo” này một cách rất rơ ràng, bởi v́, chính Bác ruột của ḿnh: Ông Trần Thắng, một lương dân vô tội, và các vị đồng hương đă cùng bị du kích của Việt cộng bắt, rồi bị đưa vào nơi này giam cầm, và tất cả các vị, trong đó có Bác ruột của người viết, đều đă bị chết v́ đói và lạnh ở trong trại này vào năm 1964.
Trở lại với gia đ́nh của Đại úy Thụy. Sau ngày 29/3/1975, khi chồng bị bắt đi tù. Lúc này, Thủ đô Sài G̣n chưa thất thủ, th́ “Lực Lượng Ḥa Hợp-Ḥa Giải Thị Bộ Đà Nẵng”, trụ sở được đặt tại Chùa Pháp Lâm, ở số 500, đường Ông Ích Khiêm, tức Chùa Tỉnh Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, Quảng Nam, Đà Nẵng; đă xông vào Cư Xá Sĩ Quan để đuổi chị Thụy và con cái ra khỏi nhà. Do vậy, không c̣n cách nào khác, nên chị Thụy đă phải ôm áo quần và d́u dắt các con ra đi, rồi phải ra nhà Ga Đà Nẵng để sống một cuộc đời gối đất, nằm sương!
Cuộc sống của chị Thụy và các con tại nhà ga:
Ngày Đại úy Thụy đă phải đến “tŕnh diện” tại “Thị bộ Ḥa Hợp-Ḥa Giải” tại Chùa Pháp Lâm, số 500, đường Ông Ích Khiêm, Đà Nẵng. Nên biết lúc này thủ Đô Sài g̣n chưa mất, tại Đà Nẵng chưa có “Ủy Ban Quân Quản”. Và, để rồi phải hơn mười năm sau Đại úy Thụy mới được trở về nhà… Ga để gặp lại vợ con !
Xin nhắc lại, Thành phố Đà Nẵng đă bị rơi vào tay của Cộng sản Hà Nội vào ngày 29/3/1975; trong thời gian này, Sài G̣n chưa mất, nên trước khi bị bắt vào tù, người viết đă chứng kiến cảnh sống vô cùng thê thảm của chị Thụy và các con tại nhà Ga Đà Nẵng. Ngày ấy, khi nghe hai bà chị họ của người viết đang buôn bán củi tại nhà Ga Đà Nẵng, số củi này được mua từ Lang Cô, chở bằng tàu lửa về Đà Nẵng để bán sỉ và lẻ, đă kể lại với người viết về hoàn cảnh của chị Thụy và các con tại nhà Ga, và c̣n cho biết chị Thụy và đứa con trai lớn cũng thường hay vác củi thuê cho hai chị. Và, người viết đă đến tận nhà Ga để gặp chị Thụy, để rồi phải chứng kiến trước mắt một cái “nhà” của chị Thụy:
Bên cạnh một gốc cây, ở một góc đường Nguyễn Hoàng - Hoàng Hoa Thám là một cái “nhà” được che bằng hai tấm tôn, chung quanh được đắp những tấm bạt nhà binh đă rách, và những tấm vải bố được tháo ra từ những chiếc bao cát, loại dùng để làm lô cốt chống đạn của quân đội VNCH. Trong “nhà” là một chiếc chơng tre rộng khoảng hơn một mét, có trải chiếc chiếu cũ, một chiếc chăn cũng cũ. Trên chiếc chơng tre, là hai đứa con nhỏ của chị, khoảng dưới năm tuổi ngồi trên đó, v́ phía dưới, trong những ngày mưa, hoặc mùa Đông, th́ những gịng nước đen ng̣m, hôi hám đă từ phía nhà Ga chảy ra lênh láng ở phía dưới chiếc chơng, nên chị Thụy không cho hai con nhỏ bước xuống đất, mà cứ ngồi, nằm hoặc ngủ, để chờ Mẹ và Anh trai đem gạo về nấu cơm cũng ngay trong cái “nhà” này. Chị Thụy và con trai lớn đă phải vác hàng thuê không kể mưa, nắng, ngày, đêm, chỉ khi nào quá mệt, th́ lại về, để rồi phải nằm gác lên nhau trên cái chiếc chơng tre độc nhất ấy. Đó là một “mái nhà” của chị Thụy và các con !
Về cuộc sống, chị Thụy và con trai lớn chắc khoảng trên mười tuổi đă phải ra sức để làm hết mọi việc, từ vác, xách hàng thuê cho những người đi buôn bán, hoặc khách văng lai. Chị Thụy và cháu trai không ngại khó bất cứ một công việc nặng nhọc nào. Người viết đă chứng kiến cà hai Mẹ-Con chị Thụy c̣ng lưng để vác những bao gạo, những bó củi từ những chuyến tầu lửa từ Huế chạy về Đà Nẵng, vác từ trong nhà Ga ra đến ngoài mặt đường Nguyễn Hoàng, là nơi những chiếc xe “ba gác” đang chờ sẵn để chở những bó củi đến những nơi buôn bán sỉ, hoặc chở những bao gạo đến những người bán gạo lẻ ở các chợ.
Nên biết, là vào thời gian ấy, chị Thụy c̣n trẻ tuổi, có nhan sắc, nếu muốn, chị cũng có một cuộc sống no ấm, chứ không phải dầm mữa dăi nắng. Nhưng không, chị Thụy đă quyết giữ một ḷng chung thủy với chồng: Đại úy Thụy, và đă sống cho chồng con.
Người viết nghĩ rằng, vào lúc ấy, khi quyết định và chấp nhận một con đường chông gai đó, chị Thụy thừa biết về tương lai của ba con thơ của anh-chị sẽ mịt mờ, đen tối, v́ chị không có “hộ khẩu”, nên các con không được đến trường để học hành; nhưng không thể để con cái phải chịu dốt không biết chữ, nên mỗi ngày chị đều tự dạy cho các con học, để biết đọc, biết viết. Ngoài những công việc như đă kể, chị Thụy đă chắt chiu từng đồng, để mua những gói quà, để rồi đă vượt hàng trăm cây số đường rừng, để đến “trại cải tạo” để “thăm nuôi” chồng đang trong cảnh đời lao lư.
Gói quà thăm nuôi vô giá!
Những gói quà thăm nuôi, mà chị Thụy đă từng lặn lội đem lên trại “cải tạo” để thăm chống, không như những gánh quà của các bà vợ Sĩ quan khác, mà chỉ vỏn vẹn là một gói nhỏ trên tay thôi !
Người viết vẫn nhớ đến một lần cùng được đi thăm nuôi một lần với Đại úy Thụy. Khi vào “nhà thăm nuôi” th́ thân nhân của tù “cải tạo” đều có “giấy thăm nuôi” do phường, xă ở địa phương cấp cho, c̣n riêng chị Thụy th́ không hề có một tờ giấy ǵ cả, mà chỉ có một gói quà trên tay thôi.
Hoàn cảnh của Đại úy Thụy là độc nhất vô nhị tại trại “cải tạo”, nên “Ban giám thị” của tại đă xét thấy nếu muốn cho Đại úy Thụy được “an tâm học tập cải tốt” th́ phải cho anh được gặp mặt vợ; Do đó, những “cán bộ phụ trách thăm nuôi” đă “linh động” cho Đại úy Thụy được gặp mặt vợ mà không có “giấy thăm nuôi”.
Người viết vẫn nhớ như in, lần ấy, khi được phép gặp mặt Đại úy Thụy và sau khi “trật tự” xét quà thăm nuôi, khi gói quà được mở ra, th́ chỉ có mấy “bánh” đường đen, một ít “thuốc rê” loại thuốc để người hút tự vấn thành điếu để hút, và một “thẩu” mắm ruốc, ớt mà thôi.
Khi viết lại những điều này, người viết biết rằng sẽ làm cho quư vị cựu tù sẽ xúc động, có thể rưng rưng khi nhớ lại một kỷ niệm, mà đa số vị đă biết; và tôi đă được quư vị tù trong lúc lao động ngoài đồng ruộng lúa, đă kể lại cho tôi biết: chính lần được thăm nuôi đó, khi về pḥng tù, Đại úy Thụy chắc nh́n thấy sự tiều tụy của vợ mà đau buồn, nên vẫn để gói quà nằm yên, cho đến tối, th́ Đại úy Thụy mới mở ra; và, khi cầm một “bánh” đường đen trên tay, th́, ôi ! nước mắt của Đại úy Thụy bỗng tuôn trào, anh muốn ngất đi, khi nh́n thấy những chiếc dấu răng của trẻ con đă cạp, đă cắn, sứt sứt, mẻ mẻ chung quanh chu vi của mấy “bánh” đường…
Đại úy Thụy đă hiểu mọi sự. Th́ ra, các con nhỏ của anh v́ thèm đường, nhưng Mẹ, tức vợ của anh không cho ăn, v́ “để dành thăm nuôi Ba”, nhưng bởi c̣n quá nhỏ tuổi, nó thèm quá, nên nó đă lén mẹ để cạp, để cắn bớt chung quanh “bánh” đường cho đỡ thèm !
Và, Đại úy Thụy đă không thể ăn được mấy “bánh” đường đen ngày đó, mà cứ để yên, cho đến khi v́ trời nắng nóng, nên nó đă chảy ra thành một đống nhăo nhoẹt rồi, th́ Đại úy Thụy mới dám ăn !
Gói quà thăm nuôi ấy, mà cho đến hôm nay, khi nhắc lại, th́ chắc rằng, chẳng phải riêng người viết, mà chắc các quư vị cựu tù “cải tạo” cũng như quư độc giả cũng công nhận rằng: đó là một gói quà thăm nuôi vô giá.
Ngày trở về:
Trong suốt những năm tháng dài ở trong trại “cải tạo”, Đại úy Thụy không hề biết vợ con của ḿnh đang làm thuê, vác mướn, sống ở nhà ga Đà Nẵng, v́ chị Thụy không muốn cho anh biết, mà chỉ nói chị đang buôn bán ở đường Nguyễn Hoàng mà thôi, và các bà vợ Sĩ quan, cũng không ai biết về cuộc sống của chị Thụy, mà nếu có biết họ cũng không nói ra. Chỉ cho đến hơn mười năm sau, khi được ra tù, trở về, cứ như theo lời của vợ, Đại úy Thụy đă đi t́m vợ con dọc theo con đường Nguyễn Hoàng, và khi ngược lên đến nhà Ga Đà Nẵng, th́ bất ngờ, một bóng dáng của người phụ nữ đang c̣ng lưng để vác một bó “củi cḥ” lớn trên vai. Bó củi này, là củi của chính chị của tôi, v́ chị tôi rất quư chị Thụy, thường hay nói chuyện với chị Thụy, nên mỗi khi có củi từ Lang Cô chở vào Đà Nẵng là đều nhờ chị Thụy.
Cuộc tương phùng này, hay nói cho đúng nghĩa, là một cuộc Đoàn Viên giữa vợ chồng con cái của Đại úy Thụy, th́ người viết không thể dùng bất cứ một từ ngữ nào để có thể diễn đạt một cách cho trọn vẹn; nhưng người viết được biết, sau đó, Đại úy Thụy gặp lại một người lính cũ, và đă được người lính đă một thời thuộc quyền của ḿnh, đang làm nghề “sản xuất bia hơi”, người viết không biết uống bia, rượu, nên không biết đến loại “bia hơi” này nó ra làm sao; song được biết, người lính cũ tốt bụng này, đă giúp đỡ cho cả gia đ́nh của Đại úy Thụy có một nơi ở, lại c̣n giúp cho Đại úy Thụy mượn một chiếc xe đạp cũ, để hàng ngày Đại úy Thụy chở những thùng bia hơi mà người lính này chỉ tính giá vốn, rồi đem đến giao cho những quán ăn, để lấy tiền lời, cho đến ngày Đại úy Thụy cùng vợ con lên đường sang Mỹ theo diện tù “cải tạo”.
Người ta thường nói, bất cứ cái ǵ, nó cũng có “cái giá” của nó. Cái giá, này th́ tùy theo sự suy nghĩ của mỗi người. Tại Đà Nẵng, đă có nhiều người vợ của các Sĩ quan đă chọn cho ḿnh bằng những cách sống, những con đường khác nhau, và tất nhiên, cho đến bây giờ, họ cũng đă biết được “cái giá” của nó như thế nào rồi. Lại cũng có người nói rằng, chị Thụy làm như thế, chỉ giữ được ḷng chung thủy với chồng, nhưng các con của anh chị phải chịu thất học, chỉ biết đọc, biết viết do Mẹ dạy, chứ nếu làm khác hơn, th́ chắc con cái sẽ không phải làm thuê, vác mướn, và bị thiệt tḥi về vật chất…
Tuy nhiên, theo người viết, ở trên đời này, có một thứ không dễ ǵ ai cũng có thể t́m thấy được, đó là sự trọn vẹn và cao quư của t́nh yêu, v́ chỉ có t́nh yêu đích thực mới khiến cho con người vượt lên trên được tất cả, mới đạp bằng hết được những chông gai của cuộc đời. Người viết nghĩ rằng, giờ đây, anh chị Đại úy Thụy đang hạnh phúc trọn vẹn trong những năm tháng c̣n lại của cuộc đời.
Tưởng cũng nên nhắc lại: Sau ngày 30/4:1975; các vị Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Ḥa đă bị vào các nhà tù “cải tạo”. Chính nơi đây, chính những cảnh tù đày, là những cuộc thử nghiệm về chất người. Bởi v́, nếu trước đó, những bà vợ đă lấy chồng là những vị cựu tù “cải tạo” v́ t́nh yêu chân thật, th́ t́nh yêu ấy sẽ khiến cho họ càng thương yêu chồng trong cảnh lao tù, mà không lỗi đạo làm vợ; c̣n như nếu họ đă lấy chồng v́ danh, v́ lợi, th́ tất nhiên, khi các ông chồng vào tù rồi, th́ danh hết, lợi hết, th́ t́nh cũng hết, nên họ đành đoạn bỏ người chồng đang đau khổ trong nhà tù, để ôm cầm sang thuyền khác, điều đó, không có ǵ là lạ cả.
Nhưng những chuyện đă nói, là chuyện của những người khác; c̣n riêng chuyện của Đại úy Thụy là một chuyện thật, có bi thương, song cũng có những ngọt ngào. Có những giọt nước mắt, nhưng cũng có những giọt lệ mừng và những nụ cười thật trọn vẹn như hôm nay, khi anh chị Đại úy Thụy và gia đ́nh đă và đang được đoàn viên nơi hải ngoại. Và, riêng tôi, tôi quư, tôi phục chị Thụy: Chị là một tấm gương sáng ngời: Tiết hạnh khả phong.
Trời không phụ ḷng người là vậy.
Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
(Xin tái ngộ quư độc giả với những chuyện t́nh của Tù “cải tạo” có thật trong những bài kế tiếp)
( Viết để tưởng nhớ quư chiến hữu đă gục chết trong lao tù , và cũng để tuyên dương những người vợ lính VNCH, đặc biệt là chị quả phụ của cố Đại úy CSQG Trần Thiên Thọ Hải. ....)
... T́nh h́nh sức khỏe anh em khi c̣n ở các trại do quân đội Việt Cộng quản lư đă tồi tệ, th́ nay càng tồi tệ hơn dưới sự hà khắc dă man của bọn Công An, mà anh em tù quen gọi là bọn “Chó Vàng”, tiêu chuẩn ăn uống th́ bị cắt xén ăn bớt. Mỗi bữa ăn chỉ được một th́a cơm với hai khúc sắn tươi, hoặc gần chục lát sắn khô hay một chén sắn duôi (loại sắn được nạo thành sợi hay xắt thành cục phơi khô), vài muỗng canh đại dương (nước muối với vài cọng rau già), hoặc một vài miếng sắn được nấu với muối cho nhừ để làm canh. Họa hoằn, một đôi ba tháng và các ngày Lễ Tết th́ được một chén cơm trắng với hai ba miếng thịt lợn to bằng đốt ngón tay, hoặc một vài miếng thịt trâu từ một con trâu già đă không c̣n kéo cày nổi hay bị chết v́ không chịu nổi cái lạnh mùa đông. Với chế độ ăn uống như vậy mà phải làm việc khổ sai, dẫn đến t́nh trạng kiệt lực, người nào cũng chỉ c̣n da bọc xương. Mỗi buổi chiều hết giờ lao động, anh em tù cởi áo xuống ao tắm, trông như một bầy khỉ ốm đói.
T́nh trạng bệnh tật và không có thuốc men thật là đáng sợ, bệnh kiết lỵ, phù thủng và thổ huyết rất phổ biến. Đă có một số anh em chết mà anh em tù quen gọi là “quay đầu về núi” v́ hầu hết tù nhân chết đều được chôn trên các sườn đồi.
Xin đơn cử một vài cái chết của vài anh mà tôi có dịp ở chung.
Thiếu tá Hà Sỹ Phong, phó giám đốc đài phát thanh Tự Do, anh ở cùng đội với tôi, mấy ngày trước anh bị bệnh nên cho nghỉ ở nhà trực pḥng, sau đó 2 ngày anh được mẹ ở miền Bắc lên thăm. Buổi tối anh cho tôi nửa chén cơm vắt và hai miếng thịt gà kho mặn, anh th́ thầm tâm sự:
- Năm 54 tôi di cư vào Nam chỉ có một ḿnh, ông bà cụ luyến tiếc tài sản không chịu đi, bố tôi bị đi tẩy năo (tù cải tạo) trong đợt cải cách ruộng đất và chết trong tù, bây giờ mẹ tôi đă ngoài 70 tuổi lại phải đi thăm con ở tù. Đây là lần đầu gặp lại mẹ tôi sau hơn hai mươi năm xa cách.
Nói rồi hai hàng nước mắt anh lăn dài trên má. Tôi lí nhí cám ơn anh về món quà anh đă cho tôi. Sau gần 3 năm tù, đây là lần đầu tiên tôi được thưởng thức một món ăn quá sang trọng như vậy. Tôi xé từng sớ thịt, rồi lại liếm mấy ngón tay, tận hưởng cái hạnh phúc to lớn ấy rồi thiếp dần vào giấc ngủ.
Sáng hôm sau khi ra khỏi pḥng để điểm danh th́ thiếu một người, tên thường trực thi đua (một tên tù được đưa lên phụ việc đóng mở cửa và kiểm soát anh em) đi vào th́ phát hiện anh Phong đă mê man. Chúng tôi vội cơng anh lên trạm xá nhưng anh đă chết vài giờ sau đó.
Ít ngày sau lại đến anh Trung Tá Lạc pḥng 2 Bộ tư lệnh Quân Đoàn II. Một buổi chiều sau khi lao động về, anh Lạc ghé sang khu tôi ở, móc trong túi ra một cái bánh chưng đưa cho tôi và nói:
- Hai cháu nó mới ra thăm, cả hai đều được đi dậy học lại và là “giáo viên tiên tiến” nên được cho ra thăm “lăng Bác”. Nó t́m lên thăm mua cho ít quà, chú dùng cái bánh chia vui với tôi, mấy ngày nữa các cháu sẽ lại lên thăm tôi lần nữa. Tôi đón cái bánh chưng to bằng cái bánh trung thu và lí nhí cám ơn anh rồi vội chia tay, v́ sợ tụi cán bộ trông thấy sẽ ghép tôi quan hệ trái phép .v.v..
Quả thật những lúc đói khát khó khăn thế này mới thấy cái t́nh dành cho nhau nó to lớn và sâu đậm. Nhưng rồi không may cho anh, hai hôm sau anh đă chết ngay tại hiện trường lao động không kịp gặp lại các con.
Giữa năm 78 v́ đói khát suy dinh dưỡng, cộng thêm cơn sốt vàng da đă khiến tôi kiệt lực, thân thể chỉ c̣n trên 30kg. Tôi không c̣n bước đi được nữa, mà chỉ có thể ḅ được vài ba thước, tôi được đưa xuống trạm xá nằm trong “danh sách chờ”. Tại đây đă có anh Tư, anh là người hạm trưởng đă sang Singapore rồi lại quay về, anh bị bệnh phù thủng lại thêm phần ân hận v́ đă quay về để rồi bị đi tù mút chỉ, nên chỉ ít ngày th́ anh chết. Rồi đến Trung Tá Mai Xuân Hậu, Tỉnh trưởng Kontum, Thiếu Tá Đặng B́nh Minh lái trực thăng cho Tổng Thống Thiệu, Trung Tá Lư. Dường như chẳng c̣n ai quan tâm đến cái chết, chả thế mà vẫn c̣n nói đùa: “Đ.M. mày qua mặt tao mà đíu bóp c̣i”.
Cũng thời gian này, có một bài hát đă được anh sáng tác tôi vẫn c̣n nhớ được ít câu:
“Rồi một ngày mai không có anh,
em không c̣n phải nhớ phải mong
- Rồi một ngày mai thân xác anh quay đầu về núi
- Cô đơn ngồi khóc một ḿnh
- Không một lần kịp vuốt mắt anh
- Ôi mây lang thang về phía trời xa vời,
nh́n trông theo cánh chim từng đàn,
để ḿnh ta với bao ngày tháng xanh rêu,
bụi thời gian lấp kín hồn ḿnh,
đớn đau trong ḷng mà nhớ về nơi xa,
ôi ngày về c̣n dài bao lâu
- Rồi một ngày mai anh chết đi,
em không c̣n phải khóc phải thương
- Rồi một ngày mai thân xác anh đi vào ḷng đất,
cô đơn phủ kín đời ḿnh.
- Không một lần kịp nói tiếng yêu.”-
Nhưng rồi may mắn hơn, số tôi chưa tới, nên căn bệnh sốt vàng da không biết có phải nhờ ba cái lá ổi, lá xoan hay không, mà tự nhiên biến mất. Và may mắn thay, nhờ mảnh giấy tôi gửi lén về qua một chị ra thăm chồng, tuy bị tụi công an phát giác, nhưng chị cũng đă nhớ cái địa chỉ ở Biên Ḥa, nên chị đă đi t́m báo cho gia đ́nh tôi biết. Nhờ vậy, cuối năm 79 mẹ tôi và vợ con tôi ra thăm, tên Vinh cán bộ giáo dục của trại trước khi tôi ra gặp đă chỉ cho tôi gặp 5 phút v́ tôi đă gửi lén thư, nhưng tên công an dắt tôi ra đă cho tôi gặp gần một giờ. Gặp lại mẹ và vợ con sau hơn 4 năm chỉ biết khóc. Chỉ nói được vài câu th́ đă hết giờ, tôi đứng dậy chào từ biệt, ḷng buồn ră rượi, rồi chống gậy lom khom lết về trại, một tên tù h́nh sự được chỉ định giúp tôi đẩy cái xe cải tiến chở đồ thăm nuôi vào trại. Nhờ chuyến ra thăm này mà tôi dần dần hồi phục, lúc này mỗi tuần đều có một vài anh em “quay đầu về núi”. Cái đồi sắn ở phía đội 12 sau hơn hai năm đă có gần 300 anh em tù chính trị được chôn ở đó.
Gần tết năm 79 tôi chuyển sang đội 17 lâm sản, chuyên đi lấy củi để sử dụng cho bếp trại. Thời gian này do áp lực của quốc tế, nên chúng buộc phải cho gia đ́nh đi thăm nuôi, nên sức khỏe của đa số anh em đă dần dần hồi phục. Một số anh em “con bà phước” cũng được anh em đùm bọc, nên cái bóng thần chết đă bị đẩy lùi. Hàng đêm tại các pḥng, anh em lại tụ tập quanh ngọn đèn dầu với ấm trà cặm tăm, loại trà thật đặc được pha hoàn toàn bằng búp trà “hai tôm một tép” sao sấy cẩn thận, do anh em đội trà lén mang về. Các tay văn nghệ lại bắt đầu tổ chức ca hát nhạc vàng hàng đêm, khiến tụi cán bộ trại điên đầu, chúng bắt đầu cảm thấy hoang mang v́ thấy tù càng bị nhốt lâu lại càng ung dung tự tại, không c̣n hoang mang lo sợ, lại thêm đám cán bộ nhí bắt đầu bị anh em tù thu phục.
... Anh em đă san xẻ thuốc men cho dân ốm đau trong vùng, khi đi lao động ngoài Bến Ngọc. Anh em thường gọi đây là công tác dân sự vụ. Một buổi tối cuối năm, sau khi đă điểm danh vào pḥng, anh em đang tụ tập đàn hát như thường lệ, lúc kẻng báo tắt đèn đến giờ ngủ th́ tên cán bộ trực tại trại đến cửa pḥng nói vọng vào yêu cầu Phan Thanh đội trưởng lâm sản cử 4 người đi “lao động đột xuất”. Thanh, Diệp, Tân và tôi mặc quần áo cho thật ấm và cũng không quên mang theo tấm nylon đề pḥng mưa, v́ mùa đông miền Bắc thật lạnh, lại thường có mưa phùn. Chúng tôi được lệnh xuống chỗ đội 12 lấy cuốc xẻng và thùng xách nước bỏ lên xe cải tiến đi về phía khu nhà tiếp tân. Tên cán bộ đi theo đưa cho tôi cái đèn băo leo lét. Ngang khu nhà tiếp tân th́ đă thấy một thiếu phụ trong bộ đồ tang trắng đang đứng đợi.
Dường như đă được sắp xếp, người thiếu phụ lặng lẽ đi theo, tên cán bộ ra lệnh cho chúng tôi đi ra khu nghĩa địa. Đến nơi, hắn bảo chúng tôi đi t́m mộ của Trần Thiên Thọ Hải. Chúng tôi nhớ ra đại úy Hải chết vào đợt những anh em đầu tiên năm 1977, như vậy là nằm ở sâu trong cùng sát chân đồi. Sau gần 15 phút chúng tôi đă t́m được ngôi mộ của anh với tấm bia chỉ nhỏ bằng tờ giấy học tṛ ghi lờ mờ, c̣n nắm đất th́ chỉ cao hơn mặt đất chừng một tấc. Chúng tôi được lệnh là đào để bốc cốt cho chị mang về trong Nam. Việc đầu tiên là t́m một ít cành khô để đốt một đống lửa sưởi ấm và lấy ánh sáng, chị bắt đầu lấy ra môt bó nhang đốt lên rồi quỳ xuống vái ba lạy. Cầm nguyên bó nhang chị thổn thức khóc và nằm phủ phục lên ngôi mộ. Dưới ánh lửa tôi thấy thiếu phụ c̣n rất trẻ chỉ khoảng dưới 30, nét mặt xương xương.
Chúng tôi đứng lặng yên tôn trọng nỗi đau của chị, cho đến khi tên cán bộ yêu cầu chúng tôi “khẩn trương” bắt tay vào việc, v́ trời đă lâm râm mưa phùn. Chúng tôi d́u chị đứng dậy sang bên cạnh và bắt đầu đào. Chỉ không đầy 20 phút chúng tôi đă đụng lớp ván đă mục, v́ khi tù nhân chết th́ chỉ được bỏ vào cái quan tài nhỏ vừa khít người được đóng bằng loại gỗ bạch đàn hay bồ đề, một loại cây được trồng để làm giấy, nên rất nhẹ xốp, được xẻ thành từng thanh và đóng hở như cái vạt giường, nên thấy cả xác nằm bên trong và đám tù h́nh sự khi đi chôn th́ chỉ đào sâu khoảng 4 tấc rồi vùi lấp qua loa. Gỡ lớp ván trên mặt, bên trong là bộ quần áo tù đă rữa nát. Tôi đi xách một thùng nước ở dưới ruộng để rửa cho sạch đất, người thiếu phụ cũng đă lấy ra một cái thau nhựa và đổ vào đó một ít rượu. Chúng tôi cẩn thận nhặt từng cái xương rũ cho bớt đất, rửa cho sạch rồi trao cho chị. Chị cầm từng cái rửa trong rượu, rồi bỏ vào cái bịch nylon hai lớp. Chị đưa cho chúng tôi mỗi người một gói thuốc Tam Đảo rồi vừa làm chị vừa tâm sự:
– Giữa năm 79, em có xin phép ra thăm, nhưng khi đến trại th́ họ nói là không có anh Hải ở đây, nhưng ít tháng sau th́ em được tin anh Hải đă chết từ năm 77, do một chị bạn ra thăm chồng về cho biết.
Như vậy là họ đă dấu nhẹm không báo cho gia đ́nh, mới đây một người mách bảo cho em ra Bộ Nội Vụ ngoài Hà Nội làm đơn xin bốc cốt, sau mấy lần làm đơn cuối cùng họ đă phải cho. Nhưng khi đến đây th́ họ chỉ cho làm vào ban đêm và sau khi xong, họ không cho em ở lại nhà tiếp qua đêm với lư do là ô uế. Sau gần một giờ, thấy có thể đă không c̣n sót cái xương nào, chúng tôi bảo chị để tránh rắc rối chị không nên mặc bộ đồ tang này. Chúng tôi lấy bộ quần áo tang quấn quanh cái bao nylon đựng cốt bỏ vào cái bị cói lớn rồi lấy sợi dây chuối khô khâu miệng lại để không ai nh́n thấy. Trên đường về trại, lúc đến chỗ rẽ, chị lư nhí vừa thổn thức khóc vừa cám ơn rồi dúi vào tay chúng tôi mấy gói thuốc c̣n lại. Nh́n người thiếu phụ tay xách cái bị cói đựng cốt chồng, lặng lẽ đi trong đêm, trên con đường rừng cô quạnh, khiến chúng tôi vô cùng thương cảm, ngậm ngùi, đứng trông theo.
Bỗng sự uất ức trào lên rồi không nén lại được, tôi thốt lên trong kẽ răng:
– Đ.M. Chúng mày rồi sẽ phải trả giá cho hành động này!
Chúng tôi đi vào theo cửa hông của cổng trại, rồi lặng lẽ đi về pḥng. Tên thường trực thi đua đă đứng đợi sẵn để mở cửa.
Đă quá nửa đêm, cái lạnh đă thấm sâu vào người, nằm co quắp dưới lớp chăn mỏng, tôi thầm ái ngại cho số phận của người đàn bà bất hạnh. Chị mang cốt chồng đi giữa đêm trời giá lạnh của vùng rừng núi Việt Bắc, như người vợ, người mẹ Việt Nam đang mang nỗi đau, nỗi bất hạnh của cả một dân tộc đi trong đêm tối băo bùng.
Xin được cái giấy thông hành từ xă đến huyện mất nửa tháng trời c̣n được bồi thêm lời chỉ thị:
- Nhớ đi đúng một tuần về để đi tấn công đồng cỏ nhé.
- Dạ vâng, Chú đừng lo con sẽ về đúng thời gian cho phép. Lời ông trưởng thôn nói như đinh đóng cột đấy.
- Đợt này con đi, mẹ với chị sắm đồ ăn ít thôi. Con đi t́m mấy trại mà xa hoắc, ở rải rác khắp tỉnh Quảng Ngăi có nước về ḅ mẹ ạ!
Mẹ nh́n tôi mà lo lắng trong ḷng. C̣n cha tôi th́ đi t́m ở trại Kỳ Sơn nhưng chưa về.
Chị th́ đi tận Trà My giáp giới Trà Bồng, Quảng Ngăi. Cứ nghe bộ đội trên núi về nói có trại này trại nọ là đi t́m, bất kể xa gần.
Chị đă về được hai tuần, nằm nhừ như vừa trải qua một cơn đau thương hàn, tả tơi thấy mà thương chị quá!
Khi Quảng Ngăi kêu gọi các viên chức chính quyền và sĩ quan chế độ cũ tập trung học tập; quân giải phóng họ nói đi vài ngày thôi. Chị Thống có vào gặp được anh Hoành rồi, anh bảo chị về đi chắc rồi em sẽ được về sau. Chị đưa anh 3.000 đồng và chiếc nhẫn 2 chỉ vàng 24k. Thế mà chờ măi anh chẳng về.
T́m đến những gia đ́nh bạn anh hỏi th́ nói những tuần kế tiếp họ bắt anh biệt giam ở Công an Hoàng Hoa Thám, Quảng Ngăi; rồi đưa đi các trại cải tạo, không biết trại nào?
Thư từ không cho gởi, hai chị em về ḷng buồn vô hạn, biết nói sao cho cha mẹ bớt lo. Mẹ lại khóc ngày khóc đêm, mẹ sợ lắm.
Cha mẹ khóc hết nước mắt cho anh Tri cũng bị Cộng sản bắt, rồi anh vĩnh viễn không trở về.
Nỗi đau mất con như mụt măng đang vươn ḿnh trong ánh nắng mặt trời, th́ ai mà không đau đớn chứ!
Những thứ đồ lương khô, bột đậu các loại mẹ rang xay trộn đường, cá khô, con gà rô-ti, vài tán đường đen, xôi... thế mà nặng trịch.
Lúc đó chẳng có xe đ̣, xe thồ chi cả, chỉ tự túc mà đi thôi. Cái xe đạp giàn đầm, qua mấy mùa mưa nắng, sao lại thân thương chi lạ. Nó h́nh như cũng có tâm hồn! B́nh thường hay bị trật cóc mà nay lại bon bon trên đường đầy ổ gà, từ Tiên Phước đến Tam Kỳ dài hai mươi cây số. Những giọt mồ hôi bắt đầu thi nhau chảy đầy xuống cổ, thấm ướt cái lưng rồi đó. Tôi không ngán, chỉ sợ chiếc xe yêu quư xẹp lốp th́ có nước ngồi khóc.
Hai bên đường vắng teo. Từ quê xuống Tam Kỳ, nhà cửa sơ sài, hoa dại lơ thơ dọc hai bên con đường vương thơm gợi nhớ những ngày thơ ấu.
Nh́n những cánh đồng cỏ cao ngút buồn thiu. Lâu lâu, vài ba chàng bộ đội nón cối đi về cái xóm đ́u hiu, nh́n ḿnh không chớp mắt.
Kệ tía, ta chả sợ các ngươi nữa. Đời c̣n ǵ để sợ thế chứ.
Chưa tới hai mươi mà ḿnh già đanh, già điếc. Đến Tam Kỳ sau hơn hai giờ đạp xe v́ đường xá hư hỏng nhiều quá. Chẳng muốn ăn, chỉ khát nước thôi. Có đem theo chai nước, đă tu hết khi đến Kỳ Long. Tam Kỳ, thành phố nhiều kỷ niệm tuổi học tṛ với những tà áo trắng khi tan trường. Nay lạnh ngắt, quạnh hiu, tiêu điều, buồn man mác. Đến đầu cầu Tam Kỳ, dừng xe bơm lốp rồi đi tiếp. Dặm trường sương khói mở trước mắt. Những cây số được đếm theo phút, băng băng trên đường nhựa nắng cháy. Vào đến ngă ba Sơn Tịnh, tất cả tám bốn cây số đi xe đạp. Cũng có bốn hay năm lần trật sên chứ chẳng chơi! Ù hai lỗ tai v́ mệt.
Chẳng có ai biết cho ḿnh ta! Người yêu không, bạn bè không. Cô đơn trăm phần trăm, độc hành trên bước đường đi t́m anh cải tạo. Tâm trạng như ở tuốt trên ngọn cây tránh lụt. Hỏi những tên mũ cối dọc trên đường đi, họ nói Quảng Ngăi có trại Hành Tín, tập trung cả sĩ quan (Ngụy Quân với Ngụy Quyền). Ở Nghĩa Hành đi lên, đi đến đâu nhờ họ chỉ nhé.
Trời tối thui rồi mà chẳng biết ngủ đâu? Thế ḿnh quên là ḿnh con gái mất, đâu phải là trai mà dạn dày thế kia chứ! Đến được trại Hành Tín mù mịt tối. Người đi thăm nuôi chừng năm mươi đến bảy mươi người. Ai nấy đều lo lắng đợi chờ cho mau sáng để ngày mai gặp thân nhân.
Có cục xôi mẹ gói để riêng, ăn gần hết. Xuống cái suối nho nhỏ bụm nước mà nốc, nước ngọt ngon lành chạy vào tận xương. Ḷng khó tả nổi lúc đó. Nhiều người đem bánh ú, khoai lang nấu ra ăn. Rồi t́m góc có bụi chuối mà nằm, không biết có ngủ được hay thao thức? Bầy muỗi, con nào cũng to tướng, bay vo ve, nghe rợn người. Đêm đó sao lâu sáng chi lạ. Tiếng gà rừng gáy, tiếng quốc kêu lạc bạn t́nh, tiếng dế than rỉ rích... đủ thứ tiếng côn trùng buồn năo nuột!
Sáng sớm, ai nấy đă dậy ngồi chờ, rồi đi t́m nước rửa mặt. Sương mù giăng mờ như Đà Lạt. Núi rừng nhấp nhô, bàng bạc sương mai dày đặc. Lâu lâu nghe những giọt nước trên lá cây rơi tí tách, nhẹ nhàng, mơ hồ cho nỗi buồn tan theo sương khói. Đến tám giờ, tất cả được cán bộ quản lư trại ra hướng dẫn, đọc nội quy thăm nuôi. Ḿnh trông ngóng thấy cả đoàn các anh kể cả những bác đă già, lần lượt đi ra từng hàng dọc. Ḿnh nh́n từng người xem có anh Hoành không. Xa quá không chộ rơ. Thấy các anh ốm tong teo, mặc đồ cũ hoắc, chân mang đôi dép su, đội nón cời, thảm ơi là thảm.
Lần lượt cán bộ gọi tên theo giấy thăm nuôi. Nhiều người gặp người thân mừng lắm. Lúc đó, có ông già chắc là Ngụy Quyền được gọi, nhưng mà gọi lộn nên ông đứng măi không ai thăm. Hết hai mươi phút, ông trở vào trại, chắc ḷng buồn không thể tả. C̣n ḿnh cũng thế, không có anh Hoành. Cán bộ lại chỉ cho cái trại nữa là trại Ba Gia, Đồng Ké, Từ ngă ba Sơn Tịnh đi lên, cứ hỏi họ sẽ chỉ. Ḿnh với vài ba người không gặp thân nhân, có một ông đi t́m con là Chuẩn úy, người Sàig̣n, cũng buồn không kém. Trên đường trở lại ngă ba Sơn Tịnh chắc đến chiều mới tới.
Đường núi cong queo dốc, lau lách cọ vào người cứa đứt, mà sau về nhà mới thấy đau. Những vết cắt như dao lam rạch tứ tung. Đồ ăn càng đi càng bốc mùi, bởi trời nắng. Xe đạp th́ gởi ngoài xa cách chừng hơn mười cây số chứ đi đuờng rừng sao đạp được. Mệt quá nhất là đống đồ thăm nuôi, càng đi càng nặng; hết đội đến ôm rồi vác, quẹo cái cổ mất toi.
Đến ngă ba Sơn Tịnh chắc ba giờ chiều. Phải đi tiếp không trễ mất, về cho kịp đi tấn công đồng cỏ nữa.
Đêm đó ngủ ở chuồng trâu của dân trụ bám. Họ chửi bới nào là đồ nguỵ ác ôn, chết mẹ cho rồi. Đủ thứ những lời độc địa lôi ra để chửi cho đă cái cổ họng. Nghe buồn thúi ruột.
Ḿnh phải quyết tâm mới được. Vào quán ăn bún gị heo, một tô không thấm thía v́ cái tô tí ti mà bao tử c̣n cồn cào. Nhưng ăn nhiều th́ mệt đi cũng không nổi. Với lại c̣n phải để tiền nếu gặp, cho ảnh. Con đường Sơn Tịnh lên Ba Gia nghe nói khoảng ba mươi ki-lô mét. Dọc đường gió bụi thổi lướt qua, người đi lưa thưa, nhiều bộ đội hơn là dân.
Thấy ba bộ đội đi trước ḿnh tiến nhanh để cho kịp và đi theo chân khỏi bị lạc. Không ngờ mới hỏi một câu th́ được trả lời bằng cái giọng Bắc Kỳ nặng trịch, không mấy thiện cảm:
- Đi măi sẽ tới.
- Ngụy quân, Ngụy quyền... Đến bữa nầy không dẹp bỏ c̣n ăn mặc thế!
- Đồ văn hóa đồi trụy!
Ḿnh lặng thinh biết trả lời sao bây giờ...
Bộ đồ thun bông cỏ màu vàng, ôm thân h́nh gọn đẹp thế kia, mà nói là tàn dư Mỹ-Ngụy! Chẳng hiểu cái chế độ tân thời sẽ đưa dân chúng đến đâu đây. Ḷng tin hoàn toàn suy sụp. Nghĩ thế nhưng chân vẫn bước theo v́ một ḿnh đi cũng ngán. Ḷng tự nhủ, đám cháu “cụ Hồ” mới giải phóng, chắc đàng hoàng, không giở tṛ hiếp đáp con gái. Cứ nghĩ đẹp cho các chú bộ đội trong giai đoạn lịch sử sang trang nầy đi rồi hăy hay.
Đường mù khơi rồi hai tên bộ đội cũng rẽ lối. Một ḿnh đi trong ánh nắng chiều tà sao tê tái dâng tràn. Tiếng chặt tre lùm tre sát bên đường, ḍm lên thấy cha sồn sồn đội mũ cối đứng trên cái thang cao khoảng năm mét đang chặt b́ bộp. Bỗng tiếng xe gắn máy từ sau chạy tới. Người đó hỏi:
- Sao mày, nó chết chưa? Tên chặt tre trả lời:
- Đéo mẹ, chưa chết.
- Đánh cho nó chết đi mày, để làm ǵ.
- Đồ ác ôn chó chết, lấy đá đập vào đầu nó cho rồi, chừ đang ở đâu dậy?
- Th́ ở bờ sông cả ngày nầy
- Đéo mẹ, đập cả buổi mà nó ngáp chưa chết.
Nghe mà muốn xỉu, chân bước không nổi. Chừ hỏi ai bây giờ? Họ giết người nào thế? Nỗi sợ hăi dâng cao. Đừng là anh tôi, lạy trời... (sợ quá nghĩ thế, chứ anh ḿnh đâu làm ǵ mà đến nỗi nó giết). Măi đến tối tôi mới đến trại Ba Gia. Đông người thăm nuôi. Họ đi cả mấy ngày để chờ ngày chủ nhật mới cho thăm. Người đi t́m lần đầu như ḿnh cũng nhiều, ai nấy lo nơm nớp. Cán bộ thông báo đem giấy thăm nuôi nộp để mai gọi tên theo thứ tự, ai trước thăm trước.
Nh́n đoàn tù đi làm về ra sông tắm rửa. Bộ đội giữ tù đông bằng người đi thăm, súng ống mang sẵn sàng trên tay, miệng th́ la hét inh ỏi, bắt tù cải tạo nhanh lên. C̣n mấy anh tù cứ lén ḍm thử coi có gia đ́nh ḿnh đi thăm đó không.
Nh́n xa xa ai mà giống anh Hoành quá. Mừng thầm trong bụng. Đêm đó cũng ngủ ngoài chuồng ḅ lần nữa. Dân trụ bám họ bị thâm nhiễm đảng Cộng sản quá nên cứ gặp thân nhân đi thăm cải tạo là chửi khéo. Có người chửi trước mặt. Những tấm tranh cùn lót lưng nằm cho đỡ cấn. Cả hàng phụ nữ nằm riêng, êm ru không động đậy, tâm trạng lo âu đủ điều. Muỗi tha hồ cắn hút máu. Khuya nghe tràng súng nổ, rồi tiếng hô đứng yên không được chạy, bắn bể đầu. Thế là cả dăy đàn ông đàn bà chúng tôi ngồi nhổm dậy, nh́n về dăy trại bên kia con sông nhỏ. Đèn lập loè hiu hắt, cán bộ trại giam chạy th́nh thịch, chắc mấy anh tù trốn trại.
Sáng mai chờ đến giờ thăm nuôi. Không được kêu tên chi cả. Cán bộ nói không có đây, chắc ở trại Sơn Nham, cách đây ba chục ki-lô mét trở lên. Cô cứ vừa đi vừa hỏi là họ sẽ giúp cho. Thất vọng nữa rồi.
Thế là lên đường bỏ lại sau lưng trại Ba Gia, bên tê con sông thơ mộng. Núi rừng xanh thẳm ch́m trong sương mai băng lăng.
Đi lên cao hơn hướng trại Sơn Nham gặp toàn bộ đội, du kích địa phương. Cũng nhiệt t́nh chỉ, nhưng họ đi bỏ lại một ḿnh trên con đường vắng hoe, cơng đồ ăn chừ nghe hôi nhiều rồi đấy. Nhờ khi sáng có nấu cơm với mấy chị đi thăm chồng, ăn lót bụng chứ không trưa nay chắc đi không nổi. Trước mắt là con đường sỏi đá, dần cao lên. Hoa sim tím ngút trời, gió hây hây. Nh́n xa xa có đoàn người cơng gùi đi xuống, rồi phía sau ḿnh cả đoàn tù cải tạo chừng một trăm người, cán bộ đi hai bên mang súng giữ lăm lăm. Tiến gần trước mắt ḿnh, cả đoàn thiếu nữ người thượng trẻ trung, cỡ tuổi như ḿnh, mang giỏ sau lưng, mặc váy xà-rông đặc biệt không có mặc áo, để nguyên si phần trên đầy đặn tuyệt vời không thể tưởng tượng, giống như một bức tranh, quá đẹp, quá hấp dẫn. Các cô hồn nhiên, vừa đi vừa cười, nói chuyện, nhảy nhót trên đường đá sỏi như chim sáo.
Núi rừng sim tím làm ḷng ḿnh say đắm. Từng tốp mấy anh đi ngược chiều, để hai con mắt về các cô gái đó, dù trên lưng cơng một thùng nước mắm cỡ năm chục kư, có anh cơng một bao gạo. Mấy anh có lẽ cũng mệt ngất ngư rồi. Nhiều anh đi cà niểng v́ mang dép cao su cụ Hồ không quen và hơn nữa đi về thị xă cơng lương thực xa 140km đường bộ cả đi lẫn về, băng rừng lội suối. Ḿnh theo dơi thử có anh Hoành không? Nhưng đều lạ lẫm, nhiều anh ḍm ḿnh như ḍ t́m người thân? Tất cả đều bỏ sau lưng đường đồi xa hun hút.
Đến ḍng sông Sơn Nham khá rộng lớn phải đi đ̣. Hồi đó, chỉ vài đồng trả cho người lái đ̣ là qua sông. Nh́n nước sông trong vắt trôi xuôi, buồn man mác.
Qua sông rồi th́ một trời gian nan hiện ra phía trước. Đi theo du kích coi tù, họ đi nhanh như sóc, ḿnh đuối đơ. Nào leo dốc, bám dây leo ven ḍng sông, rễ cây chằng chịt nghiêng xuống vực. Đi một đoạn là đến suối, có cây to được bắc ngang để đi qua. Thôi th́ ḿnh ḅ vậy, sợ té quá. Nh́n xa xa có cả dăy nhà, bầy trẻ ở truồng ở trần đen thui thui, đang nô đùa hồn nhiên. Nh́n lên nhà sàn thấy có phụ nữ vừa mới sinh đang nằm mặt nh́n ra đường ṃn ḍm người qua lại. Đứa bé mới sinh đỏ hỏn, c̣n có các cô phụ nữ mặc toàn đồ đen rách tả tơi. Thấy mà thương lắm, họ cười để cả hàm răng đen kịt, trông ngắn củn như bị cưa.
Tục các sắc tộc là họ thích tốt khoe, xấu che; nên chi các cô chưa chồng để trần bộ ngực căng đầy.
Tạm biệt dăy nhà sàn đơn sơ, nhưng với họ cuộc sống b́nh thản lạ lùng như con suối mùa xuân êm đềm, mộc mạc. Sống chỉ cần săn bắt thú rừng và cá dưới khe, rau rừng, tiả lúa bắp là đủ. Đêm đến họ đốt lửa cả đêm, để các con thú dữ khỏi ṃ tới và cho ấm nhà. Đối với họ, niềm vui hợp quần là trên hết. Họ vui chơi, nhảy múa dưới ánh trăng hay ngọn lửa bập bùng, lốp đốp nổ, hoà lẫn tiếng cồng chiêng đến thâu đêm.
Đi măi mà chưa tới. Cứ gặp bộ đội là hỏi đến chưa? Họ nói gần tới nhưng sao lâu kinh khủng. Băng qua con suối, hay ḍng sông, con nước mát lạnh, bầy cá niên chạy tới đớp vào chân. Rêu xanh mượt, chạy theo ḍng nước cuốn nhẹ nhàng, lắc lư theo con nước. Màu xanh rêu nguyên thủy, dài hơn suối tóc cô thôn nữ, từng mảng, từng mảng, êm đềm uyển chuyển, ḿnh nhẹ bước. Bỗng một cái rầm trơn ơi là trơn, cả người ướt như chuột lột nhưng cảm giác mát lạnh chạy khắp thân. V́ đi lâu thân nhiệt tăng cao, thôi th́ cho ngập luôn. Đi tiếp, cán bộ theo sau cỡ ba người, có người thanh niên trẻ nhỏ con hơn là người Quảng Ngăi. Họ thốt lên:
- Đ.M., cho mấy thằng Ngụy Quân, Ngụy Quyền đó ở tù thí xác, mục gông đi nhé. Nó đă hưởng sướng nhiều rồi, tụi nó có vợ đẹp Đ... sướng...
Ḿnh lặng im không dám nh́n, sợ quá. Họ có biết đâu ḿnh là em gái cơ chứ! Mà anh tôi thật sự có sướng chi đâu he, đời binh ngũ, ai nói sướng bao giờ!
Ḿnh nhớ có mấy lần ảnh về thăm nhà, đi xe thồ vừa đến ngơ chạy bay vào nhà xin tiền mẹ trả tiền đi xe. Có khi đi chiếc vespa màu xanh nổ b́ bụp hay bị chết máy, bảo đàn em tụi ḿnh ra đẩy toát mồ hôi hột. Đợt sau anh về tóc dài tḥng, mẹ cha hỏi, anh nói đi hành quân nên không có thời gian cắt tóc. Có khi anh về nh́n trên tay không thấy chiếc nhẫn. Khi ra trường được nhận đeo để kỷ niệm của SVSQ/CTCT Đà Lạt. Chị hỏi, anh nói cuối tháng chưa lănh lương em cầm. Chắc có lẽ ngày thất trận, nhẫn đang ở nhà cầm đồ không chừng.
Nh́n xuống chân kinh khủng quá! Những con vắt đen thui búng búng, đo đo, ngoe ngoẩy thấy khiếp. Bên chân kia, máu chảy tùm lum. Chắc những con vắt uống máu no nó tự rớt. Ôi sợ quá phải chạy thôi. Nhưng đồ thăm nuôi đội trên đầu nặng quá, chừ cái cổ cứng đơ không quay được mà cũng không cúi xuống được, như người máy rô-bốt .
Tôi mừng húm. Bên kia con suối, đi băng qua rừng lau sậy, trên dốc cao là trại mới làm. Có số anh đi chặt cây, ôm lá về làm thêm. Đương nhiên ai nấy đều ḍm ḿnh không chớp mắt và sợ quản giáo hét nữa. Ai cũng trông người nhà lên thăm cả...
Nộp giấy để ngày mai thăm, ḿnh hỏi cán bộ:
- Tôi mới đi lần đầu không biết ở đây có anh NĐH không?
- Có anh H người Quảng Nam.
Trời ơi là mừng! Cú nầy tôi sẽ được cha mẹ thương hơn nữa rồi, thành tích số một đấy nhé.
Nói là chỗ để thân nhân gặp thăm nuôi chứ thật ra, y cái chuồng ḅ của các bản làng. V́ mới tới, họ làm bằng nứa. Cái ghế là những cái cây bằng cổ tay dài nẹp lại ngồi tạm. Cái bàn cũng thế nhưng nhiều cây hơn. Đêm hôm đó ngồi chù hu, rồi nằm trên đống lá khô có ai đó ngồi trước nên ṃn, chờ trông cho mau sáng. Nh́n ánh trăng thanh soi bóng xuống ḍng sông êm ái, hiền ḥa, thơ mộng vắng tanh. Trại này ở tận cùng của dăy núi Sơn Nham hút gió, đi lại vất vả.
Đêm hôm đó nằm nghe tiếng chim kêu khuya từng chặp, tiếng gà rừng gáy te te, tiếng nước róc rách, ếch nhái kêu trong sương khuya buồn tê tái. Không có ai đi thăm cả. Chỉ ḿnh tôi, mà cũng không đúng chủ nhật. Bị cán bộ la sao không đi ngày quy định. Ḿnh nói đi hai trại rồi v́ đi t́m nên không biết.
Mờ sớm ḿnh nh́n trên dốc có tiếng người đi. Ôi đúng rồi, anh tôi. Đi trước là cán bộ quản giáo chiều hôm qua thu giấy.
Mừng nước mắt chảy dài không dám thốt nên lời. Ước chi để tôi ôm anh, để nước mắt tha hồ chảy cho khoẻ tâm hồn. Anh hỏi cha mẹ khoẻ không? Tôi trả lời cho nhanh để anh mừng là cả nhà đều khoẻ cả anh ạ! Chưa chi cán bộ nói cho thăm mười lăm phút thôi, nói ǵ th́ phải nói to nhé. Cha Bắc Kỳ chắc có phần dễ chịu hơn. Nh́n anh như vừa qua cơn đau th́ phải, nước da vàng, bủng. Anh vừa vui là gặp ḿnh vừa buồn là thấy em gái lội suối băng rừng đến thăm thật gian khổ, anh rơm rớm nước mắt. Anh nói anh mới bị đau nên được cho ở nhà dọn dẹp vệ sinh. Ḿnh cũng nói đi t́m anh cả tám, chín trại, cha đi chị đi em đi.
- Chứ không nhận được thư anh gởi sao mà đi t́m?
- Có nhận được mô, nên mới đi t́m như thế chứ!
Anh nói:
- Tội cho Cha mẹ quá em ạ! Anh chưa làm ǵ được để đền đáp công sinh thành nuôi dưỡng anh ăn học mà giờ đây già c̣n vất vả v́ con.
Mắt anh ngấn lệ làm ḿnh cũng rơm rớm nước mắt rồi nói lảng đi:
- Anh có ăn uống được không khi đau ốm như thế?
Anh nói anh ăn được. Ḿnh nghĩ chắc húp nước cháo loăng quá (Khi anh về mới biết là đau ở trại xin nước vo gạo mà húp chứ cháo chi có).
Mười lăm phút trôi đi nhanh chóng. Cán bộ nói:
- Đă hết giờ cho phép. Anh H lo thu xếp đồ. C̣n thân nhân, nhớ là nội quy cho thăm ngày chủ nhật thôi đấy. Mà mỗi tháng mới được thăm một lần nhé.
Anh đứng dậy bỏ đồ ăn vào ba lô. Ḿnh ứa nước mắt. Chắc có dùng được chi trong đó không nữa, sợ bị hư cả rồi. Anh nói:
- Em về nói với cha mẹ, chị em là anh vẫn khoẻ nghe, đừng lo cho anh. Em giữ ǵn sức khoẻ, có đi học lại không?
- Dạ không, em cũng tham gia công tác điạ phương.
- Chúc em của anh làm công tác được tốt (Cố t́nh cho cán bộ nghe).
- Dạ cám ơn anh. Anh cũng thế, học tập tốt để mau về anh nhé.
Đường về cũng lối đi ấy nhưng giờ đây thơ mộng chi lạ. Bỏ lại sau lưng những núi non trùng điệp, thung lũng hoa vàng bên bờ suối; tiếng chim hót bên tai chào mào gọi bạn t́nh hót hay chưa từng nghe mà bây chừ mới thưởng thức, ngọt ngào thánh thót, du dương, luyến láy. Thượng Đế ban cho chất trữ t́nh trong giọng hót như người nhạc sĩ chơi Piano thực thụ sành điệu đến mê hồn làm ḷng ḿnh xao xuyến lạ lùng.
Một ḿnh men theo bờ sông lối ṃn nhỏ hẹp phải chạy thôi không th́ những con vắt nó búng lên th́ khiếp lắm (Con gái hay sợ những con không đáng sợ, như nhà văn Duyên Anh đă nói thế). Cười một ḿnh cho quên con đường gian khổ một tí không sao!
Ổng nói bọn con gái sợ con giun, con sâu, con nhện nhưng con trai th́ không sợ (đáng nể nhỉ). Tuổi học tṛ trong ta và những ước mơ cháy bỏng đă tàn lụi. C̣n ǵ đây, tương lai ư? Sự nghiệp ư? T́nh yêu ư? Thôi quên đi tất cả như ngọn cây qua muà giông băo.
Đi một đoạn, nh́n thấy anh tù chắc được ra ngoài hái rau. Anh đang mải miết rượt theo con rắn mối đang chạy vào lùm lau sậy để trốn. Anh ngượng ngùng khi thấy tôi nh́n cảnh anh đuổi bắt như người tiền sử săn mồi. Anh ốm yếu, buồn thiu khổ ải. Trong ḷng anh chắc mong người nhà đến thăm khi thấy ḿnh.
Làm sao chia nổi t́nh thương đây, hỡi Thượng Đế? Ngài ơi! Con người do Ngài sinh ra. Nỗi nhọc nhằn khổ ải nầy, Ngài có thấu chăng?
Con đường được phủ kín bởi rừng cây cao rộng, lá vàng muôn thứ c̣n mềm ẻo lả dưới chân bay bổng mà ḷng bời bời sung sướng được gặp anh Hoành.
Đến ngay đoạn hôm qua, chỗ con suối nhỏ, rồi đến chỗ lùm tre, nghe người nói chuyện phía sau lưng vừa đi tới. Ḿnh nh́n quay lại th́ thấy cảnh tượng rợn người, có bốn người khiêng một người trên cái chơng tre có đắp tấm chiếu, chân ḷi ra ngoài xanh lè, dính bùn đất thảm thương. Hỏi ra là cái anh hôm qua bị đập ở bờ sông, họ trả thù cá nhân. Nghe nói anh ta hồi Quốc gia làm Quân cảnh, bắt con trai gia đ́nh có người đi núi, bắt đi lính rồi chết. Chừ trả thù đem đập đầu bằng đá tu-lăng đến chết, cho người nhà đem về chôn. Kinh hăi hơn là nghe nói ở sông Trà Khúc, một tuần có vài ba người bị giết bằng chém, đập đá... Thả trôi sông...
Khi về đến nhà tôi cười. Cha mẹ nh́n ba-lô xẹp lép là biết đă t́m được anh H. Cha mẹ tôi như hồi sinh. Chị tôi như hết cơn đau kiệt quệ. Em tôi nhảy mừng quưnh như ai cho chục bao kẹo sau mười năm thèm ngọt.
Đời lắm nỗi vui buồn lẫn lộn xoắn nhau nhưng khi qua rồi đôi khi nhớ lại tự nhiên bật cười sặc sụa nước mắt nước mũi tèm lem, ai nh́n vào tưởng gặp tên điên.
Ừ! Để tui kể chuyện cho các bạn nghe chơi. Khúc dạo đầu anh em ḿnh ai cũng y chang. Năm 1972 mùa hè đỏ lửa, tổng động viên, đi lính.
Mùa xuân 1975 ra trường trong cơn binh lửa, quân phục tác chiến, quỳ xuống Sinh viên Sĩ quan, đứng dậy Tân Thiếu úy, mai vàng mai đen tùy ư thích của mỗi người mua ngoài chợ ngả ba Tam Hiệp Biên Ḥa.
Giặc rượt đến đít nên trường cho phép có 2 ngày. Có đứa lâm trận vào giờ thứ 24 như Nhảy Dù TTKhang, Biệt Kích 81 NNSơn...
Rồi th́ là giờ thứ 25: Hai trăm ông quan nhí Khóa 4 Thiếu úy được 7 ngày. Cũng c̣n hên không có ai tử trận trong giờ cuối cùng của hai mươi năm binh đao lửa hận. Chỉ một ḿnh TQLC PHHuê bị thưong ḷi ruột, phải tự nhét ruột vào bụng ḿnh rồi ngậm ngùi rời bỏ Bệnh viện Lê Hữu Sanh t́m đường về quê hương miền trung vạn dặm sơn khê.
Quân trường sống hai năm bảy tháng, Thiếu úy bảy ngày. Nợ nần bắt trả bốn năm sáu tháng cộng bảy ngày cho đủ trong tù gọi đẹp tên cải tạo.
Vậy mà tui “cải tạo” hoài không sửa được chứng viết thư. Nó dai dẳng từ thuở quân trường, ông Hưng Đại đội trưởng kêu hệ thống tự chỉ huy xem chừng tụi nó làm sao. Giờ đây trong tù tui cũng viết, lại bị quản giáo trại tù kiểm điểm sao cứ “mơ mơ moàng moàng” không lo học tập giỏi giang tiến bộ mau về.
Ờ hớ, nước đổ lá khoai. Dụ khị mà chi. Ngày về ơi xa lắc xa lơ. Nín thở qua sông. Vác cuốc lang thang rừng này rừng khác, Sông Mao, Lương Sơn, núi đá Tà Dzôn, rồi Hàm Trí.
Mơ ḿnh là Phạm Thái đời nay viết cho Chút Nhỏ mai mốt cha về với mẹ, một mái cḥi tranh hai trái tim vàng một lu nước lạnh, con gái tên gọi Quỳnh Như.
Như chuyện liêu trai, Quỳnh Như trong tranh bước xuống cuộc đời. Những gịng thư nắn nót như ôm hết yêu thương của người em gái hậu phương an ủi vỗ về kẻ tuyến đầu tù tội. Chút nhỏ kể rằng có cô bạn bên cửa hàng Dược thường qua Bệnh xá của Chút nhỏ chơi, cảm thư Phạm Thái gửi về và thương Chút nhỏ ṿ vơ đợi chờ, cô nàng nhập vai Trương Quỳnh Như như thiệt.
Cảm ơn Quỳnh Như. Cảm tạ đời.
Cũng đôi khi c̣n nữa chuyện tưởng như đùa. Gặp Nam trong trại, chung tổ thành quen. Dân Thủ Đức, người cũng to tê, ít nói thường cười mím chi trông hiền lành, mà lại là dân chơi thứ thiệt. Một đêm khuya trại phát giác trong mùng của Nam chỉ có mền ngụy trang. Thế là báo động tập họp điểm danh. Chỉ thiếu có mỗi ḿnh Nam. Là trốn trại ḿnh ên không tổ chức. Mà cũng lạ, đồ đạc thực phẩm thăm nuôi cá nhân xem ra cũng c̣n y nguyên đó. Bên ngoài trại thế nào mà chẳng có bộ đội hành quân lùng xục. Canh tư gà gáy sáng anh em lại thấy Nam nằm ngủ trong mùng rất tỉnh queo. Như xuất quỷ nhập thần. Như người tàng h́nh đi mây về gió vậy.
Nam bị kỷ luật, cùm sáu tháng rồi được thả ra cho về lại Khối lao động.
Th́ ra nhờ công việc hàng ngày của Nam là ra suối gánh mười đôi nước cung cấp cho nhà bếp nên t́nh bỗng dưng khi không mà có. Người con gái sống với mẹ già trong cái cḥi bên bờ suối, chị Hai Khanh.
Nam kể quản giáo hỏi cung:
- Trốn trại lúc nào?
- 12 giờ khuya.
- Vượt hàng rào trại chỗ nào?
- Tui hé cổng tui đi.
- Cổng không khóa?
- Không. Tui chỉ thấy sợi xích choàng hai ba bận thôi.
Đă điếu chưa! Lụt lịt địt kêu, coi tầm ngầm vậy mà giỏi. Phải nghiên cứu địa h́nh hẳn ḥi trước giờ hành động chớ! Đúng nghề của chàng: Thiếu úy Quyền ĐĐT Trinh Sát từng nhảy mật khu như đi chợ.
- Anh đi đâu?
- Tui ra nhà cô Hai Khanh bên bờ suối.
- Ra đó làm gi?
- Tui thương cổ. Cổ cũng thương tôi. Tôi ra thăm cổ.
- Anh trốn trại ra thăm cổ mấy lần rối?
- Dạ lần đầu th́ bị phát giác.
Nghe tao trả lời vậy quản giáo đập bàn rầm rầm lên mặt giảng huyên thuyên, đây là trại cải tạo, không phải ở nhà anh muốn đi đâu th́ đi, quan hệ linh tinh v.v... Rồi hỏi tao vô trại lại lúc mấy giờ? 3 giờ sáng. Là 3 tiếng đồng hồ. Bao nhiêu giờ đó anh làm ǵ bên cổ? Vui nghe mậy! Cái khoảng này sáng sáng vệ binh mở cùm dẫn tao lên Khung làm việc bắt tao viết kiểm điểm có cả chục bữa.
Mấy ổng muốn tao chiếu phim màu téc-ních-cơ-lo cho mấy ổng coi mà sức mấy, tao đâu có ngu đem bán đứng... chị Hai.
Đầu tiên tao khai tao với chị Hai chỉ ngồi bên nhau nói chuyện tâm t́nh.
Cán bộ không chịu, bắt phải ly kỳ hơn nữa. Tới ba tiếng đồng hồ, chuyện đâu nói dữ!
Phải hai ngày sau tao mới viết thêm vào tờ kiểm điểm hôn má chị Hai.
Cán bộ chưa tha, tao phải thêm hôn môi đằm thắm.
Nhiêu đó thôi sao? Cán bộ muốn tao xuống nữa, nhưng đời nào, tao phải anh hùng bảo vệ chị Hai. Thà chết không khai. Thưa cán bộ, bàn tay tôi vừa đụng... nhũ hoa th́ cô ấy gạt ra rồi ngồi ôm mặt khóc .
- Nhũ hoa là cái ǵ?
- Dạ, dạ, là, là... ti.
- Ti là cái ǵ?
- Là, là, là... vú.
- Th́ nói là vú đi, bày đặt nhũ này ti nọ. Rồi sao nữa?
- Cổ khóc rấm rức hoài làm tôi sợ quá, lo dỗ dành cho cổ nín rồi vào lại trại.
- Chỉ vậy thôi à? Anh phải thành thật khai báo hết để cách mạng khoan hồng...
Cứ vậy hoài. Xạo măi mà chi. Giờ sáng mắt rồi. Tự giác có mà tự sát! Chiếu phim X cho ông coi miễn phí th́ chớ c̣n là cớ bắt tù tôi mọt gông th́ có mà ngu.
- Tội tôi làm có bao nhiêu đó cán bộ kỷ luật tôi thế nào tôi cũng chịu. Tôi khai ra hết rồi.
Phải thêm vài bữa làm kiểm điểm nữa tao mới được ngủ yên trong cùm. Nghĩ lại tao phục thằng nào gác đêm đó phát giác ra tao ngụy trang mền ngủ. Cũng một đống dài dài như người đắp mền nằm ngủ chớ bộ. Chắc thằng này cũng dân trinh sát như tao, nó biết soi đèn coi guốc dép anh em để dưới đất đủ thiếu thế nào. Mà cũng tại tao khinh địch, bữa đó học làm sang đi guốc cho thành trí thức tiểu tư sản, chớ mọi hôm chân đất, cứ lo chị Hai chê dơ hỏi gia nhập giai cấp bần cố nông hồi nào? À ra thế, Nam mày giỏi à nha. Ông bà ta ngày xưa đă nói đi đêm hoài có ngày ma chận đường, trúng thiệt, mày hén. Nam cười.
Ngày đó, khi nhập trại Sông Mao, vốn là khu gia binh của Trung đoàn 44 Sư đoàn 23 đời trước, nơi đây có một phi trường dă chiến, và với tầm nh́n chiến lược của quân quản đời sau, tường rào ri sắt là hàng rào giam tù kiên cố nhất. Thế là ngày ngày chỉ tiêu mỗi Khối trăm ri, Khu C Thiếu úy bốn khối bốn trăm ri, thêm Khu A Khu B nữa, tù xuất quân tiến ra phi trường đục chốt gỡ ri khiêng về dựng đứng, là chục ngày nửa tháng ở thị trấn Sông Mao này xuất hiện “ṿng xiếc ô tô bay” vĩ đại. Ngày xưa c̣n bé đi coi xiếc mô tô bay ṿng tường có cao nhưng nhỏ chút, giờ ṿng tường Sông Mao này to hết biết, ô tô tha hồ bay.
Chưa kịp ăn mừng thành tích th́ có lịnh tài sản của ngành nào, ngành đó nhiệm thu. Không quân xuống nhận phi trường đâu chẳng thấy.
Khiêng ri trả lại? Dễ thôi. Nước sông công tù mà. Nhưng chốt để kết ri lại với nhau c̣n đâu nữa, đă sáng kiến kỹ thuật thành rựa thành dao thành lưỡi cuốc hết rồi.
Rút kinh nghiệm, chuyển tù đi Lương Sơn, rồi Tà Dzôn, rồi Hàm Trí, không khiêng ri theo nữa. Vận dụng tài nguyên tại chỗ, cây rừng có tỷ ta rào cũng gọi là rơ ràng ranh giới trong ngoài.
Cho chắc một bề các anh không trốn trại, chúng tôi tính thế này, bộ đội tuần tiểu canh gác ngoài rào, phần ở trong trại các anh tự quản lư, các anh giúp nhau cùng lao động học tập tiến bộ nghe. Các anh cắt gác cho nhau nghe. Các anh nhất trí chưa nào. Ừ, nhất trí nhé. Cứ thế! Cứ thế!
Ừ. Cứ thế! Cứ thế! Tự biên rồi ta tự diễn.
Cứ thế là tù ta canh tù bạn, mỗi đêm một tổ chia nhau gác. Mắc vơng giữa trời thấy anh em trở ḿnh đi tiêu đi tiểu th́ la lên ai đó cho bạn xưng danh. Thấy bộ đội loe loé đèn pin từ Khung đi xuống cũng hét thật to ai đó cho ra vẻ canh gác nghiêm chỉnh ngon lành.
Thiệt t́nh tui ghi ơn. Mà không phải chỉ ḿnh ên. Toàn Khối những ai - chỉ chừa lại tổ nhà bếp ngày đó gọi là anh nuôi do bạn Thiện Pôn làm xếp - đă một thời phải chịu cảnh ngộ cùng là tù mà ta phải gác ta, một khi nào nhớ lại chuyện xưa, nên dành một phút cảm thương con Mực, đă v́ ta mà anh dũng hy sinh.
Mực đă ở với tụi tui có hơn năm từ hồi c̣n là chú cún nhỏ một anh em nào đó đi “cải thiện” đem về. Thấy cún nhỏ dễ thương th́ đem về nuôi vậy nhưng thực tế ta là tù ta nuôi ta chưa đủ có dư hột cơm nào đâu cho cún, thành ra giải pháp cuối cùng xem ra tốt đẹp nhất là đem cún cho Pôn nhà bếp. Ừ, cho dù thời nào, nay hay xưa, ông bà tổ tiên ta đă để lại điều chân lư: Giàu nhà kho, no nhà bếp. Nước cơm rửa chảo cũng đă là thịnh soạn cho cún lắm rồi. Cứ thế cún lớn lên. Cún lông đen tuyền nên cún được đặt tên là Mực.
Mực “tham gia” vào quân số tù từ đó. Ban ngày anh em tù đi lao động th́ Mực quanh quẩn nơi nhà bếp. Chiều anh em tù về Mực ve vẩy đuôi mừng. Tối tập họp cho quản giáo ba hoa bốn chuyện năm điều tù phải ngồi nghe, Mực hách x́ xằng hơn, nó nằm cạnh mà nghe. Rồi tới phiên gác đêm khuya, nếu phải tới phiên tổ gác th́ anh em chia nhau người một tiếng đồng hồ ôm mền ra vơng nằm canh. Mà canh ai đây? Không biết anh em nào huấn luyện, hay do trực giác cao siêu của nó cũng nên, Mực phân biệt rành rơi địch, bạn, biết cả đặc lệnh truyền tin báo động, và t́nh nguyện cùng bạn gác suốt đêm hàng đêm, tháng hàng tháng. Có bạn gác nằm trên vơng là có Mực nằm dưới chân. Bạn có quấn mền ngáy kḥ kḥ th́ Mực vẫn tỉnh táo gác thế cho. Tù trong lán bước ra đi vệ sinh, Mực gừ gừ trong họng. Đèn pin loang loáng từ Khung xuống, Mực sủa to cho bạn ta giật ḿnh thức giấc rồi phụ họa thật to: Ai đó! Ai đó! À há, cán bộ chớ ai trồng khoai đất này!
Rồi chuyện gác thế bị lộ. Không biết do bên bộ đội điều nghiên hay ăng-ten tŕnh báo kiếm điểm mau về. Mực bị án tử h́nh. Một đêm sinh hoạt lệnh tử ban ra: Đây là trại cải tạo chớ không phải là sở thú. Các anh không được nuôi con ǵ hết. Ngày mai chủ nhật nghỉ lao động các anh phải “xử ní” hết các con vật nuôi, ai nuôi chim nuôi két phải đem vào rừng mà thả, ai nuôi gà nuôi vịt th́ làm thịt gà thịt vịt mà ăn, ai nuôi cầy th́ làm thịt cầy, trại cho phép các anh “bồi dưỡng” ngày mai.
Ai nói con vật không nghe không hiểu được tiếng người? Sinh hoạt tan hàng, dáng con Mực bước đi thiểu năo, mọi người im lặng và nó hết ve vẩy cái đuôi. Nó cũng chẳng màng nghe lời vỗ về của chủ chính là anh Pôn bảo nó tối nay hăy ra đi. Mực ơi, mày không có trong quân số tù điểm danh, mày bỏ đi không ai kết tội mày trốn trại phải truy lùng bắt lại đâu.
Mực đă không bỏ đi. Nó đă sẵn sàng nằm bên gốc cây chờ người cột cổ. Không vui không buồn, nó muốn cống hiến miếng thịt của nó cho những người lâu nay thiếu thịt. Nh́n khúc gỗ đang gia giá trước đầu Mực không thụt lui sợ hăi hay vồ tới phản ứng theo bản năng tự vệ, nó nhắm mắt nằm yên, chỉ á lên một tiếng kêu duy nhất khi cây đập trúng tam tinh, nước mắt ứa ra rồi êm thắm ra đi.
Từ nhỏ đến giờ tui chưa từng thử một miếng thịt cầy nên đă khước từ quà tặng cuối cùng của Mực. Nhưng những đêm gác có Mực canh thay đă là những món quà lớn nhất. Tù thiếu ăn lấy ngủ bù vào, bấy nhiêu thôi tao đă ơn mày nhiều lắm Mực ơi!
Hết 3 năm quân quản, những anh em học hành chưa giỏi - trong đó có tui - phải chuyển đi trường mới có tên A 30 ở Tuy Ḥa, học tiếp. Đến chỗ mới, Nam không c̣n ở gần tui nữa. Lần gặp hiếm hoi Nam thông báo chị Hai Khanh nhắn muốn ra thăm nuôi, Nam nhờ tui “tùng long” cố vấn gỡ rối tơ ḷng có nên để chị ra thăm. Thực thà tui chẳng biết trả lời sao, đành bảo tùy mày yêu chị nhiều hay ít, thành thực hay cho vơi ngày tháng loạn...
4 năm rưỡi, đa phần Khóa 4 tui đồng loạt “tiến bộ” nên được cấp bằng tốt nghiệp - Lệnh Tha. Nam c̣n chưa học giỏi, hay thẳng thừng mà nói, phải trả thêm nợ cùm, thêm 1 năm nữa mới được thả ra. Nam với tui mất tăm nhau từ đó.
Nếu Có Thể Đi Về Quá Khứ, Tôi Sẽ Thăm Đất Nước Tôi - Huynh Wynn Tran
Khi phỏng vấn vào chương tŕnh Tuyển Sinh Y Khoa, có một câu hỏi từ giáo sư tuyển sinh làm tôi nhớ măi
– Nếu em có thể đi về quá khứ để thăm một người hay đến một nơi nào đó, em sẽ đi đâu?
– Thưa thầy, em sẽ đi thăm đất nước của em: Việt Nam Cộng Hoà.
Khi tôi được sinh ra, VNCH đă không c̣n nữa.
Từ nhỏ, tôi nghe nói về VNCH từ ba tôi và những người bạn. Tôi chỉ hiểu rơ hơn về VNCH khi tôi lớn lên và qua Mỹ sau này. Càng t́m hiểu, tôi càng nh́n rơ hơn một thời bi thương oanh liệt của người miền Nam Việt Nam trong cuộc nội chiến nồi da xáo thịt, sự bất lực của những nước bé trong cuộc chiến tranh ư thức hệ giữa những cường quốc.
Tôi sẽ về lại Sài G̣n Ḥn Ngọc Viễn Đông, nhảy lên một chiếc xích lô máy dạo phố. Tôi muốn nghe tiếng máy nổ phịt phịt gịn tan trộn mùi xăng pha nhớt trong buổi sáng tinh sương Đô Thành. Tôi sẽ ghé chợ Bến Thành ăn một tô phở gà, ngắm nh́n các cô thiếu nữ Sài G̣n mặc áo dài bó eo, đeo kính mắt to tṛn đèo nhau trên chiếc xe Honda Cub ở bùng binh trước chợ. Ăn xong, tôi sẽ thả bộ dọc đường Duy Tân, ghé qua toà Đô Chánh và toà nhà Hạ Nghị Viện, phác lại vài nét kiến trúc bằng bút ch́ trước khi tản bộ ra sông Sài G̣n ngắm tượng Đức thánh Trần Hưng Đạo. Sau đó, tôi sẽ nhảy xe lên lambro về Nhà Bè nước chảy chia hai, ghé qua vườn trái cây Lái Thiêu bẻ măng cục, bóp nát vỏ xám đen ḷi múi thịt trăng trắng ngọt lịm bỏ vào miệng.
Buổi tối, tôi sẽ ghé thăm pḥng trà Tự Do nghe Khánh Ly hát. Có thể nói nhạc vàng (bolero) từ thời VNCH là ḍng nhạc đẹp nhất của âm nhạc hiện đại Việt Nam. Đến nay, ḍng Bolero tại Viêt Nam tuy ngày càng nở rộ nhưng những ca khúc hay nhất đều sáng tác thời VNCH.
Nhưng cái tôi muốn cảm nhận rơ nhất ở VNCH là tính nhân văn và t́nh người Việt Nam, có được do nền giáo dục đậm chất nhân bản. Thời VNCH, các trường ĐH tuy mới bắt đầu chập chững nhưng đă để lại những nền tảng vững chắc cho các trường đại học lớn ở Việt Nam sau này. Ở đó, học tṛ được dạy về trên 3 nguyên tắc: nhân bản, dân tộc, và khai phóng.
Tôi sẽ ghé qua bộ giáo dục VNCH để thăm hỏi v́ sao chỉ trong một vài năm đă thành lập một hệ thống giáo dục đại học tiến bộ gồm đại học quốc gia và đại học cộng đồng địa phương. Đại học thời VNCH hoàn toàn tự chủ về chuỵên môn, không chịu sự quản lư của bộ giáo dục. Ngân sách của trường ĐH do quốc hội chuẩn duyệt hàng năm, nhân viên và giáo sứ thuộc tổng uỷ công vụ.
Tôi sẽ ghé thăm Viện ĐH Sài G̣n (có 8 phân khoa Y, Dược, Nha, Sư Phạm, Khoa Học, Văn Khoa, Luật, và Kiến Trúc). Dĩ nhiên tôi chỉ thăm được đại học xá (kư túc xá) Minh Mạng dành cho nam v́ đại học xá Trần Quư Cáp dành cho nữ. Nếu có thời gian, tôi sẽ ghé thăm Viện Đại Học Cần Thơ, nơi tôi đặc biêt thích chất miền Tây phóng khoáng trong từng sinh viên.
Thời Đệ Nhất Cộng Hoà, nền giáo dục nhân bản đă để lại cho bao thanh thiếu niên Việt Nam ḷng yêu nước mănh liệt, muốn góp tay xây dựng đất nước phú cường bằng trao dồi kiến thức học hành để mang đất nước ra tầm thế giới. Tôi vẫn c̣n cảm nhận được đều này khi gặp lại những thanh niên ngày ấy là những ông bà lăo tại Mỹ sau này. Ba tôi, một sĩ quan VNCH, cùng là một trong những thanh niên ngày ấy.
Và dĩ nhiên, tôi sẽ gặp Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu để hiểu rơ về những ǵ xảy ra với đất nước v́ những ǵ tôi đọc được và nghiên cứu từ nhiều phía vẫn chưa đủ để tôi trả lời câu hỏi v́ sao một đất nước nhân văn, đề cao tính dân tộc, và phồn vinh như VNCH lại bị bức tử.
Ngày 30/4 hằng năm, tôi vẫn nhớ về 200,000 người Việt Nam đă bỏ mạng trên biển trên đường t́m tự do, hàng triệu người Việt đă chết trong cuộc chiến, vẫn nghĩ về sự ngạo mạn của kẻ chiến thắng, sự khốc liệt và dơ bẩn của chính trị. Tôi vẫn nhớ về VNCH phồn vinh, thịnh vượng, và nh́n lại đất nước Việt Nam ngày hôm nay mà không khỏi đắng ḷng.
Sư đoàn 3 Việt cộng cấp giấy ra trại cho tôi ngày 14.02.1978. Tôi được tạm trú tại Thành Hồ ba tháng và bị quản chế sáu tháng. Vào thời điểm này, Việt cộng đă có chủ trương thống nhất cho giới y khoa mà chúng rất cần. Công an Phường nơi tôi trú ngụ yêu cầu tôi phải đến Sở Y Tế Thành Hồ nộp đơn xin việc ngay và ngày 02.05.1978 tôi chính thức đi làm việc với Việt cộng. Lẽ ra tôi phải đi làm từ đầu tháng năm nhưng v́ ngày 01.05 là ngày lễ nên tôi chỉ tŕnh diện cơ quan mới vào ngày 02.05. Ngày 30.04 năm 1978 đó qua đi trên toàn Thành Hồ mà không có ǵ đặc biệt cả, đó là một ngày như mọi ngày; cho nên một tên tù mới được thả như tôi th́ nằm nhà c̣n vợ tôi v́ được lưu dụng th́ đi dạy như thường lệ.
Chúng tôi rời Việt Nam ngày 24.01.1984. Trong sáu năm đi làm với Việt cộng(từ 1978 đến 1984) có tất cả sáu ngày 30.04 trôi qua một cách b́nh thường và hai vợ chồng tôi không hề được nghỉ. Không biết từ bao giờ Việt cộng quyết định xem ngày 30.04 hằng năm là một ngày lễ và cho phép dân chúng nghỉ lễ cùng một lúc hai ngày liền, “Ngày Thống Nhất“ 30.04 và Ngày Lễ Lao động 01.05.
Đối chọi với Ngày Quốc Hận?
Sự kiện chúng ta kiên tŕ giữ vững Quốc kỳ Việt Nam Cộng Hoà khiến ViXi rất tức tối nhưng chúng không làm ǵ được. Vơ Văn Kiệt đă nói rơ là nếu người tỵ nạn Việt Nam không sử dụng lá cờ nền vàng ba sọc đỏ nữa th́ bên chúng nó và phía chúng ta sẽ dễ nói chuyện với nhau hơn.
Cùng với Quốc kỳ Việt Nam Cộng Hoà, chúng ta có tên gọi “Ngày Quốc Hận“, một cách gọi khiến chúng rất căm ghét. Đến một thời điểm nào đó, chúng nhận ra rằng phải có biện pháp chống-chống cộng qua một tên gọi chính thức pháp định và từ đó, chúng làm giấy khai sinh cho ngày 30.04 với tên gọi “Ngày Thống Nhất“ đồng thời đi tiếp bước thứ hai là xem đó là một ngày nghỉ lễ. Đó là hành động của kẻ thù nhằm ứng phó với chủ trương của chúng ta cương quyết kiên tŕ xem ngày 30.04 là ngày di hận ngàn đời cho dân tộc Việt Nam.
Phần chúng ta, thiết nghĩ chúng ta phải biết sử dụng hữu hiệu và khôn khéo vị thuốc khử độc là danh xưng “Ngày Quốc Hận“. Chúng ta không nên dùng tên gọi nào khác, cho dù là v́ bất cứ lư do ǵ và do nguyên nhân nào. Chống lại cách gọi “Ngày Quốc Hận“ giặc phải nghĩ ra nguỵ danh “Ngày Thống Nhất“. Chúng ta đă ở thế thượng phong, chúng ta đă đẩy kẻ thù vào thế bị động, chúng ta đă bắt chúng phải t́m biện pháp ứng phó; chúng ta đừng vô h́nh trung rời khỏi vị thế áp đảo đă đạt được.
Tất nhiên những kẻ đối kháng với cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản phải phủ nhận cung cách gọi tên của cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản. Ông Cù Huy Hà Vũ bảo Ngày 30.04 là “Ngày Thống Nhất“, đó là quyền của ông ta và cũng là “nhăn hiệu cầu chứng“ của ông ta. Vĩnh viễn ông Cù Huy Hà Vũ không bao giờ hoà đồng được vào tập thể người Việt tỵ nạn cộng sản.
Lịch sử hậu Quốc Hận
Cứ mỗi lần Ngày Quốc Hận trở về th́ chúng ta lại nhắc lại quá khứ; đó là nghĩa vụ, nghĩa vụ không được quên. Nhưng chúng ta cũng nên nghĩ đến hiện tại. Chúng ta chưa có một bộ sử của “Quốc gia Việt Nam Cộng Hoà Hải ngoại“.
Bộ sử sẽ bắt đầu từ Ngày Quốc Hận 30.04.1975 với bức h́nh nổi tiếng của các anh chị em sinh viên quốc gia đầu chít khăn tang rước lá đại kỳ diễn hành trên đường phố Paris. Bộ sử sẽ tŕnh bày các dữ kiện liên quan đến chính sách man rợ và đểu cáng của giặc cộng đối với dân chúng Miền Nam, sẽ mô tả bức tranh bi hùng của người Miền Nam vào tù ra tội và vượt biên vượt biển. Bộ sử sẽ ghi nhận các thành công của thế hệ thứ nhất, thứ hai trên những mảnh đất xa lạ. Có biết bao nhiêu điều cần ghi lại và nếu chúng ta không chịu ghi lại th́ ai ghi cho bây giờ? Nói hoài nói măi làm chi chuyện quá khứ mà không chịu nói chuyện ngày nay? Chúng ta có những ng̣i bút viết sử vững vàng : Trần Gia Phụng, Phạm Cao Dương, Nguyễn Thế Anh, Lâm Văn Bé. Nên chăng đă đến lúc phải hướng ng̣i bút vào mục tiêu biên soạn một bộ sách tổng hợp có hệ thống những diễn biến lịch sử liên quan đến cộng đồng ba bốn triệu người Việt lưu vong sau 30.04.75?
Nước Đức có Ngày Thống Nhất, Tag der Deutschen Einheit, ngày 03.10. Luật pháp Đức xem đó là một ngày nghỉ lễ chính thức trên toàn lănh thổ cộng hoà liên bang. Nước Đức không có ngày nào là ngày quốc hận cả. Số mệnh hai dân tộc Việt và Đức đă được an bài theo hai cách khác nhau nhưng không phải v́ vậy mà chúng ta thừa nhận một cái ngày được gọi là thống nhất một cách giả dối tráo trở.
Quốc Hận là một khái niệm văn hoá-chính trị-xă hội trong từ vựng quốc ngữ. Tuy nhiên các từ điển, tự điển đơn ngữ Việt-Việt không hề có mục từ nào ghi khái niệm này. Không hề có mặt trong tài liệu tham khảo nhưng đă hai lần khái niệm Ngày Quốc Hận lưu truyền rộng răi trong ngôn ngữ dân gian nhằm chỉ ngày 20.07 và ngày 30.04. Trong khi đó cộng đồng Nga lưu vong trước đây, cộng đồng người Tàu Đài Loan cũng như cộng đồng người Cuba đang sinh sống tại nước ngoài hiện nay không có Ngày Quốc Hận.
Ba chữ “Ngày Quốc Hận“ là một kháng thể rất hữu hiệu, một thứ thuốc giải độc rất mạnh chống lại chủ thuyết và chế độ cộng sản trên b́nh diện lư luận, thuộc ư thức chính trị.
Đây là một trong những khu phố khá giàu tại Cypress - Texas của nước Mỹ.
Ngạc nhiên, trong mấy trăm ngàn gia đ́nh Mỹ sinh sống trên vùng đất này lại xuất hiện người Việt Nam nhập cư thời gian gần đây. Số lượng chiếm khá đông, hầu hết nói giọng Bắc người Hải Pḥng, Hà Nội. Cùng làn sóng xuất ngoại với các h́nh thức khác nhau, họ đă thành công khi tiền rừng bạc biển. Chỉ cần một dự án, một phi vụ, một chữ kư th́ đô la sẽ có cách vào tài khoản của người có quyền.
Mỗi căn nhà giá trị từ nửa triệu đến 2 triệu đô la trở lên. Mua nhà xong là một chuyện, điều quan trọng là tiền đâu để đóng thuế? Nếu bạn thu nhập cao mấy trăm ngàn đô hàng năm th́ chỉ là chuyện nhỏ dù tiền thuế địa trạch rất cao ( từ 20.000 Mỹ kim trở lên mỗi nhà /1 năm ) với khu vực tương tự.
Vào cổng khu phố sang trọng khách phải tŕnh giấy tờ, hoặc bấm số bảo mật mới được. Cuối tuần, hàng loạt chiếc du thuyền trên mặt nước.
Là xứ tư bản, hưởng theo năng lực; nhiều người Mỹ giàu bằng tài năng công sức, lao động chân chính trong một số lănh vực xứng đáng có một cuộc sống b́nh yên, hạnh phúc đúng nghĩa.
Tuy nhiên, không phải ai cũng được như vậy. Mỹ không phải là thiên đường, vẫn c̣n một số Việt kiều lâu năm sống trong chung cư, không mua nổi cái nhà nhỏ với nhiều lư do riêng tư. Đó là sự thật.
Vậy mà với thành phần " Việt kiều bay " không hiểu họ giàu từ đâu dễ dàng, mua nhà trả đứt tiền mặt, vui vẻ với mức thuế tuy không làm một ngày nào trên đất Mỹ.
Đối tượng này bí mật đi qua đi về nhằm mục đích có lợi cho gia đ́nh và bản thân trong tương lai.
Oái oăm thay, họ c̣n bắt tay với một số Việt kiều tại đây để rửa tiền dưới h́nh thức tinh vi. Các hệ thống kinh doanh ra đời bao gồm trung tâm thương mại, nhà hàng, hàng trăm tiệm Nails nguy nga như cung điện, có sự đầu tư quy mô trên 1/2 triệu đô la mục đích rửa tiền. Thực trạng nhiều địa điểm vắng hoe khách nhưng vẫn vô tư hoạt động để hợp thức hóa chuyển tiền.
Vấn đề quan trọng là tiền đâu ra mà một số " Việt kiều bay " mới đến đất Mỹ trong t́nh trạng tài chính triệu phú mà không ai biết. Một năm về bên vài tháng và rồi qua Mỹ tŕnh diện để khỏi rắc rối nếu chưa có quốc tịch.
Khôn ngoan, một số cố t́nh giữ song tịch. Nhiều người vẫn làm việc tại Việt Nam, đang là đảng viên giữ chức vụ. Họ biết dọn đường cho con cháu qua Mỹ từ lâu. Con đến trường Mỹ, cha ( mẹ) đi về Việt Nam hoạt động cho chính quyền hoặc kinh doanh cá nhân v́ nơi ấy dễ kiếm tiền hơn.
Nghịch lư, trong khi ấy người ta khen chế độ, bắt người khác nghe, tin và sợ ḿnh. Dân phải chịu cúi đầu im lặng dưới nguồn máy điều hành mà họ liên quan trực tiếp hay gián tiếp. Nhờ sức mạnh đồng tiền, người ta đă đạt giấc mơ Mỹ trong tầm tay.
Thật sự bất công cho những người không được may mắn phải chịu đựng thiệt tḥi mọi hệ lụy, cùng tương lai không lối thoát sống với Trung Quốc.
Phải chăng đây là bi kịch cho một dân tộc chịu dưới tay của những người không có ḷng tự trọng và biết làm người tử tế. Họ lợi dụng ḷng tốt của nước Mỹ, con cháu hưởng nhiều quyền lợi xă hội, y tế cùng nền giáo dục miễn phí từ tiền thuế dân c̣ng lưng đóng cho chính phủ.
Đất nước Hoa Kỳ đă tạo ra kẻ hổng pháp luật để con cháu cộng sản hưởng lợi, trong khi cá nhân và gia đ́nh không phục vụ cho quốc gia này ngày nào.
Suy cho cùng, sống không thật ḷng, không trung thành Tổ Quốc nào là "Việt kiều bay " thời đại.
Có lẽ người ta qua mặt được người dân yếu thế, u mê; nhưng không qua mặt được người hiểu biết sống lâu tại Mỹ.
Tất cả là góc tối phũ phàng. Người trong nước tôn sùng họ, nhưng nào có biết một khi hết thời hết nhiệm kỳ, họ đă có chỗ an toàn trú ẩn ấm thân, để lại phía sau một đất nước suy tàn.
Nếu ai từng đi qua những nơi người Việt mới nhập cư giàu hơn người Việt lưu vong vượt biển vượt biên lâu năm sẽ không khỏi ngậm ngùi tháng Tư buồn.
Thua trận chạy đă đành, nay thắng trận cũng chạy. Cuối cùng, dân chịu trận.
Ở thời niên thiếu, chúng tôi đă được xem một cuốn phim t́nh cảm đen trắng do Ư sản xuất trong một rạp chiếu bóng ở một tỉnh nhỏ miền Trung. Cuốn phim mang tên “Ngày Mai Đă Muộn Rồi,” (Demain c’est trop tard!) liên quan đến việc giáo dục giới tính phù hợp cho giới trẻ. Cuốn phim nêu ra chuyện nếu hôm nay không được chỉnh sửa hay là được làm đúng, ngày mai đă quá trễ, muộn màng.
Tuổi ấy, chúng tôi không hiểu nhiều về t́nh tiết của câu chuyện, và luận đề cuốn phim đưa ra, nhưng sau này, rất thích lập lại tên của cuốn phim trong nhiều t́nh huống của cuộc sống. Phải chăng, đừng để đến ngày mai mà muộn màng, những ǵ làm được hôm nay th́ hăy làm.
Bây giờ bước vào tuổi già, bạn đă có bao điều hối hận: phải chi ngày trước ḿnh biết cách yêu thương, định hướng cho bản thân và nỗ lực hơn, biết trân quư bạn đời hơn, biết giáo dục con cái hơn…
Trước khi biết ḿnh qua đời, người sắp chết cũng có bao nhiêu điều phải hối tiếc. Bước qua một năm mới, chúng ta cũng có những điều tự hỏi v́ sao đă bỏ phí trong năm qua. Và rồi qua một ngày, có bao giờ bạn thấy hối hận đă không làm việc ấy ngay hôm nay không?
Thời gian cứ trôi đi và chẳng bao giờ dừng lại để chờ đợi ai, cũng chẳng chờ cho chúng ta làm xong việc này hay kết thúc một việc khác. Một ngày qua đi và một ngày không trở lại, và công việc ấy chúng ta không làm hôm nay, sẽ không bao giờ chúng ta có cơ hội thực hiện nữa. Không phải là cứ một đời người, hay một năm, mà một ngày cũng đă là quá muộn!
Bạn tôi đang nằm trong bệnh viện, vừa qua một cuộc giải phẫu khá quan trọng. Tôi có dự định đi thăm người bạn ấy hôm nay, nhưng quen thói lần lữa, giải đăi, ḷng hẹn ḷng đợi một này nào đó, thật rỗi rảnh sẽ đi thăm bạn. Nhưng cái ngày đó không bao giờ đến, v́ chỉ vài ngày sau đó, bạn tôi đă từ giă cuộc đời này, mà tôi th́ vẫn chưa thực hiện được cuộc viếng thăm đơn giản ấy, nên ḷng ân hận măi.
Thân bằng quyến thuộc của chúng ta không thiếu ǵ những người già, đang nằm trong bệnh viện, nhà dưỡng lăo, như ngọn đèn cạn dầu trước gió, cần một lần thăm viếng, một cái cầm tay hay một lời nói thân t́nh. Những người này không c̣n thời gian để đợi chúng ta, mà chúng ta th́ cứ măi “ḷng hẹn ḷng!”
Có bao nhiêu bậc cha mẹ già, trên ngưỡng cửa ngôi nhà xưa, ngóng chờ những đứa con trở về một lần thăm viếng. Nhưng rồi th́ v́ thời gian bận rộn v́ công việc làm ăn, cuối tuần c̣n đưa con đi chơi thể thao, học đàn, học vơ; kẹt một chuyến du lịch xa, hay bận rộn v́ con chó con mèo, con cá lia thia trong chậu, sợ bỏ đói, không ai chăm sóc.
Thật ḷng không biết có ai hối hận không, nhưng đừng để bao giờ phải hối hận.
Giá mà ta làm việc ấy hôm nay, hay tự đặt cho ḿnh một mệnh lệnh: “Hăy làm việc ấy hôm nay!” Ngày không thể không đi và đêm không đến v́ việc ấy ta làm chưa xong!
Suốt đời, chúng ta đă bỏ bao nhiêu cơ hội, để làm một việc hay để nói một lời.
Không phải đến bây giờ người ta mới nhắc nhở “Nếu có yêu tôi th́ hăy yêu tôi bây giờ. Đừng để ngày mai đến lúc tôi xa người… (*) mà ngày xưa, t́nh duyên đôi lứa đă một lần muộn màng, v́ người con trai đă bỏ đi cơ hội ngh́n vàng, để ngậm ngùi suốt đời.
“Em có chồng rồi anh tiếc lắm thay!
Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh không hỏi những ngày c̣n không?
Bây giờ em đă có chồng,
Như chim vào lồng như cá cắn câu
Cá cắn câu biết bao giờ gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra?”
Có người hối hận để mất một cuộc t́nh, nhưng cũng có người đánh lỡ mất cả cuộc đời, để rồi than thở:
“Đến nay tôi hiểu th́ tôi đă
Làm lỡ t́nh duyên cũ mất rồi!” (TTKh.)
Richard Templar là một tác giả người Anh, người đă viết nhiều cuốn sách về con đường thành công trong cuộc sống. Ông chia sẻ “con đường dẫn đến thành công” của ḿnh trong một loạt sách, trong đó 100 quy tắc đơn giản được tŕnh bày để đạt được thành công, trong kinh doanh, tiền bạc hoặc cuộc sống nói chung. Và “quy tắc của cuộc sống” của Richard Templar là “đừng để qua ngày mai!”
Người ta thường hẹn trong ngày mai sẽ làm công việc dự định hôm nay, nhưng đối với nhà thơ Norma Cornett Marek lại khác: “Ngày Mai Không Bao Giờ Đến!” đó cũng là tựa đề bài thơ của bà. “Nếu ta đang chờ ngày mai đến th́ tại sao lại không làm điều đó ngày hôm nay? V́ nếu ngày mai không bao giờ đến, th́ chắc chắn ta sẽ hối tiếc suốt phần đời c̣n lại của ḿnh!”
Không ai biết đây là lần gặp gỡ cuối cùng, một lời nói giă biệt, v́ không một ai, trong chúng ta, trẻ hay già, đoan chắc rằng, họ sẽ sống qua hôm nay, để ngày mai thấy mặt trời lên! Trên trái đất này, đêm nay có những người cũng lên giường như chúng ta, nhưng ngày mai, họ không c̣n thức trở dậy!
Đó chính là ân huệ của cuộc đời chứ không phải là một chuyện đương nhiên: “Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy, ta có thêm ngày nữa để yêu thương!
Xin đừng để quá trễ, hăy nói với ai đó một lời yêu thương hôm nay. Hăy nói một lời xin lỗi. Hăy nói một lời cám ơn. Nếu ai cũng nghĩ rằng hôm nay là ngày cuối cùng của cuộc sống để hành động, để yêu thương, để dịu dàng với nhau…th́ cuộc đời này đẹp biết bao nhiêu!
Xin hăy làm điều đó hôm nay. Ngày mai đă muộn rồi!
Những ngày cuối tháng 5 của 43 năm trước, là mùa sách nạn của dân chúng miền Nam. Cộng sản vừa cướp được Sài G̣n đă vội ra lệnh tịch thu tất cả sách báo miền Nam mà họ gọi là “văn hóa đồi trụy và phản động”. Họ huy động từng đoàn thanh niên học sinh, mang xe ba gác đi từng nhà lục soát sách mang đi đốt giữa những bộ mặt hốt hoảng, bất lực pha lẫn ngậm ngùi của chúng ta. Một bài báo của một tác giả vô danh tôi lượm được trên internet truy niệm cho những cuốn sách vô tội bị hỏa thiêu: “Bởi v́ sách vở thời ấy, số phận nó như số phận người. Nó cũng phải trốn chạy, chui rúc, ẩn náu. Chúng cũng rơi vào cảnh mồ côi cha mẹ, cảnh lạc đàn, cảnh tan nát, cảnh tan hoang mất c̣n. Vận người dân miền Nam thế nào, vận chúng như thế. Đứa may trốn thoát. Tôi có đứa cháu trai, hồi đó 6 ,7 tuổi. Khi đi di tản năm 1975, cháu chỉ mang cặp sách của cháu và nhặt một cuốn sách giáo khoa tâm lư học tôi viết thời đó. Sang sau vài năm, cháu đưa lại cho tôi. Kể cũng mừng và cũng buồn cười. Đứa yểu tử th́ làm mồi cho cuộc phần thư. Đứa không may làm giấy gói sôi buổi sáng. Đứa bất hạnh làm giấy chùi đít. Đó là cuộc trốn chạy vô tiền khoáng hậu mà những kẻ đi truy lùng chỉ là các trẻ con lên 12, 13 tuổi. Các cháu ngoan bác Hồ. Họ xô những đứa trẻ con vô tội đó ra đường. Chúng quàng khăn đỏ hô hoán, reo ḥ như trong một vụ đi bắt trộm, hay đi bắt kẻ gian. Chúng lục soát tận t́nh, chúng đánh trống, chúng hát ḥ như một cuộc ra quân của một đoàn quân chiến thắng. Gia đ́nh nào cũng sợ hăi cái quang cảnh đó nên kẻ mà phải hy sinh đầu tiên chính là sách vở”.
Hầu như toàn thể nhân loại văn minh coi việc đốt sách vở là một hành động man rợ. Vậy mà cuộc phần thư ác ôn này được cả hệ thống tuyên truyền của nhà nước nhảy xổ vào đành phèng la cổ vơ. Báo Sài G̣n Giải Phóng số ra ngày 25/5/1975 tường thuật sự việc: “Ngày 23/5/1975, trên nhiều đường phố Sài G̣n, “khí thế ra quân” của chiến dịch vô cùng sôi nổi: “Đoàn thanh niên nam nữ đi qua các đường phố và hô to nhiều khẩu hiệu đả đảo văn hóa ngoại lai đồi trụy mất gốc phản động. Đi đầu là xe phóng thanh với một biểu ngữ dài có ghi: ‘Đội thanh niên sinh viên học sinh xung kích bài trừ văn hoá dâm ô phản động’. Theo sau là sinh viên, học sinh sắp hàng bảy, hàng tám xuất phát từ trụ sở của lực lượng thanh niên tự vệ thành phố, số 4 Duy Tân. Đoàn diễn hành kéo dài có đến hàng cây số đường, tất cả mọi người đều có một tấm biểu ngữ trên tay. Ngay sau cuộc tuần hành trên đường phố của hàng chục ngàn thanh niên vệ binh, đồng bào và các tiệm sách đă đem nộp cho đội Quận 7 một số lượng sách báo đồi trụy phản động, tất cả là mười ba xe ba gác. Ngoài ra các hàng sách bày bán trên hai lề đường Lê Lợi, Công Lư cũng tự nguyện dọn sạch và đem nộp. Trên đường Hai Bà Trưng cũng có ba nhà sách tự động đem nộp trên hai mươi cuốn. Đặc biệt, cùng ngày này, 22/5/1975, nhà sách Phúc Bài, 186 Nguyễn Thiện Thuật, Sài G̣n đă tự nguyện đem nộp cho Hội Bài trừ Văn hoá đồi trụy phản động bốn ngàn cuốn sách các loại”.
Một cảnh đốt sách thật tang thương tháng 5 năm 1975 ở Sài G̣n
Cũng trên báo Sài G̣n Giải Phóng, số ra ngày 24/10/1976, nhà báo nằm vùng Cung Văn đă hô hào:
Sách báo nọ, đừng mong ngóc dậy. V́ nhân dân, sẵn gậy cầm tay. Trừ căn, tuyệt nọc bọn nầy. Đánh cho tận gốc, đánh quay ṃng ṃng.
Theo tài liệu của nhà văn Trần Hoài Thư, chuyện đốt sách dưới mắt người ngoại quốc được đề cập trong cuốn “Nhật Kư Saigon 1975” của ông Walter Skrobanek, Giám Đốc một tổ chức từ thiện, ghi lại cũng vào ngày 23/5/1975:
“Sáng nay người nước ngoài thêm một lần nữa không được phép đi vào trung tâm thành phố. Những người da trắng muốn làm điều đó bằng ô tô hay đi bộ đều bị đuổi trở ra mà không có một lời giải thích… Siriporn cũng hỏi lư do ngăn cấm nội thành, đặc biệt là đường Tự Do, đối với người nước ngoài. Nhún vai. Vào buổi tối, có hai phiên bản được lan truyền đi trong trung tâm, tại sao lại ngăn cấm: đốt sách phản động hay là một cuộc gặp gỡ nhiều căng thẳng giữa đại diện của hai phái Công giáo…Các sinh viên cách mạng đả phá tín ngưỡng cũng đă gơ cửa nhà Ariel, để thu thập văn học phản động và khiêu dâm. Chị của Ariel không cho họ vào nhà, mà chỉ giải thích rằng bà không biết đọc. Theo tường thuật của nhân viên chúng tôi th́ các tác phẩm văn học Việt Trung như “Tam Quốc Chí” cũng thuộc vào hàng văn hóa đồi trụy như tạp chí tin tức Mỹ “Time”. Giá như các sinh viên đó biết rằng ví dụ như Kim Vân Kiều đang phục sinh lại ở Bắc Việt Nam và được diễn giải như là một phê b́nh văn học của phong trào chống phong kiến. Người ta nói rằng vào ngày 31 tháng Năm sẽ có một cuộc đốt sách lớn”.
Học giả Nguyễn Hiến Lê, người có nhiều sách đă xuất bản ở miền Nam, kể lại:
“Một trong những công việc đầu tiên của chính quyền là hủy tất cả các ấn phẩm (sách, báo) của bộ Văn hóa ngụy, kể cả các bản dịch tác phẩm của Lê Quí Đôn, thơ Cao Bá Quát, Nguyễn Du; tự điển Pháp, Hoa, Anh cũng bị đốt…Sở Thông tin Văn hóa ra chỉ thị cho mỗi quận phái thanh niên đi xét sách phản động, đồi trụy trong mỗi nhà để đem về đốt. Bọn thanh niên đó đa số không biết ngoại ngữ, sách Việt cũng ít đọc, mà bảo họ kiểm duyệt như vậy th́ tất nhiên phải làm bậy. Họ vào mỗi nhà, thấy sách Pháp, Anh là lượm, bất kỳ loại ǵ; sách Việt th́ cứ tiểu thuyết là thu hết, chẳng kể nội dung ra sao. Lần đó sách ở Sài g̣n bị đốt kha khá. Nghe nói các loại đồi trụy và kiếm hiệp chất đầy pḥng một ông chủ thông tin quận, và mấy năm sau ông ấy kêu người lại bán với giá cao. Ông bạn Vương Hồng Sển có nhiều sách cổ, quí, lo lắng lắm mà cũng uất ức lắm, viết thư cho Sở Thông tin Văn hóa, giọng chua xót xin được giữ tủ sách, nếu không th́ ông sẽ chết theo sách. Một độc giả lập một danh sách các tác phẩm của tôi mà ông ta có trong nhà, đem lại sở Thông tin hỏi thứ nào được phép giữ lại, nhân viên Thông tin chẳng cần ngó tên sách, khoát tay bảo: Hủy hết, hủy hết”.
Dân Sài G̣n sức mấy mà “hủy hết”. Họ t́m mọi cách cứu sách. Tôi lúc đó đau ḷng đứng nh́n tủ sách tôi đă dầy công thu thập từ những ngày c̣n là học sinh trung học. Cũng cả ngàn cuốn chứ ít ỏi chi. Tuy không được bằng những tủ sách danh tiếng như của thầy Vương Hồng Sển và các nhà văn hóa khác nhưng cũng là máu thịt của ḿnh. Sau khi đánh liều mang một số giấu trên trần nhà, số c̣n lại mang ra nhúm bếp hết. Dù sao sách cũng làm chín được nồi cơm! Nhà tôi lúc đó ở trong một con hẻm nên các “anh hùng băng đỏ” coi bộ cũng ngại xông pha. Họ vào những nhà mặt tiền cho mau chóng đạt được chỉ tiêu. Nhiều người mang sách báo ra bỏ bên vệ đường hoặc trong bụi cây khuất lấp để dân chúng ai muốn lượm cũng được. Dù sao cũng là một cách cứu sách, như người mẹ nghèo hoặc bị t́nh phụ bỏ trẻ sơ sanh ngoài đường để có đường sống cho con thơ.
Nhà văn Ngọc, một người trẻ c̣n theo bậc tiểu học vào năm 1975, là một người rất thích đọc sách kể lại trường hợp cứu sách của gia đ́nh cô:
“Lớn lên vào thời điểm chiến dịch kiểm kê văn hóa, tôi đáng lẽ cũng chịu chung cảnh bưng bít kiến thức như nhiều trẻ em Việt Nam hồi ấy nhưng may mắn được ở vùng Tân Quy có làng thương phế binh và cư xá cho công chức, sĩ quan, đa số người dân cùng chung hoàn cảnh nên đùm bọc thương yêu nhau, cán bộ phường xă cũng dĩ hoà vi quư. Đội kiểm kê gồm nhiều học tṛ cũ của má tôi nên tuy biết nhà tôi nổi tiếng có tủ sách lớn nhất vùng đă làm ngơ v́ tiếc, chỉ kê vài cuốn giáo khoa cũ mà không tịch thu. Hàng xóm và các thầy cô giáo thấy vậy chở thêm sách lại cho tị nạn nhà tôi. Má tôi cẩn tắc vô ưu nên dù được bảo đảm vẫn đóng khóa sách cẩn thận. Nhà tôi có một tủ sắt loại locker cho cầu thủ trong sân vận động, cao tới nóc nhà. Má tôi tống hết sách báo vào đó, từ tạp chí Văn, Bách Khoa, sách Trung Hoa xưa, tiền chiến, Tự Lực Văn Đoàn, cho đến các tác giả bị liệt vào hạng phản động Nguyễn Mạnh Côn, Nguyễn Thụy Long, Mai Thảo, Chu Tử, Duyên Anh, Nguyễn Mộng Giác, Ngô Thế Vinh, Vũ Hoàng Chương, Nhất Tuấn, Nguyên Sa, Trần Dạ Từ, Phạm Công Thiện, Túy Hồng, Nhă Ca, Thụy Vũ … Một cô giáo c̣n chở lại cả tủ Quỳnh Dao. Má tôi khóa tủ sắt, dặn chị em tôi không được lấy sách ra đọc rồi bỏ lung tung lỡ có ai thấy, ai hỏi th́ nói khóa tủ hư lâu rồi không mở được. Dĩ nhiên chị em tôi tránh sao khỏi ṭ ṃ, má tôi đi dạy là mở tủ lôi sách ra đọc ngấu nghiến, canh giờ má tôi sắp về th́ gom sách cất khóa lại. Riêng bán nguyệt san Thời Nay, do số lượng quá nhiều (mỗi tháng hai số trong mười lăm năm) và cũng là tờ tạp chí yêu thích nhất, má tôi dành riêng một chỗ rất đặc biệt và an toàn. Dân miền Nam xưa chắc ai cũng biết cái garde-manger, người Bắc gọi là chạn thức ăn, phần trên có hai ngăn, hai cánh cửa tủ, giữa là ngăn trống để chai hũ, phần dưới không có ngăn nên rất rộng, chắc dành cho những bao hũ khổ lớn, có cửa đóng lại, là chỗ trú ẩn của bộ Thời Nay gia đ́nh tôi. Đội kiểm kê có vào chắc cũng chẳng nghĩ tới xét lục ngăn thường đựng nước mắm, dưa cải v.v…này”.
Sức bật của người Sài G̣n vậy mà được việc. Chỉ khoảng hơn một tháng sau, sách cũ sống lại trên vỉa hè, nằm trên những tấm ni-lông của những con người không c̣n cách mưu sinh nào khác. Họ bán rất rẻ. Khách hàng gồm cả những bộ đội từ miền Bắc. Văn hóa “đồi trụy” rất được những con người xă hội chủ nghĩa mến mộ. Một trong những người ngồi bán sách trên lề đường là ông Khai Trí. Trong kho nhà sách và nhà xuất bản của ông vào thời điểm Sài G̣n sụp đổ chất đầy sách. Một phần bị dân chúng vào hôi của mang đi, một phần lớn bị tịch thu mang đi đốt. Theo nhà văn Nhật Tiến th́ sau khi mất hàng triệu cuốn sách trong kho, ông Khai Trí đă đầu quân vào hàng ngũ bán sách trên lề đường. Ông bày bán ít cuốn truyện thiếu nhi do chính ông xuất bản!
Dân Sài G̣n coi sách như con đẻ, họ xúm vào cứu sách. Mỗi người yêu sách có cách cứu sách riêng. Nhưng tôi nghĩ không có người yêu sách nào hào hùng như nhân vật trong truyện ngắn “Để Tang Cho Sách” của nhà văn Khuất Đẩu. Ông mê sách, nhất là những sách quư.
“Ông mê sách như người mê đồ cổ. Nghe ở đâu có sách quư là ông t́m tới dù có phải tốn kém tàu xe và phải bỏ ra cả một món tiền lớn để “rước” người có nhan như ngọc đó về, ông cũng dám chơi một phen cho thỏa chí. Như cuốn Tự vị của Paulus Của, nghe đâu như là ấn bản đầu tiên của một ông cụ nào đó bắc bực làm cao đến tận giời, ông tôi đă phải lặn lội vào tận xứ Thủ Dầu Một xa lắc xa lơ để mua cho bằng được. Công cuộc mua quyển sách đó, chẳng những khiến ông mất đến mấy chỉ vàng, mà c̣n ốm một trận thừa sống thiếu chết. Cuốn sách cũ đến nỗi như đă ngàn năm tuổi. C̣n hơn một người chơi đồ cổ, ông tôi lại phải tốn thêm một món tiền và nhất là tốn rất nhiều th́ giờ để nài nỉ và kiên nhẫn ngồi chờ anh thợ đóng sách đóng lại giùm. Lúc này quyển sách đối với ông như một con bệnh thập tử nhất sinh và anh thợ đóng sách cứ như một bác sĩ. Khi anh thợ tháo bung sách ra, ông đau nhói như thể gan ruột của ḿnh cũng bị lôi ra như thế. Ông hồi hộp theo dơi từng mũi chỉ khâu, nín thở xem anh ta cắt xén, làm b́a. Cho đến khi sách được làm mới một cách khỏe mạnh, xinh đẹp, ông ôm quyển sách trước ngực như một người mẹ ôm đứa con bé bỏng vừa được bác sĩ cứu sống. Ông hết lời cảm ơn anh ta, đưa cho anh một tờ tiền lớn và hào phóng không nhận tiền thối lại. Đem quyển sách về nhà, ông lại mất cả buổi ngồi ngắm đến nỗi quên cả bữa cơm khiến bà tôi phải giục”.
Đó là sách cổ. Với sách mới ông mua mỗi thứ hai cuốn, một cuốn để đọc và cho mượn, một cuốn để cất trong tủ. Ông muốn cuốn sách cất giữ này trinh nguyên, c̣n giữ được lề. Không biết có ai c̣n nhớ được những cuốn sách in thời xưa. Lề sách không bị cắt, trang này c̣n dính với trang kia. Không biết v́ muốn pḥng ngừa nạn đọc lén sách hay v́ lư do nào khác. Muốn đọc phải dùng dao rọc những trang dính ấy ra. Dao dùng thường phải thật sắc để trang giấy không bị nham nhúa. Giữ sách đă vậy, đọc sách, với ông, là một… nghi lễ.
“Đối với ông, đọc sách là để được tiếp cận với những tâm hồn ngoại hạng, cho nên trước hết phải tắm rửa sạch sẽ, ăn mặc chỉnh tề, phải “dọn ḿnh”như con chiên quỳ trước Chúa, như nhà sư đảnh lễ trước bàn thờ Phật. Chẳng những sạch ở phần xác mà c̣n sạch cả phần hồn. Nghĩa là không để những giận hờn phiền muộn hay những ư nghĩ ô trọc dính bám cho dù chỉ một tí trong đầu. Chỉ đọc trong lúc thanh tịnh giữa khuya hay khi gần sáng tinh mơ. Đọc với hương trầm cộng với mùi hương ngai ngái của giấy mực, hương của sương đêm loáng thoáng hay hương của nước mưa mát dịu. Đọc là mở hồn ra để hơi thở của sách ùa vào căng buồm lên cho con thuyền bé nhỏ của ḿnh được dọc ngang trên biển học mông mênh”.
Tháng 5 năm ấy, sách của ông cũng bị bức tử như mọi sách khác. Ông suy nghĩ, không phải để cứu sách mà làm sao để cho sách có một cái chết xứng đáng với ḷng tin yêu và kính trọng của ông. Sau nhiều đêm mất ngủ, ông nghĩ ra cách chọn cho sách một cái chết dũng cảm. Đó là chính ông tự ḿnh đốt sách.
“Đó là một đêm tháng năm lặng gió. Cây cối im ngủ. Những ngôi sao như tan đi trong khói trời mờ đục. Ông tôi cử hành lễ đốt sách cũng bi tráng và lẫm liệt như Huấn Cao cho chữ trong ngục. Ông mặc toàn đồ trắng, cắm một cây đuốc giữa trời, khấn khứa ŕ rầm rồi lạy bốn hướng mỗi nơi một lạy. Xong ông lấy cây đuốc đang cháy đặt vào giữa tháp. Dứt khoát và quyết liệt như cái cách các vơ sĩ đạo đâm kiếm vào bụng. Lửa bắt rất nhanh, chỉ trong phút chốc đă bắn vọt lên đầu ngọn tháp. Đă nghe mùi mực và mùi giấy. Đă nghe tiếng vặn ḿnh của các b́a sách. Đă nghe những âm thanh líu ríu như run như rẩy của những trang sách méo mó cong vênh. Lửa trào ra như từ miệng hỏa diệm sơn. Lửa ôm choàng lấy sách, hôn dữ dội bằng đôi môi bỏng cháy. Sau cùng, cái tháp bằng sách đỏ rực như một trái tim để lộn ngược.Ông tôi ngồi xếp bằng, cố giữ nét mặt trầm tĩnh một cách cao cả. Không một giọt nước mắt cho dù là v́ khói cay xè”.
Sách do ông rứt ruột tự tay châm lửa đốt thành những đống tro tàn nằm im như những tử thi. Với ông, đám tro này vẫn là sách. Ông đặt làm những chiếc hộp để đựng đám tro này. Tất cả tên những cuốn sách bị đốt đều được viết thành những tấm bia, xếp đều trong chiếc tủ giờ đă vắng sách. Tủ sách đă biến thành một nghĩa trang. Ông chít khăn trắng, lên nhang đèn, cung kính khấn vái, miệng bật ra tiếng khóc lẩm nhẩm những tiếng: ta là kẻ có tội. Chắc là cái tội không giữ được sách. Từ đó ông ăn ít, ngủ ít. Ông thường đem những tấm bia xuống ngắm hàng giờ như đang đọc sách. Mỗi tấm bia gợi nhớ tới màu b́a, co chữ, tranh vẽ và cả nội dung sách mà chỉ có ông mới nhớ được. Rồi ông không ăn, cũng không ngủ, người khô kiệt tái xám.
“Buổi chiều cuối cùng ngồi bóp chân cho ông, tôi nghe ông hỏi, cháu thấy ông thế nào? Tôi nói, dạ, ông nên ăn chút cháo, trông ông gầy lắm. Không phải, ông nói, da ông thế nào, đă ngă thành màu đất chưa? Không biết da màu đất là màu ǵ, tôi nói đại, chưa ông à. Ngă màu đất là sắp chết đấy cháu, ông nói. Ông đă có ư để lại sách cho cháu, nhưng ta tính làm sao được bằng trời tính. Cháu nhớ giữ giùm ông cái tủ và mấy cái kệ. Nghe ông nói, tôi thấy da ông quả thật rất giống với màu đất bạc phếch, lạnh lẽo ở nghĩa địa. Da ông là da của một người đă chết từ lâu nhưng chưa chôn. Hay là ông đă chết từ cái đêm hôm ấy. Hồn ông đă cùng với hồn sách nương theo khói bay lên tận trời cao. Cái miền đất ồn ào đầy ô trọc và thù hận này biết đến bao giờ mới lại có được những con người, những quyển sách biết yêu quư tương kính lẫn nhau như thế. Chính lúc này tôi mới thấy thấm thía nỗi đau mất sách của ông. Tôi vừa buông tay ra th́ ông ngừng thở. Ông chết nhẹ nhàng như gấp lại một cuốn sách. Tính ra, ông đă để tang cho sách đúng một trăm ngày”.
Những Dấu Hiệu Về Sự Sụp Đỗ Toàn Diện Của CSVN - Thành Đỗ (Danlambao)
Vào cuối thế kỷ thứ IV sau công nguyên, Đế quốc Tây La Mă sụp đổ sau gần 500 năm thống trị như một siêu cường hùng mạnh nhất thế giới. Theo các sử gia, kết quả này là do hàng trăm yếu tố khác nhau gây nên, từ thua trận, thuế má bất ổn, cho tới thiên tai và thậm chí là biến đổi khí hậu, thêm nạn kiêu binh, hống hách, tàn ác và tham nhũng tràn lan là những yếu tố chính đưa đến sụp đổ toàn diện của siêu cường thời cổ đại này.
Nghiên cứu và so sánh lịch sử các đế chế trong quá khứ, mỗi triều đại phồn thịnh được một thời gian và tàn lụi dần theo đúng một quá tŕnh tuần tự của bốn giai đoạn: Khởi đầu, phát huy, yếu dần và sụp đổ... Tại Việt Nam, các dấu hiệu được nghiên cứu và ghi nhận sau đây cũng cho ta thấy được sự thống trị của đảng CSVN đang đi vào giai đoạn chót, như một cỗ xe lao xuống dốc không phanh và vực thẳm của lịch sử th́ đang ở cuối con đường trước mắt.
Trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ xin chia sẻ những hiện trạng xă hội Việt Nam mà ai ai cũng có khả năng nh́n thấy, những hiện tượng báo hiệu ngày tàn của chế độ đang đến càng lúc càng gần mà ngay chính Đảng cầm quyền họ cũng thấy nhưng không thể làm thay đổi bánh xe lịch sử được.
1. Hố sâu giữa người giàu và nghèo trong xă hội
Trong khi bị các thế lực từ bên ngoài tấn công, bên trong th́ đảng CSVN cũng bị mục ruỗng do xảy ra nhiều cuộc khủng hoảng tài chính, kinh tế khá nghiêm trọng, sự ḅn rút ngân sách không thương xót, do tham nhũng để làm giàu một cách có hệ thống, cấu kết nhau, phá nát nhiều chính sách nghiêm chỉnh xây dựng đất nước.
Cùng lúc, với các bội chi trong hơn 30 năm vung tay quá trán dẫn đến t́nh trạng ngân khố bị thâm hụt nặng, nơ công ngất ngưởng, dẩn đến sưu cao thuế nặng và t́nh trạng lạm phát đă làm gia tăng thêm khoảng cách giữa người giàu và người nghèo. Với hy vọng trốn thuế, tránh tài sản bất minh bị truy nă, nhiều người thuộc tầng lớp giàu có đă ôm tiền bỏ trốn ra nước ngoài, theo IMF (Quỹ tiền tệ quốc tế), năm 2017, đă thất thoát khoảng 19 tỷ đô la gởi từ VN ra ngoại quốc.
2. Quân đội làm kinh tế
Những cuộc chạy đua vũ khí chiến tranh liên tiếp xảy đến trong ṿng 20 năm gần đây trong cả vùng Châu á Thái B́nh Dương, đối với chế độ là liều thuốc cực độc, Mua vũ khí để mong có lại quả 30 đến 40%, tiền tươi, thóc thật.
Cùng thời gian này, đảng cộng sản c̣n bị lung lay tận gốc v́ quân đội cũng thiếu nhân sự có thực tài, bộ máy đảng thao túng quân đội v́ toàn là “con quan thành quan con” chỉ để làm kinh tế và đánh golf thay v́ đánh giặc.
Thời b́nh mà quân đội VN bị lạm phát tướng, quân đội có đến ngoài 415 sĩ quan cấp tướng trong năm 2018, năm 2014 c̣n có đến 489 tướng.
Để so sánh, quân đội Mỹ có 652 tướng, với một quân số 3,5 lần đống hơn VN.
Quân đội Pháp, một đế quốc sừng sỏ khác, với các lănh thổ khắp hoàn cầu, lực lượng nguyên tử và không gian, quân đội hùng mạnh nhưng năm 2019, họ cũng chỉ có đến 376 tướng Ngân sách nào mà chịu nổi cho các tướng đánh golf và làm áp phe này.
Quân đội / Công an làm kinh tế là một sai lầm to lớn của các nước độc tài cộng sản.
3. Tham nhũng và bất ổn chính trị
Quản lư một vùng lănh thổ rộng lớn, kéo dài từ Bắc đến Nam đối với đảng, nhân sự khả năng kém là khó khăn, th́ chính sách lănh đạo không nhất quán và kém hiệu quả càng khiến cho vấn đề thêm trầm trọng, tạo ra các “lănh chúa”, nghe lệnh trung ương rồi để đó và tạo bè cánh để chia phần về kinh tế là chính.
Cuộc nội chiến âm thầm trong đảng càng lúc càng khốc liệt trước đại hội đảng đă đẩy “đế chế cộng sản” vào t́nh trạng hỗn loạn sóng ngầm. Rồi sẽ có ngày mà cả đội hộ vệ có nhiệm vụ canh gác và bảo vệ "hoàng đế" cũng ra tay ám sát và tùy ư tấn phong các hoàng đế mới, thậm chí c̣n bán đấu giá vị trí này cho ai trả giá cao nhất như đă xảy ra đế chế La mă.
Sự mục nát về chính trị c̣n lan cả sang cánh quốc hội, cánh tay nối dài của đảng, nơi cũng không thể kiểm soát được ǵ nữa do nạn tham nhũng cũng như năng lực yếu kém của những đại biểu cơ quan này toàn là đảng viên và cũng là “quan con &quan cha”.
Khi t́nh h́nh chính trị xấu đi, niềm tự hào của công dân suy giảm, người công dân mất đi ḷng tin vào giới lănh đạo như hiện nay th́ ngày tàn của chế độ đă điểm.
4. Người Hán xuất hiện và sự di cư của các tộc miền Bắc vào Nam
Các đợt di dân miền Bắc vào Nam ồ ạt, không kiểm soát, cộng thêm việc di dân Hán tộc vào miền Bắc và Trung Việt Nam, một phần xuất phát từ việc người Hán chủ tâm xâm chiếm châu Đông Nam Á và gây ra nhiều cuộc di cư ồ ạt vào cuối thế kỷ thứ 20, mặt khác, khi các chiến binh miền Bắc và cả Hán tộc càn quét tới, họ đă đánh đuổi nhiều triệu người Nam Việt ra ngoài biên giới.
Những đối xử thô bạo với người Nam Việt, mà theo các nhà sử học, nhiều viên chức Bắc việt thậm chí c̣n buộc những người Nam, thua trận, đói khát, tan hàng, họ, gia đ́nh họ bị đày lên vùng rừng sâu nước độc để cướp lấy tài sản và buộc họ lao ra biển để chết, người c̣n ở lại th́ hoặc bán thân, bán con đi làm nô lệ ở nước ngoài như phương cách để sinh tồn.
Do đối xử tàn ác với người Nam việt, triệt con đường sống của họ, chế độ cộng sản Bắc việt đă tạo ra kẻ thù nguy hiểm ngay trong chính biên giới của ḿnh, chờ ngày tốt để ra tay.
Khi sự áp bức trở nên quá sức chịu đựng, người Nam rồi sẽ nổi dậy và họ cuối cùng cũng sẽ đánh tan quân đội xâm chiếm mà thôi. Lịch sử đă chứng minh quá nhiều lần.
5. Kinh tế lụn bại
Nền kinh tế mà đảng quản lư phụ thuộc vào sức lực nô lệ, gia công cho nước ngoài, khiến các thành phố phát triển thành “ổ chuột”, chung quanh các đô thị lớn và tội phạm theo đó phát triển mạnh tạo một xă hội bất ổn, hống hách cửa quyền và vượt khỏi tầm kiểm soát, ranh giới giữa quyền lực và tội phạm lu mờ.
Các sinh hoạt kinh tế truyền thống như cày cấy, đồng áng theo đó bị bỏ rơi v́ nông dân không c̣n có thể sinh sống được, các nghề thủ công truyền thống tay chân không thể cạnh tranh với các mặt hàng từ bên kia biên giới phía Bắc tràn sang do tham nhũng tiếp tay trong đảng và sức mạnh quyền lực/quân đội thường mang lại những hỗ trợ cho giới có tiền, có quyền thay ǵ để bảo vệ pháp luật, bảo vệ người dân, người cô thế, hay để bảo vệ bờ cơi.
Người dân họ xem gọi côn an / côn đồ như nhau, bảo kê nhau để cướp. Khổ này nó chồng lên thêm khổ khác trên đầu người dân Việt.
6. Thiên Chúa giáo và những giá trị truyền thống tôn giáo bị đánh mất
Sự suy tàn của đảng CSVN đi đôi với sự nở rộ của đạo Thiên Chúa, và một số người cho rằng sự trỗi dậy của đức tin này cũng sẽ góp phần vào sự sụp đổ của chế độ cộng sản.
Họ không sống ḥa b́nh với Thiên Chúa giáo mà t́m cách lũng đoạn và khống chế, đàn áp Thiên Chúa giáo như họ đă thành công với Phật giáo, tạo ra được những chức sắc Phật giáo như diễn viên hài rẻ tiền trước mắt công luận để người dân mất niềm tin vào các lănh tụ tôn giáo.
Họ cũng tạo ra các lệnh, các nghị quyết để hợp pháp hóa Thiên Chúa giáo theo ư đảng và biến nó trở thành quốc doanh giáo. Người cộng sản họ thần thánh hóa các vua của họ. Thiên Chúa giáo, th́ không coi vua như thần thánh, đồng thời họ đặt niềm tin vào và tôn thờ Chúa trời độc tôn thay v́ nhà vua như người cộng sản mong muốn. Cùng với đó, Giáo hoàng Vatican và những người đứng đầu giáo hội cũng đóng vai tṛ lớn hơn trong các vấn đề chính trị trong hội nhập toàn cầu hóa, càng làm cho việc cai trị và quan hệ với Thiên Chúa giáo càng trở nên phức tạp hơn. Hơn nữa, tài sản giáo hội Thiên Chúa giáo tại Việt Nam quá nhiều qua nhiều giai đoạn lịch sử, làm thèm thuồng các quan chức bộ máy đảng, chỉ mong sao chiếm đoạt để chia lô bán nền như mới đây tại Thủ Thiêm với ḍng Mến Thánh Giá, nuốt không trôi, phải ói ra lại nhưng ức lắm.
Tuy việc Thiên Chúa giáo tại Việt Nam có thể đă đóng một vai tṛ nhỏ trong việc làm xói ṃn ḷng tin vào đảng, nhưng đa phần các học giả ngày nay cho rằng, ảnh hưởng của nó, một tổ chức chặt chẽ làm lu mờ bộ máy đảng, tham ô, kiêu binh và tàn ác nhưng lại kém cỏi về hành chính, kinh tế và cả về quân sự trước ngoại bang phương Bắc.
7. Sự suy yếu về sức mạnh của quân đội
Mặc dù phần lớn lịch sử đều ghi nhận nhiều huyền thoại về quân đội cụ Hồ, đứng hàng thứ 6 trên thế giới, đánh tan hai đế quốc sừng sỏ nhất hành tinh, nhưng nay, họ trong giai đoạn suy tàn, h́nh ảnh của những đoàn quân hùng dũng bắt đầu có sự đổi khác, nay xúc cát đem bán cho Trung cộng xây cất hải đảo tại Hoàng-Trường Sa.
Hàng ngũ đoàn quân thiện chiến nay cũng đă tỉnh ngủ sau cú lừa “sinh Bắc tử Nam” để “giải phóng miền Nam” mà thật ra là đoàn quân đi giết, cướp tài sản đồng bào miền Nam chở về Bắc.
Dù các binh lính gốc Nam nay cũng có mặt trong quân ngũ, nhưng họ lại rất ít, không nắm thực quyền, không được tin cậy hoặc họ không hề trung thành với đế chế cộng sản, những viên chỉ huy đói khát quyền lực thường chỉ là người Bắc có lư luận. Trên thực tế, nhiều người trong Nam, họ không mặn mà ǵ với đảng
Nếu có đảo chánh, họ buông súng thay v́ theo lệnh trên là phải bắn thẳng vào người dân.
Từ hơn 100 năm nay, sự tồn vong của các chế độ độc tài là tương đối ngắn, họ đều chịu chung số phận “đoản mệnh”, ngay cả độc tài cộng sản đông Âu, họ tồn tại không đủ lâu nhưng đă để lại một di sản bi đát cho nhân loại và không xây dựng hay để lại được một nền văn minh nào đáng kể và họ không được người dân thương tiếc.
Ngày nay, trên thế giới, cộng sản tại một vài nước cũng đang từng bước bị đào thải như một ư thức hệ lỗi thời c̣n sót lại của thế kỷ trước.
Gần đây thôi, Vị tổng thống thứ 45 của nước Mỹ, ông Donald Trump, ngày 25/09/2018, trước hội đồng Liên hiệp quốc tại New York, ông đă tuyên chiến với chủ nghĩa xă hội, thậm chí là Trung Quốc, hứa là sẽ tiêu diệt các chế độ này.
Riêng người cộng sản Việt Nam, hiện đang đi vào giai đoạn chót trong tiến tŕnh tự nhiên đào thải của xă hội mới, trật tự mới v́ chế độ này không c̣n sức sáng tạo và đă mục nát.
Đời Người Là Quá Tŕnh Hoàn Trả Những Ǵ Đã Thiếu Nợ, Cho Đi Càng Nhiều Càng Hạnh Phúc
Đời người là quá tŕnh hoàn trả những ǵ đă thiếu nợ, một đời mỗi người đều đang không ngừng cho đi…
Cha mẹ cho ta cuộc sống, nuôi dưỡng ta thành người; bạn đời cho ta sự ấm áp của gia đ́nh, cùng ta vượt qua bao mưa gió. Con cái cho ta một cuộc sống tṛn đầy, tăng thêm niềm vui; bằng hữu làm phong phú thêm cuộc sống, sưởi ấm cuộc đời ta… Bởi vậy, hăy dành t́nh yêu thương và trân trọng với những người chúng ta gặp trong đời này.
Hồng trần cuồn cuộn, mỗi lần gặp nhau đều là sự ban ơn của Thượng đế, bởi có nhân duyên mới có thể quen biết nhau. Có người cùng ta đi một hành tŕnh, có người giúp đỡ, có người cho ta kinh nghiệm, có người là ngọn đèn chỉ lối, có người tựa như ánh nắng mặt trời sưởi ấm ta, song mỗi người đều là ân nhân thành tựu chúng ta. V́ vậy, chúng ta nên cảm kích họ và báo đáp ân t́nh đó.
Cuộc đời chính là đang tiến từng bước trong khi chúng ta trao tặng. Vậy nên, hăy lấy “chịu ơn một giọt, báo ơn một ḍng” làm mục đích trong đời, đem cuộc sống làm thành hành tŕnh hoàn trả. Chỉ có hoàn trả kịp thời, mới có thể tích lũy phúc phận, góp nhặt công đức, để mỗi nơi ta đến đều nở hoa bồ đề, tỏa hương thơm ngát.
Người nhà đă v́ ta mà bỏ công sức một cách vô tư không hề tính toán, ta nên dùng cái tâm yêu mến mà hết mực chăm sóc họ, đây cũng chính là nuôi dưỡng hạnh phúc cho chính ḿnh. Bạn bè mang đến cho ta sự ấm áp, ta dùng tâm khắc ghi, có cơ hội th́ hồi đáp ân t́nh của họ.
Hơn nữa ḷng cảm ân không chỉ là lời nói trên miệng, hành động thực tế mới là sự thể hiện chân thành nhất. Ḷng biết ơn là sự tiếp nối t́nh bằng hữu, giúp đỡ là sự củng cố t́nh bạn. Sự giúp đỡ trong lúc khó khăn có thể tăng thêm t́nh bạn tựa như thêu hoa trên gấm vậy. Sự giúp đỡ trong lúc ngặt nghèo càng có thể làm xúc động ḷng người.
Đời người là quá tŕnh hoàn trả những ǵ đă thiếu. Nhận được sự ấm áp nên báo đáp bằng chân thành, có được sự giúp đỡ th́ nên ra tay viện trợ, có được sự ủng hộ th́ nên tiếp tục duy tŕ, có được chỉ dẫn th́ nên thời khắc ghi nhớ, có được bạn bè th́ nên sát cánh cùng với họ.
Đắc được bao nhiêu th́ hoàn trả bấy nhiêu, không chây ́, không thiếu nợ, mới có thể đảm bảo những thứ có được không mất đi.
Cho dù bạn than văn ra sao, níu kéo như thế nào đi nữa th́ đều đă được chú định rồi, những món nợ do những sai lầm mà bạn đă làm lúc đương sơ đều cần phải hoàn trả.
(Ảnh minh họa: foody.vn
Trong ‘Hồng Lâu Mộng’ có một đoạn: “Kẻ làm quan th́ gia nghiệp điêu tàn. Người giàu sang th́ bạc vàng tiêu tán. Người có ân th́ trong chỗ chết có con đường sống. Kẻ bạc t́nh th́ báo ứng phân minh. Kẻ nợ mạng th́ phải trả mạng. Người nợ nước mắt th́ nước mắt cạn khô…”, chính là để nói rằng: mỗi người đến thế gian này đều là để hoàn trả nợ nghiệp, gieo thiện lương gặt ấm áp, gieo điều ác th́ tự chuốc vạ vào thân.
Thượng đế là công b́nh, những thứ cấp cho mỗi cá nhân đều không nhiều. Người vẻ vang thường vượt con nước dữ, người thành công thường phải leo vách đá cheo leo, nào có vùng đất bằng phẳng cho bất cứ ai?
Trong bữa tiệc thịnh soạn của cuộc đời này, tham nhanh sẽ nghẹn, ăn nhiều sẽ tức bụng, chê ít th́ tâm trạng không yên. Điều có thể làm được là cái tâm b́nh ổn, thời thời khắc khắc đều lấy đạo đức làm đầu, lấy hoà làm quư, lấy cảm ơn hồi báo làm trách nhiệm. Làm người chỉ giảng nhân nghĩa đạo đức, làm việc chỉ cầu không hối hận trong tâm.
Không nhất định phải thật giàu có, nhưng có sự b́nh tĩnh khoan thai trong tâm là tốt rồi.
‘Nhân vô thập toàn’, con người ai cũng đều không hoàn hảo, ai cũng có lần sa chân lỡ bước, ngay cả người trí tuệ suy nghĩ ngh́n lần cũng ắt có một lần sai. Lúc nên xin lỗi th́ xin lỗi, dù mất thể diện, danh dự bị tổn thất cũng không có ǵ là quá nặng nề. Tuy vậy, trong mọi thời khắc hăy nên cẩn thận, tránh vấp phải lỗi lầm.
Trả nợ sẽ phải có giá cả, nhưng nhất định phải trả, bởi v́ ta đang bù đắp lỗ hổng của cuộc đời, lấp đầy những chỗ ṛ rỉ. Thời gian sẽ khiến hào quang của tâm hồn thêm lấp lánh thánh khiết. Bởi hết thảy mọi thứ trên thế gian đều nhạt nḥa, chỉ có hào quang của tâm hồn mới dài lâu.
Đời người là quá tŕnh hoàn trả những ǵ đă thiếu, người khác cho ta thứ ǵ không thể nhận một cách thản nhiên, bởi người ta không có nghĩa vụ đó. Đó là ơn nghĩa phải hoàn trả, đến thời phải trả hết, không bao giờ được thiếu. Nếu không, đến lúc nợ chất thành núi, không có cách nào hoàn trả, th́ những thứ từng có cũng bỗng hóa thành hư không.
“Cảm ân” không chỉ là mỹ đức, c̣n là một loại trách nhiệm. Trong cuộc sống thường ngày, nếu chúng ta có thể từ những việc nhỏ mà tỏ ḷng biết ơn, chủ động giúp đỡ mọi người, th́ cuộc đời sẽ hồi báo cho ta những ǵ tốt đẹp nhất.
Truyện xảy ra ở nước Đức. Hôm đó là ngày 18 tháng 3 năm 188 …
Chuyến xe lửa khởi hành từ Mayence chạy hết tốc lực về hướng
Cologne. Trong những ngày của tháng ba, đó là một ngày thật đẹp; càng đẹp hơn nữa v́ đó là một ngày hiếm có trong mùa xuân. Ánh nắng mơn man trên đồng cỏ xanh, và đồng cỏ xanh th́ đang nở ra những hoa cúc trắng và những đoá hoa đỏ đón mùa xuân về. Trong một toa xe có hai hành khách: một linh mục và một thương gia. Thoạt đầu, chẳng ai để ư đến nhau, họ thích thú nh́n phong cảnh mỹ lệ trải dài trước mắt họ, nhất là trên sông Rhin, cảnh càng đẹp như tranh vẽ. Họ hồi tưởng lại thời những hiệp sĩ xa xưa, khi nh́n thấy vọng lâu bằng đá của những lâu đài cổ nay đổ nát hết, đang che bóng trên cuộc sống hoạt động và đôi khi hoang dă của những người dân quê chất phác.
Xe vừa qua khỏi thành phố Bonn. Vị linh mục lấy sách nguyện ra, đọc kinh thần vụ theo bổn phận. Ông chăm chú đến người khách đồng hành trước mắt ông, khoanh tay nghiêm chỉnh và dường như cũng muốn cầu nguyện. Đọc xong kinh, linh mục hỏi ông:
-Ông bạn cũng là người công giáo ạ?
Thương gia mỉm cười thân ái trả lời:
-Phải a. Tôi muốn hôm nay được sống với gia đ́nh, mặc dầu đúng vào thời điểm đầu mùa xuân này, th́ một thương gia như tôi ít muốn cắt đứt những cuộc doanh thương bề bộn.
-A! mai là ngày lễ kính Thánh Giuse. Ngài có phải là thánh bổn mạng của ông không nhỉ?
-Không, thưa cha, thánh bổn mạng của tôi không phải là Đức Giuse; nhưng nhà tôi có tên là Joséphine, v́ thế tôi rất quí trọng ngày mai. Mà tôi c̣n quí trọng hơn nữa v́ một lư do khác.
Thương gia im lặng. Ông bị một xúc cảm mạnh chi phối; một giọt nước mắt rơi xuống bộ râu đen của ông.
-Thế hẳn ông là một môn đệ tri ân của Thánh Cả?
-Vâng, đúng thế, thưa cha. Nhưng cũng chỉ mới mấy năm thôi. Trước kia tôi chẳng tôn kính Ngài chút nào.
Rồi ông lại im lặng. Linh mục cũng không muốn nói ǵ thêm: ông không muốn cưỡng bách ḷng tin tưởng của người bạn đồng hành. Sau một lúc như để suy nghĩ, thương gia mới lại lên tiếng:
-Thưa cha, cha là linh mục, tôi muốn nói với cha tất cả để tôn vinh Đức Thánh Giuse. Cha có thể công bố câu chuyện này, cả trên toà giảng cũng được … Thoạt đầu tôi cũng được giáo dục căn bản theo tinh thần công giáo; nhưng về sau th́ tôi đă buông lơi tất cả. Người mẹ tốt lànhcủa tôi qua đời. Cha tôi là một người yêu trần tục, cũng chẳng để ư ǵ đến việc giáo dục tôi. Thế là tôi trở nên, thương hỡi! y như biết bao nhiêu thanh thiếu niên cùng tuổi tôi: lănh đạm, vô đạo …
Thế rồi tôi bỏ bê tất cả những bổn phận của một người công giáo. Tôi không nhớ ǵ đến Thiên Chúa nữa. Nhưng Thiên Chúa đă không bỏ tôi. Tôi tin rằng; ở trên trời, người mẹ thánh đức của tôi đă cầu nguyện cho tôi. Tôi trở thành nhà buôn, và việc kinh doanh nào của tôi cũng được Thiên Chúa chúc lành cho cả.
Tôi cưới một người vợ, nàng làm cho đời tôi thật hạnh phúc: Chúa đă chọn nàng để giúp tôi trở lại với Người. Nàng rất tốt lành, rất đạo hạnh, đến nỗi tôi nghĩ rằng nàng sẽ chẳng bao giờ lấy tôi, nếu nàng đă biết rơ về tôi. Nhưng phần tôi, tôi giả h́nh là có những tâm t́nh tôn giáo mà thực ra hồn tôi không có. Thật tôi đă có cái can đảm buồn thảm để đóng một tấn hài kịch bỉ hổ.
Ít lâu sau lễ cưới, tôi mới để rơi mặt nạ …Người vợ đáng thương của tôi suưt chết v́ đau khổ: nàng cầu xin, nàng van nài, nhưng vô ích. Tôi yêu nàng thật, nhưng tôi lại có nhẫn tâm công khai khinh bỉ, nhạo báng nàng, khi tôi thấy vào buổi tối, nàng làm việc tôn kính Thánh Giuse hay Đức Mẹ Đồng Trinh trước một bàn thờ nhỏ.
Một hôm cách đây mấy năm, ngày 18 tháng 3 tôi tặng nàng một món quà rất quí để mừng lễ thánh bổn mạng nàng là Đức Giuse. Nàng tiếp nhận và thân ái cảm ơn tôi; nhưng nàng lại nói thêm một câu nói giọng nghi ngờ:
-Chỉ có một món quà tặng khác, mới làm em thật sung sướng.
-Quà ǵ thế em?
-Đó là linh hồn anh, anh quí yêu ạ!
Nói rồi, tiếng nàng nghẹn đi v́ thổn thức. Tôi cố gắng an ủi nàng mà không ăn thua ǵ. Nàng cứ khóc măi.
Tôi nói với nàng:
-Thế em muốn ǵ, cứ nói đi, anh hứa sẽ làm ngay.
-Thế hả, chiều nay, anh đi nhà thờ với em nha. Hôm nay có cha giảng và chầu phép lanh Ḿnh Thánh nữa.
-Tưởng ǵ, chứ nếu em chỉ muốn thế th́ lau nước mắt đi, em quí yêu. Anh sẽ đi với em.
Nhà thờ giáo hữu ngồi đông chật. Vị linh mục nói rất lưu loát, nhưng tôi vẫn lạnh như đồng và hờ hững. Bài giảng dài của cha chỉ có mỗi một điều xúc động tôi. Linh mục c̣n trẻ, nhưng đă dám nói xác tín rằng không bao giờ có ai kêu cầu Thánh Giuse mà không được ngài bảo trợ đầy mănh lực. Ngài c̣n quả quyết rằng, cho dầu ai đó là một kẻ hèn tin đi nữa, một tội nhân khốn cùng đi nữa, khi gặp hiểm nguy mà cầu xin Thánh Cả, là Thánh Cả đến giúp đỡ họ ngay.
Lúc ra khỏi nhà thờ, vợ tôi nói với tôi:
-Anh quí yêu, anh phải vất vả đi kinh doanh nhiều. Anh hứa với em nhá! Hứa với em là những lúc gặp nguy hiểm, anh hăy luôn luôn đọc lời kinh này nhé:
-Lạy Thánh Cả Giuse, xin cầu cùng Chúa cho con!
-Quá được. Anh hứa với em: “Lạy Thánh Cả Giuse, xin cầu cùng Chúa cho con!” Dễ thôi, khó ǵ đâu. * * *
Ít lâu sau, tôi lại đi doanh thương bằng xe lửa trên con đường chúng ta đang đi đây. Tôi trở lại Cologne. Trong toa chúng tôi có cả thảy là tám người. Chúng tôi đi gần đến ngay chỗ này đây, th́ c̣i xe bỗng rú lên báo động. Rồi liền đó, một tiếng chạm rất mạnh, một tiếng vỡ vụn. Tôi vội kêu lên:
-Lạy Thánh Giuse, xin cứu giúp con!
Rồi nhảy ra khỏi chỗ ngồi. Sự biến chỉ xảy ra trong một tích tắc. Nh́n lại, ôi! thây xác bảy người đồng hành với tôi nằm la liệt kia, ngay dưới đất, gẫy nát thảm thê giữa những mảnh vụn của toa xe. Một ḿnh tôi, nhờ phép lạ Thánh Cả Giuse làm, đă thoát nạn, chỉ bị sây sứt xoàng thôi, không hề hấn ǵ. Từ ngày đó, tôi thực sự trở lại với Chúa trong đạo công giáo. Và hằng năm, cứ vào tháng ba, chính tay tôi lại trang hoàng hoa nến bàn thờ Đức Thánh Cả Giuse. Cùng với vợ con, tôi qú gối trước toà Đức Thánh Cả, hết dạ tri ân đọc lời kinh mà thời gian không thể làm phai nhạt:
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.