Nhớ 'một câu nhịn chín câu lành', người Việt sẽ không hung dữ
Hơn nhau không phải ở nắm đấm mà là ở khả năng học tập, làm việc, chia sẻ, thương yêu, tử tế với mình, với người trong mối quan hệ với cuộc sống xung quanh!
Hạ cẳng tay, thượng cẳng chân sau khi va chạm giao thông - Ảnh do bạn đọc cung cấp
Cách đây mấy bữa, trên đường đi làm về, tôi thấy một đám đông ở Hàng Xanh (Q.Bình Thạnh, TP.HCM), nghĩ là có kẹt xe. Tới gần mới phát hiện là vừa có vụ va quẹt và hai tài xế đang cãi nhau, người đi đường ngang qua ai cũng lắc đầu.
Chuyện va quẹt trên phố đông như Sài Gòn giờ tan tầm là chuyện cơm bữa, nếu cảm thông và chia sẻ được thì có lẽ người ta sẽ nhẹ nhàng cho qua, tôi nghĩ vậy!
Môi trường nhiều mầm mống bạo lực
Thường người ta sẽ nổi nóng khi gặp một chuyện bất như ý nào đó, như vừa bị sếp la, ra cổng cơ quan bảo vệ đùa một câu, liền sân si. Nỗi buồn, sự bực bội là thứ năng lượng chi phối hành xử khiến người ta không thể kiềm chế được cơn tức dâng lên, lây sang người khác.
Vì vậy, có người dễ nổi nóng đã cảnh báo: "Thấy tôi ‘khó ở’ là tránh xa xa giùm, không ăn mắng ráng chịu". Theo đó, người nóng lâu ngày họ cũng biết tính khí của mình nên có "chống chỉ định" chuyện nói đùa, tiếp xúc lúc họ đang không vui, căng thẳng. Thực ra, khi quá mệt mỏi, phiền muộn trong lòng, ta không còn giữ được mình.
Có người bạn của tôi bình thường hiền queo, ai nói gì cũng cười. Bỗng một ngày, tôi hỏi "sao buồn dữ rứa?" lại bị bạn nạt cho một câu nghe chưng hửng. Trời, bạn mình đây sao? Mới đầu tôi phản ứng vậy, nhưng chợt dừng lại vì nhớ ra, đây không phải là bản chất của bạn. Có thể bạn đang có một nỗi niềm, áp lực từ cuộc sống, gia đình, tình yêu hoặc bản thân đang trải qua bệnh tật, sự cố…
Ai cũng có lúc nóng giận, nếu mình hiểu thì sẽ không khiến ngọn lửa trong họ cháy phừng. Tôi im lặng và không bỏ mặc, cuối cùng cũng nghe được thổ lộ từ bạn. Bạn bị nhiều áp lực trong công việc: sếp chèn ép, đồng nghiệp tìm cách chơi khăm, lương không cao, phải chật vật trang trải cuộc sống…
Tất nhiên, nhiều người khó khăn hơn nhưng họ không nổi nóng. Đó là tính cách và sức chịu đựng của từng người. Sự nóng tính là một thói quen được huấn tập hằng ngày theo nguyên lý:
"Thói quen tạo nên tính cách, tính cách tạo nên số phận".
Vì thế, các chuyên gia tâm lý khi chia sẻ với tôi về thói vũ phu của chồng vẫn thường lưu ý, có thể anh ấy từng bị bạo hành lúc nhỏ, từng sống gần những gia đình lớn tiếng, ồn ào đánh cãi nhau như cơm bữa.
Sự tác động của cuộc sống xung quanh lên tính cách con người theo hướng đó được ông bà xưa đúc kết rằng "gần mực thì đen". Cái đen đó cần có thời gian thanh lọc để dần trắng, nhưng nếu vẫn tiếp tục nuôi dưỡng trong môi trường đen hơn thì sẽ đen đậm hơn.
Ngày nay các văn hóa phẩm mang tính bạo lực vẫn đầy rẫy trên mạng và tồn tại trong cuộc sống, giải trí của nhiều người: từ game online đến phim ảnh. Thường ngày tiếp xúc với sự đánh đấm, máu me trong các "thức ăn tinh thần" đó khiến não quen với những "mùi vị" của bạo lực, từ đó hành xử theo.
Những kẻ "giang hồ mạng" được ngưỡng mộ và thu tiền trăm triệu cũng chính là một "hình tượng" khiến người ta thay đổi suy nghĩ: cần gì học hành, tử tế, chỉ cần có "số má" là có thể lên đời.
Môi trường bên ngoài đã vậy, trong nhà trường, gia đình cũng đầy mầm mống bạo lực, tránh sao người trẻ không hoang mang và hành xử theo cách tương tự. Đây mới là điều đáng lo, và người lớn muốn thay đổi không khí bạo lực lan tràn thì chính bản thân phải nỗ lực để ứng xử nhẹ nhàng với nhau trước.
Nhẫn để yêu thương
Không thể có kết cục tốt với những người nóng nảy. Nhân vật Trương Phi trong Tam Quốc Chí là hình mẫu của nóng tính dẫn đến hư sự và mang họa sát thân. Ai cũng nóng nảy trong hành xử thì chiến tranh sẽ nổ ra, thương vong là tất yếu.
Một câu nói đùa cũng thành chuyện lớn vì con người ta quá nóng, quá hung dữ; đi nhậu lo hát karaoke cũng bị đánh chết thì… ôi thôi, cuộc sống quá kinh khủng. Pháp luật cần nghiêm minh để trừng trị việc vô cớ đánh, giết người nhưng đó là xử lý phần ngọn, còn cái gốc vẫn là giáo dục.
Làm sao để con người có thể chậm lại để phân tích kỹ hơn từng câu nói, từng biểu hiện của người khác, trong đó có thân nhân, bạn bè mình để không chụp mũ rồi hành xử như người điên, người say?
Sống thiền hay bình tĩnh sống, sống chậm, sống có chánh niệm… là những cách sống theo tinh thần "nhẫn để yêu thương". Đầu tiên là thương mình. Một người chỉ được người khác tin tưởng, nể trọng và giao việc khi có sự chín chắn, điềm tĩnh trong xử lý. Như vậy, người sống có lý trí, điềm tĩnh chính là cách sống lợi lạc tự thân.
Còn cái lợi cho người xung quanh, nhất là người thân - thương thì cũng dễ dàng để thấy. Con cái sẽ học được nhiều điều hay ho từ bố mẹ có cách sống nhẹ nhàng, tình cảm. Đó mới là gia tài quý giá để lại cho con.
Hành xử nóng tính dẫn tới hư việc, hại người thì vòng lao lý chờ mình là chắc chắn. Một khi đã gây ra sự cố mới hối thì đâu còn kịp. Nhiều người bình luận thiếu niên 16 tuổi rút dao đâm chết người nhắc mình chuyện chạy xe chính là "anh hùng rơm", chứng tỏ với bạn gái nhưng rồi được gì sau lần ra tay đó? Tù tội và có thể mất luôn bạn gái.
Ai đợi và ai chấp nhận một người giết người làm người yêu, người chồng, người cha tương lai?
Thực ra, sân si - ai cũng có. Cái chính là cách quản lý năng lương tiêu cực đó để những năng lượng tích cực phát triển. Để làm được điều đó, phải xây dựng lối sống nhân văn từ chính mỗi gia đình, người lớn dạy trẻ nhẫn nhịn để an lành như ông bà mình nhắc "một câu nhịn chín câu lành".
Một người rất yêu các loài cây và hoa đã trồng một loại nho quý ở bờ tường. Cây nho mọc rất khỏe, nhưng chẳng bao giờ thấy có hoa quả gì cả. Hàng ngày, người đó cố gắng chăm sóc, tưới nước cho cây nho, nhưng vẫn chẳng bao giờ thấy kết quả.
Một buổi sáng, khi người trồng cây đang thất vọng đứng nhìn cây nho của mình thì người hàng xóm chạy sang, tay cầm một giỏ nho rất lớn. Người hàng xóm hào hứng kéo người trồng cây sang phía nhà mình:
- Anh không thể tưởng tượng nổi là tôi thích cây nho này đến mức nào đâu! Anh có thể lấy bao nhiêu nho về ăn cũng được, vì chúng là của anh mà! Nhưng tôi muốn nói rằng tôi biết ơn anh rất nhiều khi làm cho khu nhà của tôi đẹp hẳn lên như vậy!
Người trồng cây tròn mắt ngạc nhiên khi thấy bên kia bờ tường, cây nho ra rất nhiều hoa và quả – hết sức rực rỡ.
Cũng vậy, khi chúng ta nghĩ rằng những nỗ lực của mình là vô ích vì chúng ta không nhìn thấy kết quả. Nhưng những cố gắng không bao giờ là vô ích. Chúng tạo ra kết quả ở một nơi nào đó, vào một thời điểm nào đó, mà chắc chắn chúng ta sẽ thấy và được hưởng hương vị ngọt ngào!
Ngày 11/9/2001, cùng một lúc, tại các khu vực khác nhau, 5 máy bay hành khách của Mỹ bị những kẻ khủng bố al-Qaeda cướp để thực hiện cuộc tấn công vào các mục tiêu đông người mang tính biểu tượng của Mỹ.
Hai trong số 5 máy bay đó đã được những phi công khủng bố lái đâm thẳng vào toà tháp đôi Trung tâm thương mại thế giới tại New York, đánh sập cả hai toà tháp. Gần 3.000 người dân vô tội bị giết chết một cách dã man, hơn 6.000 người bị thương.
Tôi là người hàng không. Một số bạn bè khi đó nói với tôi rằng an ninh hàng không Mỹ quá kém, phòng không Mỹ quá kém nên để xảy ra vụ khủng bố thảm kịch này. Tôi bảo họ, không phải thế. Sự độc ác, tàn bạo của những kẻ khủng bố ngày 11/9 đã vượt quá khả năng tưởng tượng của loài người trước đó. Không một ai trên thế giới, kể cả những người làm việc trong các cơ quan hàng không, phòng không Mỹ, có khả năng tưởng tượng và lường trước được cách thức, mức độ khủng bố độc ác, tàn bạo đến như vậy của một số kẻ được gọi là người.
Ai tưởng tượng được một kẻ có học hành, lái được máy bay, lại dám cầm lái điều khiển một chiếc máy bay với hàng trăm hành khách là người dân vô tội ở sau lưng lao thẳng vào một tòa nhà nơi đang có hàng chục nghìn người dân vô tội đang làm việc? Một số kẻ chán đời có thể tự tử, một số kẻ mù quáng có thể giết người theo kiểu cảm tử, nhưng mà bằng cách đó, với mức độ độc ác, tàn bạo đến như thế thì trí tưởng tượng phong phú nhất của loài người cũng không đạt tới. Con người chỉ có thể đề phòng những gì con người có thể tưởng tượng được.
Ngày 17/7 vừa qua, việc chiếc máy bay mang số hiệu MH17 của Malaysia Airlines bị tên lửa bắn rơi trên bầu trời Ukraine, giết 298 người, trong đó có 80 trẻ em, có một gia đình 3 người Việt Nam, làm người dân trên cả thế giới sửng sốt và phẫn nộ. Họ, 298 người này, không hề có mối liên quan nào với tranh chấp lãnh thổ và quyền lực ở Ukraine, với các "bên có lợi ích" trong tấn bi kịch mang tên "Ukraine". Họ là những người dân vô tội bị giết hại.
Điều đáng tiếc trong thảm họa MH17 là nó và nhiều máy bay thương mại khác của nhiều nước bay qua khu vực đang có chiến sự. Các cơ quan không lưu không phải đã không nghĩ gì về các rủi ro cho các máy bay dân sự bay qua khu vực này. Họ đã cấm các chuyến bay dưới 9.700 mét, có nghĩa là họ đã nghĩ đến khả năng bên nào đó có thể vô tình hoặc cố ý bắn máy bay dân sự. Nhưng họ mới tính đến các vũ khí có "tầm với" dưới 9.700 mét. Họ không hề nghĩ đến các loại vũ khí có khả năng tấn công máy bay ở độ cao vài chục km. Họ biết các loại vũ khí như thế, nhưng không đưa chúng vào các tính toán rủi ro hàng không. Đây có lẽ là một sự bất cẩn. Khi có chiến sự trên đất hay trên biển, cả bầu trời ở vùng đó với độ cao vài chục km cũng không thể đủ an toàn cho các máy bay dân sự nữa. Các loại vũ khí hiện đại ở trong tay các bên, không ai có thể kiểm soát được. Chỉ là một cái bóp cò hay ấn nút...
Trí tuệ con người đã phát minh ra nhiều loại máy móc. Con người đã đưa được xe tự hành lên mặt trăng, sao Hỏa, chụp ảnh các thiên hà cách trái đất hàng triệu năm ánh sáng. Con người chế tạo được tàu lặn có thể lặn sâu hàng km để đo đáy biển. Con người biết cách tạo ra máy móc đo "lòng trời", "lòng biển", "lòng đất", nhưng chưa bao giờ biết cách tạo ra máy móc đo được "lòng người".
Sau vụ 11/9, chúng ta cần phải thừa nhận rằng một số kẻ được gọi là người có thể độc ác, tàn bạo hơn mọi khả năng tưởng tượng của trí tuệ người. Chúng thật ra là quỷ, nhưng sống lẫn với người, mang mặt người. Mọi sự cảnh giác với chúng và phòng ngừa chúng đều không thừa, kể cả trong các hoạt động hàng không.
Gần 100 năm nay, ngành hàng không nỗ lực tạo ra sự gần gũi, thân thiện với hành khách. Đã có những lúc nhiều hãng hàng không quy định việc mở cửa buồng lái để hành khách nhìn thấy phi công và hiểu hơn công việc của họ, yêu cầu phi công sau khi bay ra chào hỏi, chuyện trò vui vẻ với hành khách, thậm chí cho phép một số hành khách vào xem buồng lái. Các hãng hàng không cố gắng đưa những dụng cụ ăn uống, sinh hoạt gia đình lên máy bay để phục vụ hành khách. Vụ 11/9 đã xóa sạch tất cả những nỗ lực đó của ngành hàng không thế giới, thay đổi vĩnh viễn các dịch vụ hàng không, đặt yêu cầu về sự thân thiện rất thấp so với các yêu cầu về an ninh, an toàn hàng không. Chỉ vì một lý do: giữa loài người còn có quỷ sống lẫn và chưa có máy móc nào có thể giúp phát hiện ra chúng mọi lúc, mọi nơi.
Phiên tòa chưa khại mạc mà không khí trong phòng xử án căng thẳng như dây đàn. Thiên hạ đồn người sẽ ngồi ghế chánh án hôm nay là cụ Thư, một người nổi tiếng uyên bác, nghiêm khắc, công tâm, bao nhiêu năm ngồi tòa áo đen áo đỏ( Tòa tiểu hình và toà thượng thẩm đại hình)chưa hề xét xử oan sai. Hàng mấy trăm con người chen chúc trong căn phòng nhỏ, không gây một tiếng động. Mọi người náo nức chờ xem, giống như đợi mở màn coi hát. Tám giờ đúng, một hồi khuông lanh lảnh reo vang, thường các tội nhân hình sự nghe như tiếng chuông gọi hồn. Một người mặc áo tô(toge), loại áo dành riêng cho quan tòa. Áo tô là áo choàng dài may bằng vải đen, với dải vải dài vắt qua vai lòng thòng trước ngực, đầu có tấm lông thỏ trắng, cổ áo có mảnh vải gấp nhiều nếp màu trắng, giống như áo thụng đen linh mục. Chiếc áo làm cho ông tòa hóa thành một người có uy, trang nghiêm, ai thấy cũng ngán. Mọi người đồng loạt đứng lên kính chào tòa. Phiên tòa hôm nay chỉ là phiên tiểu hình, tuy chẳng phải phiên đại hình, nhưng lại rất đông người hiếu kì tới xem.
Thế nhưng hôm nay, chỉ là phiên xử sơ thẩm hình sự, một vụ án bình thường, không hứa hẹn gì cả, ấy chỉ là một vụ bắt phạm gian ( ngoại tình) thế nhưng nhiều người kéo nhau đến tòa rất sớm chờ nghe tòa xử, vì những nhân vật liên quan đều là hạng” tai to mặt lớn” ở cái thành phố tí hon nầy. Mấy chị kề tai nhau nói nhỏ:” Đi xem kiểu nầy còn khoái hơn là mua vé coi cải lương!” Mấy chị bán hàng ở chợ Đầm cũng liều bỏ một buổi chợ đi coi cho mãn nhãn.
Cụ chánh án đã suy nghĩ chán chê, cân nhắc rất nhiều yếu tố tâm lý, chính trị, xã hội mới quyết định đem xử công khai vụ án nầy. Một vụ án ngoại tình, đầy tính chất dâm ô trụy lạc của lớp người thượng lưu trí thức, thành phần ưu tú trong xã hội. Nếu để cho dân chúng trông thấy bộ mặt thật của giai cấp thượng lưu, e có bôi bác chế độ không? Nhưng cuối cùng ông vẫn quyết định cho xử công khai. Tin nầy làm cho dân chúng náo nức tới xem chật tòa, và ai cũng muốn đến sớm để được ngồi mấy hàng ghế trên để xem và nghe cho rõ.
Trước tiên là nàng Annakarênina (Một nhân vật tiểu thuyết cùng tên, vụ ngoại tình trứ danh của nền văn học thế giới) Thường gọi là bà bác sĩ Quỳ, nhũ danh Nguyễn thị Thùy Dung bước lên. Nàng cỡ ngoài ba mươi, trắng trẻo mập mạp, ngon như khúc giò heo tươm mỡ và đẹp như một đóa hoa vào buổi mãn khai. Hôm nay nàng mặc trang phục toàn đen giống như người ta đi dự đám tang, song nhìn kĩ không phải thế. Nàng vẫn son phấn điểm trang rất kĩ lưỡng song kín đáo hơn ngày thường một tí thôi. Nàng khoác chiếc áo dài đen, may bằng thứ hàng gì không biết, giống như những dãi đăng ten đen nối lại, hoặc giống như thứ hàng rất mỏng người ta thường dùng may màn cửûa, áo để lộ bóng da thịt mờ mờ thêm phần hấp dẫn. Nàng có hai luật sư bênh vực, một nam một nữ. Nữ luật sư thì nói:” Cái ấn tượng ban đầu rất là quan trọng, chị nên ăn mặc thường thôi, sang trọng quá người ta không mấy cảm tình…” Ông luật sư lại có quan điểm trái ngược:” Ông Tòa thì cũng là đàn ông. Đàn ông ai cũng thích ngắm người đẹp. Cứ diện vào ăn mặc luộm thuộm, mặt mày làm bộ ủ dột, đầy nước mắt, làm người ta chán. Không cần ai thương. Chẳng cần phải hành xác và thi hành cái gọi là khổ nhục kế nầy. Cứ diện vào, còn thái độ cứ tỏ ra bình thường. Tội nầy tuy là tội hình song chẳng tù tội gì đâu bất quá phạt vạ là cùng ï! ” Trước hai lời khuyên đối nghịch nhau nàng Anna, vốn kiêu hãnh về nhan sắc mình nên ngã sang phía ông luật sư, nàng vẫn chưng diện và dẹp khuôn mặt sầu não, nàng tỏ ra tỉnh bơ. Nàng bước lên trả lời mấy câu về lí lịch, mặt hơi nghếch lên, chẳng sợ sệt e dè gì cả, nàng còn cả gan liếc xéo xuống đám khán giả, có vẻ thách thức.
Cử chỉ này làm cho con mụ Bầu, một vị khán giả ngồi hàng ghế đầu, nhờ dậy sớm, thường ngày nấu cơm cho chồng con ăn, song hôm nay vì nôn đến tòa nên ra đầu ngỏ mua mấy gói xôi bắp cho chồng ăn đạp xích lô, và mấy đứa con ăn đi học. Mụ vội vàng cắp nón đến tòa khi hai cánh cửa lớn của tòa án còn đóng im ỉm. Mụ Bầu kề sát tai chị Lê hàng xóm nói:” Ngó cái bộ dạng con đ… bắt phát ghét! Đồ cái quân…” Mụ ta tính nói một câu rất tục song chợt nghĩ mình đang ngồi trong tòa án, chỗ công đường trang nghiêm không phải nơi cái hàng rau quả của mụ ở giữa chơ mụ kịp dừng lại.
Nhân vật thứ hai xuất hiện. Ông bác sĩ Quỳ, ông tuy là bác sĩ giỏi, song lại có năng khiếu kịch nghệ bẩm sinh. Ông đóng vai người chồng bị cắm sừng rất đạt, không thua kém bất cứ nghê sĩ cải lương nào. Trông ông chẳng khác gì lão Stepanovich chồng của Anna, một người đàn ông ở tầng lớp thượng lưu quí tộc bị vợ phản bội, một ông già khả kính và đáng thương. Nét mặt ông bác sĩ Quỳ nhăn nheo, trắng xanh nhợt nhạt và trong như một pho tượng đầu người gọt bằng củ cải. Ông làm bộ cứng cỏi một cách đáng thương. Hai vợ chồng đứng cạnh nhau mà thấy như ngàn trùng xa cách. Ôi còn đâu hình ảnh hai anh chị tay trong tay dưới chân thánh đường chụp tấm hình lớn trong ngày cưới. Tấm hình rọi lo lồng kính treo ở phòng khách. Nhìn hình ảnh anh chồng thểu não khiến cho ông Thầy Sáu Đậu có sách Thọ Mai, ngồi ở cuối phòng lên tiếng bâng quơ :
- Thời buổi…Thiệt tình…!
Thầy Sáu thở dài ảo não buồn bã giống như đã tới ngày tận thế, thời suy quỉ lộng! Có tiếng thanh niên hỏi:
- Thiệt tình, là thiệt tình cái chi” cha nội”?
- Đờn bà thời nay tam tòng tứ đức bỏ đi đâu? Chồng con như rứa mà…
Lại có tiếng một ai đó bình phẩm:
- Cô vợ ngó phây phây, còn anh chồng hom hem quá, làm sao kham cho nổi, tránh sao khỏi cái vụ đó? Phải ”nhân đạo” với đờn bà chớ?
Người đứng ra kêu gọi phải ”nhân đạo với đờn bà” là chị Liên bán hàng ở chợ, ngày thường chi ta bán cá khô mắm ruốc, nói thách rất ác. Ngày rằm bán tương chao, nói sao bán vậy không hề nói lên một xu. Mấy người ngồi chung quanh chẳng đồng tình vơi lối ”nhân đạo” ác ôn ấy. Thầy Sáu thấy xu hướng chung nghiêng qua quan điểm lên án phụ nữ của mình, thầy tiếp:
- Tào khang là cái nghĩa trọng. Phàm con người ta ăn ở đời…
Chị Liên không đợi cho ông thầy thuyết dứt câu nhơn nghĩa cũ mèm, cướp lời nói:
- Ai biểu già rồi còn đèo bòng lấy cho được vợ trẻ? Nó cắm sừng cho đáng kiếp! Chọn vợ già vợ xấu thì đâu đến nỗi? Đúng lúc đó người cảnh sát giữ chức thừa phát lại hô to:
- Lê văn Tình !
Kỹ sư Tình đứng đậy bước lên. Nhiều tiếng xí xồ, người ta đổ xô nhìn nhân vật thứ ba. Anh chành Vrônsky đẹp trai quyến rũ nàng Anna. Có người bình:
- Đẹp trai quá! Trẻ quá! Giống tài tử Hàn quốc, thấy như con trai ông bà bác sĩ.
Lại có người bình phẩm:
- Cái tướng anh nầy ngó lấc cấc quá!
Ông thầy Sáu Đậu lại lên tiếng:
- Tui chẳng hiểu con mắt của mấy chị đờn bà ra sao. Chớ theo tui thì tui chọn anh chồng. Anh nầy trông đàng hoàng đĩnh đạt hơn thằng tình nhân cà chớn nầy nhiều!
Một ông ngồi gần thầy nói:
- Đàn bà họ cần gì đang hoàng đĩnh đạc, họ cần thứ khác, họ cần…
Chị vợ đứng cạnh véo mạnh vào sườn chồng, nói:” Liệu hồn ông! Chốn công đường ăn nói tục tỉu người ta gông đầu cho bây giờ!”
Tòa bắt đầu tiến hành thủ tục xét xử. Trước tiên là nghe đọc biên bản bắt phạm gian, biên bản này do ông thừa phát lại lập. Cả ba người cúi đầu lắng nghe biên bản. Mỗi người suy nghĩ theo một cách và nói chung thì cả ba đều không bằng lòng về cái biên bản bắt phạm gian này tí nào. Nàng Thùy Dương rất tức lão già lập biên bản. Hắn ghi sai bét. Hắn viết:”…Khăn trải giường nhăn nhúm một khoảng ở giữa. Nệm và gối còn hơi ấm của người nằm…” Sự thực thì hôm đó chẳng phải thế. Kĩ sư T và chị không hề đặt lưng lên giường, làm gì có hơi ấm? Mùa nầy trời nóng lắm, phòng chẳng có máy lạnh. Chính giữa phòng chỉ có cái quạt trần hư, mở cũng không chịu quay. Cả hai nằm trên nền nhà tâm sự cho đỡ nóng. Về hiện tượng khăn trải giường nhăn một khoảng, không phải tại người nằm lên lăn lộn mà vì anh Tình đứng lên giường dùng cây chổi đẩy cánh quạt cho nó quay nhưng cây quạt hư từ lâu rồi. Như thế khi lập biên bản thằng cha thừa phát lại chỉ muốn tỏ ra cho tòa biết hắn có học qua khóa hình pháp học. Có con mắt quan sát. Riêng việc chiếc gối và chăn lệch, cũng chẳng phải cả hai nằm lên giường và lăn lộn. Nó lệch chỉ vì nàng nhét cái ví dưới gối rồi sau đó dở gối lên lấy ví để lấy khăn tay, son, phấn điểm trang lại. Số là trước đó hai người có kéo nhau tới quán bánh bèo mụ Ngự ăn, nước mắm cay lắm làm cho nàng đổ mồ hôi và son phấn phai nhạt, giờ đây vào phòng ngủ nàng lấy son phấn và gương ra soi lại. Cũng chỉ vì cái việc đi ăn bánh bèo mụ Ngự mà lộ chuyện. Vậy cái biên bản nhận định vết nhăn và chăn gối xô lệch là hoàn toàn sai lầm.
Bác sĩ Quỳ tuy là nạn nhân song cũng rất bất bình về tờ biên bản này. Ai đời lão thừa phát lại làm như suốt ngày suốt đêm nằm dưới giường vợ chồng ông để đếm.
Hắn viết ”…đương sự- chỉ bác sĩ Quỳ- hồi 21 giờ 8 phút, tới văn phòng báo cho thiểm chức( Cấp dưới xưng với cấp trên) rằng chính y trông thấy vợ mình và tên Tình kéo nhau vào phòng ngủ Kim Anh. Ngòai ra đương sự khai, nhiều năm rồi đương sự không còn chung đụng với vợ nữa…” Bác sĩ Quỳ cho rằng viết như thế là quá đáng ! Dù ông ta có dở cách mấy đi nữa thì một người đàn ông 60 như ông ít nhất một tháng cũng được một đôi lần. Sao hắn lại nói nhiều năm chẳng có lần nào? Nói như thế là xúc phạm tự ái ông một cách thậm tệ!
Kỹ sư Tình cũng chẳng chút bằng lòng với nội dung tờ biên bản. Lão viết”…thiểm chức, nhân danh pháp luật gọi cửa nhiều lần, ở trong chẳng chịu mở. Thiểm chức xông vào, tên Tình chống cự. Thiểm chức phải dùng võ công chế ngự tên Tình…” Cái lão nầy thực láo toét !. Tướng tá hắn giống như đồ ho lao. Người như hắn anh chấp bốn tên. Thế mà hắn dám nói dùng võ công chế ngự anh.
May cho hắn, nếu hắn biết anh đã từng bỏ công học môn Karatedo hơn 15 ngày thì hắn đã không dám nói dốc!
**
Cụ chánh án gỡ đôi mục kích xuống nhìn cho rõ ba con người. Cụ nhìn, cặp mắt cụ gay gắt thế nào mà cả ba người thấy như bị lấy giấy nhám mà xát lên da thịt. Cụ lên tiếng chậm rải hỏi nàng Dung:
- Chị có hôn thú với ông bác sĩ Quỳ này không?
Nàng Dung không dám nhìn thẳng, đáp:
- Kính thưa quan tòa dạ có.
Cụ chánh án hỏi tiếp:
- Chị không có hôn thú với anh kĩ sư Tình phải không?
- Dạ không.
Cụ chánh án chỉ tay về ông bác sĩ Quỳ, hỏi:
- Chị có hôn thú với ông nầy mà hôn không thú phải không?
- Thưa phải
Cụ chỉ tay về anh kỹ sư Tình, hỏi:
- Chị không có hôn thú với anh chàng này mà hôn thú phải không?
- Thưa, dạ phải!
Nàng Ana Karénina Nguyễn Thị Thùy Dung, nghe cái gì cũng “thu thú”ù, mặc dù không nghe rõ lắm cũng cứ “dạ phải”
Cụ chánh án gật gù nói như ngâm nga:” Có hôn thú mà hôn chẳng thú. Không có hôn thú lại hôn thú ! Lạ thật …” Cả tòa cười ồ. Không khí phiên tòa nhẹ hẳn giống như cất được hòn đá nặng nghìn cân. Ai cũng nghĩ cụ chánh án quả đúng là con người quyền biến, biết hài hước trong bất cứ hoàn cảnh nào. Đúng là bản lĩnh của người cả một đời lăn lộn trong trường áo đỏ áo đen ./.
Cổ nhân ta vẫn thường nói tới chu kỳ kín của đời người “Sinh, Lão, Bệnh, Tử.”
Vâng: có sinh thì có tử, nhưng “sinh thì hữu kỳ, tử thì vô hạn.” Nặng bụng cưu mang chín tháng mười ngày là biết rằng con sẽ “nhập thế cuộc,” chào đời. Còn mặc áo mới vĩnh viễn ra đi thì chẳng biết khi nào, ra sao.
Sinh ly, tử biệt. Vào đời là tạm thời chia ly với cơ thể người mẹ. Rời khỏi cuộc đời là tạm biệt với nhân gian.
Hẹn lại cùng nhau gặp ở “cõi thật xa”; Niết Bàn, Thiên Ðàng, Aara, Elysium, Soma, Jahannan...Hoặc Ðịa Ngục để mặt đối mặt với Diêm Vương, luận tội kể công.
Với thân xác, bệnh tật thì học giả Ngô Tất Tố đã thoát dịch bốn câu thơ của vua Trần Thái Tôn như sau:
“Cũng bởi có thân mà có bệnh
Ví bằng không xác quyết không đau.
Phép tiên chớ vội khoe không chết,
Thuốc thánh còn chưa chắc sống lâu.”
Chưa chắc sống lâu thì có ngày phải biệt tử.
Mà Voltaire đã nói, “Lúc ta chào đời là đã một bước đi về cõi chết.” Ðúng chăng là con người bắt đầu chết ngay từ lúc sinh ra và trong chu kỳ kín, cái kết cuộc nối liền với khởi điểm.
Guillaume Amerye (Abbé de Chaulieu) thì rõ ràng hơn, “Cái chết chỉ là sự kết thúc cuộc đời; Nỗi thống khổ, niềm sung sướng không cùng mang theo.” Với Napoleon Ðại Ðế, “Chết là giấc ngủ không mơ” và Shakespeare, “Kẻ nào chết rồi là sạch nợ.”
Nói vậy thì chết cũng đơn giản như sinh, đôi khi ồn ào, lộn xộn hơn.
Có người đã ví sự chết của cơ thể như sự tắt của một nhà máy với những động cơ, giây điện. Nhà máy không im lặng ngưng hoạt động khi ta ngắt nút kiểm soát tắt mở mà mọi bộ phận còn cót két rên rỉ kêu trong khi chậm lại rồi ngưng.
Ngoại trừ bất thần chết vì tai nạn, thương tích hoặc cơn dột quỵ suy tim, cơ thể cũng cót két, rên xiết trước khi sự sống hoàn toàn ngưng.Vì thế Dylan Thomas có nhận xét rằng, “Chúng ta không nhẹ nhàng đi vào tử biệt mà thịnh nộ, nổi khùng trước sự tắt lịm của ánh sáng.”
Nhưng có người tin rằng ở nội tâm thì lại bình an. Tuy ồn ào nhưng sự chết luôn luôn xác thực. Nhiều người đã tìm được bình an và chân giá trị trong sự xác thực này.
Tư Mã Thiên có ghi, “Nhân cố hữu nhất tử: Tử hoặc trọng ư Thái Sơn, hoặc khinh ư hồng mao.(nguoi` ta chac chan’ phai chet, hoac chet nang nhu nui’ Thai son, hoac nhe nhu lo^ng con chim Ho^ng`)” Do đó mới có nguời khi đối diện với tử thần thì sợ hãi, phủ nhận, cô lập, giận dữ rồi năn nỷ điều đình để rồi cuối cùng cũng phải chấp nhận. Vì số trời đã định.
Y giới thường được huấn luyện để cứu chữa bệnh nhân và kéo dài sự sống trong đó họ đạt được phần thưởng về tinh thần cũng như tài chánh. Nhưng khi không ngăn chặn được sự chết thì họ hết hứng thú và thường chuyển sang đối tượng khác. Và nguời bệnh đôi khi bị quên lãng, đơn độc ra đi trong tình cảm gia đình, tôn giáo.
Mà ra đi thì xác còn đó, hồn đi đâu, chẳng ai hay. Cho nên Shakespeare đã ví, “Chết chỉ là một cuộc du lịch nhưng chẳng ai quay trở lại. (chi co ong jesus quay tro lai, nhung lai bay len troi` song’ tren quy~ ddao trai’ da^t’)” Ðể nói cho nhau biết chết ra sao, như thế nào, và bên kia vui hay buồn, thái bình hay binh đao, độc tài hoặc dân chủ...Chẳng ai “báo cáo” nên người tiễn đưa phải suy luận, tìm hiểu về người ra đi. Ði như thế nào, lúc nào, ra sao.
Từ nhiều thế kỷ, chết được hiểu như là khi con người mất hết các chức năng sống: tim ngừng đập vĩnh viễn, hơi thở không còn. Nhưng khi nào thì mạng sống đó được coi như là không còn sống. Ðó là điều mà giới y, luật gia, triết nhân, các vị học giả, thường dân, người làm chính trị đã và đang ồn ào, hăng say thảo luận, góp ý.
Vì tạm thời tim ngưng đập, hơi thở gián đoạn khoảng 6 phút mà các bộ phận sinh tử chưa bị tổn thương, con người tưởng như đã mãn phần thì y học hiện đại đã phục hồi được các chức năng và cứu sống nhiều người.
“Vì vậy tiêu chuẩn não-tử (brain death) được thêm vào.
Não là trung tâm của hệ thần kinh.
Cuống não kiểm soát các chức năng duy trì sinh lực của các cơ quan, bộ phận.
Não trên điều hòa ý nghĩ, trí nhớ, tình cảm con người.”
Năm 1968, Ðại Học Y Khoa Harvard đề nghị bốn tiêu chuẩn cho não tử:
a. Không đáp ứng với cảm giác sờ mó, âm thanh và các kích thích ngoại vi;
b. Không còn cử động và không còn hơi thở tự phát (spontaneous breathing);
c. Không cón tác động phản xạ.
Phản xạ (reflex) là một sinh hoạt tự động hay không chủ ý do một vòng thần kinh tương đối đơn giản gây ra mà không nhất thiết liên quan tới ý thức. Chẳng hạn khi dùng kim chích nhẹ vào tay một người, thì kim đau sẽ gây ra cử động phản xạ tự vệ tức thì để rút ngón tay lại trước khi não có thời gian gửi cảm giác đau tới các cơ quan liên hệ
d. Không còn ký hiệu não điện đồ hoặc bất cứ hoạt động điện năng nào từ tế bào não.
Từ năm 1929, bác sĩ thần kinh tâm trí người Ðức Hans Berger đã khám phá ra là não bộ có những luồng điện phát ra trong khi não hoạt động. Nhưng khi đó không ai tin. Phải đợi tới khi nhà bác học người Anh Edgar Adrian cụ thể chứng minh được sinh hoạt điện năng này của não thì mọi người mới chấp nhận và Edgar được Nobel Prize vào năm 1932 cùng với Sir Charles Sherrington nhờ kết quả việc nghiên cứu này.
Ngày nay nhiều máy móc tối tân đã ghi nhận được các sinh hoạt điện năng của não bộ với các sóng alpha, beta, delta, theta. Rồi lại còn MRI, PET scan ghi lại các tín hiệu cũng như thay đổi hóa chất của não khi nghỉ cũng như khi làm việc.
Trong tương lai gần đây, chắc là các ý nghĩ thầm kín của ta cũng sẽ được máy móc tìm ra, đọc được.
Tiêu chuẩn não tử của Ðại Học Harvard cũng không được mọi giới công nhận là một thử nghiệm để kết luận sự chết. Mỗi quốc gia có những tiêu chuẩn khác nhau.
Từ năm 1981, Hoa Kỳ định nghĩa chết như sự ngưng không đổi ngược của toàn bộ não kể cả phần cuống là nơi điều hòa hô hấp, tuần hoàn và các chức năng khác.Và về pháp lý, các điều kiện trên phải kéo dài sau 12 giờ.
Khi còn ở trong tình trạng thực vật (vegetative state) thì cuống não còn hoạt động và tiếp tục giúp hoàn thành sự hô hấp, tuần hoàn và vài nhiệm vụ khác; nhưng phần não trên điều hòa sự suy tư, thu nhận cảm xúc không còn nữa.
Khi rơi vào tình trạng permanent vegetative state là tình trạng không có ý thức vĩnh viễn, không đổi ngược trong đó không có cử động tự ý hoặc bất cứ khả năng nhận biết nào; không còn khả năng chủ ý truyền đạt hoặc tương tác với ngoại cảnh. Người bệnh đôi khi rơi vào tình trạng nhìn theo mà không còn biết gì (coma vision).
Cho nên rơi vào não tử thì ít khi thoát lưỡi hái tử thần dù có cấp cứu tiến bộ tinh vi; tình trạng thực vật vegetative lại vẫn còn nhờ sự toàn vẹn của cuống não để điều khiển một số chức năng của cơ thể cho nên có thể kéo dài sự sống vật vờ cả nhiều năm...
Tử biệt
Maria được Chúa cho tuổi thọ 94, kéo dài sự sống được 10 năm sau khi người chồng thân yêu của bà bình an vĩnh viễn ra đi trong một cơn stroke vào ban đêm. Từ đó bà ở với con này con kia mỗi nơi một vài tháng, nửa năm để bớt đơn côi.
Bà tương đối vẫn mạnh khỏe ngoài vài bệnh thông thường của tuổi già, rất siêng năng lần hạt mân côi và luôn luôn liên lạc, khích lệ con cháu trong sự nghiệp, bổn phận đối với gia đình và xã hội.
Mấy tháng gần đây, bà cảm thấy trong người như không được khỏe cho lắm và bà được đưa vào điều trị tại bệnh viện hơn một tuần rồi xuất viện, về nghỉ ngơi theo dõi bệnh tình ở Skill Nursing Facility do các nữ tu dòng Franciscan tổ chức có nhân viên tận tình chăm sóc. Bà enjoy nếp sống ở đây, tham gia tất cả các sinh hoạt, vui vẻ với mọi người. Bà luôn luôn điện thoại cho con cháu xa gần, khoe là bà cảm thấy hạnh phúc sung sướng lắm.
Rồi một đêm, người nhà được thông báo là bà cảm thấy trong người mệt mỏi, ngực hơi đau, khó thở, đầu hơi choáng váng và được đưa vào phòng cấp cứu. Bà yếu dần, nằm mấy ngày, rồi nhẹ nhàng ra đi trước sự chứng kiến của các con. Bà đã được gọi về nước Chúa, sau khi đã được chịu các phép bí tích của giáo hội.
Trong khi đó, sự ra đi của Lão Tam, một người thân quen trong gia đình, lại có tính cách kinh điển hơn.
Lão được Trời ban cho tuổi thọ gần bát tuần. Ông tương đối vẫn mạnh khỏe, không bệnh kinh niên, không phải dùng thuốc gì, ngay cả Tam Tinh Hải Cẩu hoặc nhân sâm, cao hổ cốt...
Nhưng từ nửa năm nay, Lão thấy sức khỏe mỗi ngày mỗi giảm. Lão không còn sinh lực như mấy năm trước, ít quan tâm tới mọi sự chung quanh, đôi khi muốn xa lánh mọi người. Khẩu vị giảm, nhai nuốt khó khăn và ông thấy thực phẩm là không cần thiết. Ông rất sợ khi người thân ép uống súp, ăn thịt, chỉ sợ bị nghẹn, ói. Có những ngày ông ngủ li bì, như để tiết kiệm sinh lực cho những chức năng quan trọng.
Ông bồn chồn trong lòng, nằm ngồi không yên như nhớ như quên điều gì muốn làm muốn thôi, muốn nhắc nhở vợ con. Rồi thở dài, ngán ngẫm. Vào đêm khuya vắng, ông dường như thấy cha mẹ ông xuất hiện đâu đây, ân cần nói chuyện với ông.
Có lúc ông lên kinh, chân tay co giật, hàm cứng lại. Giá có ai bóp tay bóp chân cho mình lúc này nhỉ!
Ông thấy nhịp tim chậm dần, nhẹ hơn. Hơi thở đôi khi như hụt và nông. Tuần hoàn kém, thân ông giá lạnh vì thiếu máu. Da ông xanh nhợt. Não thiếu oxy nên ông hay choáng váng mày mặt, kèm theo những cơn nhức đầu kéo dài khó chịu. Ngượng ngùng hơn là nhiều lần ông không kiềm hãm được đại tiểu tiện, bài tiết trên giường. Người toát ra mùi hôi; nước miếng hoen khóe mép, đóng cặn.
Xương thịt, nội tạng ông đôi khi đau nhức, nhưng không kéo dài lâu. Ông nhớ có người nói, cận tử thì cơ thể tiết ra vài hóa chất giúp giảm sự đau, sự quằn quại khi mô bào, bộ phận bước vào giai đoạn đau đớn của sự chết (agony phase of death). Các bộ phận trong hình hài ông ngưng dần, bộ phận nọ tiếp nối bộ phận kia như những quân bài domino đè lên nhau mà ngả xuống.
Ông mỉm cười chờ đợi. Một ngày đẹp trời nào đó, mắt ông sẽ mờ dần, đồng tử mở rộng nhưng bất động, để đón nhận thêm nhiều ánh sáng. Không gian tối dần, như Victor Hugo than phiền, “Tôi chỉ thấy bóng tối” hoặc Emily Dickinson, ”..sương mù đang bao phủ quanh tôi.” Bắt chước Goeth, ông kêu lên, “Light! More light,” (cho tôi thêm ánh sáng) Ðể lần cuối nhìn thấy cuộc đời. Rồi ông lịm dần, lịm dần.
Chỉ trong vài giờ, cơ thịt ông co cứng, giá lạnh, xanh lợt. Rồi vài chục giờ sau, cơ thể ông mềm, mô bào tự hủy hoại vì hóa chất tiết ra, rồi thoái rữa vì đám vi khuẩn trong ruột già ruột non đua nhau lan tràn phá phách đó đây.
Rồi thân xác này sẽ được chôn cất dưới lòng đất xâu. Cát bụi lại về cát bụi.
Ông nhớ là cách đây vài tháng, khi linh cảm rằng sẽ đi xa, ông đã làm di chúc. Xin đừng móc dây móc máy vào người tôi khi tôi hấp hối. Cho phép tôi ra đi lành lặn như khi tôi tới. Trên giấy tờ hộ tịch sẽ được ghi tôi chết vì natural cause, rất tự nhiên, điều mà nhiều người mong ước. Và xin cảm ơn mọi người đã chăm sóc tôi, đã lưu tâm tới “những nhu cầu cận tử” nhu cầu của người trên ngưỡng cửa tử vong.”
Lão Tam sẵn sàng ra đi.
Như Thomas Edison reo lên bên kia thế giới sao mà đẹp, “It is beautifull over there!”
Và bình thản đợi chờ như nhà văn lão thành MặcThu viết nhân chuyến “tiễn đưa” nhà văn Mai Thảo.
“Sân ga một đám đứng chờ tàu,
Toàn bạn già xưa biết mặt nhau.
Tàu chật, có người lên được trước;
Chậm chân, kẻ đợi chuyến tàu sau.
Một đi là chẳng quay đầu lại,
Áo trắng trên người đủ kín thân.
Ra đi giống thuở ai vừa đến,
Tàu suốt trăm năm chỉ một lần.
Sân ga thấp thoáng bóng người già,
Họ sẵn sàng về cõi thật xa.
Hình như trong đám trông chờ ấy,
Có bạn thân tình, có cả ta.”
Thông qua truyện tranh ngắn và đầy ý nghĩa này, tác giả muốn truyền tải một thông điệp: “trên con đường thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng”.
Mời các bạn cùng thưởng thức câu chuyện đầy ý nghĩa này :
Khởi đầu, mọi người đều phải gánh một cây thập giá nặng đè lên vai và chậm chạp bước về phía trước.
Trên đường đi một thanh niên dần dần dừng lại và suy nghĩ…
Chúa ơi, nó nặng quá! Cho con đẽo bớt nó được không…
Và anh ngồi đẽo khí thế, trong khi những người khác vẫn nỗ lực kéo…
Chẳng mấy chốc anh vác cây thập giá lên và vượt qua những người khác…
Nhưng đi được một chặng, anh thấy nó vẫn còn nặng…
… anh đã cầu nguyện, cho con đẽo thêm chút nữa để đi được dễ dàng hơn!
Vì vậy, anh cắt bỏ một phần của nó! Cảm ơn Chúa, để anh cảm thấy thoải mái hơn!
Nhưng khi đến hẻm núi, anh phải dừng lại và suy nghĩ: “Làm sao vượt qua nó đây”?
Aha! Thật bất ngờ, đột nhiên xuất hiện ở phía trước của một rãnh sâu và rộng! Không có cầu mương, không có cách nào xung quanh nó. Spiderman hay Superman đã không đến để cứu anh ta …
Anh đứng nhìn những người khác dùng cây thập giá lớn làm cầu và vượt qua hẻm núi một cách dễ dàng…
… thì anh cũng thử, nhưng… cây thập giá của anh nhỏ quá…
Không thể đi tiếp, anh khụy xuống đất, ăn năn và hối hận vì “tính lười biếng” của mình.
Chính vì cái tâm muốn được thoải mái an nhàn, chàng trai trẻ này đã không nhẫn nại để vượt qua những khó khăn trên con đường mà mình đang đi. Khi đến vực thẳm, anh không có cách nào vượt qua nó. Cũng như trong cuộc sống, chúng ta thường phàn nàn về những bất hạnh và khổ đau mà mình gặp phải. Đến khi những chuyện thống khổ xảy ra, chúng ta không có can đảm để đối diện và thường gục ngã.
Thông qua câu chuyện trên, chúng ta học được một bài học sâu sắc: “Để thành công thì không có con đường tắt”.
Trong ngôn-ngữ ta, tên gọi không phải là danh-từ riêng (nom propre / proper noun) như trong những ngôn-ngữ khác, mà có từ những danh-từ chung (nom commun / common noun), cho nên đôi khi ghép lại với nhau thì thật là buồn cười. Chúng ta hãy cùng xem một vài thí-dụ.
Tên họ
Trước đây, tôi đã có nghe đến Bùi như Lạc hay Trần như Nhộng. Suy nghĩ thêm, có thể có những tên họ thât đặc sắc như:
Họ: Phạm, Tên: Pháp
Họ: Đinh Tên: Ninh
Họ: Đỗ Tên: Đạt
Họ: Lê Tên: Thê
Họ: Lưu Tên: Hoàng
Họ Cao có hai bố con tên Cường và Sang.
Họ Lý có hai anh em tên Trí và Luận, suốt ngày tranh cãi với nhau.
Gia-đình có Vũ có những anh chị em tên: Công, Nam, Nữ, Trường, Trụ.
Tôi có một người bạn họ Tạ và may thay, anh không tên Thế.
Vợ chồng
Tôi biết có một anh bạn tên Chí có cưới một cô tên Hoà, nhưng rồi vài tháng sau cũng phải ly dị, thày bói nói hình như là kỵ tên (?)
Ngược lại, cặp vợ chồng thành công nhất là chị Hạnh và anh Phúc.
Anh nào tên Bình có thể cưới chị Hoa hay chị Thuỷ.
Chị nào tên Bình thì có thể gặp anh Minh hay anh Phong.
Anh Phong với chị Thuỷ thì thày bói tán thành ngay.
Chị Liên gặp anh Hoan thì vui lắm, còn gặp anh Đại hay anh Trung thì phải mau mắn rồi.
Anh Trung thì lắm mối: nào là chị Dung, chị Bình, chị Tâm, chị Thu…
Chị Trang muốn đẹp thì phải gặp anh Trí hay anh Hoàng; muốn hiểu biết nhiều phải lấy anh Sách; nhưng tuyệt đối phải tránh anh Nghĩa (!)
Chị Nguyệt đi với anh Kỳ thì phải khéo chọn ngày.
Cặp vợ chồng ít ai nói đến là cặp Mai-Danh.
Chị Loan mà lấy anh Báo thì ai cũng sẽ biết, cũng như anh Thông và chị Điệp.
Anh Trường và chị Xuân sống với nhau đến răng long, tóc bạc.
Có những cặp vơ chồng lại đi từ quốc-gia này đến quốc-gia khác:
Anh Thái và chị Lan, anh Hoà và chị Lan, anh Trung và chị Hoa, chị Thuỵ và anh Sĩ, anh Phi và chị Châu...
Chọn bạn mà chơi
Có những người bạn hợp tuổi như Thắng và Thế, Phúc và Đức, Minh và Mẫn…
Nhưng có người không nên đi chơi chung như Pháp và Trường. Phi và Pháp, Phi và Lý hay Phi và Nghĩa thì tốt hơn hết nên tránh kết bạn.
Ngược lại, Thế đi chơi với Thái thì chỉ là chuyện thường tình.
Đặt tên con, cưới vợ, chọn bạn đôi khi cả là một vấn-đề với ngôn-ngữ chúng ta.
Có biết yêu thương thì con người mới thực sự triển nở, và tìm gặp lại chính mình. Có biết yêu thương thì con người mới biết vui sống, và tìm được hạnh phúc đích thực trong cuộc sống.
Trước cổng một nghĩa trang nọ, người ta thấy có một chiếc xe Roll Royce sang trọng dừng lại. Người tài xế tiến lại người giữ cổng và nói: xin anh giúp một tay cho người đàn bà này xuống xe vì bà ta yếu quá không đi được nữa. Vừa ra khỏi xe, người đàn bà tự giới thiệu và nói với người giữ cổng nghĩa trang:
- Từ hai năm qua, mỗi tuần, tôi là người đã gửi cho anh 5 đô-la để mua hoa và đặt trên mộ con trai tôi, nhưng nay các bác sĩ bảo rằng, tôi không còn sống được bao lâu nữa, nên tôi đến đây để chào từ biệt và cảm ơn anh đã mua hoa giùm tôi.
Thế nhưng, người đàn bà không ngờ rằng người giữ cổng nghĩa trang trả lời như sau:
- Thưa bà, tôi lấy làm tiếc rằng bà đã làm công việc ấy!
Người đàn bà cảm thấy như bị ai đó vả vào mặt. Nhưng bà vẫn còn đủ bình tĩnh hỏi lại người thanh niên:
- Tại sao lại lấy làm tiếc về cử chỉ đẹp như thế?
Người thanh niên giải thích:
- Thưa bà, tôi lấy làm tiếc vì những người chết như con trai bà, chẳng bao giờ còn thấy được một cánh hoa nào nữa !
Bị chạm tự ái, người đàn bà liền cao giọng:
- Anh có biết anh đã làm tổn thương tôi không?
Người thanh niên bình tĩnh trả lời:
- Thưa bà, tôi xin lỗi, tôi chỉ muốn nói với bà rằng có rất nhiều người đang cần đến những cánh hoa của bà hơn. Tôi là hội viên của một tổ chức chuyên đi thăm những người già lão, các bệnh nhân trong viện dưỡng lão, các bệnh viện. Chính họ mới là những người đang cần đến những cánh hoa của chúng ta, họ có thể nhìn thấy và ngửi được cánh hoa ấy.
Nghe thế, người đàn bà ngồi bất động trên chiếc xe sang trọng một lúc, rồi ra hiệu cho tài xế mở máy. Vài tháng sau người đàn bà trở lại nghĩa trang. Nhưng lần này không cần ai giúp đỡ, bà tự động bước xuống xe với một dáng vẻ vui tươi nhanh nhẹn hơn, và điều đáng ngạc nhiên hơn nữa, một nụ cười rạng rỡ, bà nói với người thanh niên giữ cổng:
- Chú đã có lý, tôi mang hoa đến cho những người già lão, bệnh tật. Quả thật, điều đó đã làm cho họ được hạnh phúc. Nhung người thực sự hạnh phúc chính là tôi. Cac bác sỹ không biết được bí quyết làm tôi khỏe mạnh lại. Nhưng tôi đã khám phá ra cái bí quyết ấy, tôi đã tìm ra lẽ sống.
***
“Giúp đỡ người khác là giúp đỡ chính mình”. Đó cũng là khuôn vàng thước ngọc của Chúa Giêsu: “cho thì có phúc hơn là nhận lãnh” (CV 20, 35). Bởi vì, trao ban cho người tức là trao ban cho mình. Một ngạn ngữ Anh cũng nói một cách tương tự: “điều tôi tiêu đi là tôi có, điều tôi giữ lại là tôi mất, điều tôi cho đi là tôi được”. Đó là lý luận của tình yêu. Tình yêu lớn lên theo mức độ của sự trao ban. Có biết yêu thương thì con người mới thực sự triển nở, và tìm gặp lại chính mình. Có biết yêu thương thì con người mới biết vui sống, và tìm được hạnh phúc đích thực trong cuộc sống.
***
Lạy Chúa, con hằng khao khát hạnh phúc đích thực. Xin cho con luôn xác tín rằng con chỉ cảm nhận được hạnh phúc trong những cử chỉ trao ban mà thôi.
Xin cho trái tim con luôn rung lên những nhịp đập yêu thương, cho bàn tay con luôn rộng mở để trao ban cho những ai đang cần đến con trợ giúp, như Chúa đã từng cứu con trong những cơn khốn khó. Amen.
Chuyện dễ gặp ở Hà Nội, một người đàn ông cầm ghế nhựa đuổi theo đánh một khách hàng vì đi vào vỉa hè, vướng đồ của quán ông ấy bày ra. Ảnh: VT
1. Sáng đi ăn phở, phở bưng ra đang bốc khói. Bạn tôi hỏi: “Cô ơi, cho cháu ít chanh”. Chủ quán im lặng.
Lại hỏi: “Cô ơi, có chanh không cho cháu một ít”. Chủ quán quay sang ra chiều giận dữ, từ khuôn mặt mỡ màng béo tốt, hai vành môi của bà nâng lên sin sít: “Hỏi một lần nghe rồi, tôi có điếc đâu mà hỏi lắm thế”! Bạn tôi im bặt. Lát sau bà cầm chanh đến, vứt độp trên bàn. Bạn líu ríu đưa tay với lấy mà hình như vẫn còn run. Chúng tôi đến một quán nhậu, vừa mở thực đơn ra thì thấy bốc mùi nước mắm, nhoen nhoét bẩn thỉu. Bạn hỏi nhân viên phục vụ: “Em ơi, sao cái thực đơn bẩn thế?”. Phục vụ lầm lì im lặng. Bạn tôi bực bội, hỏi tiếp: “Em bị thế này lâu chưa?”. Phục vụ hỏi lại rằng bị gì. “Thì bị khó khăn đường ăn nói đấy” - bạn tôi đáp. Rồi bạn kéo tay tôi đi thẳng, vừa đi vừa nói: “Mình đi tìm quán nào có nhân viên biết nói”.
2. Trong một tọa đàm về đô thị, một nhà nghiên cứu về đô thị học thế giới đã khá ngạc nhiên trước cuộc sống trên vỉa hè của Hà Nội. Ông dùng chiếc máy ảnh du lịch của mình, chân bước chậm trên vỉa hè, lách qua những chiếc xô chậu, bàn ghế bày ra, tránh những hàng quán chỉ chực trào ra lòng đường… Và ông chụp, nhiều góc độ trên cái vỉa hè ấy… Rồi ông nói mỉa rằng người dân Hà Nội “biết vận dụng một cách khôn khéo và đồng thuận không gian công cộng thành không gian riêng của mình”. Sự phân chia không gian chiếm dụng khiến mọi người đều tự thỏa hiệp với nhau. Thế nên bạn đừng lạ lẫm khi vô tình chạm chân vào một vài thứ họ bày trên vỉa hè, dù nơi đó bạn được quyền đi lại. Người ta sẽ sấn sổ, đe nạt, mắng nhiếc bạn như đang xâm phạm cái sân của nhà mình. Rồi bạn có thể cũng tự tin đối đáp lại sòng phẳng về quyền đi lại của mình.
Tuy nhiên, bạn phải vận dụng lý lẽ này để an toàn: Tránh voi chẳng xấu mặt nào. Bởi tôi đã từng chứng kiến bạn tôi đi ngang hàng phở, tranh cãi kiểu như trên và kết quả là nhận nguyên một muôi nước phở từ tay bà chủ quán vào mặt.
3. Cây xăng trên đường Láng chiều tối đông người, tôi đang kiên nhẫn đợi đến lượt mình thì một em mặt xinh da trắng, quần ngắn đầu trần (sau đây tạm gọi là em thiên thần) cưỡi xe tay ga lao tới chia cắt đội hình rồi ném cho một ánh nhìn như muốn nói: “Ê anh, cho em tranh chỗ tí”. Chẳng cần anh gật đầu, em ủn bánh xe của em lên trước bánh xe tôi. Trước nhan sắc, tôi cực kỳ bản lĩnh. Tuy nhiên, lúc đó bỗng tình thương trỗi lên, tôi mỉm cười nhân nhượng rồi cong mông đẩy xe mình lùi lại cho em chiếm chỗ. Đến lượt mình, em đỏng đảnh đẩy xe lên, thanh niên bơm xăng nhìn em giận dữ, nói: “Đi vòng lại xếp hàng, em có mang bầu, tàn tật hay vấn đề gì không mà đòi ưu tiên?”.
Thanh niên vừa dứt lời, em thiên thần đã ngúng nguẩy đẩy xe ra khỏi đội hình, vừa đẩy vừa nói: “Mẹ mày, không đổ thì thôi, tao có bầu với bố mày chắc”. Lúc đó, em thiên thần trong mắt tôi đã vội vã bay đi, chỉ để lại hình hài của một thiếu nữ vô cùng đanh đá.
Còn lại tôi với thanh niên bán xăng, thanh niên bán xăng lầm rầm nói trong khói xe tay ga: “Hôm nay anh mà không bận làm thì con đó không xong với anh”. Tôi chen ngang: “Không xong thì anh định làm gì?”. Thanh niêan bán xăng mặt vô cùng hiên ngang, đáp: “Thì chẳng cần đến bố anh, riêng anh đủ làm cho nó có bầu. Chú tin không?”.
Một người đàn bà nướng bánh mì cho gia đình mình và làm dư ra một cái để cho người nghèo đói.
Bà để ổ bánh mì dư trên thành cửa sổ bên ngoài cho người nghèo nào đó đi qua dễ lấy. Hàng ngày, có một người gù lưng đến lấy ổ bánh mì.
Thay vì nói lời cám ơn, ông ta vừa đi vừa lẩm bẩm những lời sau đây:
“Việc xấu người làm thì ở lại với người; việc tốt người làm thì sẽ trở lại với người!”
Điều này cứ diễn ra, ngày này qua ngày khác.
Mỗi ngày, người gù lưng đến lấy bánh và lại lẩm bẩm câu :
“Việc xấu người làm thì ở lại với người, việc tốt người làm thì sẽ trở lại với người!”
Người đàn bà rất bực bội.
Bà thầm nghĩ, "Không một lời cám ơn, ngày nào người gù này cũng đến lấy bánh ta làm rồi lải nhải giai điệu khó chịu ấy!
Hắn ta muốn ám chỉ điều gì?”
Một ngày kia, không chịu được nữa, bà quyết định cho người gù đi khuất mắt.
Bà tự nhủ, “Ta sẽ làm cho hắn mất dạng.”
Và bà đã làm gì ? Bà cho thuốc độc vào ổ bánh mì dư bà làm cho người gù !
Khi bà sắp sửa bỏ ổ bánh có thuốc độc lên thành cửa sổ, đôi tay bà bỗng run lên.
Bà hốt hoảng, “Ta làm gì thế này?”
Ngay lập tức, bà ném ổ bánh có thuốc độc vào lửa và vội làm một cái bánh mì ngon lành khác rồi đem để lên thành cửa sổ.
Như mọi khi, người gù lưng đến, ông ta lấy bánh và lại lẩm bẩm:
“Việc xấu người làm thì ở lại với người; việc tốt người làm thì sẽ trở lại với người.”
Ông ta cầm ổ bánh đi cách vui vẻ mà không biết rằng trong lòng người đàn bà đang có một trận chiến giận dữ.
Mỗi ngày, khi người đàn bà đặt ổ bánh mì cho người nghèo lên thành cửa sổ, bà đều cầu nguyện cho đứa con trai đi xa tìm việc làm.
Đã nhiều tháng qua, bà không nhận được tin tức gì của con.
Bà cầu nguyện cho con trở về nhà bình an.
Buổi chiều hôm đó, có tiếng gõ cửa.
Khi mở cửa ra, bà ngạc nhiên thấy con trai mình đứng trước cửa.
Anh ta gầy xọp đi. Quần áo anh rách rưới đến thảm hại. Anh ta đói lả và mệt.
Khi trông thấy mẹ, anh ta nói:
“Mẹ ơi, con về được đến nhà quả là một phép lạ. Khi con còn cách nhà mình cả dặm đường, con đã ngã gục vì đói, không đi nổi nữa và tưởng mình sẽ chết dọc đường. Nhưng bỗng có một người gù lưng đi ngang, con xin ông ta cho con một chút gì để ăn, và ông ta đã quá tử tế cho con nguyên một ổ bánh mì ngon. Khi đưa bánh cho con, ông ta nói: “Đây là cái mà tôi có mỗi ngày, nhưng hôm nay tôi cho anh vì anh cần nó hơn tôi!”
Khi người mẹ nghe những lời đó, mặt bà biến sắc.
Bà phải dựa vào thành cửa để khỏi ngã.
Bà nhớ lại ổ bánh mì có thuốc độc mà bà đã làm sáng hôm nay.
Nếu bà không ném nó vào lửa thì con trai yêu quý của bà đã ăn phải và đã chết !
Ngay lập tức bà nhớ lại câu nói có ý nghĩa đặc biệt của người gù lưng:
“Việc xấu người làm thì ở lại với người; việc tốt người làm thì sẽ trở lại với người!”
Lạy Chúa,
Xin hãy gia ơn để chúng con biết luôn luôn làm việc tốt
và không ngừng làm việc tốt,
ngay cả khi việc tốt chúng con làm không được ai biết đến lúc ấy.
- Cuộc đời con người, có ai chẳng ít nhất phải một lần đóng kịch. Thánh nhân cũng không là ngoại lệ.
- Thánh nhân đóng kịch như thế nào?
- Khổng Tử chán chính sự nước Tề, muốn bỏ đi ngay. Thế là cơm không kịp nấu, phải bê nguyên cả nồi gạo mới vo mà chạy. Chạy ra khỏi địa giới nước Tề rồi, mới ngoảnh lại bảo học trò rằng: “đi chậm thôi, để còn ra dáng những người bị buộc phải xa tổ quốc…”. Đấy không những là một vở kịch, mà còn là vở kịch hay nhất cổ kim.
- Thánh nhân có nói sai không?
- Có ai cả đời toàn nói đúng bao giờ. Nhiều ít thế nào cũng có lúc nói sai. Thánh nhân cũng không là ngoại lệ.
- Thánh nhân nói sai như thế nào?
- Thuở thiên hạ loạn lạc, dân chúng lầm than, lòng người ly tán. Vua nước Lương hỏi Mạnh Tử: “ai là kẻ thống nhất được thiên hạ?”. Mạnh Tử nói: “kẻ nào không ham giết người thì kẻ đó thống nhất được thiên hạ.” Về sau, Tần Thuỷ Hoàng, kẻ thống nhất thiên hạ ấy lại là kẻ thích giết người, giết người như ngoé.
- Thánh nhân có tranh giành không?
- Đời là một cuộc tranh giành vĩ đại. Có ai không hề tranh giành mà tồn tại được bao giờ. Thánh nhân cũng không là ngoại lệ.
- Thánh nhân tranh giành như thế nào?
- Khổng Tử làm quan nước Lỗ. Mỗi khi đi săn, có tục là mọi người tranh nhau những con thú săn được. Những lần như thế, Khổng Tử cũng phải lao vào cuộc tranh giành. Nếu không, chẳng nhẽ về tay trắng, lấy đâu ra thịt để cúng tế. Mà không cúng tế, phỏng có còn là Khổng Tử nữa chăng?
- Thánh nhân có bị làm nhục không?
- Có.
- Ai làm nhục được thánh nhân?
- Dân chúng tôn thánh nhân làm thầy, vì thế không làm nhục thánh nhân. Chỉ bậc vua chúa mới có cái thú làm nhục thánh nhân mà thôi.
- Làm nhục như thế nào?
- Vua nước Lỗ ban thịt chín cho Tử Tư. Mỗi lần ban, Tử Tư phải lạy hai lạy trước khi nhận thịt. Một lần, hai lần, rồi ba lần… Lạy mãi cũng chán. Tử Tư bèn dắt sứ giả (người mang thịt) ra ngoài thành, quay mặt về phía bắc lạy hai lạy mà bảo rằng: “bây giờ ta mới biết vua Lỗ nuôi ta như nuôi chó ngựa.” Rồi trả thịt lại, từ đó quyết không nhận nữa.
- Thánh nhân có kén “ăn” không?
- “Ăn” giỏi là đằng khác.
- Giỏi như thế nào?
- Khổng Tử nói: “ở đời, ai chẳng phải ăn uống. Nhưng ăn uống mà phân biệt được mùi vị, biết miếng nào ăn được, miếng nào cần phải kiêng, miếng nào đàng hoàng, miếng nào vụng trộm, miếng nào là miếng vinh, miếng nào là miếng nhục… thì thiên hạ phỏng có được mấy người.” “Ăn” mà có “lý luận”, có “tư tưởng” kỹ đến thế, tất phải là bậc giỏi “ăn” lắm.
- Vậy thánh nhân có phải là kẻ sĩ không?
- Thánh nhân vừa là kẻ sĩ, vừa không phải kẻ sĩ. Thế tức là khác nhau chứ.
- Khác như thế nào?
- “Chiến quốc sách” có câu: “cứ ba trăm dặm, tất có một kẻ sĩ. Nhưng phải ba trăm đời, mới có được một thánh nhân.” Xem thế thì biết, ảnh hưởng của kẻ sĩ chỉ được tính trong phạm vi không gian (ba trăm dặm). Còn ảnh hưởng của thánh nhân thì phải tính bằng thời gian (ba trăm đời).
- Thế những lúc không có thánh nhân thì làm thế nào?
- Có thể dùng kẻ sĩ để thay thế. Nhưng phải dùng cẩn thận.
- Cẩn thận như thế nào?
- Chỉ sử dụng trong một thời nhất định, hết thời là loại bỏ ngay, không được kéo dài. Và nhất là chỉ giới hạn trong khoảng ba trăm dặm mà thôi, vượt quá sẽ phản tác dụng.
- Tại sao lại phản tác dụng?
- Vượt quá tất sẽ “đụng” kẻ sĩ khác. Các kẻ sĩ thường không ai phục ai.
- Bậc vua chúa có cái thú làm nhục kẻ sĩ như đối với thánh nhân không?
- Không cần phải có cái thú ấy, cả trong thời trị lẫn thời loạn.
- Thời trị thì sao?
- Trong thời thịnh trị, bậc vua chúa đôi khi chỉ đùa bỡn với kẻ sĩ mà thôi. Ví dụ giả vờ đẩy ngã xuống hồ chẳng hạn.
- Thế còn thời loạn?
- Càng không cần có cái thú ấy. Bởi trong thời loạn, những “kẻ sĩ” đã thường xuyên tự làm nhục mình và làm nhục lẫn nhau rồi.
Trong cuộc sống, sự thành công hay thất bại nào cũng có cái giá của nó. Trong chiến tranh cũng vậy, cái giá của những chiến tích lừng danh mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) phải trả, là những đồng đội đã hi sinh, những đồng đội khác đã để lại một phần thân thể trên khắp miền đất nước, và hệ lụy dài lâu là những đứa trẻ vĩnh viễn xa cha, những người vợ vĩnh viễn xa chồng! Người quân nhân hi sinh vì tổ quốc, là sự hi sinh cao cả mà tổ quốc mãi mãi ghi công. Nhưng, hình ảnh người quả phụ, với một nửa tâm hồn, một nửa con tim, một nửa phần hơi thở, theo chồng lên đài tổ quốc ghi công, và những nửa còn lại có trách nhiệm trang bị cho các con một hành trang vào đời, phải được thừa nhận là sự hi sinh không kém phần cao cả như người chồng dũng cảm nơi chiến trường, rất xứng đáng được chúng ta kính trọng.
Cũng trong chiến tranh, chồng ở chiến trường, vợ ở nhà quán xuyến công việc gia đình mà công việc gia đình nhiều đến nỗi có những việc chưa kịp đặt tên, nhưng tất cả đều là việc. Chăm sóc các con, chăm sóc tình thân gia đình quyến thuộc, chăm sóc tình bạn bè bằng hữu. Để rồi, những giờ phút yên tỉnh về đêm khi các con chìm trong giấc ngủ, mơ màng nghĩ đến chồng nơi chốn xa xôi, hay đang trong chiến trường khốc liệt, với bao khắc khoải lo âu, sầu muộn!
Rồi chiến tranh chấm dứt trong nỗi nghẹn ngào uất hận, bởi đây là cuộc chiến mà cuối cùng “bị chấm dứt để thua trận”! Sau lời tuyên bố của vị Tổng Thống cuối cùng, hàng trăm ngàn đồng bào, quân nhân, viên chức, cán bộ, bỏ của chạy lấy người, tị nạn trên đất Mỹ. Với những thành phần tương tự như vậy gồm 222.809 người, lũ lượt bị lừa vào 200 trại tập trung trên khắp miền đất nước. Người 5 năm, 10 năm, 15 năm, thậm chí 17 năm ròng rã, do lòng thù hận tột cùng của nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Hằng trăm ngàn gia đình di tản ra ngoại quốc, cũng như hằng chục triệu gia đình còn lại trên quê hương, tất cả đều hụt hẫng. Hụt hẫng vì cuộc sống trên đất người với biết bao xa lạ trong một xã hội kỹ nghệ mà bước đầu chưa thể hội nhập. Hụt hẫng vì phút chốc, từ chế độ tự do bị đẩy vào chế độ độc tài trên toàn cõi Việt Nam!
Cảnh đời thứ nhất. Trong cuộc đời tị nạn, vợ chồng con cháu có cơ hội bên nhau, cùng chia xẻ khổ đau, cùng gánh vác nhọc nhằn, cùng nhận chung nỗi nhục! Nỗi nhục phải rời khỏi quê hương trong thân phận lưu vong! Với những bà vợ chúng ta, vốn sinh ra và trưởng thành trong xã hội nông nghiệp, nay phải cùng chồng từng bước hội nhập vào xã hội kỹ nghệ nơi định cư, đã phải đêm đêm đếm bước từ bến xe công cộng về nhà trong màn tuyết lạnh sau những giờ nhọc nhằn nơi hãng xưởng. Lạnh đến nỗi không biết giọt nước lăn trên má là nước mắt, hay mảnh tuyết vừa tan!
Cảnh đời thứ hai. Trong xã hội mà kẻ thắng trận đầy lòng thù hận, thì gia đình ly tán, sự sống bị bóp nghẹt đến tận cùng của khổ đau, của nước mắt bởi chính sách bịt mắt bịt tai bịt miệng! Cái chế độ mà những người lãnh đạo luôn miệng huênh hoang là "dân chủ gấp trăm lần dân chủ tư bản", lại bắt mọi người phải sống trong nỗi sợ hãi triền miên với những đôi mắt rình rập quanh năm suốt tháng!
Cảnh đời thứ ba. Riêng với những bà vợ ở lại mà chồng đã vào tù, còn tệ hơn nhiều so với hai cảnh đời nói trên. Hằng ngày phải đối phó với bọn cầm quyền địa phương, cái bọn mà đầu óc toàn đất sét và rác rưởi, chỉ biết đàn áp để cướp đoạt. Đồng thời phải chăm lo cuộc sống các con từng ngày, lo nuôi chồng từng tháng!
Những bà vợ chúng ta, hải ngoại hay trong nước, thật sự là Những Người Đàn Bà Việt Nam rất can đảm khi phải chịu đựng và vượt qua nỗi đau nỗi nhục đó! Đau đến nỗi không còn nước mắt để khóc, nhục đến nỗi chẳng còn lời để than! Nếu đem so sánh giữa hai cảnh đời trong nước với ngoài nước, thử hỏi: "Ai đau hơn ai và ai nhục hơn ai?" Với tôi, không ai đau hơn ai, cũng không ai nhục hơn ai!
Vì nỗi đau nào cũng có cái đau riêng của nó, nỗi nhục nào cũng có cái nhục riêng của nó! Xin những ông chồng diểm phúc, hãy nhìn lại đôi nét về hình ảnh Những Bà Vợ Chúng Ta trong cuộc sống khổ đau thầm lặng đó, mà người viết được những bà vợ trong cuộc kể lại:
Một cảnh đau thương. Một bà vợ cùng con cầm giấy phép “gánh gạo” nuôi chồng trên đất Bắc. Ba ngày đi, ba ngày về, 2 tiếng đồng hồ gặp gở! Khi trở về cư xá Bắc Hải, nhà bị niêm phong với dòng chữ "nhà vắng chủ". Đau đớn biết bao! Xót xa biết dường nào! Bỗng dưng nhà bị mất! Bà gục đầu vào cửa! Bà cùng gia đình định cư tại Houston, Texas từ tháng 4 năm 1991.
Một cảnh đau thương khác. Một bà vợ đã bao nhiêu lần bị công an Phường ra lệnh đi khu kinh tế mới, nhưng bà vẫn không đi. Chúng hành hạ bằng cách gọi bà đến văn phòng, bảo ngồi đó từ đầu giờ đến cuối giờ, ngày nào cũng vậy, và ròng rã 6 tháng như vậy. Một hôm, chúng bảo đưa giấy tờ nhà để giải quyết. Khi chụp được hồ sơ, lập tức tên công an ra lệnh trong vòng 24 tiếng đồng hồ bà phải ra khỏi nhà. "Ôi! Còn nỗi đau nào cao hơn nỗi đau này trong cảnh đời thua trận!" Bà xiêu vẹo trên đường về nhà cách đó mấy dãy nhà liên kế cũng trong cư xá Bắc Hải, và gục ngã ngay trước nhà! Bà cùng gia đình định cư vùng bắc California từ năm 1993, nhưng chồng đã qua đời vào năm 2003.
Một cảnh đau thương khác nữa. Một bà vợ có chồng bị giam trên đất Bắc hằng chục năm trời, bỗng dưng mất liên lạc. Bà lặn lội khắp các cơ quan tại Sài Gòn, Hà Nội, tốn kém, mệt nhọc, nhưng hoàn toàn bặt tin. Nỗi buồn đến với bà quá sức chịu đựng của người phụ nữ tuổi 50, mà có lúc bà cảm thấy như mình đang bên bờ vực thẳm, rồi ngã dần xuống...... Bà bị tai biến mạch máu não, nằm bất động một chỗ. Nhiều tháng sau đó, bất ngờ, người nhà của bà nhận được giấy cho phép bà thăm chồng. Trại tù chỉ cách nhà vỏn vẹn 1 cây số (khám Chí Hòa). Bạn bè khiêng bà đến nhà tù. Cả hai “chồng đứng đó vợ liệt toàn thân”, chỉ biết nhìn nhau, òa khóc...! Khóc cho mình! Khóc cho cuộc đời! Phải chăng, mọi khổ đau trên cõi đời này đang bao quanh hai con người đau khổ đó? Không. Không chỉ có vậy. Mà là tất cả những bà vợ có chồng bị cộng sản giam giữ trong tù, tiêu biểu qua 3 cảnh đời trên đây trong hàng vạn cảnh đời trên đất nước Việt Nam, đều trong nỗi khổ tột cùng đó! Tình trạng bại liệt đó theo Bà cùng chồng định cư tại Houston, nhưng rồi Bà đã từ trần năm 2004!
Sài Gòn-Hà Nội 1.736 cây số, xe lửa tốc hành chạy 72 tiếng đồng hồ, tức 3 ngày 3 đêm. Mỗi người chỉ được mang theo 20 kí lô lên xe lửa, mang nhiều hơn số đó phải hối lộ cho một loạt nhân viên từ cổng vào cho đến nhân viên trên xe lửa. Hành lý ngổn ngang cả trên lối đi giữa toa xe. Ban ngày cũng phải lách từng bước chân vào chỗ trống. Còn ban đêm, thật khó mà tưởng tượng! Hai băng ngồi đối diện, một băng 3 người. Hai băng phía bên kia lối đi, mỗi băng 2 người ngồi. Hai đầu trên của hai băng 6 người, máng được 3 cái võng cho 3 người, 1 người nằm co quắp trên sàn xe đen đúa nhầy nhụa giữa 2 băng đối diện, và 2 người còn lại cũng nằm co quắp trên 2 băng ngồi. Nếu nhìn toàn cảnh của toa xe sẽ thấy, băng ngồi đầy người nằm, những chiếc võng bé xíu che kín trên đầu băng, cả lối đi vốn dĩ đã nhỏ hẹp cũng đầy người nằm chen lẫn trong đống hành lý thật hổn độn. Những bà vợ thăm chồng, mang theo hằng trăm kí lô, biết bao là nhọc nhằn gian khổ!
Giả thử, nếu những ông chồng chứng kiến những hành khách nằm cong queo trong cái gọi là chiếc võng kia, hay co quắp giữa những gói quà đầy ấp tình thương trên sàn xe nhớp nhúa đó, là những bà vợ của mình, liệu có cầm được nước mắt không? Nghe nói lại, nghe thuật lại, ông chồng nào cũng đớn đau thương cảm cho tình cảnh những bà vợ quanh năm gánh gạo nuôi chồng! Nhưng không có đớn đau thương cảm nào có thể đem cân bằng nỗi đớn đau thương cảm của những bà vợ trọn tình vẹn nghĩa như vậy được cả!
Tôi hình dung những bà vợ chúng ta qua hình ảnh trên đây mà chính tôi trông thấy khi tôi ra trại tập trung cùng với 90 “bạn đồng tù”, từ Nam Định về Sài Gòn bằng xe lửa đúng 72 tiếng đồng hồ hồi tháng 9 năm 1987.
Trên đây là một cố gắng dựng lại hình ảnh "Những Bà Vợ Chúng Ta", nếu không rõ nét thì ít ra cũng là những nét chính của hình ảnh ấy, qua sự kết nối bốn hợp phần sau đây:
Hai hợp phần trong chiến tranh, là những bà vợ mà chồng đã hy sinh, và những bà vợ mà chồng đang chiến đấu.
Hai hợp phần sau chiến tranh, là những bà vợ cùng chồng con di tản ngoại quốc, và những bà vợ ở lại Việt Nam, vừa nuôi con trong một xã hội đầy hận thù và kỳ thị, vừa nuôi chồng trong những trại tập trung nghiệt ngã!
Những cảnh đời bi thương, những khổ đau sầu muộn, những nước mắt, mồ hôi, được khơi lên từ những góc cạnh li ti trong hằng vạn hằng vạn cảnh đời như vậy, mà Những Bà Vợ Chúng Ta đã chịu đựng trong những năm dài thật dài!
Quyển “Chân Trời Dâu Bể” của Giao Chỉ, kể chuyện trên đất Mỹ, và quyển “Giữa Dòng Nghịch Lũ” của Duy Năng, kể chuyện trên quê hương Việt Nam. Hai tác phẩm này trong một mức độ nào đó, có thể xem là tiêu biểu cho rất nhiều tác phẩm dưới dạng chuyện kể thật bình thường, nhưng ôm ấp biết bao xót xa thương cảm cho thân phận người phụ nữ Việt Nam sau ngày thua trận, dù sống trong hai xã hội cách nhau nửa vòng trái đất. Với tác phẩm của Duy Năng, người kể chuyện là bà Hàng Phụng Hà. Bà là một trong số hằng trăm ngàn bà vợ thăm nuôi chồng trong tù. Ở phần kết, bà nói:
"... Các anh trong tù, khổ về vật chất và đau về tinh thần đến vạn lần, điều đó chúng tôi biết. Nhưng, chúng tôi -những bà vợ của các anh- đau khổ gấp ngàn cái vạn lần của các anh nữa, các anh có biết không? Tôi không đề cao một bà vợ nào, mà tôi đề cao tất cả những bà vợ thăm nuôi chồng trong các trại tù cải tạo. Bởi vì: Họ, đã đứng vững trong phẩm giá Người Vợ Miền Nam. Họ, rất xứng đáng được các anh kính trọng. Và Họ, chính là Vợ của các Anh".
Vì vậy mà một số bạn đồng tù chúng tôi trong trại tập trung, đã không quá lời khi nói với nhau rằng: "Ra tù, chúng ta phải cõng vợ chúng ta đi vòng quanh trái đất, để đền bù đôi chút về sức chịu đựng biết bao nhọc nhằn gian khổ đã nuôi các con và nuôi chúng mình”.
Bây giờ nhìn lại, trong một ý nghĩa nào đó, những cựu tù nhân chính trị chúng ta, đã cõng vợ đi được nửa vòng trái đất rồi. Đến ngày Việt Nam thật sự tự do dân chủ, chúng ta sẽ cõng vợ trở về quê hương là trọn vòng trái đất như đã tự hứa, phải không quí vị?
Với nét chân dung đó, tôi quả quyết rằng, Những Bà Vợ Chúng Ta rất xứng đáng được vinh danh. Và nếu quí đồng đội và quí vị đồng hương đồng ý với tôi, chúng ta cùng nói to lên rằng: “Chúng ta cùng vinh danh Những Bà Vợ Chúng Ta là những người đàn bà cao cả, rất xứng đáng được kính trọng. Bởi, trong hoàn cảnh nghiệt ngã của chế độ độc tài cộng sản, nhưng đã đứng vững trong phẩm giá Người Vợ Miền Nam, cùng lúc, chu toàn thiên chức làm Mẹ, và tròn bổn phận làm Con”.
Vinh danh bằng những tiếng nói ân tình bên tai vợ, trao tặng vợ một bông hồng thật đẹp, hôn vợ những nụ hôn thật dài. Điều đó luôn nhắc nhở người chồng trong cuộc sống thường ngày, phải thể hiện lòng hiểu biết vợ mình nhiều hơn, cảm thông vợ mình nhiều hơn, rồi quàng tay vào lưng vợ mình chặt hơn, để cùng nhau đi suốt chiều dài còn lại trong cuộc sống lứa đôi thật mặn nồng, như chưa bao giờ mặn nồng đến như vậy. Trường hợp vì lý do gì đó mà bạn đang sống một mình, xin bạn hãy gắn bông hồng màu đỏ lên nơi nào mà khi nằm nghỉ bạn đều trông thấy, để trao tặng vợ khi đoàn tụ bên nhau. Hoặc sự trông thấy đó, sẽ giúp bạn có được những giây phút sống lại những năm tháng mặn nồng trong tình yêu vợ chồng thuở chung chăn chung gối, thuở mà hai người dùng chung một tên.
Mẹ viết thư này để con đọc. Sáng nay ở trường về, đi trước mẹ mấy bước, con đã đi ngang qua một người đàn bà đáng thương đang bế trên tay một đứa bé xanh xao và ốm yếu. Người ấy xin con tiền. Con nhìn sững bà ta và con không cho gì hết dù mẹ biết con đang có tiền trong túi.
Nghe mẹ bảo con ạ, đừng quen thói dửng dưng đi qua trước những người nghèo khổ đang ngửa tay xin mình giúp đỡ và nhất là trước một người mẹ xin một đồng cho con của mình. Con hãy nghĩ rằng có thể đứa bé ấy đang đói, hãy nghĩ đến nỗi khắc khoải của người đàn bà đáng thương.
Hãy nghe lời mẹ dạy con ạ. Thỉnh thoảng con phải biết chia sẻ một đồng tiền từ túi của con để đặt nó vào lòng bàn tay của một cụ già không nơi nương tựa, một bà mẹ không có bánh ăn, một đứa trẻ không có cha mẹ.
Con ơi, người nghèo khổ thích được trẻ con giúp đỡ, vì như vậy, ít tủi nhục hơn. Con có để ý thấy lúc nào cũng có những người nghèo khổ quanh quất gần nơi trường học hay một ngôi thánh đường không ?
Sự giúp đỡ của một người lớn là một hành vi từ thiện, nhiều khi là một việc bố thí cho yên ổn lương tâm, nhưng đối với một đứa trẻ thì đó vừa là một việc bác ái, lại vừa là một lời an ủi cảm thông thật đơn sơ, mẹ nói vậy, con có hiểu không? Nói cách khác, cũng là một đồng tiền từ tay đứa bé trao tặng thì đó còn là một đóa hoa nữa...
Con hãy nghĩ rằng: con chẳng thiếu thốn chi hết, còn người nghèo thì thiếu thốn mọi thứ. Trong lúc con ước mong được sung sướng thì họ chỉ cần cầu xin cho khỏi chết đói. Thật là buồn khi nghĩ rằng giữa bao nhiêu ngôi nhà giàu có, giữa bao nhiêu trẻ em ăn mặc đẹp lại có những người đàn bà và trẻ em không có gì để ăn cả...
Con hãy suy nghĩ đi, và đừng bao giờ con hành động như buổi sáng hôm nay nữa con nhé...
Trích NHỮNG TẤM LÒNG CAO CẢ, của EDMONDO DE AMICIS.
Photo: SỰ NGHIỆP Con hỏi ta về sự nghiệp Con và đa số người thế gian hiểu sự nghiệp như vầy: Một mảnh bằng, một ngôi nhà, việc làm ổn định và danh vọng Một tình yêu và những đứa con xinh đẹp Sự nghiệp là như thế Suốt cuộc đời dong ruổi hy sinh tất cả cho việc này Ta hỏi con Có ai thoả mãn được việc này trước lúc nhắm mắt xuôi tay Chỉ cần thoả mãn một phần thôi cũng không được Nếu lấy đây là mục tiêu của cuộc đời Hoá ra đời ta phấn đấu để vào địa ngục Tại sao? Trước khi muốn được một điều gì Ta phải đổi cả máu và nước mắt của chính ta và bao nhiêu người khác Khi có được, ta cũng vô cùng đau khổ Cũng tốn bao nhiêu mồ hôi và nước mắt để giữ gìn Và sự đau khổ sẽ kéo dài không dứt Cho đến khi không còn gì cho ta giữ nữa Rồi lại tiếp tục đau khổ vì cái có đã mất rồi Rồi ta tiếp tục đau khổ để làm lại lần nữa, làm lại từ đầu. Rồi ta tiếp tục khổ đau nếu ta không còn may mắn Hoặc giả sử ta được một lần may mắn nữa Ta cũng chẳng được gì lúc nhắm mắt xuôi tay Như vậy Cả đời không có một chút bình yên Không có một chút thời gian cho buông nghỉ Một chút thời gian êm đẹp để ra đi Khi lìa bỏ xác thân ta lại tiếp tục cuộc hành trình đau khổ khác Người có trí tuệ phải thấy như vậy Cái gọi là sự nghiệp trên đây Nó chính là cái bóng của chân trí Thầm nhận chân trí, khám phá chân trí và khai mở chân trí Đó mới là Chân Nghiệp cao cả và vĩnh hằng Có vô lượng cái bóng ở thế gian Cái mà thế gian gọi là sự nghiệp Chỉ là vài hình ảnh nhỏ nhặt lúc hiện lúc tan Không làm cho ta dằn vặt hay vui sướng. Trụ nơi Chân Nghiệp mới là chánh đạo Còn hình bóng sự nghiệp thế gian là cảnh ta vui chơi khi nhân duyên đến Có giá trị gì mà phải chôn chặt đời ta Hỡi những đứa con yêu quý Hãy trở về Chân Nghiệp của các con Đó chính là sự nghiệp tối hậu. (Đạo Sư Duy Tuệ)
Con hỏi ta về sự nghiệp
Con và đa số người thế gian hiểu sự nghiệp như vầy:
Một mảnh bằng, một ngôi nhà, việc làm ổn định và danh vọng
Một tình yêu và những đứa con xinh đẹp...
Sự nghiệp là như thế
Suốt cuộc đời dong ruổi hy sinh tất cả cho việc này
Ta hỏi con
Có ai thoả mãn được việc này trước lúc nhắm mắt xuôi tay
Chỉ cần thoả mãn một phần thôi cũng không được Nếu lấy đây là mục tiêu của cuộc đời
Hoá ra đời ta phấn đấu để vào địa ngục
Tại sao?
Trước khi muốn được một điều gì
Ta phải đổi cả máu và nước mắt của chính ta và bao nhiêu người khác
Khi có được, ta cũng vô cùng đau khổ
Cũng tốn bao nhiêu mồ hôi và nước mắt để giữ gìn
Và sự đau khổ sẽ kéo dài không dứt
Cho đến khi không còn gì cho ta giữ nữa
Rồi lại tiếp tục đau khổ vì cái có đã mất rồi
Rồi ta tiếp tục đau khổ để làm lại lần nữa, làm lại từ đầu.
Rồi ta tiếp tục khổ đau nếu ta không còn may mắn
Hoặc giả sử ta được một lần may mắn nữa
Ta cũng chẳng được gì lúc nhắm mắt xuôi tay
Như vậy
Cả đời không có một chút bình yên
Không có một chút thời gian cho buông nghỉ
Một chút thời gian êm đẹp để ra đi
Khi lìa bỏ xác thân ta lại tiếp tục cuộc hành trình đau khổ khác
Người có trí tuệ phải thấy như vậy
Cái gọi là sự nghiệp trên đây
Nó chính là cái bóng của chân trí
Thầm nhận chân trí, khám phá chân trí và khai mở chân trí
Đó mới là Chân Nghiệp cao cả và vĩnh hằng
Có vô lượng cái bóng ở thế gian
Cái mà thế gian gọi là sự nghiệp
Chỉ là vài hình ảnh nhỏ nhặt lúc hiện lúc tan
Không làm cho ta khắc khỏai hay vui sướng.
Trụ nơi Chân Nghiệp mới là chánh đạo
Còn hình bóng sự nghiệp thế gian là cảnh ta vui chơi khi nhân duyên đến
Có giá trị gì mà phải chôn chặt đời ta
Hỡi những đứa con yêu quý
Hãy trở về Chân Nghiệp của các con
Đó chính là sự nghiệp tối hậu.
Tôi sanh ra vào thời Pháp thuộc, lớn lên, ra đời với Mỹ Diệm, Mỹ Thiệu rồi... già trước tuổi sau ngày "cách mạng thành công" ! Để thấy tôi đã có cái may mắn biết thằng Tây, biết Chú Sam, biết Bác. Thằng Tây đội nón cối thực dân ngồi trên đầu thằng dân đội nón lá. Chú Sam với cái nhãn bàn tay của chú nắm bàn tay người bạn mà chú giúp đỡ – cái nhãn chưa kịp tróc, chú đã buông rơi thằng bạn như buông rơi một vật vô tri! Trải qua ba trào như vậy mà tôi đã không thành Tây, không thành Mỹ, cũng không thành Bôn-sê-vít, nhờ truyền thống của ông cha: Biết giữ gìn cái gốc. Điều này, tôi rất tự hào.
Bây giờ, tôi xin tự giới thiệu ...
Tôi tên là Tư – Lê Di Tư – Theo ông nội tôi kể lại thì tôi thuộc dòng họ Lê Di ở Huế, một dòng họ nổi tiếng khoa bảng. Hồi đó, ông sơ ông sờ gì của tôi đã làm quan lớn trong triều đình. Ổng được lệnh vua, đưa dân đi dài vào Nam khai hoang, dựng làng lập ấp, để mở mang bờ cõi. Khi ổng vào đến vùng rừng thiêng nước độc mà sau này người ta gọi là Tây Ninh, ổng ngã bịnh rồi chết. Sau đó, không nghe ông nội tôi kể tiếp. Điều mà tôi biết là đến đời ông nội tôi, cái gia tài quyền quy chữ nghĩa của dòng họ Lê Di chỉ còn lại đủ để ông nội tôi...bắt mạch hốt thuốc độ nhựt! Rồi qua đến đời cha tôi, đời anh chị tôi...chỉ còn làm ruộng dài dài, mà mớ chữ nghĩa thì vừa đủ để ngâm nga mấy truyện thơ bình dân như Chàng Nhái Kiểng Tiên hay Bạch Viên Tôn Các.
Hồi đó, có người thắc mắc tại sao tôi đã mang cái họ Lê Di rất văn vẻ, rất ...quí phái mà lại có cái tên Tư nghe quá cộc lốc khô khan? Nói cho có vẻ...văn chương, cái họ của tôi như tấm lụa mềm mà sao cái tên của tôi thì như hòn sỏi nhám? Đó là do bản chất thật thà của cha tôi. Ổng đặt tên anh em chúng tôi giống như ổng đếm bầy con! Đầu tiên là anh cả tôi: Lê Di Một. Kế đó là anh Lê Di Hai. Tiếp theo là chị tôi: Lê Thị Ba. À! Chỗ này được cha tôi giải thích...gọn bâng: Tại nó là con gái, mang họ Lê Di sao được, nữ sanh ngoại tộc mà ! Cuối cùng là tôi, Lê Di Tư, sanh cách chị tôi đến chín năm. Vì vậy, ở nhà gọi tôi là thằng Út, còn hàng xóm thì gọi tôi là Út Tư, chắc là để khỏi lầm với những thằng Út khác.
Năm đó, tôi đến tuổi vào trường tiểu học. Cha tôi xách xe đạp chạy ra nhà việc (hồi đó, chỗ ban hội tề –là những người chức trách trong làng - làm việc được gọi là nhà việc, cũng có người gọi là nhà vuông bởi vì ngôi nhà đó có bốn cạnh bằng nhau) để trích lục khai sanh của tôi. Khi ổng về đến nhà, ổng cầm tờ khai sanh vừa chỉ chỏ vừa phàn nàn: "Con mẹ thằng lục bộ! Hồi đó tao khai là Lê Di Tư, nó nghe rõ chớ, lại còn gục gặc đầu nói đứa thứ bốn phải không. Vậy mà nó đánh dấu ư cách xa chữ u đến cả thước lận, thành ra là dấu sắc. Bây giờ thằng chả chết mất rồi, lấy ai mà đối chất đây? Còn thằng lục bộ mới này thì nó đọc sao là chép y ra vậy. Con mẹ nó! Làm thằng nhỏ bây giờ tên là Tú. Coi vô duyên không?".
Vậy là trong khai sanh – và mãi về sau này – tôi tên là Lê Di Tú! Phiền một điều là hồi đó cái tên Tú này tôi nghe không quen lỗ tai. Cho nên, ngày đầu trong trường tiểu học, khi thầy giáo điểm danh, gọi đến Tú là tôi vẫn tĩnh bơ ngồi yên. Còn dòm qua ngó lại coi là đứa nào! Cũng may là thầy giáo lớp chót đó là cậu Sáu An - bà con bạn dì với má tôi - nên cẩu đã biết qua cái sự trục trặc trong cái tên của tôi. Thẩy bèn gọi ‘’ Tư ‘’ làm tôi giựt mình dạ một tiếng lớn. Cả lớp cười rộ. Rồi mấy ngày sau đó, khi gọi đến Tú là thẩy... chêm ngay tiếng Tư cho xong chuyện. Trẻ con dễ thấm, nên chỉ mấy hôm sau là tôi đã quen với cái tên Tú văn vẻ đó, như đã quen lâu !
Lật bật rồi tôi cũng trèo tới lớp nhứt, rồi đậu xép-phi-ca (certificat). Hồi này, ở nhà trúng mấy mùa lúa, nên cha tôi quyết định cho tôi học tới. Ổng nói: ‘’Thằng Út nó lanh lợi, bắt nó làm ruộng cũng uổng ‘’ (Bây giờ nhớ lại, tôi không khỏi phì cười : ổng làm như phải là ...cù lần mới đi làm ruộng!) Vậy là tôi được xuống Sàigòn thi vào trường lớn (hồi đó, bậc trung học đã được gọi là trường lớn, bởi vì nó... lớn hơn trường tiểu học). Tôi thi đậu và ở nội trú. Cha tôi sắm cho tôi cái nón cối hiệu Con Gà Trống và đôi xăng-đan (sandales). Xưa nay, lúc nào tôi cũng đầu trần và đi chân không - đôi guốc chỉ dùng để...rửa chân ban đêm trước khi leo lên ván ngủ. Bây giờ, vào trường lớn phải khác !
Ở trường lớn, người ta gọi tôi là Tú Lê để phân biệt với thằng Tú Phạm học cùng lớp và cũng ở nội trú như tôi. Tôi mang cái tên Tú Lê được hai năm thì trong nước có giặc. Sàigòn bị đồng minh gì gì đó dội bom. Trường lớp bị đóng cửa, dân chúng thị thành tản cư. Cha tôi vội vã đem tôi về làng. Từ đó, tôi tập tành làm ruộng. Điều này không đi đúng với sự mong muốn của cha tôi. Lâu lâu ổng hay nhắc :’’Con mẹ nó! Nếu không có giặc thì thằng nhỏ đã không phải về làm ruộng. Giòng họ Lê Di bây giờ chỉ còn có mình nó là khá. Vậy mà...’’. Câu nói thường bị bỏ lửng. Để thấy ổng cũng hơi phiền trách ông Trời đã không giúp tôi đi theo “con đường chữ nghĩa” cho dòng họ Lê Di được nở mặt, mà đẩy tôi về với ruộng lúa, con trâu, cái cày...Riêng tôi thì lại thích được như vậy. Có lẽ tại vì cái gốc “ruộng” của tôi đã ăn quá sâu vào đất. Tôi sung sướng được trở về với cái tên “Út Tư” bình dị mà hàng xóm dùng để gọi tôi từ thuở ấu thời. Và tôi cũng quên dễ dàng cái tên “Tú Lê” văn vẻ đã bỏ lại ở một góc sân nào đó trong trường lớn...
Vào thời ông Diệm/ông Thiệu, tôi “đi” dân vệ. Để được ở lại làng giúp gia đình làm ruộng ngoài giờ công tác ở đơn vị địa phương. Bởi vì gia đình tôi không có tá điền tá thổ gì hết. Ngoại trừ mùa cấy hay mùa gặt phải mướn thêm người giúp cho “kịp mưa kịp nắng”, kỳ dư đều do người trong gia đình tôi làm lấy, kể cả mẹ tôi, mấy chị dâu anh rể tôi và vợ tôi nữa (hồi này tôi đã có vợ con). Kể lại như vậy để thấy rằng gia đình chúng tôi thuộc loại “tay làm hàm nhai” chớ không phải loại “chỉ tay năm ngón, ngồi không trục lợi” ! Và nhờ trời, gia đình tôi làm ruộng mà “lúa ăn không hết”...
Sau biến cố tháng Tư 1975, tôi đi học tập hết ba hôm rồi về nhà tiếp tục làm ruộng. Yên chí rằng mình thuộc giới công nông đem “mồ hôi đổi lấy bát cơm”, lấy sức “lao động làm nên của cải” (mấy câu này tôi mới học được của mấy cán bộ cách mạng, cha nào cha nấy nói y như nhau, còn lập đi lập lại nữa nên...dễ nhớ!) Chớ không thuộc loại “Mỹ Ngụy ác ôn” hay “trí thức vong bản” hay “địa chủ phú nông , cường hào ác bá “ gì gì...Tôi đã thật tình tin tưởng rằng mình “không có nợ máu với nhân dân” thì không có gì phải lo âu sợ sệt. Chẳng dè ít lâu sau ruộng bị “sung” vào hợp tác xã, còn chúng tôi thì làm công lại cho họ. Ngang ngược một cách rất...tự nhiên! (May quá! Cha mẹ tôi đã thất lộc trước ngày “cách mạng thành công”. Mừng cho ổng bả!)
Vào hợp tác xã chưa đủ. Còn phải đi lao động (làm như đi làm ruộng mỗi ngày chưa phải là lao động!) Rồi đi họp hành, học tập đường lối chủ trương (làm như phải có những thứ đó thì lúa...mới tốt!) Rồi đi mết tinh, rồi hô khẩu hiệu, rồi khai lý lịch khai tới khai lui...Có đêm tôi nằm trăn trở, nghĩ tiếc cho cái gốc của ông bà để lại, bây giờ không còn đứng vững nữa. Cái gì không giống cái gì hết ! Lai căn tạp nhạp.
Vậy là sau một thời gian nhẫn nhục làm một “nhân khẩu“ của chế độ, tôi thấy tối ngày cứ hô “sống mãi, sống mãi, sống mãi” chắc... chết quá! Tôi đành liều mạng mang vợ con vượt biên. Nhờ ơn trên phò hộ, chúng tôi đi thoát và tấp lên đảo Pulau Bidong (Mã Lai).
Sau hơn bốn tháng “nằm” đảo, chúng tôi được chánh quyền Pháp nhận cho định cư. Đó là nhờ chút ít tiếng Pháp còn sót lại của thuở thiếu thời xa xưa. Thuở đó, mỗi ngày học trò phải chào cờ “Đại Pháp”, phải hát bài “Maréchal ! Nous voilà !”. Vào lớp phải đứng thẳng, đợi thầy nói “Asseyez-vous” rồi chấm câu với tiếng roi mây hay cây thước bảng đập lên bàn. Chừng đó, cả lớp đồng nói “Nous nous asseyons” rồi mới ngồi xuống. Ở cái thời như vậy mà sao cái “gốc” vẩn còn. Có lẽ nhờ truyền thống của ông cha và nhờ mấy quyển Quốc Văn Giáo Khoa Thư đã âm thầm nhen nhúm tình thương quê hương dân tộc.
Chúng tôi được “bốc” về đất liền ở thị xã Trenganu, rồi từ đó về Kuala Lampur, thủ đô Mã Lai, để làm thủ tục giấy tờ.
Hôm chuẩn bị lên xe để ra phi trường Kuala Lampur “bay” đi Paris, lòng tôi như mở hội. Ngày mai chẳng biết ra sao, nhưng chân trời mới này đã thấy rộng thênh thang. Không phải cho tôi, mà là cho hai thằng con tôi đang trong tuổi lớn ! Điều này tôi muốn chia xẻ với những người ti. nạn đang đứng chùm nhum ở lãnh sự quán Pháp đợi gọi lên xe ca, nhưng tiếc quá họ toàn là người Tàu Nam Vang và người Miên người Lào. Họ không biết tiếng Việt Nam, thành ra tôi... cụt hứng.
Chính ông phó lãnh sự gọi tên từng gia đình để trao thông hành và mời lên xe. Khi ổng gọi đến gia đình “Lơ đi”, chẳng thấy ai nhúc nhích. Ổng đưa mắt tìm trong đám đông rồi cái nhìn của ổng ngừng lại ở tôi. Ổng mỉm cười hỏi bằng tiếng Pháp:”Gia đình ông người Việt phải không?”. Tôi gật đầu “Ùy mong xiừ” mà tự hỏi làm sao ổng nhận ra cái gốc Việt Nam của mình? Ổng bèn trao tờ thông hành rồi chúc thượng lộ bình an. Lên xe ca, tôi đọc tấm giấy thấy đề :”Nom: Ledi- Prénom: Tu”. Tôi nhổm dậy định xuống xe phân trần, nhưng xe đã rồ máy và tôi cũng nghĩ lại: Cái vốn Pháp ngữ quá ít ỏi của mình không đủ để giải thích những gút mắt của cái họ cái tên Việt Nam, của dấu ê dấu sắc trong tiếng Việt Nam. Tôi đành ngồi xuống, thở dài… : Thân phận lưu vong, bỏ hết mất hết đã đành, chỉ có cái họ cái tên là mang theo được bên mình, vậy mà bây giờ nó cũng không còn nguyên vẹn hình hài và âm thanh của nó nữa ! Nghĩ đến đó, tôi bỗng nghe tủi thân đến ứa nước mắt….
Ở Pháp, tôi không “hành” nghề làm ruộng. Tôi làm thợ nhà in. Chắc tổ tiên dòng họ Lê Di, nhứt là vong hồn của cha tôi, muốn cho tôi -dù sống ở xứ người- cũng vẫn được gần với...chữ nghĩa ! Ở đây, người ta hay gọi tôi bằng cả họ lẫn tên “Ledi Tu”, bởi vì phát âm ‘Lơ đi tuy‘ theo tiếng Pháp có nghĩa là “ Mầy có nói ra không? “.Tôi không thích, nhưng phải chấp nhận, như tôi đã chấp nhận định cư ở xứ này, bởi vì điều quan trọng vẫn là tương lai của hai thằng con. Tuy nhiên, lâu lâu tôi vẫn thèm được nghe gọi “Út Tư”, cái tên có âm thanh hiền lành bình dị, cái tên sao mà gợi nhớ quê cha đất mẹ vô cùng...
Bây giờ tôi đã về hưu. Ngày ngày tôi “chăn” bầy cháu nội, dạy dỗ chúng nó từng chút để chúng nó đừng thành “Tây con”. Khi nói chuyện với cha mẹ của chúng, tôi thường ví von: ”Ba giống như cây bần cây đước đã bị cơn bão năm 1975 bứng ra khỏi đất. Trôi nổi bập bềnh theo sống gió đại dương đến khi đụng một bến bờ nào đó, cho dù đất khô đá cứng, cây bần cây đước đó vẫn cố bám rễ . Để giữ lấy cái gốc. Bởi vì những nhánh nhóc bên trên rồi sẽ đâm chồi nẩy lộc. Cái gốc đó – chắc các con còn nhớ – nó tên là Việt Nam“.
Một bài viết hay dành cho những người Việt tại hải ngoại…
Có phải nếu mình ở một nơi nào trên dưới ba mươi năm thì mình là người thuộc địa phương đó, đúng không? Đã biết bao nhiêu lần tôi đặt ra câu hỏi đó sau một ngày nhìn vào lịch thấy con số ghi năm đã bước vào năm thứ ba mươi của một người tị nạn.
Bây giờ có ai mới quen gặp tôi, hỏi: Bà ở đâu đến vậy? Thì chắc tôi sẽ trả lời rất tự nhiên, tôi ở San Jose, hay khi đang đi du lịch thì sẽ trả lời, tôi ở Mỹ đến. Tôi sẽ không trả lời là tôi ở Việt Nam đến nữa, chỉ trừ người ta hỏi, bà là người nước nào? Thì lúc đó tôi chắc chắn nói, tôi là người Việt Nam, để cho họ không nhầm với người Trung Hoa, Nhật, hay Phi.
Đúng, tôi ở Mỹ trên dưới ba mươi năm rồi, tôi là một người Mỹ. Bây giờ thử xem lại con người Mỹ của tôi.
Trước tiên mặt mũi, chân tay tôi chẳng có gì thay đổi cả. Vẫn khuôn mặt cấu trúc ít góc cạnh của người Á Đông và cái mũi tẹt khiêm tốn, tóc sợi to và đen, khi có tóc bạc thì nhìn thấy ngay, muốn giấu thì phải nhuộm.
Đối với người Á Đông thì tôi được gọi là người có nước da trắng, nhưng mầu trắng này thực ra là mầu ngà, và đứng cạnh một ông Tây, bà Mỹ nào thì nó vẫn cho cái căn cước da vàng rất rõ rệt. Khi tôi nói tiếng Anh thì cách phát âm vẫn có vấn đề, đôi khi nói nhanh quá thì sẽ vấp phải lỗi nói tiếng Anh theo cách dịch tiếng Việt trong đầu. Như thế bị chê là nói tiếng Anh bể (broken English). Về cách phục sức, nhà ở, xe cộ bên ngoài, tôi có thể không kém một người Mỹ chính gốc.
Nhưng khi bước vào nhà tôi, từ những bức tranh treo ở phòng khách, bát đũa bầy ở bàn ăn, chai nước mắm, hũ dưa cải trong bếp và nhất là sách, báo tiếng Việt ở khắp nơi trong nhà, thì chắc ai cũng sẽ nhận ra ngay đó là một gia đình Việt Nam. Như thế thì tôi là người San Jose hay người Hà Nội, người Mỹ hay người Việt? Tôi ở đất này đến ba mươi năm rồi cơ mà.
Người ở Lạng Sơn, Thanh Hóa ra Hà Nội ở trên dưới ba mươi năm thì tự nhận mình là người Hà Nội; người ở Hải Phòng, Hải Dương vào Sài Gòn lập nghiệp từ năm 75, 76 tự nhận mình là người trong Nam.
Tôi ở Mỹ tìm về Việt Nam không ai chịu nhận tôi là người Việt nữa, dù tôi có yêu quê hương đến quặn thắt cả ruột gan, có gặp lại họ hàng nước mắt khôn cầm thì khi thăm viếng, hỏi han, họ vẫn thỉnh thoảng nói rất tự nhiên: chị đâu có phải là người Việt nữa, bây giờ chị là người Mỹ rồi, chắc cái này không hạp với chị, cái kia chị không ăn được, cái nọ chị không biết đâu.
Những lúc đó tôi chẳng biết mình phải phản ứng thế nào cho đúng. Cứ cãi tôi vẫn Việt, hay nhận đúng rồi tôi là Mỹ? Không, cả hai cùng sai cả. Những khi cần quyên tiền đóng góp vào việc công ích nào ở Việt Nam thì ai ai cũng nhắc lại cho tôi đến ngàn lần tôi là một người Việt Nam chính gốc. Rằng tôi phải có bổn phận và tình thương với đất nước, đồng bào. Tình thương thì nhất định lúc nào tôi cũng đầy ắp trong ngực rồi, tôi chẳng cần ai nhắc nữa, nhưng bổn phận thì cho tôi… nghĩ lại.
Tôi đã đóng góp bổn phận của tôi cho đất nước đó rồi. Một mối tình chết tức tưởi trong chiến tranh hơn ba mươi năm về trước, xương thịt của người tôi yêu nằm trong lòng đất, rồi lại phải đào lên, đốt thành tro than, bị đuổi mộ như đuổi nhà, đã trả bổn phận đó thay tôi rồi. Không đủ hay sao?
Bây giờ tôi phải có bổn phận đóng thuế hàng năm ở đất nước tôi đang sống để phụ với chính phủ sửa đường, xây trường học và nuôi những người ở khắp nơi mới tới, như trước kia đất nước này đã nuôi người Việt, vì giấy tờ cá nhân hiện tại xác định tôi là người Mỹ. Tôi phải làm bổn phận công dân.
Có những ngày tôi lái xe bị kẹt ở xa lộ vào một buổi chiều mưa mùa thu; hay một buổi sáng mùa xuân vắng lặng, êm ả, đứng trong nhà nhìn ra mặt hồ, tôi cảm nhận được nơi mình đang hiện diện không phải là quê mình, không phải nước mình.
Chẳng có một lý do gì cụ thể, chỉ là những giọt mưa đập vào kính xe, chỉ là mặt nước hồ gờn gợn sóng. Mưa trên xa lộ Mỹ nhắc nhớ đến những cơn mưa tháng Năm ở Thị Nghè, nhà mình ở Trần Quý Cáp, nhà anh ở trước rạp ciné Eden đứng trú mưa với nhau.
Nước ở hồ San Jose trước nhà nhắc đến nước sông ở bến Bạch Đằng mỗi lần qua phà sang bên kia Thủ Thiêm chơi với bạn, hay sóng nước ở bắc Mỹ Thuận những lần qua phà đi thăm họ hàng ở tận Bạc Liêu. Những lúc đó tôi bất chợt bắt gặp mình Việt Nam quá, vì những cái bóng Việt Nam thật mờ, thật xa lại chồng lên hình ảnh rõ rệt ngay trước mặt mình. Và kỳ diệu làm sao, những cái bóng đó nó mạnh đến nỗi mình quên mất là mình đang ở Mỹ. Chắc tại tôi là người Việt Nam.
Lại có những lần ở Việt Nam, tôi bị muỗi đốt kín cả hai ống chân, bị đau bụng liên miên cả tuần lễ. Đi đâu cũng phải hỏi đường, ai nhìn mình cũng biết mình từ đâu đến và đang đi lạc. Tiền bạc tính hoài vẫn sai. Nhiều khi đứng chênh vênh trên đường phố Sài Gòn, biết đất nước này vẫn là quê hương mình, những người đi lại chung quanh là đồng bào mình, nhưng sao không giống Việt Nam của mình, hình như đã có điều gì rất lạ.
Ngôn ngữ Việt thì thay đổi quá nhiều, pha trộn nửa Hán nửa Ta, chắp đầu của chữ này với cuối chữ của chữ kia, làm nên một chữ mới thật là “ấn tượng”. Cách phát âm của người Hà Nội bây giờ không giống cách phát âm cũ của ông bà, cha mẹ tôi ngày trước, và họ nói nhanh quá, tôi nghe không kịp. Cái tiếng nói trầm bổng, thanh lịch, chậm rãi, rõ ràng từng chữ của thời xa xưa bây giờ chỉ còn là cổ tích.
Ngửng mặt lên nhìn bầu trời, vẫn bầu trời xanh biếc của thời tuổi trẻ, cúi xuống nhìn mặt đất, vẫn mặt đất thân quen, nhưng sao lòng hoang mang quá đỗi, và thấy đã có một khoảng cách nghìn trùng vô hình giữa mình và quê hương đất Việt. Chắc tôi là người Mỹ!
So sánh thời gian tôi sinh ra, sống ở Việt Nam và thời gian tôi bỏ Việt Nam ra đi, sống ở Mỹ, hai con số đó đã gần ngang nhau. Tôi được học từ nhỏ quê hương là nơi tổ tiên lập nghiệp, là nơi chôn nhau cắt rốn. Ở trong nước có bài hát nổi tiếng “Quê hương mỗi người có một”, như là chỉ một mẹ thôi. Nhưng có người lại nói: Nơi nào mình sống ở đó suốt một quãng đời dài, có những người thân chung quanh mình, hưởng những ân huệ của phần đất cưu mang mình, thì nơi đó cũng được gọi là quê hương mình. Như vậy thì tôi có một hay hai quê?
Tôi sống ở Mỹ thì bạn bè gặp nhau thường nói: Cái này người Việt mình không hạp, hoặc người Mỹ họ mới thích nghi được việc này, người Việt mình không quen.
Khi đi dự buổi tiệc cuối năm của một công ty lớn ở Mỹ, toàn là những người Mỹ sang trọng thì thấy rõ ngay mình là người Việt đi lạc, dù mình có sang trọng, lịch sự như họ. Hóa ra ở Mỹ hay về Việt Nam mình đều lạc chỗ cả.
Tôi nhớ mấy năm trước có lần trò chuyện với mẹ của một người bạn, lúc đó cụ ngoài 80 hãy còn minh mẫn, cụ theo đạo Phật. Trưởng nam của cụ và con dâu cụ tự nhiên rủ nhau theo đạo Công giáo. Găp tôi, cụ hỏi: Không biết anh Bình nhà tôi khi chết thì đi đâu? Phật giận anh ấy, vì anh ấy bỏ đi, Chúa chắc gì cho anh ấy vào, vì anh ấy mới quá! Năm nay cụ ngoài 90 tuổi rồi và không may, cụ bị Alzheimer. Vậy là cụ không còn minh mẫn để lo con mình không có chỗ dung thân cho phần hồn. Bây giờ thỉnh thoảng nghĩ lại những lời cụ nói, thấy mình ngay ở đời sống này cũng đã là một vạt nắng phất phơ bay. Quê nhà, quê người, quê Mỹ, quê Việt. Chao ôi! Cái thân cỏ bồng.
Nhưng lạ lắm, tôi biết chắc mình là người Việt, nhất là khi tôi nằm mơ. Trong giấc ngủ tôi thường gặp cha mẹ, gặp ngay trong những ngôi nhà cũ ở Việt Nam, gặp bạn bè cũng gặp trên đường phố Việt Nam từ ngày rất xa xưa, và bao giờ trong mơ cũng đối thoại bằng tiếng Việt. Tỉnh dậy đôi khi vẫn ứa nước mắt, dù là một giấc mơ vui. Thấy nhớ quê nhà quá đỗi!
Tôi nhớ lại trong những truyện ngắn, những bài thơ Đường tôi đọc thời rất xa xưa về người bỏ làng đi xa lâu năm trở về không ai nhận ra nữa. Hồi đó sao mà mình thương những ông già trong thơ đó thế! Bây giờ nghĩ lại thì người trong sách đó còn may mắn hơn mình, họ đâu có đi đến tận một nước khác như mình. Họ chỉ bỏ làng, chứ không bỏ nước. Thế mà khi về còn ngơ ngác, bùi ngùi, tủi thân vì lạc chỗ ngay trong làng mình.
So sánh tôi với người bỏ làng ra đi trong những trang sách đó thì hoàn cảnh của tôi đáng buồn hơn nhiều. Không những đã bỏ làng, bỏ nước đi, còn nhận quốc tịch của một nước khác.
"Khi về đổi họ thay tên.
"Núi chùng bóng tủi, sông ghen cạn
Khi bạn đạp xe lên một con dốc con, mồ hôi chảy ướt áo và bàn chân tưởng như mỏi nhừ thì bạn sẽ được tận hưởng sự tuyệt vời khi chiếc xe lăn nhanh xuống con dốc phía trước, những giọt mồ hôi bốc hơi, để lại cảm giác mát lạnh khiến bạn quên nhanh tất cả mệt mỏi...
Cuộc sống cũng giống như một con đường rất dài. Dù có đang chạy trên những đoạn bằng phẳng, người ta vẫn không bao giờ quên sẽ có lúc phải đối diện với việc lên dốc và cả xuống dốc. Một người bạn đã nói với tôi điều giản dị ấy khi cùng một lúc, cô bạn phải đối diện thất bại, cả trong tình yêu lẫn trong công việc ở công ty. Điều làm tôi nể phục cô bạn ấy là sự can đảm. Cô ấy không khóc, không oán trách, cũng không lặng lẽ suy sụp. Bởi lẽ bạn tôi biết tự thu xếp, đặt những nỗi buồn sang một bên, dành sức lực để tiếp tục "vượt dốc".
Rất nhiều khi trong nhịp sống gấp gáp này, nỗi mệt mỏi, sự chán chường, cảm giác thất vọng đã vắt kiệt sức lực; lấy đi niềm lạc quan. Bạn muốn buông xuôi tất cả. Nhưng nếu bạn dừng lại và quay nhìn trở về điểm xuất phát, bạn sẽ biết cái cảm giác tuyệt vời khi nhìn những gì ta đã vượt qua. Có thời điểm bạn nhận ra mình đang đứng trên đỉnh dốc. Hít thật sâu và nhìn kỹ về phía trước, bạn không cần phải hét lên sung sướng. Và khi ấy, điều bạn tự nhắc mình sẽ là tìm thêm những đỉnh cao mới, không cho phép mình thả dốc quá nhanh.
Cuộc sống của chúng ta giống như những chuyến đi bởi lẽ, ta luôn có nhiều những lựa chọn nhưng không nên mất quá nhiều thời gian để tìm được kết quả mình muốn. Khi thật sự rã rời thân thể, bạn hãy dừng lại ven đường nghỉ ngơi đôi chút. Dừng lại và bước đi đúng là cách phục hồi năng lực nhanh chóng nhất.
Lên dốc tuy chậm chạp, mệt mỏi thật nhưng phải thừa nhận mức độ an toàn cao hơn khi bạn thả dốc. Cảm giác của việc lao nhanh và phía trước tuyệt vời thật, nhưng biết đâu vực thẳm đâu đó mà bạn không kịp nhìn thấy, và biết đâu chiếc xe đã bị đứt thắng phanh. Có hàng trăm trở ngại, và bạn không bao giờ được tự mãn...
Atlantic Ocean Road (Na Uy) - Một trong những con đường đẹp nhất thế giới
Đâu là con dốc của bạn?
Cuộc sống cũng giống một con đường, khi bạn đang bước trên những khổ đau thì đó là lúc bạn buộc phải "lên dốc" trong hành trình của đời mình. Dĩ nhiên, lúc tận hưởng cảm giác hạnh phúc thì không phải bất hạnh sẽ chẳng bao giờ xuất hiện. Cuộc đời vốn là một chuyến đi, cái bạn cần là "để dành" sức lực và cảm hứng cho những chặng đường kế tiếp.
Có Một Loại Tổn Thương Được Gọi Là "Chăm Chút Từng Ly Từng Tí"
Cha mẹ yêu thương và bảo vệ con cái, vì con cái mà cam tâm tình nguyện dốc hết tất cả sức lực của mình, chăm chút từng li từng tí. Tuy vậy, kiểu yêu thương này có phải là tình yêu thương thực sự hay không? Câu chuyện thật đáng để mọi người suy ngẫm sâu xa!
Vào mùa thu năm nọ, bầy thiên nga từ phương bắc xa xôi bay tới một hòn đảo nhỏ và dừng chân lấy sức để bay tiếp về phương nam sinh sống qua mùa đông.
Trên hòn đảo nhỏ ấy có hai vợ chồng ông lão đánh cá, họ nhìn thấy bầy thiên nga bay tới đảo nên vô cùng mừng rỡ. Họ bèn đem rất nhiều thức ăn và những con cá bé mà họ bắt được cho chúng ăn.
Mùa đông đến, bầy thiên nga được vợ chồng ông lão cho thức ăn nên không tiếp tục bay về phương nam tránh rét nữa. Khi mặt hồ đóng băng, chúng không có nơi trú ẩn và thức ăn để sinh sống. Vợ chồng ông lão tốt bụng lại đưa chúng vào ngôi nhà tranh của mình để tránh rét và tiếp tục cung cấp thức ăn cho chúng mãi cho đến mùa xuân năm sau, khi băng trên mặt hồ đã tan. Hết năm này qua năm khác, hai vợ chồng ông lão tốt bụng lại đón bầy thiên nga vào nhà ở và cung cấp cho chúng thức ăn.
Cuối cùng hai vợ chồng ông lão đã già yếu và rời khỏi đảo, bầy thiên nga cũng biến mất. Không phải là chúng đã bay về phương nam tránh rét, mà vì vào năm sau đó mặt hồ đóng băng, bầy thiên nga không tìm được thức ăn để sinh sống nên chúng đã chết.
Trong câu chuyện trên, vợ chồng người ngư dân yêu thương bầy thiên nga giống như con cái của họ vậy. Họ tìm mọi cách che chở, bảo vệ chúng, cho ăn cho ở, hơn nữa, ngày qua ngày, năm qua năm đem lòng yêu thương mà bao bọc cho chúng. Mọi người không khỏi cảm thán rằng: “Vợ chồng người ngư dân thật tốt bụng, bầy thiên nga thật may mắn!” Thế nhưng kết cục bi thảm của bầy thiên nga lại cho chúng ta thấy rằng việc hai vợ chồng người ngư dân yêu thương đùm bọc quá mức đã khiến chúng sa vào cuộc sống an nhàn thụ động. Từ đó dưỡng thành tính ỷ lại, đánh mất bản năng sinh tồn, không còn cách nào để thích ứng hoàn cảnh và cuối cùng bị sự biến hóa của hoàn cảnh giết chết.
Trong cuộc sống hiện đại của chúng ta, có bao nhiêu bậc cha mẹ vì để con cái có cuộc sống sung túc an nhàn mà làm thay cho con cái, khiến chúng dưỡng thành một thói quen thụ động với cuộc sống? Tất nhiên ai cũng cần tình yêu, đặc biệt là con cái lại càng cần được cha mẹ yêu thương chăm sóc và bảo vệ. Nhưng tình yêu dạng bao bọc mọi lúc mọi nơi, tình yêu theo kiểu sắp đặt an bài sẵn cho cuộc đời của con cái… thì nó đã không còn là tình yêu thương nữa rồi, thậm chí có thể trở thành một con dao “nhẹ nhàng” gây tổn hại khôn lường!
1. Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
2. Nếu bạn không muốn rước phiền não vào mình, thì người khác cũng không cách nào gây phiền não cho bạn.
3. Bạn hãy luôn cảm ơn những ai đem đến nghịch cảnh cho mình.
4. Bạn phải luôn mở lòng khoan dung lượng thứ cho chúng sinh, cho dù họ xấu bao nhiêu, thậm chí họ đã làm tổn thương bạn. Bạn phải buông bỏ mới có được niềm vui đích thực.
5. Khi bạn vui, phải nghĩ rằng niềm vui này không phải là vĩnh hằng. Khi bạn đau khổ, bạn hãy nghĩ rằng nỗi đau này cũng không trường tồn.
6. Sự cố chấp của ngày hôm nay sẽ là niềm hối hận cho ngày mai.
7. Bạn có thể có tình yêu nhưng đừng nên dính mắc, vì chia ly là lẽ tất nhiên.
8. Thế giới vốn không thuộc về bạn, vì thế bạn không cần vứt bỏ, cái cần vứt bỏ chính là những tánh cố chấp. Vạn vật đều cung ứng cho ta, nhưng không thuộc về ta.
9. Khi nào bạn thật sự buông xuống thì lúc ấy bạn sẽ hết phiền não.
10. Mỗi một vết thương đều là một sự trưởng thành.
11. Chỉ khi nhận thức được mình, hàng phục chính mình, sửa đổi mình, mới có thể thay đổi người khác.
12. Bất mãn với người khác là chuốc khổ cho chính mình.
13. Nếu tự đáy lòng không thể tha thứ cho kẻ khác, thì lòng bạn sẽ không bao giờ được thanh thản.
14. Người mà trong tâm chứa đầy cách nghĩ và cách nhìn của mình thì sẽ không bao giờ nghe được tiếng lòng người khác.
15. Hủy diệt người chỉ cần một câu, xây dựng người lại mất ngàn lời.
16. Không cần quay đầu lại xem người nguyền rủa bạn là ai? Giả sử bạn bị chó điên cắn bạn, chẳng lẽ bạn cũng phải chạy đến cắn lại?
17. Đừng bao giờ lãng phí một giây phút nào để nghĩ hay nhớ đến người bạn không hề yêu thích.
18. Khi bạn thành thật với chính mình, thế giới sẽ không ai lừa dối bạn.
19. Chân lý của nhân sinh chỉ là giấu trong cái bình thường đơn điệu.
20. Sống một ngày vô ích, không làm được chuyện gì, thì chẳng khác gì kẻ phạm tội ăn trộm.
21. Cung kính đối với người là sự trang nghiêm cho chính mình.
22. Phải đối diện với hiện thực, mới vượt qua được hiện thực.
23. Người không biết yêu mình thì không thể yêu được người khác.
24. Có lúc chúng ta muốn thầm hỏi mình, chúng ta đang đeo đuổi cái gì? Chúng ta sống vì cái gì?
25. Cảm ơn thượng đế với những gì tôi đã có, cảm ơn thượng đế những gì tôi không có.
26. Nếu có thể đứng ở góc độ của người khác để nghĩ cho họ thì đó mới là từ bi.
27. Nhân quả không nợ chúng ta thứ gì, cho nên xin đừng oán trách nó.
28. Đa số người cả đời chỉ làm được ba việc: Dối mình, dối người, và bị người dối.
29. Bạn hi vọng nắm được sự vĩnh hằng thì bạn cần phải khống chế hiện tại.
30. Nếu một người chưa từng cảm nhận sự đau khổ khó khăn thì rất khó cảm thông cho người khác. Bạn muốn học tinh thần cứu khổ cứu nạn, thì trước hết phải chịu đựng được khổ nạn.
Hugging is healthy.
It helps the body's immune system.
It cures depression.
It reduces stress.
It's rejuvenating.
It has no unpleasant side effects.
It is all natural, it contains no chemicals, artificial ingredients, no pesticides, and no preservatives!
Hugging is practically perfect.
There are no parts to break down, no monthly payments, non-taxable, non-polluting, and of course...
It's fully returnable!
And when you have looked at the pictures you will know how to do it.
Did you enjoy those hugs?
Send it to the people you want to make them happy!
Remember, "A hug is the one present that's always worth giving!"
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.